Đề tài: SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (VIỆT NAM)VÀ RUINÔXKÊ AKUTAGAWA(NHẬT BẢN)
Luận văn dài 132 trang
 Chương 1
 THỜI ĐẠI CỦA NAM CAO VÀ AKUTAGAWA - NHỮNG
 NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
 1. Bối cảnh lịch sử, tình hình văn hoá và văn học Việt Nam và Nhật
 Bản cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
 XX.
 1.1.1. Những nét khác biệt
 1.1.2. Những nét tương đồng
 1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về tình hình văn hoá và văn học
 1.2.1. Về văn hoá
 1.2.2. Về văn học
 2. Những tác động của hoàn cảnh xã hội đối với cuộc đời, sự nghiệp
 văn học của Nam Cao và Akutagawa.
 2.1. Cuộc đời
 2.2. Sự nghiệp văn học
 2.2.1. Giai đoạn sáng tác thứ nhất
 2.2.2. Giai đoạn sáng tác thứ hai
 CHƯƠNG 2
 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CỦA TRUYỆN
 NGẮN NAM CAO VÀ AKUTAGAWA
 1. Khái niệm nhân vật như một phương thức tự sự
 2. Kiểu nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa
 2.1. Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp dưới đáy
 2.2. Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí thức
 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức
 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức qua ngôn ngữ bên ngoài
 (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp)
 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức qua ngôn ngữ bên trong
 (độc thoại và đối thoại nội tâm)
 CHƯƠNG 3
 NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
 CỦA NAM CAO VÀ AKUTAGAWA
 1. Điểm nhìn trần thuật
 1.1. Khái niệm điểm nhìn
 1.2. Điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong.
 1.2.1. Điểm nhìn bên ngoài (hay còn gọi là điểm nhìn trần thuật theo
 1.2.2. Điểm nhìn bên trong là loại điểm nhìn được sử dụng đầu tiên trong
 2. Giọng điệu trần thuật
 2.1. Khái niệm giọng điệu
 2.2. Giọng tự sự lạnh lùng
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 132 trang
132 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7068 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và ruinôxkê akutagawa (Nhật Bản), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì con 
ngƣời. Ông nói về con ngƣời với phần “con” lấn át phần “ngƣời”, với những 
thói tật và cả những lầm lỗi không phải để chê trách hay dè bửu mà là để cảm 
thông, chia sẻ. Cũng miêu tả cái đói, cái nghèo, cái khổ, cái bất hạnh của con 
ngƣời trong xã hội cũ, Nam Cao không nói bằng một giọng điệu thống thiết 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104  
nhƣ Nguyên Hồng hay hài hƣớc nhƣ Nguyễn Công Hoan mà lúc nào cũng 
vậy, Nam Cao nói bằng một giọng điệu lạnh lùng, nghiêm nghị nhiều khi 
khiến ngƣời đọc phải “sởn gai”. Đám cƣới của Dần (Một đám cưới) – một con 
gái nhà nghèo dƣới con mắt và giọng điệu trần thuật của Nam Cao đã trở 
thành một đám cƣới ảm đạm nhƣ một đám ma. Nó là nỗi buồn buốt giá tâm 
cam không chỉ của Dần, bố Dần, em Dần mà còn lan sang cả ngƣời đọc. Xót 
xa thay, trong ngày cƣới của mình, Dần đã phải về nhà chồng không manh áo 
cƣới, không pháo dẫn đƣờng, không xe đƣa đón. Dần về nhà chồng mà nhƣ đi 
giữa đám tang của cuộc đời mình: “Đến tối, đám cƣới mới ra đi vẻn vẹn có 
sáu ngƣời cả nhà gái nhà trai... Cả bọn lủi thủi trong sƣơng lạnh và bóng tối 
nhƣ một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ” [18,117]. Cũng 
theo Phan Diễn Phƣơng, Nam Cao có một lối kể chuyện “vừa kể vừa suy 
ngẫm”. “Có thể nói Nam Cao hầu nhƣ xa lạ với những gì to tát, cao siêu. 
Những sự việc bình thƣờng, xoàng xĩnh, những con ngƣời nhỏ bé, ngƣời thừa, 
hầu nhƣ suốt đời bị gắn chặn vào những bi kịch nhân sinh nho nhỏ tụ vào các 
trang sách của Nam Cao, và ông rủ rỉ kể về chúng một cách kỹ càng nhƣ 
không biết nản. Nam Cao không bao giờ chịu kể qua quít, sơ sài. Ông phân 
tích mổ xẻ, lần đến tận ngọn nguồn sự việc, cảnh ngộ” [132,135]. Kiểu giọng 
điệu từ tốn, rủ rỉ, lạnh lùng mà thấm đầy chất triết lý trên là kiểu giọng điệu 
xuyên suốt tác phẩm của Nam Cao. 
Giọng điệu tự sự của Nam Cao cũng liên quan mật thiết đến quan niệm 
về con ngƣời của nhà văn. Đọc tác phẩm của Nam Cao ta dễ dàng nhận thấy 
Nam Cao không miêu tả con ngƣời với số phận dễ dàng, sung sƣớng, thành 
đạt. Ông luôn đặt con ngƣời trong những tình thế “tiến thoái lƣỡng nan”, 
những con ngƣời ấy phải ngụp lặn trong nỗi đau của thân phận mình để đƣợc 
sống sót và tồn tại. Vì vậy ngòi bút Nam Cao cũng trở nên nghiêm khắc hơn 
với các nhân vật. Nam Cao không bao giờ bày tỏ thái độ về nhân vật bằng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105  
giọng điệu trừu mến – một kiểu giọng điệu “vuốt ve” nhƣ văn học lãng mạn. 
Mà ngƣợc lại ngòi bút của ông lúc nào cũng sắc lạnh và lời lẽ chua chát, cay 
đắng. Nam Cao không ngại vẽ lên trong tác phẩm của mình những con ngƣời 
bị cuộc sống cực nhọc làm cho thân xác, diện mạo xiêu vẹo, méo mó, thậm 
chí dị dạng. Chính giọng điệu lạnh lùng, gai góc khi miêu tả nhân vật của 
Nam Cao đã tạo ra một hiệu ứng đặc biệt từ phía độc giả. Ngƣời đọc khi đứng 
trƣớc các nhân vật dị dạng, méo mó với số phận đau khổ, bất hạnh không cảm 
thấy ghê sợ mà chỉ cảm thấy thƣơng xót và cảm thông. 
Giọng điệu thƣờng gắn bó chặt chẽ với điểm nhìn. Vì thế, kiểu điểm nhìn 
di chuyển linh hoạt trong tác phẩm của Nam Cao đã chi phối mạnh mẽ giọng 
điệu trần thuật của tác giả. Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn 
của nhà văn luôn có xu hƣớng đƣợc chuyển cho nhân vật để nhân vật độc 
thoại và đối thoại nội tâm. Đồng nghĩa với việc đó là sự chuyển hoá từ ngôn 
ngữ, giọng điệu của ngƣời kể chuyển sang ngôn ngữ giọng điệu nhân vật. Tuy 
nhiên độc thoại và đối thoại nội tâm ở nhân vật của Nam Cao không phải là 
độc thoại và đối thoại mang tính chất dễ dãi, nhẹ nhàng mà mang tính gai góc, 
giằng xé, đau đớn trong nội tâm nhân vật. Vì vậy, tác phẩm của Nam Cao dù 
có vang lên nhiều giọng điệu khác nhau, đa thanh, phức điệu nhƣng từ đầu 
đến cuối, Nam Cao vẫn sử dụng một giọng kể lạnh lùng, nghiêm nghị khi ông 
miêu tả nỗi đau đớn của nhân vật. Khi viết về ngƣời tri thức tiểu tƣ sản, Nam 
Cao luôn sử dụng một chất giọng độc đáo. Ngoài mặt thì có vẻ tỉnh táo, lạnh 
lùng nhƣng thực ra bên trong thì rất thấu hiểu và cảm thông. Giọng văn Nam 
Cao trở nên sắc sảo hơn khi ông miêu tả những đợt sóng tình cảm diễn ra 
trong lòng ngƣời tri thức tiêu tƣ sản nghèo. Viết về những nhân vật này, nhà 
văn dành một khoảng trống nhất định để nhân vật tự ý thức về mình, về 
những ngƣời xung quanh để khẳng định mình, thanh minh cho mình và rồi lại 
thất vọng về mình. Chính những khoảng trống ấy đã giúp ngƣời đọc nhận ra 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106  
bên trong cái vẻ lạnh lùng, băng giá của giọng kể là một Nam Cao rất mực 
yêu thƣơng con ngƣời. 
