Phân tích nguyên tắc thế giới quan Triết học Mác, rút ra ý nghĩa, liên hệ thực tế Việt Nam 2011

Đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua được một quãng thời gian khá dài, hơn 20 năm. Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội quân chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục . Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa lại cho dân tộc ta một xu thế mới, một lực mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào một thế kỷ mới, một kỷ nguyên mới, cùng hội nhập và cùng phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ, và CNXH. Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, trong hàng loạt các nhân tố tạo nên sự thành công, những như những thành quả to lớn như hiện nay, phải kể đến có vai trò đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin. Các nguyên tắc thế giới quan cũng như phương pháp luận trong triết học Mác, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp vào điều kiện mới. Xuất phát từ nhu cầu thực tế để hiểu rõ, sâu hơn, và ứng dụng triệt để triết học Mác nhằm đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong thực tiễn. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu, phân tích “nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác”, để rồi từ đó rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay.

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4222 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích nguyên tắc thế giới quan Triết học Mác, rút ra ý nghĩa, liên hệ thực tế Việt Nam 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Như vậy, thế giới vật chất với những thuộc tính và quy luật của nó tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Đây cũng là nội dung cơ bản của nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác. Nguyên tắc này đòi hỏi: Trong nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, xem xét sự vật đúng như nó tồn tại trong thực tế. Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thật vậy, do ý thức đầu tiên chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nếu không xuất phát từ thực tế khách quan thì sẽ là sa vào chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn. Vật chất tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của con người, con người cũng không thể tạo ra các đối tượng vật chất và cũng không thể thay đổi được các quy luật vận động của nó. Nên khi tác động vào các sự vật hiện tượng, nếu con người không xem xét, không xuất phát từ các thuộc tính, quy luật khách quan của chúng mà chỉ hành động theo chủ quan duy ý chí và ảo tưởng thì không thể đạt được mục đích đề ra. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo và mang tính thứ hai nên nó còn có vai trò định hướng chỉ đạo cho hành động của con người. Bản thân ý thức tự nó không thể trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất. Sự tác động này phải bắt đầu từ khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan để hành động. Vai trò của ý thức là trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng. Trên cơ sở ấy, con người xác định các biện pháp đề thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Do đó, nếu ý thức không phản ánh được thế giới khách quan, không xuất phát từ thực tế thì sự phản ánh của ý thức sẽ là sai lầm và đưa hành động của con người đến thất bại nhanh chóng. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ định hướng và thúc đẩy hoạt động cải tạo thế giới của con người có hiệu quả. Như vậy, nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác đã cho ta một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đới với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người: tất cả phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan. Từ việc phân tích nguyên tắc khách quan trong thế giới quan của triết học Mác ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn của nguyên tắc này. Đó là: Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Điều này đòi hỏi con người trong nhận thực và hành động phải đi từ thực tế khách quan đề nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động. Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn, chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tế. Đó là những hành động lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và hành động. Việc đề ra đương lối, chủ trương, chính sách phải xuất phát từ tình hình thực tế khách quan. Nguyên tắc năng động Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức có thể tác động lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy con người phải tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do yếu tố khách quan quy định. Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới. Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có, ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về vật chất. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Phát huy tính năng động chủ quan nhưng vẫn phải tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan trong mọi hoạt động của mình. Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Ý thức và tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan vì nó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại ý thức và tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan, đồng thời khắc phục bênh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại trong qua trình đổi mới hiện nay. Như vậy sức mạnh ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất thoát ly điều kiện khách quan mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả vì ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan. Nhân tố chủ quan là ý thức và hoạt động có ý thức của con người. Vì ý thức có vai trò rất quan trọng nên phải phát huy nó. Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này còn phải tôn trọng tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự tu dưỡng rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động. Phát huy vai trò chủa tri thức và lý luận cách mạng. Coi trọng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tường Hồ Chí Minh, giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng cho nhân dân. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước. Phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội trong nhận thức và hành động cách mạng. Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí. Chống thái độ thụ động, ỉ lại, bảo thủ, trì trệ. Coi trọng lợi ích, kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần. Kiên quyết đấu tranh chống những tiêu cực trong xã hội. Nguyên tắc vận động Vận động là một phạm trù của triết học Mác-Lê nin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Nguyên tắc vận động là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản. Cơ sở lý luận của nguyên tắc gắn liền với nguyên lý về sự phát triển của phép duy vật biện chứng. Vận động là tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động (là phương thức của vật chất). Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cữu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là: Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian). Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.). Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất). Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường). Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội). Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa học vì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội. Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Engels thì "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời" Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hóa tiếp theo. Đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt. Nguyên tắc vận động yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Qua đây nguyên tắc vận động đòi hỏi trong hoạt động thực tiến phải nhạy cảm với cái mới, phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới tạo điều kiện cho cái mới thay thế cái cũ, chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ..Sự vận động diễn ra tạo ra cái mới, thay thế cái cũ, chiến thắng cái cũ. Trong quá trình đó nhiều cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể Đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo nguyên tắc này, chúng ta phải xem xét sự hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng diễn ra trong một quá trình thời gian và tại từng thời điểm với điều kiện, môi trường cụ thể. Trong quá trình vận động của các sự vật, hiện tượng biến chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác trong từng điều kiện hoàn cảnh, không gian, thời gian cụ thể. Tính cụ thể thể hiện ở sự tồn tại các trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, hoàn cảnh tại một thời điểm cụ thể. Khi điều kiện, hoàn cảnh cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng thay đổi thì trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng cũng thay đổi phù hợp. Ví dụ như nước ở nhiệt độ bình thường là dạng lỏng, nhưng xuống dưới 0oC là dạng đá – trạng thái rắn. Tính lịch sử thể hiện ở sự biến chuyển không ngừng của sự vật, hiện tượng từ trạng thái, biểu hiện này sang trạng thái, biểu hiện khác khi điều kiện, hoàn cảnh cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng thay đổi theo thời gian. Tính lịch sử chỉ ra sự vật, hiện tượng vận động trong cả một quá trình liên tục, không ngừng và không một trạng thái, biểu hiện nào là vĩnh cửu mà sẽ chuyển biến sang dạng khác phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Do đó, trạng thái sự vật, hiện tượng của ngày hôm nay là lịch sử của ngày mai. Ví dụ về kinh tế điển hình ở Việt Nam là giai đoạn từ 1975-1985, sau khi giành được độc lập, đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế bao cấp, dựa vào viện trợ từ các nước phe XHCN, không mở cửa, hội nhập. Nhưng bước sang năm 1986, trước xu hướng hội nhập của thế giới, yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền sản xuất, tiếp thu tinh hoa thế giới....