Một điểm đặc biệt nữa về giọng điệu trần thuật của Nam Cao trong các 
sáng tác truyện ngắn là cách nhà văn gọi nhân vật là “hắn”, “y”, “thị”... Cách 
gọi nhân vật nhƣ thế này thể hiện một thái độ rất riêng của tác giả khi nói về 
nhân vật. Nó dƣờng nhƣ khẳng định một lần nữa sự lạnh lùng, khắc nghiệt 
của giọng văn Nam Cao đúng nhƣ Trƣơng Thị Nhàn đã nói: “Gọi nhân vật 
của mình bằng hắn, bộc lộ rất độc đáo khuynh hƣớng hiện thực nghiệt ngã 
trong sáng tác của ông” [95,144]. Gọi nhân vật bằng các đại từ chỉ thị ngôi 
thứ ba số ít, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn, một giọng điệu vừa khách 
quan vừa nhân đạo. Đó là một đóng góp và cũng là điểm riêng biệt, độc đáo 
của Nam Cao với tƣ cách là một nhà văn hiện thực phê phán. 
Tuy không phải là giọng điệu chủ đạo nhƣng trong truyện ngắn của 
Akutagawa, giọng tự sự lạnh lùng vẫn giữ một vị trí nhất định. Nó thể hiện 
thái độ khách quan, điềm tĩnh của Akutagawa đối với những câu chuyện đƣợc 
kể. Đọc tác phẩm của ông, chúng ta dễ dàng nhận ra một sự trầm tĩnh, khách 
quan bên cạnh những trạng thái căm giận, yêu thƣơng, phiền muộn hay phấn 
khởi. Mở đầu mỗi truyện ngắn của Akutagawa ta đều thấy có một ngƣời kể 
chuyện khách quan (dù ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba) đang kể câu chuyện 
với một giọng điệu tỉnh táo, sắc lạnh. 
Chẳng hạn: 
- “Chuyện xảy ra vào lúc sẩm tối. Một tên đầy tớ trú mƣa ở cổng thành 
Raxiômôn...” (Cổng thành Raxiômôn) [1,5]. 
- “Đêm ở phía trong bờ rào. Môritô nhìn lên vầng trăng tròn vành vạnh 
và bƣớc đi trên đám lá rụng mà lòng mình chứa nặng nỗi ƣu tƣ” (Kêxa và 
Môritô) [1,16]. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107  
- “Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết Bàn. Cả đầm 
toàn là sen trắng trong nhƣ ngọc...” (Sợi tơ nhện) [1,30]. 
- “Các bạn sắp đọc dƣới đây bức thƣ trƣớc lúc chết của vị bác sĩ quá 
cố…” (Vụ án mạng thế kỉ ánh sáng) [1,84]. 
- “Cách đây ít lâu, Viện bảo tàng Uenô khai mạc cuộc triển lãm về nền 
văn hoá thời kỳ đầu tiên dƣới triều Mâyđơda...” (Người chồng có văn hoá) 
[1,103]. 
- “Đó là vào lúc nửa đêm – một đêm thu. Tại Nam Kinh, trong ngôi nhà 
ở phố Xivanđrô, một cô gái Trung Hoa xanh xao ngồi chống tay bên chiếc 
bàn cũ kỹ...” (Đức chúa ở Nam Kinh) [1,140]. 
.... 
Do đa số truyện ngắn của Akutagawa có đặc điểm là mƣợn cái cốt truyện 
cổ nên dù Akutagawa có đƣa vào con ngƣời hiện đại với tâm lý hiện đại thì 
cách kể chuyện khách quan của các câu chuyện cổ vẫn không bị mất đi. Trong 
Cổng thành Raxiômôn, ngƣời kể chuyện đã lần lƣợt trình bày các sự kiện thản 
nhiên hệt nhƣ một ngƣời đang chứng kiến câu chuyện rồi kể lại. Giọng điệu 
kể chuyện của câu chuyện này giống nhƣ giọng điệu của một ký giả “tƣờng 
thuật trực tiếp” lại cảnh tƣợng hãi hùng mà mình đƣợc thấy: “Chẳng biết từ 
nơi nào vô số quạ tụ lại đây, ban ngày, chúng vừa kêu vừa lƣợn lờ tít trên cao. 
Đến chiều tối, khi bầu trời trên cổng thành đỏ rực lên vào lúc hoàng hôn thì 
chúng nổi bật trên đó y nhƣ những hạt vừng rải rác. Dĩ nhiên bọn chúng bay 
đến là để rỉa các xác chết ở trong cánh gà của cổng thành” [1,6.]. 
Akutagawa là một nhà văn hiện thực xuất sắc nên đề tài đƣợc quan tâm 
nhiều nhất trong tác phẩm của ông là vấn đề con ngƣời trong mối quan hệ với 
xã hội. Vì vậy, bên cạnh giọng điệu châm biếm, hài hƣớc, Akutagawa vẫn giữ 
một giọng điệu tỉnh táo đến lạnh lùng khi ông nói về đề tài này. Truyện ngắn 
Những nỗi thống khổ của địa ngục là một truyện ngắn tiêu biểu cho đề tài: Sự 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108  
xung đột của con ngƣời nhỏ bé với xã hội thù địch sẵn sàng chà đạp nó. Có 
thể khẳng định rằng: nếu thiếu một giọng điệu lạnh lùng, tàn nhẫn thì tác 
phẩm này sẽ không đƣợc coi là một trong những truyện ngắn thành công nhất 
trong sự nghiệp văn chƣơng của Akutagawa. Để diễn tả những đau đớn, giằng 
xé trong tâm hồn của một ngƣời nghệ sĩ khi phải vẽ một bức tranh lột tả tất cả 
sự khủng khiếp, rùng rợn của địa ngục, Akutagawa phải “đóng băng” giọng 
điệu trần thuật của mình. Đọc tác phẩm này, độc giả nhƣ đƣợc thấy một địa 
ngục hiện ra trƣớc mặt với những con ngƣời đang đau đớn, quằn quại bởi các 
cực hình dã man: “ở những ngọn lửa và đám khói sôi cuộn ấy, bọn tôi tớ đầu 
trâu mặt ngựa ấy tra tấn làm những phạm nhân quằn quại vật vã tứ tung nhƣ 
những cành lá bị gió cuốn đi. Chỗ kia thì một ngƣời đàn bà, có lẽ, là một nữ 
tăng ni tóc treo trên chiếc nạng co rúm tứ chi y nhƣ con nhện vậy. Chỗ này 
một ngƣời đàn ông, chắc hẳn phải là một viên tƣớng nào đó, thanh kiếm 
xuyên qua ngực treo lơ lửng đầu xuống dƣới y nhƣ thể con dơi. Ngƣời thì bị 
roi sắt quất vào, kẻ thì bị tảng đá hàng ngàn ngƣời đẩy không đƣợc đè nặng 
lên. Kẻ thì bị mỏ mãnh điểu móc xé, ngƣời thì bị răng con rồng độc ác cắm 
phập vào” [1,51]. Để vẽ cảnh trung tâm bức tranh, ngƣời hoạ sĩ phải hi sinh 
đứa con gái độc nhất của mình và khi diễn tả cảnh cô gái ngồi trong cỗ xe 
ngựa bị bốc cháy rơi từ trên cao xuống trƣớc sự khiếp sợ của tất cả mọi ngƣời 
(các nhân vật trong truyện), ngòi bút của Akutagawa bắt buộc phải nghiệt 
ngã, tàn nhẫn: “Đấy là khuôn mặt ngật ra của ngƣời đàn bà đang cố thoát khỏi 
đám khói đó là mái tóc dài đen rối bung mà ngọn lửa đang liếm vào... trong 
cái ráng hồng rực đỏ lấp lánh bụi vàng mới thấy rõ mồn một ngƣời đàn bà cố 
cắn dải băng bịt miệng lại, giãy giụa, quằn quại vùng vẫy nhƣ làm cho xiềng 
xích có thể đứt ra...” [1,79]. Nhƣng cũng chính giọng điệu đó lại gieo vào 
lòng ngƣời đọc một mối thƣơng cảm sâu sắc cho số phận con ngƣời nhỏ bé bị 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109  
chà đạp trở thành “vật tế” cho nghệ thuật mà cao hơn là cho những thế lực tàn 
bạo trong xã hội. 
Nam Cao và Akutagawa là hai nhà văn hiện thực chủ nghĩa, bởi vậy việc 
lựa chọn một giọng điệu tự sự lạnh lùng là lựa chọn khả dĩ cho các sáng tác 
hiện thực của hai nhà văn. Vì hiện thực thì thƣờng không có “màu hồng” mà 
hiện thực để phê phán thì càng cần phải lạnh lùng và khắc nghiệt hơn. Tuy 
nhiên, trong sáng tác của Akutagawa, hiện thực chủ yếu đƣợc nhìn nhận ở 
phƣơng diện châm biếm, đả kích, do đó khác với Nam Cao, giọng điệu chủ 
đạo trong truyện ngắn của Akutagawa là giọng châm biếm, mỉa mai và hài 
hƣớc. 
2.3. Giọng mỉa mai, châm biếm, hài hước. 
Akutagawa có lối viết văn đa dạng về ngôn từ và chất văn. Lối viết của 
ông đôi khi theo phong cách của Kôrishitan sơ khai; Khi theo phong cách văn 
chƣơng nổi tiếng Sorobun (nghĩa là hầu văn – một lối viết thƣ cũ); Cũng có 
khi theo phƣơng ngữ Edo cay độc hoặc theo lối hiện đại phƣơng Tây. Nhƣng 
dù ở lối viết nào, các sáng tác của Akutagawa đều mang văn phong mỉa mai 
với giọng điệu châm biếm và đả kích có pha chút hài hƣớc phù hợp với 
khuynh hƣớng “tân hiện thực”. 
Bàn về sự trào phúng, hài hƣớc, châm biếm của Akutagawa, nhà nghiên 
cứu Shuichi Katô cho rằng: tác phẩm của Akutagawa là sự kết hợp nhuần 
nhuyễn nghệ thuật tự sự hài hƣớc hiện đại của Swift và Sammuel Butler, 
Frăngxơ [79,43]. Chính vì vậy, khi nói về tác phẩm trào phúng nổi tiếng Đất 
nước của các thủy dân (hay Kappa), tờ báo “Time” của Anh đã có một bài 
bình luận với nhan đề: “Giuylivơ trong bộ kimônô” cùng lời nhận xét: “Sự 
châm biếm của Akutagawa hay đến mức không thể ngờ rằng đó là sự châm 
biếm của ngƣời Nhật” [1,354]. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110  
Cổng thành Raxiômôn là tác phẩm mở đầu sự nghiệp văn học của 
Akutagawa đƣợc viết với bút pháp châm biếm, hài hƣớc. ở truyện ngắn này 
Akutagawa tập trung đả kích thói tật của con ngƣời trong xã hội thông qua 
việc phân tích tâm lý tài tình. Vì vậy, giọng điệu ở đây là giọng điệu châm 
biếm vừa mang hơi hƣớng của một câu chuyện cổ lại vừa mang âm hƣởng 
hiện đại. Ta hãy xem cái cách Akutagawa phân tích tâm lý bằng giọng điệu 
này trong một đoạn miêu tả tên đầy tớ lúc ngồi dƣới cổng thành: “Để sắp đặt 
điều không thể sắp đặt đƣợc bằng cách nào đó thì cũng chẳng phải phân tích 
cho đến đầu đến đũa làm gì cả. Nếu phân tích chăng nữa, về cơ bản cũng chỉ 
còn lại độc một điều – chết đói bên hàng rào hoặc bên đƣờng phố. Rồi sau đó 
ngƣời ta sẽ mang xác tới đây và quăng đi nhƣ quăng một con chó. Nếu không 
phân tích... thì những ý nghĩ của tên đầy tớ cũng đã nhiều lần đi qua con 
đƣờng ấy và cũng chỉ dựa vào mỗi một điều ấy thôi. Song cái từ “nếu nhƣ” 
rốt cục vẫn nhƣ trƣớc chỉ còn lại “nếu nhƣ” ấy mà thôi. Khi thừa nhận có thể 
không cần phân tích cho đến đầu đến đũa, trên thực tế tên đầy tớ đã không đủ 
dũng cảm thừa nhận rằng có thể rút ra từ cái việc “nếu nhƣ” ấy là dù muốn 
hay không cũng chỉ còn một điều – làm kẻ trộm” [1,8]. Ngồi dƣới cổng thành, 
tên đầy tớ đắn đo giữa việc chịu chết đói và làm kẻ trộm. Hắn đã tự chất vấn 
mình bằng cách đƣa ra các giả thiết nhƣng rồi lại phủ định ngay sau đó. Đáng 
cƣời hơn, sau khi gặp mụ già nhổ trộm tóc của ngƣời chết, hắn bắt trói mụ vì 
cho rằng mụ đã làm một việc ác không thể tha thứ là ăn cắp. Nhƣng cũng lại 
ngay sau đó, hắn cƣớp đi bộ Kimônô duy nhất trên thân hình còm cõi của mụ 
và bỏ mụ lại “trần truồng” giữa đống xác chết. Bằng một giọng điệu châm 
biếm, độc đáo, Akutagawa đã làm bật lên sự lố bịch đến hài hƣớc của một tên 
đầy tớ “thời Hâyan”. Cao hơn nữa, Akutagawa đã đả kích và lên án sâu sắc xã 
hội Nhật Bản đƣơng thời – kẻ tội lỗi chính và là nguồn gốc sinh ra cái ác. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111  
Các truyện ngắn về sau của Akutagawa đƣợc sáng tác theo nhiều lối viết 
khác nhau nhƣng đa phần vẫn mang giọng điệu châm biếm, hài hƣớc. Hơn 
mƣời năm sau khi viết Cổng thành Raxiômôn (1915), Akutagawa đã cho ra 
đời tác phẩm trào phúng xuất sắc Đất nước của các thuỷ dân (1927). Đây có 
thể xem là truyện biếm hoạ độc đáo nhất của Akutagawa với bút pháp châm 
biếm, hài hƣớc, trào lộng đả kích đƣợc sử dụng triệt để và khéo léo để vạch rõ 
và toàn diện tính chất xã hội Nhật Bản. Tác phẩm đƣợc trình bày dƣới dạng 
một câu chuyện hoang đƣờng về một loại đất nƣớc tƣởng tƣợng ngoài con 
ngƣời. ở tác phẩm này, Akutagawa đã chĩa ngòi bút châm biếm sắc sảo của 
mình vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tƣ sản Nhật Bản bằng cách 
nhân hoá loài sinh vật huyền thoại Kappa. Loài sinh vật này và xã hội của 
chúng thực chất là mặt trái của con ngƣời và xã hội Nhật Bản hiện đại. Trong 
tác phẩm, Akutagawa đã cho nhân vật chính đƣợc gặp rất nhiều nhân vật có 
tiếng trong thế giới của loài Kappa và trong mỗi cuộc đối thoại của nhân vật, 
nhà văn lại gửi gắm vào đó những tƣ tƣởng hết sức tiến bộ để phê phán quyết 
liệt chế độ tƣ bản Nhật Bản đang trên đà tiến lên chủ nghĩa phát xít. Với một 
chất giọng châm biếm hiện đại, Akutagawa đã lột tả lần lƣợt từng bƣớc tính 
chất phi lí, phản tự nhiên của cơ cấu và nếp sống xã hội đang thống trị nƣớc 
Nhật. Qua mỗi trang viết, ngƣời đọc lại đƣợc nhìn rõ hơn sự tha hoá của con 
ngƣời trong quá trình công nghiệp hoá theo mô hình phƣơng Tây của Nhật 
Bản. Và rồi, hầu hết các mặt trái của xã hội tƣ sản Nhật đƣợc mổ xẻ, phanh 
phui rất rõ ràng bằng ngòi bút châm biếm sắc sảo và sâu cay. Ví dụ khi nói về 
sự “sinh đẻ” của loài Kappa, Akutagawa đã hoá thân vào nhân vật đồng thời 
là ngƣời kể chuyện để kể bằng một giọng điệu châm biếm độc đáo đến mức 
chƣa một nhà văn Nhật Bản nào có thể vƣợt qua đƣợc: “Việc sinh đẻ của loài 
Kappa diễn ra cũng giống nhƣ loài ngƣời chúng ta. Có bác sĩ và một bà đỡ 
giúp cho sản phụ. Nhƣng trƣớc khi đẻ, Kappa bố áp miệng mình vào bụng sản 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112  
phụ và nói to nhƣ qua ống điện thoại vài câu hỏi: “Con có muốn ra đời 
không? Hãy nghĩ cho kỹ và trả lời nhé!” Baggơ quì xuống bên vợ mình và 
nhắc đi nhắc lại mấy lần câu hỏi đó. Sau đấy, ông ta đứng lên và súc miệng 
bằng một dung dịch đã khử trùng trong chiếc bát để trên bàn. Lúc đó dƣờng 
nhƣ ta nghe thấy từ trong bụng ngƣời mẹ tiếng đáp lại ngƣợng nghịu của đứa 
bé: 
- Con không muốn đƣợc sinh ra đâu. Thứ nhất vì tính di truyền của bố 
làm con sợ dù rằng đó là bệnh thái nhân cách của bố thôi. Và ngoài ra, con 
thấy rằng loài Kappa không nên sinh sôi nảy nở nhiều lên” [1,235]. 