để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Như vậy, quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng được thể hiện qua từng trạng thái, biểu hiện nhất định phù hợp với điều kiện, môi trường cụ thể. Từ đó cho thấy, tính lịch sử và tính cụ thể đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Tính cụ thể là hạt nhân để xây dựng nên tính lịch sử, tính lịch sử thể hiện quá trình, xu hướng theo thời gian, tính cụ thể thể hiện trạng thái tại mỗi thời điểm nhất định của sự vật, hiện tượng. Ví dụ như sự phát triển của phương tiện giao thông: đầu tiên là đi bằng chân, sau đấy để đi nhanh hơn thì cưỡi ngựa, rồi phát hiện ra nguyên tắc về cơ học và thu nhỏ phương tiện đi lại, phù hợp với đường phố đông đúc thì có xe đạp, khi phát hiện ra động cơ thì phát triển lên xe máy, ô tô, và để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm thời gian, chinh phục không gian thì có máy bay, phi thuyền.... Nguyên tắc này yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại, phát triển không ngừng của vật chất. Khi điều kiện, hoành cảnh, môi trường thay đổi, xuất hiện sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, sự thay đổi về chất – lượng của sự vật, hiện tượng làm nó thay đổi thông qua phủ định của phủ định. Đồng thời phải xem xét các mặt, các mối liên hệ trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong để nhận thức đúng bản chất của chúng, từ đó tác động trở lại các điều kiện, môi trường, hoàn cảnh để định hướng cho sự hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng nhằm phục vụ nhu cầu con người. Ví dụ như mưa thì được tạo ra từ các đám mây mang hơi nước tích tục lại, chúng ta đã vận dụng quy luật này phát minh ra công nghệ mưa nhân tạo bằng cách tạo ra các đám mây mang hơi nước để phục vụ cho nông nghiệp. Để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu nó xuất hiện trong lịch sử như thế nào, đã trải qua các giai đoạn phát triển chủ yếu nào và trên quan điểm vận động đó, xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào. Tức là phải tái tạo lại được quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong sự biến đổi của không gian, thời gian, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Qua đó phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú, đa dạng của các hình thức biểu hiện của sự vật, hiện tượng, khái quát thành xu hướng, quy luật nhằm nhận thức rõ bản chất của chúng. Không được đánh giá bản chất sự vật, hiện tượng chỉ thông qua trạng thái tại một thời điểm nhất định, vì dẫn đến thiếu sót, chỉ nhìn thấy điểm riêng lẻ mà chưa thấy được xu hướng, quy luật của quá trình, không khái quát được bản chất đúng đắn từ đó dẫn đến chủ quan duy ý chí. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không nên đánh giá bản chất của sự vật, hiện tượng tại một thời điểm, mà nên xem xét trong cả một quá trình dài, từ đó rút ra quy luật để định hướng cho hoạt động thực tiễn của bản thân, phù hợp với điều kiện khách quan. MỤC III VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THẾ GIỚI QUAN TRONG NHẬN THỨC TRIẾT HỌC MÁC VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM (1986 – NAY) Tình hình Việt Nam trước đổi mới (1975 – 1985) Về chính trị Quốc hội khóa VI (1976) của nước Việt Nam thống nhất họp kỳ đầu tiên, quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu cử các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu ủy ban dự thảo Hiến pháp. Về Kinh tế  Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế miến Bắc bị suy giảm nghiêm trọng. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp. Ở miền Nam sau 20 năm chiến tranh, kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối, bị đảo lộn, nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng. Về mặt văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục Chiến tranh đã làm xáo trộn, gây tổn thất lớn cho lực lượng lao động. Các tệ nạn ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm... diễn ra nhiều nơi, số người thất nghiệp, số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn. Các thế lực phản động lợi dụng Nhà nước đang gặp khó khăn để kích động, lôi kéo quần chúng gây rối loạn trong nước. Về ngoại giao, mở rộng quan hệ Việt Nam hòa bình thống nhất đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam đứng trước khó khăn, thách thức vô cùng lớn do chính sách bao vây cấm vận, chống phá của Mỹ và các thế lực thù địch. Về quân sự, quốc phòng Với âm mưu từ trước, ngay sau khi Việt Nam giành độc lập, Tập đoàn Pôn-pốt (Khơme đỏ) – Campuchia tiến đánh biên giới Tây Nam (1976), Trung Quốc đưa quân đánh chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc (từ Móng Cái đến Lai Châu). Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân phản công, tận dụng sự ủng hộ của dư luận quốc tế đập tan âm mưu của chúng. Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV (1976) đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976-1980 với nhiệm vụ cơ bản nhằm hai mục tiêu: Xây dựng một bước cơ sở vật chất – kĩ thuật của CNXH Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Theo kế hoạch, sản xuất xã hội sẽ tăng bình quân hàng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5-8%, lương thực quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn… Theo đó, trong thời kỳ này, về công nghiệp thì có nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng các cơ sở sản xuất mới và mở rộng nhiều nhà máy, khu công nghiệp như nhà máy điện, cơ khí, xi măng… Về nông nghiệp, diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta, được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo các loại. Về giao thông thì đã được khôi phục và xây dựng mới hàng ngàn kilômét đường sắt, đường bộ nhiều cầu cảng. Về QHSX, không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, giai cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ, thành lập xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại. Tuy nhiên, kế hoạch trong giai đoạn này không thành công như mong đợi. Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%/năm, thu nhập quốc dân tăng 0,4%/năm, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24%/năm. Kết thúc kế hoạch 5 năm nhưng các chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt kế hoạch, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976 (tính trên đầu người thì lượng thực phẩm ở Miền Bắc giảm từ 248 kg vào năm 1976 xuống chỉ còn 215 kg vào năm 1980). Và dù đã không đạt được mục đích nhưng Chính phủ vẫn quyết định áp dụng cùng một chính sách ở Miền Nam vừa mới thống nhất. Hình 1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân thực tế hàng năm (dựa theo giá so sánh 1982). Đơn vị: % (Nguồn: Kinh tế Việt nam 1955-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, Xuất bản năm 2000) Tình hình sản xuất yếu kém với những sai lầm trong lưu thông phân phối, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Đại hội Đảng lần thứ V (1982) vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ trên, và chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985. Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch nhà nước 5 năm 1981-1985 nhằm hai mục tiêu cơ bản: Phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân. Cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và bức thiết nhất của nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế. Kế họach 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp như: đã chặn được đà giảm sút và có bước phát triển (sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,9%/năm so với 1,9%/năm của những năm 1976 – 1980). Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác dầu mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm so với 0,6%/năm trong những năm 1976 - 1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân là 6,4%/năm so với 0,4%/năm giai đoạn 1976 - 1980. Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, ta hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ. Như vậy, so với kế hoạch 5 năm trước thì kế hoạch 5 năm 1981- 1985 có một số điểm mới đáng ghi nhận. Chúng ta đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong cơ chế quản lý kinh tế nên nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Mặc dù vậy, nền kinh tế cơ bản vẫn vận hành theo cơ chế quản lý cũ. Đổi mới cục bộ đã làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăm cấm triệt để, sản xuất kinh doanh phát triển chậm. thu nhập quốc dân, năng suất thấp, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực Hình 2: Diễn biến lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1976 – 1986 (Nguồn: Kinh tế Việt nam 1955-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, Xuất bản năm 2000) Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn: QHSX chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.  Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6 %. Thu nhập quốc dân tăng 38,8 %, bình quân tăng 3,7%/năm.  Sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Toàn bộ quỹ tích lũy và một phần tiêu dùng phải dựa vào viện trợ nước ngoài.  Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng, tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Sai lầm, khuyết điểm, chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý, chậm khắc phục sai sót. Cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện “đóng cửa”, chủ yếu dựa vào viện trợ từ các nước phe XHCN. Chưa xác định nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế là tất yếu phát triển. Trong xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn: tham nhũng, mê tín dị đoan, phong tục cổ hủ, ma túy, cờ bạc, mại dâm, trộm cướp… và có chiều hướng gia tăng. Các thế lực thù trong, giặc ngoài luôn quấy phá, đe dọa, tấn công bằng nhiều hình thức, phương thức Sai lầm chủ yếu trong hai lần kế hoạch 5 năm nêu trên là vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Hai kế hoạch trên đã không xuất phát từ thực tế khách quan của nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ ở Việt mà nóng vội đi lên CNXH, xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp. Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc đánh giá tình hình, xác  định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào thực tế Việt Nam trong quá trình đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2004) Hoàn cảnh lịch sử Vào nửa sau những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Quan hệ quốc tế chuyển từ xu thế đối đầu dần sang đối thoại. Trong khi các nước tư bản đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật, nhanh chóng vượt qua khủng hoảng để phát triển đi lên, các nước XHCN ngày càng gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, dần dần đi tới khủng hoảng. Phân công lao động quốc tế ngày càng rõ nét, đòi hỏi các nước phải hợp tác với nhau để cùng phát triển. Tình hình tạo nên xu thế hội nhập kinh tế giữa các nước trên thế giới, bất kể là nươc giàu mạnh hay kém phát triển. Hình thành nên nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU... Ở trong nước, sau khi thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985), nhân dân ta đã giành thêm được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu kinh tế xã hội. Song, chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn, khuyết điểm mới. Tình hình kính tế - xã hội bất ổn, tỷ trọng nông nghiệp chiếm phần lớn, đời sống nhân dân còn rất thấp. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào công cuộc đổi mới đất nước Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích kỹ quá trình vận động, phát triển của thực tế khách quan, Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) được đánh dấu như một mốc quan trọng trong việc đổi mới toàn diện, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, từ đó mở ra bước ngoặt lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", phê bình và tự phê bình, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nêu ra những mặt hạn chế, yếu kém, vạch rõ những nguyên nhân. Đồng thời xác định phải luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, xem xét quá trình vận động, phát triển các vấn đề trong một quá trình, trong từng điều kiện lịch sử nhất định, từ đó rút ra quy luật, bản chất để có những định hướng phù hợp với thực tế khách quan. Từ thực tiễn cách mạng trong 10 năm vừa qua, Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm quan trọng: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN. Theo tinh thần của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6, chúng ta xác định xây dựng đất nước theo tinh thần, nội dung mới: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tích cực, chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, khu vực; tiếp thu và dần làm chủ trình độ khoa học – kỹ thuật tiên tiến, phù hợp; giao lưu, trao đổi, tiếp thu các tinh hoa văn hóa thế giới đồng thời gìn giữ, khẳng định và phát huy bản sắc dân tộc tiên tiến của đất nước. Đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương với các nước trên thế giới về mọi mặt trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, tự nguyện, tôn trọng chủ quyền, độc lập của các nước, tôn trọng thông lệ quốc tế, luật quốc tế. Đây là một bước đột phá trong tư duy, nhận thức. Chứng minh rõ Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về các nguyên tắc khách quan, năng động, vận động và lịch sử - cụ thể của Triết học Mác-Lênin. Nghiên cứu kỹ các hình thái kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử nhất định; nhận định rõ tình hình Việt Nam, lấy ý kiến, nguyện vọng nhân dân làm cơ sở đổi mới; bám sát xu hướng kinh tế quốc tế về mở cửa, hội nhập nền kinh tế khu vực, thế giới… từ đó nhận thức đúng thực tại khách quan, bản chất, quy luật vận động, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Thực hiện phê bình và tự phê bình cách nhìn phiếm diện, duy ý chí, áp dụng cứng nhắc mô hình kinh tế Xô Viết cũ vào đất nước. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để vận hợp lý cho đất nước. Thành tựu đạt được Trong công nghiệp, thực hiện trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần bao cấp, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất. Thi hành Luật Đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi, khuyến khích xuất khẩu đã làm cho môi trường đầu tư thông thoáng, góp phần tăng năng lực sản xuất ngành công nghiệp. Sản xuất của các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi, tăng trưởng ổn định hơn hẳn các thời kỳ trước. Trong giai đoạn 1986-1990, bình quân hàng năm, sản lượng điện tăng 11,1%, xi măng tăng 11,0%, thép cán tăng 8,0%, thiếc tăng 10%. Đặc biệt là xuất hiện ngành khai thác dầu thô có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990. Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 13,7%/năm, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%). Giai đoạn 1996-2000, giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 2000 tăng 17,5%. So với năm 1990, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất, tiêu dùng tăng về cả số lượng lẫn chất lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu. So với năm 1990, năm 2004 than khai thác đạt 26,29 triệu tấn (gấp 5,7 lần); điện sản xuất 46,05 tỷ kWh (gấp 5,24 lần); dầu thô khai thác 20,05 triệu tấn (gấp 7,43 lần); xi măng 25,33 triệu tấn (gấp 10 lần); thép cán 2,93 triệu tấn (gấp 29 lần); phân hóa học 1,45 triệu tấn (gấp 4,1 lần); ôtô lắp ráp 42,65 nghìn chiếc; xe máy lắp ráp 1,57 triệu chiếc… Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm nên tích luỹ của nền kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích luỹ tài sản trong sử dụng tổng sản phẩm trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004 tỷ lệ này đạt 35,58%. Trong nông nghiệp, thực hiện khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta, đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá và đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong 15 năm đổi mới là đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay. Sản lượng lương thực có hạt năm 1990 chỉ đạt 19,90 triệu tấn thì đến năm 2004 đã tăng lên 39,32 triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng thêm 1,29 triệu tấn. Do đó đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dành khối lượng khá lớn cho xuất khẩu. Năm 1989, chúng ta xuất khẩu 1,42 triệu tấn gạo, đến năm 2004 đạt 4,06 triệu tấn. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát triển nhanh. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2004 so với năm 1990 tăng gấp 2,28 lần; nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 6,06%. Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước. Tính tới tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta lên 170 nước trong năm 2000. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển ngoại thương nước ta đạt 54,46 tỷ USD (tăng gấp 11,34 lần so với mức 5,10 tỷ USD năm 1990); trong đó xuất khẩu 26,50 tỷ USD tăng 11,02 lần; nhập khẩu 31,95 tỷ USD, tăng gấp 11,61 lần. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm tổng mức lưu chuyển ngoại thương thời kỳ 1991-2004 đạt 18,94% trong đó xuất khẩu 18,70%; nhập khẩu 19,14%. Với những chính sách phù hợp trên lĩnh vực kinh tế, GDP bình quân tăng đều và ổn định qua các năm: 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995 là 8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%. Do kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền, đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt. Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy mô đào tạo. Năm 1990 nước ta có 105,9 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp; thì đến năm 2004 là 465.300 và 97 học sinh. Giáo dục đại học, cao đẳng năm 1990 có hơn 93.000 sinh viên, đến năm 2004 là 1.319.800 sinh viên. Năm 2004 so với năm 1990 số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 14,2 lần. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình, đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam. Năm 2003 tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 26%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tuổi năm 2000. Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn, khuyến khích họ phấn đấu cải thiện cuộc sống. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào năm 2001-2002. Kết quả khả quan này là thành công của công cuộc đổi mới, đặc biệt trong nhận thức, tư duy về quản lý. Khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong hoàn cảnh, điều kiện mới. Tạo điều kiện để Đảng ta tiếp tục nghiên cứu thực tế khách quan, xem xét tình hình trong nước và thế giới, đúc rút các bài học kinh nghiệm để định hướng sự phát triển của đất nước trong những năm tiếp theo. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào thực tế Việt Nam trong quá trình đổi mới (từ năm 2005 đến năm nay) Tình hình Việt Nam hiện nay Tình hình kinh tế-xã hội nước ta hiện nay đang gặp một số khó khăn vô cùng lớn. Về chính trị Các thế lực thù địch bên ngoài thực hiện chính sách “Diễn biến hòa bình” theo nhiều hình thức, trên nhiều nội dung, từ kinh tế, đến văn hóa xã hội, chủ quyền lãnh thổ. Kết hợp với các thành phần phản động trong nước, lôi kéo cả nhiều tâng lớp trong xã hội, hoạt động bí mật chống phá chính quyền. Vấn đề chủ quyền biển đảo hết sức cấp bách, đòi hòi Đảng và Nhà nước phải kiên quyết, mềm dẻo để khẳng định, giữ vững lãnh thổ đất nước. Về văn hóa, xã hôi, y tế Chúng ta đang đứng trước thách thức về suy đồi đạo đức cách mạng ở một số bộ phận Đảng viên, công cán Nhà nước. Sự phát triển của phương tiện truyền thông cũng đưa lại những mặt tiêu cực, các văn hóa phẩm độc hại, các xu hướng văn hóa lệch lạc được tiêm nhiễm ở giới trẻ ngày một trầm trọng. Công cuộc hội nhập văn hóa thế giới nhưng chúng ta chưa thật sự bảo tồn, phát huy được những nét văn hóa tiên tiến, hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc một cách rộng rãi, sâu đậm trong thế hệ trẻ. Giáo dục được nâng cao chất lượng đào tạo, tuy nhiên phương pháp, nội dung đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nguồn nhân lực kế cận của đất nước. Y tế mặc dù đã phát triển một bước dài về số lượng và chất lượng, nhưng cơ sở hạ tầng, chất lượng khám chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, chi phí y tế, khám chữa bệnh còn quá cao so với thu nhập của đại đa số người dân. Các tệ nạn ma túy, dại dâm, cờ bạc, ... phát triển theo hướng có tổ chức, đầy bạo lực và phức tạp. Hoạt động mê tín dị đoan hoạt động ngày càng rộng rãi, kín đáo, tinh vi với nhiều hình thức trá hình, lôi kéo người dân. Về kinh tế Sản xuất kinh doanh của các ngành, lĩnh vực bị tác động bởi chi phí đầu vào cao dẫn đến giá thành tăng, làm ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản phẩm. Các mặt mặt hàng là đầu vào quan trọng của nền kinh tế như điện, xăng dầu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nhân dân, nhu cầu phát triển của đất nước, chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế thị trường, chưa minh bạch. Tình hình kinh tế thế giới và trong nước tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến thị trường tài chính, giá cả trong nước. Chủ trương nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua đã làm cho thị trường tài chính bất