Điều khiến ta bật cƣời ở chi tiết này là trong thế giới của loài Kappa, 
không có sự hạn chế sinh đẻ nhƣng tất cả mọi đứa trẻ trƣớc khi đƣợc sinh ra 
đều thốt lên rằng nó không muốn ra đời. Tiếp tục với giọng điệu châm biếm 
ấy, Akutagawa còn đề cập đến nhiều vấn đề khác nhƣ: Về tình yêu, tất cả 
những con đực Kappa khác với loài ngƣời là đều bị các con cái săn đuổi; Về 
gia đình, ở thế giới của các thuỷ dân “hệ thống gia đình là hoàn toàn mù 
quáng” và “các thành viên trong gia đình chỉ nhìn thấy một niềm vui độc nhất 
ở đời là hành hạ nhau thật ác liệt”; Về nghệ thuật, cảnh sát mà cao hơn là 
chính quyền có thể kiểm duyệt thậm chí cấm đoán tất cả mọi hoạt động âm 
nhạc, hội hoạ, văn học, báo giới...; Về xã hội, máy móc ra đời làm sa thải 
nhiều công nhân mỗi ngày và những công nhân bị sa thải trong xã hội Kappa 
sẽ bị giết thịt để làm đồ ăn; Về pháp luật, để tử hình một kẻ nào đó, loài 
Kappa chỉ cần tuyên bố tội ác của anh ta và anh ta sẽ tự giết mình về điều đó; 
Về tôn giáo, loài Kappa sùng bái cái gọi là “đạo sống” nhƣng tất cả những vị 
thánh mà họ tôn thờ đều là những ngƣời... không muốn sống… 
Nhƣ vậy, chỉ với một tác phẩm, Akutagawa đã vẽ lên một bức tranh biếm 
hoạ toàn diện về xã hội Nhật Bản bằng bút pháp trào phúng và giọng điệu 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113  
châm biếm, đả kích độc đáo. Với bút pháp và giọng điệu này, nghệ thuật trần 
thuật của Akutagawa thực sự gây ấn tƣợng mạnh mẽ cho độc giả nhiều thế hệ. 
Mặc dù giọng điệu tự sự lạnh lùng là giọng điệu chủ đạo của truyện Nam 
Cao nhƣng đôi khi ngƣời đọc cũng nhận ra trong giọng văn của ông có sự 
châm biếm và một tiếng cƣời độ lƣợng, có thể hơi chua chát nhƣng không ác, 
không khắc nghiệt. Vì vậy, nếu so với Akutagawa thì giọng châm biếm, hài 
hƣớc của Nam Cao có phần nhẹ nhàng và ít sâu cay hơn. Giọng điệu này chủ 
yếu đƣợc sử dụng khi nhà văn đặt vấn đề con vật bên cạnh con ngƣời. Nam 
Cao đã vận dụng lời ăn, tiếng nói dân gian, có khi mƣợn con vật và những tật 
xấu của chúng để châm biếm cái xấu, thói xấu của con ngƣời tạo nên tiếng 
cƣời nhẹ nhàng, “mát mẻ” cho những trang văn “nặng trĩu” nỗi đau đời. 
Chúng ta đã biết đến mối tình “ngƣời ngợm” của Chí Phèo và Thị Nở – mối 
tình của một con ma men, một con quỷ dữ chuyên rạch mặt ăn vạ với một kẻ 
xấu “ma chê quỷ hờn”. Trong đoạn văn miêu tả cái xấu của Thị Nở, lối văn, 
giọng văn châm biếm, hài hƣớc của Nam Cao đã khiến ngƣời đọc phải bật 
cƣời ngay sau khi vừa rỏ những giọt nƣớc mắt: “Cái mặt của thị thực là một 
sự mỉa mai của hoá công: nó ngắn đến nỗi ngƣời ta có thể tƣởng bề ngang 
hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh 
phính thì mặt thị lại còn đƣợc hao hao nhƣ mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn 
ngƣời ta tƣởng trên cổ ngƣời. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần 
sùi nhƣ vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng 
cố to không thua với cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở nhƣ rạn 
ra... Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa 
đƣợc một vài phần cho sự xấu. Đã thế thị lại dở hơi, đó là một ân huệ đặc biệt 
của thƣợng đế chí công: nếu sáng suốt thì ngƣời đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ 
khi mua cái gƣơng thứ nhất” [18,35]. ở đây, Nam Cao đã xoáy vào những 
điểm xấu của Thị Nở rồi so sánh với con vật hoặc nói quá, phóng đại nó lên. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114  
Đồng thời, ông xen vào lời tả những câu bình luận, đánh giá bỏ ngỏ vì vậy 
tiếng cƣời đã đƣợc bật lên. Cũng với một giọng điệu ấy, Nam Cao tiếp tục tả 
chân dung của Lang rận trong truyện ngắn cùng tên, nhƣng lần này hình ảnh 
của Lang rận khiến ta phải cƣời vì Nam Cao đã vẽ lên ở nhân vật này chân 
dung của một “con lợn” thực thụ vừa xấu, vừa bẩn thỉu. “Mặt gì mà nặng 
trình trịch nhƣ mặt ngƣời phù, da nhƣ da con tằm bủng, lại lấm tấm đầu 
những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn, lại gồ lên. Đôi mắt thì híp 
lại nhƣ mắt lợn sề. Môi rất nở cong lên, bịt gần kín hai cái lỗ mũi con con, 
khiến anh ta thở khò khè. Nhƣng cũng chƣa tệ bằng lúc anh cƣời. Bởi vì lúc 
anh cƣời thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại híp thêm, hai mí gần nhƣ 
dính tít lại với nhau, môi càng lớn thêm lên, mà tiếng cƣời, toàn bằng hơi thở, 
thoát ra khìn khịt. Trời đất ơi! Cái mặt ấy dẫu cho mỗi ngày rửa ba lƣợt xà 
phòng, bà cựu trông thấy vẫn còn buồn mửa. Huống chi anh chàng lại bẩn 
gớm, bẩn ghê. Có lẽ mỗi buổi sáng, ra cầu ao, anh chỉ nhúng mấy ngón tay, 
rửa độc một tí đầu mũi mà thôi” [18,245]. Đó là chƣa kể ngƣời anh ta “rận 
lắm hơn giòi”, anh ta ngồi chỗ nào đứng lên là rận rơi ra “bò lổm ngổm”, 
“ngã chổng kềnh” múa may những cái chân nhỏ li ti... Mụ Lợi cũng vậy. Dƣới 
ngòi bút và chất giọng châm biếm của Nam Cao thì có lẽ “không còn một 
ngƣời đàn bà nào có thể xấu hơn”. 
Cùng với giọng điệu tự sự lạnh lùng, giọng châm biếm, hài hƣớc đã tạo 
nên ở tác phẩm của Nam Cao những trạng thái tâm lý khác nhau, phong phú 
và nhiều góc cạnh. 
* Tiểu kết 
Nói tóm lại, ở nghệ thuật trần thuật, truyện ngắn của Nam Cao và 
Akutagawa có nhiều nét tƣơng đồng trong nghệ thuật xây dựng điểm nhìn và 
giọng điệu trần thuật. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115  
Ở điểm nhìn trần thuật, cả Nam Cao và Akutagawa đều chú trọng xây 
dựng loại điểm nhìn di chuyển, một loại điểm nhìn phối hợp cả điểm nhìn bên 
ngoài và bên trong. Với điểm nhìn này, cả hai nhà văn cùng lựa chọn ngƣời 
kể chuyện ở các ngôi khác nhau, lúc ở ngôi thứ nhất, lúc ở ngôi thứ ba và lúc 
lại ở ngôi thứ hai trung tính. Nhờ đó họ đã hƣớng sự giao tiếp về phía độc giả, 
đứng ngang hàng với độc giả và tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác 
phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh sự tƣơng đồng này vẫn có sự khác biệt. 
Nếu nhƣ trong truyện ngắn của Nam Cao chủ yếu sử dụng kiểu điểm 
nhìn hƣớng vào nội tâm, tức là điểm nhìn đƣợc quán xuyến bởi một ngƣời kể 
chuyện thống nhất nhƣng khi nhân vật độc thoại hoặc đối thoại nội tâm, điểm 
nhìn đƣợc chuyển cho nhân vật để nhân vật tự bộc lộ. Thì ở sáng tác của 
Akutagawa, do đặc điểm “truyện trong truyện” nên kiểu điểm nhìn đƣợc sử 
dụng chủ yếu là “điểm nhìn phân tán’, tức là trong một tác phẩm của 
Akutagawa sẽ có nhiều điểm nhìn đƣợc quán xuyến bởi nhiều ngƣời kể 
chuyện nhƣng đa phần các điểm nhìn này vẫn có sự di chuyển cho nhau. 
Ở giọng điệu trần thuật, Nam Cao và Akutagawa đã có sự gặp gỡ ở hai 
giọng điệu chủ đạo: Giọng tự sự lạnh lùng và giọng chấm biếm, hài hƣớc. 
Trong đó, giọng tự sự lạnh lùng là giọng chủ đạo trong tác phẩm của Nam 
Cao giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Còn giọng 
điệu châm biếm, hài hƣớc lại là giọng chủ đạo của truyện ngắn Akutagawa. 
Bằng giọng này, Akutagawa đã lên án sâu sắc những mặt trái của xã hội tƣ 
bản Nhật Bản. Mỗi nhà văn mỗi phong cách nhƣng suy cho cùng, Nam Cao 
và Akutagawa đều có những đóng góp tích cực trong việc cách tân nghệ thuật 
trần thuật nói riêng và nghệ thuật tự sự nói chung ở hai quốc gia Việt Nam và 
Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116  
KẾT LUẬN 
1. Khi so sánh Nam Cao và Akutagawa, đầu tiên phải nhắc đến những 
nét tƣơng đồng và khác biệt về thời đại của hai nhà văn. Nét khác biệt cơ bản 
giữa Việt Nam và Nhật Bản là về mặt thể chế. Trong cùng một thời điểm lịch 
sử, hai nƣớc có hai con đƣờng, hai chế độ chính trị hoàn toàn khác nhau. Suốt 
những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nếu nhƣ Việt Nam bị xâm lƣợc và 
trở thành một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của Pháp thì 
Nhật Bản lại tiến hành cải cách đất nƣớc theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa và 
nhanh chóng phát triển thành nƣớc đế quốc chủ nghĩa đi xâm lƣợc và bóc lộc 
các nƣớc thuộc địa khác. Tuy nhiên, cuộc sống của nhân dân hai nƣớc khác 
biệt về thể chế lại có nhiều điểm tƣơng đồng. Vì dù với chế độ chính trị nào 
thì quyền lợi đều rơi vào tay giai cấp thống trị còn mọi cực khổ và thiệt thòi 
thì nhân dân phải gánh chịu. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc văn minh và lối sống 
phƣơng Tây trong bối cảnh riêng của hai nƣớc cũng là một nét tƣơng đồng 
khác trong bối cảnh lịch sử, xã hội lúc này. 
Những thay đổi về đời sống xã hội tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi về văn 
hoá và tình hình văn học. Quá trình Âu hoá và phong trào Khai sáng đã mở ra 
một giai đoạn phát triển mới cho nền văn hoá hai dân tộc. Đồng nghĩa với 
điều đó là nền văn học của hai nƣớc đƣợc hiện đại hoá dƣới sự ảnh hƣởng của 
văn học phƣơng Tây và có sự phân hoá văn học thành nhiều trào lƣu, xu 
hƣớng trong quá trình phát triển. 
Nam Cao và Akutagawa là hai nhà văn lớn trƣởng thành trong một giai 
đoạn lịch sử có nhiều biến động của hai dân tộc. Bởi vậy, cuộc đời và văn 
nghiệp của họ đã chịu ảnh hƣởng không nhỏ từ phía hoàn cảnh xã hội. Đặc 
biệt về văn nghiệp, cả Nam Cao và Akutagawa đều có sự nghiệp sáng tác chia 
hai giai đoạn. Và từ giai đoạn sáng tác thứ nhất sang giai đoạn thứ hai thì cả 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117  
hai nhà văn đều có nhiều chuyển biến quan trong về tƣ tƣởng, lập trƣờng cũng 
nhƣ quan niệm sáng tác. 
2. Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa (qua 
những nghiên cứu bƣớc đầu) có sự gặp gỡ nhau ở hai phƣơng diện cơ bản là: 
Nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. ở mỗi phƣơng diện 
này, sáng tác của hai nhà văn đều có những nét khác biệt và tƣơng đồng khá 
rõ nét. 
Trƣớc tiên, phải khẳng định rằng: do sự chi phối của thời đại mà dặc biệt 
là văn hoá và văn học nên nhân vật của Akutagawa đƣợc xây dựng với tâm lý 
phức tạp mang tính khái quát, trừu tƣợng hơn nhân vật của Nam Cao. Nếu 
nhƣ nhân vật của Akutagawa là những con ngƣời hiện đại đƣợc phác hoạ ở 
nhiều thời điểm khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau thì nhân vật của 
Nam Cao lại là những con ngƣời hết sức đời thƣờng hiện hữu xung quanh 
cuộc sống của nhà văn. 
Tuy vậy, những nhân vật trong sáng tác của hai nhà văn đều đƣợc khai 
thác sâu ở thế giới nội tâm và dòng tƣ duy bên trong. Đó là những nhân vật tự 
ý thức. 
Nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa đƣợc chia thành hai loại: 
Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp dƣới đáy và nhân vật tự ý thức thuộc tầng 
lớp trí thức. ở điểm này, nét khác biệt là nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí 
thức của Akutagawa phong phú hơn so với Nam Cao. Ngƣợc lại nhân vật 
thuộc tầng lớp dƣới đáy của Nam Cao phong phú hơn Akutagawa. Với mỗi 
loại nhân vật trên, cả hai nhà văn của Việt Nam và Nhật Bản đều làm rõ đời 
sống nội tâm và quá trình tự ý thức phong phú, phức tạp của nhân vật. Khi 
miêu tả các nhân vật này, hai nhà văn đều giữ một khoảng cách cần thiết với 
nhân vật. Nhà văn không áp đặt nhân vật theo ý riêng của mình mà để cho 
nhân vật tự nhận thức và hành động để quyết định số phận của nó. Lựa chọn 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118  
kiểu nhân vật tự ý thức, mạch tự sự trong các truyện ngắn của Nam Cao và 
Akutagawa đã trở nên biến hoá “khôn lƣờng”. 
Phƣơng thức nghệ thuật tiêu biểu mà cả Nam Cao và Akutagawa cùng sử 
dụng để khắc hoạ nhân vật tự ý thức trong các tác phẩm là ngôn ngữ nhân vật 
gồm: Ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ bên 
trong (độc thoại và đối thoại nội tâm). Đặc biệt với hình thức độc thoại và đối 
thoại nội tâm, Nam Cao và Akutagawa đã tạo ra một “hành trình” thuận lợi để 
khám phá thế giới bên trong đầy phức tạp và bí ẩn của con ngƣời (nhân vật). 