ổn, tạo điều kiện cho một số bộ phận trong nền kinh tế thực hiện đầu cơ làm tăng giá một số mặt hàng nóng như: bất động sản, vàng, ngoại tệ, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Tình hình trên đây đã làm lạm phát tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Vì vậy, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào hoạt động thực tiễn tại Việt Nam hiện nay Trong giai đoạn hiện nay, việc vận dụng các nguyên tắc thế giới quan nhận thức của triết học Mác vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần giúp Chính phủ đưa ra đường lối chủ trương trong giai đoạn khó khăn của đất nước hiện nay. Từ thực tế tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, để đề ra chính sách đường lối đưa đất nước thoát khỏi suy giảm kinh tế, lạm phát tăng cao, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã xuất phát từ chính những vấn đề tồn tại trong nền kinh tế, nắm vững các quy luật kinh tế khách quan, đúc rút từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới và đất nước để ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP cụ thể như sau: Một là, với mục tiêu điều hành chính sách thắt chặt tiền tệ linh hoạt, hợp lý để vừa giảm lượng cung tiền, vừa giảm lạm phát, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa trên thị trường trong nước, Chính phủ đã đưa ra giải pháp thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt. Đặc biệt có kế hoạch và chương trình kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm tính thanh khoản và lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ. Xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, gây lũng đoạn thị trường giá cả hàng hóa. Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn tình trạng “té nước theo mưa” dẫn đến hiện tượng giá tăng giả tạo. Bên cạnh đó, hạ chỉ tiêu thâm hụt NSNN và tiết giảm tối đa đầu tư công, nhất là đầu tư của khu vực DNNN và các chi tiêu NSNN không thiết yếu khác, đồng thời định hướng lại ưu tiên cho vay các nguồn vốn, tín dụng phát triển, thúc đẩy quá trình tái cấu trúc kinh tế lớn và lâu dài của các khu vực kinh tế và cả nền kinh tế trong bối cảnh tăng cường hội nhập và nâng cao chất lượng phát triển theo hướng hiện đại và bền vững. Hai là, đối với vấn để nhập siêu của nền kinh tế, Chính phủ đã phân tích, đánh giá sâu thực trạng cơ cấu hàng nhập khẩu để có giải pháp điều chỉnh phù hợp và hiệu quả hơn nhằm hạn chế nhập siêu. Đấy chính là chính sách Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng. Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu linh hoạt, hợp lý. Xác định các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc áp dụng các biện pháp về chính sách thuế, chính sách tiền tệ nhằm hạn chế nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ không cần thiết. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tích cực tham gia và tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm để đa dạng hóa thị trường. Ba là, để kiểm soát vấn đề lạm phát tăng cao như hiện nay, Chính phủ thực hiện biện pháp quy định trần lãi suất, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, thắt chặt tiền tệ, giữ vững sự ổn định của thị trường ngoại hối, điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo, … Bốn là, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm đời sống dân cư. Quan tâm đến chế độ bảo hiểm cho các đối tượng chính sách, ưu tiên giải quyết nguyện vọng của người nghèo và ổn định việc làm cho công nhân. Cộng đồng nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần tăng cường các hình thức hỗ trợ cho người lao động, đặc biệt quan tâm đến chính sách nhà ở cho các hộ nghèo để khuyến khích, động viên, giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn, ổn định cuộc sống và yên tâm sản xuất. Song song với mặt trận kinh tế, trên mặt trận chính trị, Đảng và Nhà nước khẳng định giữ vững chủ quyền biển đảo, thực hiện đấu tranh bằng hòa hảo, tôn trọng Luật pháp, công ước quốc tế, tranh thủ ủng hộ của dư luận quốc tế, tránh giao tranh bằng vũ lực. Tuyên truyền, kêu gọi nhân dân cảnh giác và đấu tranh chống lại sự dụ dỗ, lôi kéo, kích động của thành phần phản động trong lúc diễn biến xã hội phức tạp. Trên mặt trận văn hóa, xã hội, chúng ta tăng cường kiểm soát các hình thức văn hóa du nhập vào Việt Nam, lên án, phê phán các văn hóa độc hại và đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để tố giác, kịp thời dập tắt các văn hóa độc hại khi mới bắt đầu xuất hiện. Trong giáo dục, chúng ta thực hiện nhiều hình thức đào tạo liên kết với các trường học uy tín tại nước ngoài, hình thành các trường học tư nhân đạt tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng và phẩm chất đội ngũ giảng viên, cải cách phương pháp giảng dạy tiên tiến, cải tiến nội dung học tập để sát hơn với công việc thực tế. Mạnh tay vạch rõ bộ mặt thật của các cơ sở hoạt động mê tín dị đoan để răn đe, tiêu trừ và nâng cao nhận thức của người dân. Quyết liệt đấu tranh, càn quyét các tổ chức mại dâm, cờ bạc, ma túy. Thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng viên, công cán Nhà nước, nghiêm túc kiểm điểm, kỷ luật những Đảng viên, công cán Nhà nước suy thoái. Kết quả đạt được Việc khẩn trương thực hiện Nghị quyết số 11 đã đem lại những kết quả tích cực như cân đối kinh tế vĩ mô đang có chuyển biến khả quan, giá cả có xu hướng tăng chậm lại, thu chi ngân sách nhà nước đạt kết quả khá, đảm bảo các nhu cầu chi và trả nợ của Chính phủ. Tổng vốn đầu tư phát triển 6 tháng năm 2011 ướt đạt khoảng 50% kế hoạch đề ra. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 5,1 tỷ USD, ước tính số tiền giải ngân ODA sáu tháng đầu năm đạt khoảng 1,35 tỷ USD. Chính sách tiền tệ, tín dụng được điều hành chặt chẽ và thận trọng nhằm kiểm soát và ổn định tiền tệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 34,7 tỷ USD tăng 32,8% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu đạt trên 41,3 tỷ USD tăng 29,7% so với cùng kỳ.  Mặc dù bị ảnh hưởng do việc thực hiện các chính sách tiền tệ, tài khóa thắt chặt, tốc độ tăng GDP sáu tháng đầu năm 2011 ước đạt 5,6%, đây là mức tăng trưởng khá. Với xu hướng chuyển biến tích cực, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng cuối năm sẽ cao hơn so với 6 tháng đầu năm và GDP cả năm 2011 ước tăng 6%, (thấp hơn mực tiêu đề ra 7-7,5%). Tình hình thực hiện Nghị quyết 11 trong lĩnh vực đầu tư công, cả nước đã cắt giảm, điều chuyển trong năm 2011 là 80.550 tỷ đồng, bằng khoảng 9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011. Trong đó, số vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ kế hoạch năm 2011 cắt giảm để điều chuyển cho các dự án hoàn thành, các dự án cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ là 8.333 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước giảm 5.556 tỷ đồng, số vốn của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cắt giảm là 39.212 tỷ đồng. Như vậy, đầu tư công năm 2011 chỉ còn 36% so với tổng đầu tư. Nhờ việc triển khai đồng bộ và hiệu quả các nhóm giải pháp, kinh tế Việt Nam đang có nhiều chuyển biến tích cực. Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng có xu hướng giảm, phù hợp với điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ. Ước đến cuối tháng 4/2011, tổng phương tiện thanh toán tăng 0,69% và tín dụng tăng 5,29 % so với cuối năm 2010. Thị trường ngoại hối và tỷ giá diễn biến theo hướng tích cực sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chính tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng và giảm biên độ, giao dịch, chấn chỉnh hoạt động trên thị trường ngoại tệ tự do, kết hợp cùng với các biện pháp đồng bộ của Chính phủ và các bộ ngành khác, tỷ giá trên thị trường tự do đã giảm đáng kể. Với mục tiêu xóa bỏ đầu cơ bất động sản, NHNN đã quy định giảm dư nợ cho vay bất động sản, đã giúp cho thị trường bất động sản giảm nhiệt và quay về giá trị thực, phù hợp với nhu cầu của người dân. Nhận thức của người dân về vấn đề chính trị, chủ quyền biển đảo ngày càng rõ hơn, nắm vững hơn chủ trương đấu tranh hòa bình của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ trẻ ngày càng chủ động hơn trong hoạt động tự nghiên cứu, phát minh và ứng dụng thực tiễn. Các hình thức đào tạo phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu và điều kiện của học viên. Các tổ chức tệ nạn xã hội bị truy quét, bắt gọn, ngày càng nhiều hành vi phạm tội được phát giác, xử lý nghiêm minh, không bao che. Đội ngũ Đảng viên, công cán Nhà nước ngày càng trẻ hóa, chủ động nâng cao trình độ, phong cách chuyên nghiệp, có đạo đức và lý tưởng vững mạnh, trong sạch. Như vậy, việc vận dụng các nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác của Đảng và Nhà nước đã và đang đạt được nhiều thành công trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. KẾT LUẬN Từ những kết quả thực tiễn đạt được của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay, chúng ta khẳng định triết học Mác mà cụ thể là các nguyên tắc thế giới quan nhận thức là hạt nhân, cơ sở cho sự đổi mới toàn diện của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày nay, với những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch chuyển từ đấu tranh đối diện sang đấu tranh mềm mỏng, phá dần nền tảng, cơ sở phát triển của Việt Nam. Từ thực tế của đất nước, hơn bao giờ hết Đảng và Nhà nước phải bám sát các nguyên tắc thế giới quan nhận thức triết học Mác để định hướng cho xây dựng đường lối, hoạch định chính sách trong các giai đoạn tiếp theo. Phải luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, nghiên cứu kỹ hơn, rõ nét hơn chu trình, quá trình vận động của Việt Nam cũng như các nước tiên tiến để rút ra các quy luật, bản chất đúng đắn, từ đó đưa ra các chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đây là cơ sở vững chắc để khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Nhà nước, khẳng định tính cách mạng XHCN triệt để của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, mỗi cá nhân trong xã hội Việt Nam cần nhận thức đúng hơn nữa về triết học Mác và nắm vững hơn nữa các nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác để xây dựng quan điểm sống, học tập và làm việc phù hợp với điều kiện hoàn cảnh bản thân, của xã hội, và ngày càng có ích hơn cho đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích nguyên tắc thế giới quan Triết học Mác, rút ra ý nghĩa, liên hệ thực tế Việt Nam 2011.DOC
Luận văn liên quan