Nhà văn không nhìn nhận con ngƣời nhƣ một “khách thể câm lặng” mà coi 
con ngƣời nhƣ một “tiểu vũ trụ” không biết hết, không biết trƣớc đƣợc và cần 
phải đƣợc khám phá và tìm hiểu. Những con ngƣời ấy luôn đƣợc giao lƣu với 
hoàn cảnh để bộc lộ nội tâm, sự tự ý thức một cách tự do. Khắc hoạ thành 
công nhân vật tự ý thức, ngòi bút Nam Cao và Akutagawa đã vƣơn tới đỉnh 
cao trong nghệ thuật tự sự so với các nhà văn cùng thời. Tuy nhiên, mức độ 
khái quát và trừu tƣợng của ngôn ngữ nhân vật ở tác phẩm của Akutagawa 
cao hơn của Nam Cao. 
3. Bên cạnh việc lựa chọn và xây dựng nhân vật, trong quá trình tự sự, 
Nam Cao và Akutagawa còn tiến tới tạo dựng cho mình những mô hình trần 
thuật độc đáo, riêng biệt và cá tính. Nghệ thuật trần thuật của Nam Cao và 
Akutagawa đƣợc thể hiện ở: Điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật. 
Truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa đã xây dựng thành công ba 
loại điểm nhìn: Điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong và điểm nhìn di 
chuyển. Điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong tuy đƣợc sử dụng hạn 
chế nhƣng chúng vẫn đóng một vai trò nhất định trong nghệ thuật trần thuật 
của các nhà văn. ở đây, khác biệt của Akutagawa so với Nam Cao là không có 
truyện ngắn nào sử dụng điểm nhìn bên trong nhƣng Nam Cao thì có (6/41 
truyện). Còn điểm nhìn di chuyển thì đƣợc sử dụng dày đặc và mang lại hiệu 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119  
quả đặc biệt cho các sáng tác tự sự của Nam Cao và Akutagawa. Nhờ việc sử 
dụng linh hoạt và sáng tạo điểm nhìn này, cả hai nhà văn đã taọ ra trong tác 
phẩm của mình những ngƣời kể chuyện ở các ngôi khác nhau (ngôi thứ nhất, 
ngôi thứ ba và cả ngôi thứ hai). Nhờ đó, họ đã hƣớng giao tiếp về phía độc 
giả, đứng ngang hàng với độc giả và tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác 
phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình trần thuật, việc sử dụng điểm nhìn của Nam 
Cao và Akutagawa vẫn có khác biệt. Nam Cao thì quan tâm kiểu điểm nhìn 
hƣớng vào nội tâm. Còn Akutagawa thì chủ yếu sử dụng kiểu “điểm nhìn 
phân tán”. 
Cùng với việc sử dụng điểm nhìn trong trần thuật, Nam Cao và 
Akutagawa cùng chú ý xây dựng những giọng điệu trần thuật chủ đạo. ở đây, 
hai nhà văn đã có sự gặp gỡ ở hai giọng điệu chủ đạo là: Giọng tự sự lạnh 
lùng và giọng mỉa mai, châm biếm, hài hƣớc. Trong đó, giọng tự sự lạnh lùng 
là giọng chủ của tác phẩm Nam Cao còn giọng mỉa mai, châm biếm, hài hƣớc 
là giọng chính của truyện ngắn Akutagawa. Các giọng điệu này đều đƣợc các 
nhà văn sử dụng linh hoạt trong quá trình sáng tạo. Chúng giúp cho nhà văn 
bày tỏ thái độ của mình với hiện thực xã hội đƣơng thời, thể hiện mối thƣơng 
cảm sâu sắc cho những kiếp ngƣời bần cùng, đau khổ trong xã hội. Bên cạnh 
điểm nhìn, giọng điệu cũng là một yếu tố điển hình tạo nên sự đa thanh cho 
các tác phẩm của hai nhà văn. 
* * 
* 
Tuy mỗi nhà văn có một phong cách, một bản sắc độc đáo, riêng biệt 
nhƣng Nam Cao và Akutagawa đều là những phong cách truyện ngắn tiêu 
biểu của Việt Nam và Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Các sáng tác của họ đã góp 
phần tích cực trong việc cách tân nghệ thuật tự sự trong văn học ở hai quốc 
gia châu Á. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akutagawa (2000), Tuyển tập truyện ngắn, Phong Vũ dịch, NXB Hội 
nhà văn, Hà Nội. 
2. Vũ Tuấn Anh (1992), “Phong cách truyện ngắn Nam Cao”, Nghĩ tiếp về 
Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
3. Đào Tuấn ảnh (1992), “Tsekhov và Nam Cao - Một sáng tác hiện thực 
kiểu mới”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
4. Đào tuấn ảnh (2005), “Tsekhov và Nam Cao - Nhìn từ góc độ thi pháp”, 
Nghiên cứu văn học số 4, Viện văn học, Hà nội. 
5. Đào Tuấn ảnh (2005), “Quan niệm thực tại và con ngƣời trong văn học 
hậu hiện đại”, Nghiên cứu văn học số 8, Viện văn học, Hà Nội. 
6. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà 
Nội. 
7. Lại Nguyên Ân (1992), “Nam Cao và cuộc canh tân văn học đầu thế kỉ 
XX”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
8. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn 
Nguyễn Du, Hà Nội. 
9. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, Hà 
Nội. 
10. Matsuo Basho (1998), Con đường thiên lý hẹp cuộc hành trình Haiku, 
Hàn Thuỷ Giang dịch, NXB Hà Nội. 
11. Lê Huy Bắc (2004), “Truyện ngắn: nguồn gốc và khái niệm”, Nghiên 
cứu văn học số 5, Viện văn học. 
12. Lê Huy Bắc (1998), “Thời đại hoàng kim của tiểu thuyết”, Văn nghệ trẻ 
số 30, Hà Nội. 
13. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp 
chí văn học số 9, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121  
14. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam Cao, Luận án tiến 
sĩ Ngữ văn, Hà Nội. 
15. Boland John (1987), Nghệ thuật truyện ngắn, NXB. 
16. Lƣu Văn Bổng (2001), “Văn học so sánh - Thể loại, hình thức, phong 
cách”, Tạp chí văn học số 4, Hà Nội. 
17. Richard Browning - Peter Kornichi (1995), Bách khoa thư Nhật Bản, 
Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội. 
18. Nam Cao (2005), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội 
19. Phạm Tú Châu (1992), “Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ”, Nghĩ 
tiếp về Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội. 
20. Huệ Chi - Phong Lê (1960), “Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bƣớc 
đƣờng đi lên của một nhà văn hiện thực”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà 
Nội. 
21. Huệ Chi - Phong Lê (1961), “Con ngƣời và cuộc sống trong tác phẩm 
Nam cao”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà Nội. 
22. Nhật Chiêu (1991), “Kawabata Yasunari - Ngƣời cứu rỗi cái đẹp”, Tạp 
chí văn học số 16, TP Hồ Chí Minh. 
23. Nhật Chiêu (1992) , “Cảm nhận về thơ haiku”, Tác phẩm mới số 4 
24. Nhật Chiêu (1996), “Truyện ngắn trong lòng bàn tay hay hồn thơ 
Kawabata Yasunari”, Tạp chí văn số xuân, TP Hồ Chí Minh. 
25. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ Haiku, NXB Văn học, Hà Nội. 
26. Nhật Chiêu (2001), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
27. Nhật Chiêu (1996), Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản (2 tập), 
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 
28. Nhật Chiêu (1999), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội 
29. Nhật Chiêu (2000), “Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình 
và bóng)”, Tạp chí văn học số 3, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122  
30. Nhật Chiêu (2001), “Genji Monogatari - Kiệt tác văn học Nhật Bản”, 
Tạp chí văn học số 11, Hà Nội. 
31. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến năm 1868, NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
32. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, NXB Đại học quốc 
gia Hà Nội. 
33. Trần Ngọc Dung (1992), “Sự gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam Cao”, Nghĩ 
tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
34. Trần Ngọc Dung (2004), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt 
Nam những năm 1930 - 1945 (Nguyễn Công Hoan - Thạch Lam - Nam 
Cao), NXB Thanh niên, Hà Nội. 
35. Đinh Trí Dũng (1992), “Bi kịch tự ý thức - nét độc đáo trong cảm hứng nhân 
đạo của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
36. Đặng Anh Đào (1994), “Tính chất hiện đại của tiểu thuyết”, Tạp chí văn 
học số 2, Hà Nội. 
37. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB 
Đại học quốc gia Hà Nội. 
38. Nguyễn Đức Đàn (1968) “Nam Cao”, Mấy vấn đề văn học hiện thực phê 
phán Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
39. Phan Cự Đệ (1961), “Nam Cao”, Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
40. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Đại học và 
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
41. Phan Cự Đệ chủ biên (2001), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
42. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn 
hoá, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123  
43. Hà Minh Đức (2003), “Nam Cao và đôi nét về nghệ thuật sáng tạo tâm 
lý”, Tạp chí văn học số 6. 
44. Hà Minh Đức (1976), Nam Cao - Tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội. 
45. Hà Minh Đức (1976), Nam Cao - Đời văn và tác phẩm, NXB Hội nhà 
văn, Hà Nội. 
46. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội. 
47. Hà Minh Đức (1992), “Nam Cao phê phán và tự phê phán”, Nghĩ tiếp về 
Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
48. Mai Chƣơng Đức (1969), “Tiểu thuyết Nhật Bản”, Tạp chí văn học 
(Miền Nam) số 90. 
49. Mai Chƣơng Đức (1972), “Kawabata - Nhà văn Nhật Bản đầu tiên đoạt 
giải Nobel văn học”, Tạp chí văn học (Miền Nam) số 144. 
50. N.T.Fedorenko (1999), “Kawabata - Con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Văn 
học nước ngoài số 4, Hà Nội. 
51. Michel Fragonard (1997), “Từ điển văn hoá thế kỉ XX”, Văn học nước 
ngoài số 2, Hà Nội. 
52. Đoàn Lê Giang (1997), “So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ 
điển Việt Nam và Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 9, Hà Nội. 
53. Đoàn Lê Giang (2003), “Basho - Nguyễn Trãi - Nguyễn Du những hồn 
thơ đồng điệu”, Tạp chí văn học số 6, Hà Nội. 
54. Nguyễn Thiện Giáp chủ biên (2003), Văn học so sánh nghiên cứu và 
dịch thuật, NXB Đại học Quốc gia, Hà nội. 
55. T.P. Grigôrieva (1999), “Thiền trong thơ Haiku Nhật Bản”, Tạp chí văn 
học số 4, Hà Nội. 
56. Khƣơng Việt Hà (2004), “Thủ pháp tƣơng phản trong truyện “Ngƣời 
đẹp say ngủ” của Yasunari Kawabata”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà 
Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124  
57. Khƣơng Việt Hà (2005), “Các khuynh hƣớng phản tự nhiên chủ nghĩa 
trong văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX”, Nghiên cứu văn học số 8, Hà Nội. 
58. Khƣơng Việt Hà (2006), “Mỹ học Kawabata Yasunari”, Nghiên cứu văn 
học số 6, hà Nội. 
59. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển 
thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
60. Mai Đức Hán (2005), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lỗ Tấn (thời 
kì đầu), Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. 
61. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao một đời người, một đời văn, NXB Hà Nội. 
62. Đào Thị Thu Hằng (2005), “Yasunari Kawabata giữa dòng chảy Đông - 
Tây”, Tạp chí văn học số 7, Hà Nội. 
63. Đào Thị Thu Hằng (2005), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm của 
Yasunari Kawabata, Luận án tiến sĩ, Viện văn học, Hà Nội. 
64. Đào Thị Thu Hằng (2006), “Kiểu nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp trong 
tác phẩm của Yasunari Kawabata”, Nghiên cứu Đông Bắc á số 3, Hà Nội. 
65. Trần Thu Hằng (9/2/2005), “Truyện ngắn trong lòng bàn tay - cái nhìn 
thẩm mỹ trong suốt”, www.Evan.com. 
66. Sone Hiroyoshi (2000), “Nền văn học hiện đại Nhật Bản”, Văn học 
nước ngoài số 3, Hà Nội. 
67. Lê Từ Hiển (2005), “Basho và Huyền Quang sự gặp gỡ với mùa thu hay 
sự tƣơng hợp về cảm thức thẩm mỹ”, Tạp chí văn học số 7, Hà Nội. 
68. Lê Từ Hiển, Nguyễn Nguyệt Trinh (2005), “Vài nét về thơ Nhật Bản”, 
Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 1, Hà Nội. 
69. Hoàng Ngọc Hiến (1998), “Minh triết phƣơng Đông và phƣơng Tây”, 
Tạp chí văn học số 11, Hà Nội. 
70. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, NXB Văn 
học, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 125  
71. Đỗ Đức Hiểu (1992), “Hai không gian sống trong “Sống mòn”của Nam 
Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
72. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
73. Hồ Hoàng Hoa chủ biên (2001), Văn hoá Nhật những chặng đường phát 
triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
74. Nguyễn Thái Hoà (1999), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo 
dục, Hà Nội. 
75. Tô Hoài (1987), Hồi ức về Nam Cao, Hội văn nghệ Hà Nam Ninh. 
76. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô 
Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Thanh niên. 
77. Tô Đức Huy (1998), “Những cây bút tiểu thuyết trẻ Nhật Bản” Văn 
nghệ trẻ số 22, Hà Nội. 
78. I.P.Ilin và E.A.Tzugranova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các 
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX, Đào Tuấn 
ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
79. Shuichi Kato (2005), Lịch sử văn học Nhật Bản (tập 3), Trần Hải Yến 
dịch, tƣ liệu, Viện văn học, Hà Nội. 
80. Nguyễn Tuấn Khanh (1998), “Văn học Nhật Bản hiện đại từ Minh Trị 
đến nay”, Văn học Nhật Bản, Viện thông tin khoa học xã hội. 
81. Toàn Huệ Khanh (2005), “Nghiên cứu so sánh một tiểu thuyết truyền kì 
trong “Kim ngao tân thoại” (Hàn Quốc), “Truyền kì mạn lục” (Việt Nam) 
và “Tiễn đăng tân thoại” (Trung Quốc)”, Nghiên cứu văn học số 2, Hà Nội. 
82. Nguyễn Hoành Khung (1973), “Nam Cao”, Lịch sử văn học Việt Nam 
1930 - 1945 (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội. 
83. Nguyễn Hoành Khung (1998), “Đọc Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và 
chân dung”, Tạp chí văn học số 3. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 126  
84. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Văn học hiện thực phê phán Việt Nam”, 
Từ điển văn học (tập 2), NXB Khoa học xã hội . 
85. Cao Hành Kiện (2004) , “Vấn đề tính hiện đại trong văn học”, Văn học 
nước ngoài số 2, Hà Nội. 
86. N.I.Konrat (1997), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
87. N.I.Konrat (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ đại đến cận đại, NXB Đà 
Nẵng, Hà Nội. 
88. M.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển 
của văn học, NXB Tác phẩm mới. 
89. Milan Kundera, “Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết”, Trình Y Thƣ 
dịch, www.nhanvan.com. 
90. Lê Đình Kỵ (1964), “Nam Cao - con ngƣời và xã hội cũ”, Văn nghệ số 54. 
91. Lƣơng Thị Lan (2004), Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao, 
Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên. 
92. Nguyễn Thị Mai Liên, “Vị thiền trong thơ Haiku Nhật Bản”, Nghiên 
cứu văn học, Hà Nội. 
93. Nguyễn Thị Mai Liên, “Yasunari Kawabata - Lữ khách muôn đời đi tìm 
cái đẹp”, Nghiên cứu văn học. 
94. Nguyễn Thị Mai Liên (2005), Hình tƣợng con ngƣời - nạn nhân chiến 
tranh trong hai tiểu thuyết “Một nỗi đau riêng” (K.Oe) và “Nỗi buồn 
chiến tranh” (Bảo Ninh), Báo cáo dự hội thảo văn học Việt Nam sau 
1975, Hà Nội. 
95. Phong Lê (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
96. Phong Lê (1987), “Nam Cao - văn và đời”, Tuyển tập Nam Cao, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
97. Phong Lê (1997), Nam Cao phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 127  
98. Phong Lê (2004), “Trekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học”, Tạp 
chí văn học nước ngoài số 4, NXB Hội nhà văn Việt Nam. 
99. Phong Lê (2003), “Nam Cao nhìn từ cuối thế kỉ”, Nam Cao về tác gia 
và tác phẩm, NXB giáo dục, Hà Nội. 
100. Phong Lê (2003), “Đặc trƣng bút pháp hiện thực Nam Cao”, Nam Cao 
về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
101. Hà Văn Lƣỡng (2002), “Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản”, 
Nghiên cứu Nhật bản và Đông Bắc Á số 3. 
102. Hà Văn Lƣỡng (2002), “Dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở 
Việt Nam”, Nghiên cứu Nhật Bản. 
103. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, 
NXB Văn học. 
104. Phƣơng Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, NXB 
Văn học, Hà Nội. 
105. Nguyễn Đăng Mạnh (1984), “Khải luận”, Tổng hợp văn học Việt Nam 
(tập 30A), NXB Khoa học xã hội và NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh. 
106. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB 
Tác phẩm mới. 
107. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và 
phong cách, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 
108. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), “Nhớ Nam Cao và những bài học của 
ông”, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
109. Haruki Murakami (2005) “Murakami Haruki: Tôi tự tạo ra quy tắc” 
www.sacmauvanhoa.com 
110. Uyên Minh (1969), “Yếu tố Eros trong truyền thống văn học Nhật 
Bản”, Tạp chí văn học (miền Nam) số 90. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 128  
111. Hajime Nakamura (1998), Những phương thức tư duy phương Đông, 
tƣ liệu dịch (2001), NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội. 
112. Nhiều tác giả (1998), Văn học Nhật Bản, Viện thông tin khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
113. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử Nhật Bản, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 
114. Nhiều tác giả (2001), Văn học so sánh - Lý luận và ứng dụng, NXB 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
115. Nhiều tác giả (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
116. Nhiều tác giả (2001), Từ điển bách khoa văn học - Những thuật ngữ và 
khái niệm, NXB Hà Nội. 
117. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
118. N.I.Niculin (1968), “Nam Cao”, Từ điển bách khoa văn học giản yếu, 
NXB Từ điển bách khoa Liên Xô. 
119. N.I.Niculin (1974), “Nam Cao”, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, NXB 
Từ điển bách khoa Liên Xô. 
120. N.I.Niculin (1987), “Nam Cao”, Từ điển bách khoa văn học, NXB Từ 
điển bách khoa Liên Xô. 
121. Phạm Xuân Nguyên (2003), "Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa 
hiện thực mới", Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
122. Vƣơng Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới. 
123. Vƣơng Trí Nhàn (1992), “Những biến hoá của chất nghịch dị trong 
truyện ngắn Nam Cao”, Tạp chí văn học số 1. 
124. Đức Ninh chủ biên (2004), Từ điển văn học Đông Nam Á, NXB Khoa 
học xã hội . 
125. Hữu Ngọc (1992), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
126. Hữu Ngọc (1992), “Nghĩ về cấu trúc văn hoá Nhật Bản”, Văn nghệ, Hà 
Nội 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 129  
127. Hữu Ngọc (1991), “Cảm nghĩ về văn hoá Nhật Bản”, Tạp chí văn học 
số 4, Hà Nội. 
128. Oe Kenzaburo (1990), “Về nền văn học Nhật Bản cận đại và hiện đại”, 
Ngô Quang Vinh dịch (2004), www.evan.com. 
129. Oe Kenzaburo (2002) , “Giải mã mô hình của cái tôi về thế giới”, 
Những bậc thầy văn chương, NXB Văn học, Hà Nội. 
130. Trƣơng Hoàng Phúc (1998), “Những nhà văn hiện đại Nhật Bản”, Văn 
nghệ trẻ số 14, Hà Nội. 
131. G.N.Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Lao động, Hà Nội. 
132. Phan Diễm Phƣơng (1992), “Lối văn kể chuyện của Nam Cao”, Nghĩ 
tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
133. G.B.Sansom (1989), Lược sử văn hoá Nhật Bản (2 tập), NXB Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
134. Jean Paul Sartre (1991), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, NXB Hội 
nhà văn, Hà Nội. 
135. Nguyễn Xuân Sanh (1992), “Đôi điều về thơ Nhật Bản”, Tác phẩm mới số 
4. 
136. Nguyễn Văn Sĩ (1992), “Văn xuôi hiện đại Nhật Bản”, Văn nghệ số 4. 
137. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, 
NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
138. Vĩnh Sính (1969), “Vài nét về thơ Nhật Bản, I.Takuboku”, Tạp chí văn 
học (Miền Nam) số 90. 
139. Chu Văn Sơn (2003), “Nghệ thuật văn xuôi truyện ngắn Lão Hạc”, 
Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
140. Trần Minh Sơn (giới thiệu, tuyển chọn và dịch) (2004), “Văn học cần phải 
hƣớng tới ánh sáng (đối thoại văn chƣơng giữa Mạc Ngôn với K.Oe) ”, Phê 
bình văn học Trung Quốc đương đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 130  
141. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Tự sự học (Một số vấn đề lý luận và 
lịch sử), NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội. 
142. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, Bộ giáo 
dục và đào tạo, Vụ giáo dục. 
143. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục 
144. Trần Đình Sử chủ biên (2005), Văn học so sánh – nghiên cứu và triển 
vọng, NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội. 
145. Trần Đăng Suyền (2003) “Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân 
đạo chủ nghĩa lớn”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
146. Trần Đăng Suyền (2001), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
147. Hoàng Bích Thảo (2002), Một số đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết “Xứ 
tuyết” của Kawabata, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. 
148. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB 
Quân đội nhân dân. 
149. Nguyễn Đình Thi (1997), “Nam Cao”, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, 
NXB Văn học, Hà Nội. 
150. Cầm Thị Bích Thu (2005), “Sự gặp gỡ giữa Nam Cao và A.Sekhov 
trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật”, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ 
phạm Thái Nguyên 
151. Bích Thu (2007), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
152. Bích Thu (2007), “Sức sống của một sự nghiệp văn chƣơng trong văn 
Nam Cao”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
153. Phan Trọng Thƣởng (2007), “Tìm hiểu một chữ “nhƣng” trong văn 
Nam Cao”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
154. Trần Thị Thanh Thuỷ (2006), Nghệ thuật tự sự trong “41 truyện tầm 
phào” của Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 131  
155. Ngô Minh Thuỷ, Ngô Tự Lập (2003), Nhật Bản - đất nước, con ngừơi, 
văn học, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 
156. Lộc Phƣơng Thuỷ (2005), “Jean - Paul Sartre và phê bình hiện sinh”, 
Nghiên cứu văn học số 8. 
157. Lộc Phƣơng Thuỷ (2005), Tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, truyền thống và 
cách tân, NXB Văn học Hà Nội. 
158. Lộc Phƣơng thuỷ (2005), Quan niệm văn chương Pháp thế kỉ XX, NXB 
Văn học Hà Nội. 
159. Trần Thị Việt Trung (1992), “Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác 
của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
160. Lƣu Đức Trung (1997), Yasunarri Kawabata cuộc đời và tác phẩm, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
161. Lƣu Đức Trung (1999), “Thi pháp tiểu thuyết của Yasunari Kawabata 
nhà văn lớn Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 9. 
162. Lƣu Đức Trung (2003), Bước vào vườn hoa văn học châu Á, NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
163. Lê Văn Trƣơng (2003), “Tựa “Đôi lứa xứng đôi”, Nam Cao về tác gia 
và tác phẩm”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
164. Hoàng Ngọc Thuấn (1998), “Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỉ 
XX”, Tạp chí Việt 3. 
165. A.R.Veselovki (1999), Thi pháp lịch sử, NXB. 
166. Borix Xuskov (1980), Số phận của chủ nghĩa hiện thực, NXB Tác phẩm 
mới. 
167. Kawabata Yasunari (2001), Tuyển tập Y. Kawabata, NXB Hội nhà văn, 
Hà Nội. 
168. Trần Hải Yến (1999), “Một số nét đặc trƣng của văn học Nhật Bản”, 
Nghiên cứu Nhật Bản số 4. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nam cao (việt nam)và ruinôxkê akutagawa(nhật bản).pdf So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nam cao (việt nam)và ruinôxkê akutagawa(nhật bản).pdf