Thu thập tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam

Thu thập tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam. I - MỞ ĐẦU Hiện nay chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều biến đổi lớn: khí hậu biến đổi, nhiệt độ trái đất đang nóng lên, mực nước biển đang dâng lên, dân số tăng nhanh, sự xâm nhập của các loài ngoại lai ngày càng nhiều, các sinh cảnh đang bị co hẹp lại và phân cách nhau, tốc độ mất mát các loài ngày càng gia tăng, sức ép của công nghiệp hoá và thương mại toàn cầu ngày càng lớn, trao đổi thông tin ngày càng rộng rãi, nhanh chóng, thuận lợi. Tất cả những thay đổi đó đang ảnh hưởng lớn đến công cuộc phát triển của tất cả các nước trên thế giới và cả nước ta, trong đó có việc làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Biến đổi toàn cầu gồm có nhiều lĩnh vực: lý sinh học, khí hậu, kinh tế, xã hội, dân số, thể chế, thông tin, văn hoá, v.v ? đây em muốn nói về một số khía cạnh của biến đổi toàn cầu mà phần chính là do các hoạt động của con người gây ra và có liên quan nhiều đến môi trường thiên nhiên và nguồn tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta đang khai thác để tồn tại và phát triển. Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đai. Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn Qua bài tiểu luận này em xin đưa ra một số vấn đề về biến đổi khí hậu toàn cầu và qua đó chỉ ra ảnh hưởng của BĐKH đến suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam.

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8462 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu thập tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thu thập tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam. I - MỞ ĐẦU Hiện nay chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều biến đổi lớn: khí hậu biến đổi, nhiệt độ trái đất đang nóng lên, mực nước biển đang dâng lên, dân số tăng nhanh, sự xâm nhập của các loài ngoại lai ngày càng nhiều, các sinh cảnh đang bị co hẹp lại và phân cách nhau, tốc độ mất mát các loài ngày càng gia tăng, sức ép của công nghiệp hoá và thương mại toàn cầu ngày càng lớn, trao đổi thông tin ngày càng rộng rãi, nhanh chóng, thuận lợi. Tất cả những thay đổi đó đang ảnh hưởng lớn đến công cuộc phát triển của tất cả các nước trên thế giới và cả nước ta, trong đó có việc làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Biến đổi toàn cầu gồm có nhiều lĩnh vực: lý sinh học, khí hậu, kinh tế, xã hội, dân số, thể chế, thông tin, văn hoá, v.v… ? đây em muốn nói về một số khía cạnh của biến đổi toàn cầu mà phần chính là do các hoạt động của con người gây ra và có liên quan nhiều đến môi trường thiên nhiên và nguồn tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta đang khai thác để tồn tại và phát triển. Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đai. Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn.. Qua bài tiểu luận này em xin đưa ra một số vấn đề về biến đổi khí hậu toàn cầu và qua đó chỉ ra ảnh hưởng của BĐKH đến suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam. II – ĐẶT VẤN ĐỀ Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây. Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990) Năm Nhiệt độ tăng thêm(0C) Mực nước biển tăng thêm (cm) 2010 0,3-0,5 9 2050 1,1-1,8 33 2100 1,5-2,5 45 Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Chú ý rằng số liệu trên chưa tính đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ địa chất địa phương Bảng 2.Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990) Năm Tây Bắc Đông Bắc Đồng bằng BB Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây nguyên Nam Bộ 2050 1,41 1,66 1,44 1,68 1,13 1,01 1,21 2100 3,49 4,38 3,71 3,88 2,77 2,39 2,80 Nguồn:Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1]. Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990 Kịch bản / năm 2050 2100 A1F1 13,7 39,7 A2 12,5 33,1 A1B 13,3 31,5 B2 12,8 28,8 A1T 12,7 27,9 B1 13,4 26,9 Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, 2008 [1] chú ý số liệu chưa tính đến biên độ sụt hạ địa chất địa phương Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt đô có khả năng tăng thêm 2,80C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương.IPCC cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm [2]. Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm- tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC. Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam: Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4,0 đến 4,50C theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,20C theo kịch bản thấp nhất Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của IPCC năm 2007 BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên. Một trong những nguyên nhân nóng lên toàn cầu là do con người khai thác tài nguyên rừng bừa bãi không hợp lý, không có quy hoạch. Việt Nam là một nước có ¾ diện tích là đồi núi chính vì thế tài nguyên thiên nhiên phong phú nổi bật là tài nguyên rừng. Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay nguồn tài nguyên rừng đang bị đe dọa nghiêm trọng, ở nước ta hiện nay diện tích rừng đang bị thu hẹp do rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do ý thức của con người. Nạn chặt phá rừng tràn lan làm nguồn tài nguyên rừng bị suy thoái, hiện tượng sa mạc hóa xảy ra ở nhiều nơi với nhiều mức độ khác nhau. Tình trạng đó tạo ra hàng loạt tác động tiêu cực tới môi trường như hạn hán, lũ lụt ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người ảnh hưởng tới nền kinh tế xã hội. Ngoài ra nó còn phá vỡ cân bằng hệ sinh thái làm môi trường biến đổi sâu xa và lâu dài. Hiểu rõ về hiện trạng rừng ở Việt nam tìm ra các biện pháp bảo vệ và ngăn chặn suy thoái tài nguyên rừng đang là vấn đề cấp thiết cần được giải quyết. Ở nước ta trong thời kì 1943-1995 diện tích rừng bị giảm mạnh từ 43% xuống còn 28,2% do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, tình trạng du canh phá rừng làm nương rẫy. Trong những năm gần đây diện tích rừng đã không ngừng tăng trở lại (năm 2006 dự báo độ che phủ của rừng khoảng 38 %, trong khi đầu những năm 90 chỉ còn khoảng 27-28 %) Tài nguyên rừng bị suy thoái do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu kể đến các nguyên nhân tiêu biểu sau đóng vai trò chính của việc góp phần làm suy thoái tài nguyên rừng Việt Nam. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất: Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế kéo theo là nền công nghiệp hóa hiện đại hóa với nghiều khu công nghiệp với nhu cầu về đất sử dụng cho mục đích dân sinh và công nghiệp ngày càng tăng làm ảnh hưởng không nhỏ tới diện tích đất rừng… Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Đặc biệt rừng ngập mặn ở Nam Bộ là những căn cứ kháng chiến vững chắc, nơi cất giấu vũ khí chuyển từ miền Bắc vào trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền, nên hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Rừng ngập mặn là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển, hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng. Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép: Rừng cho chúng ta nhiều tài nguyên quý giá, nguồn lợi thu từ rừng rất lớn…Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Cháy rừng: Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy. Đói nghèo: Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên quá mức làm tăng tình trạng khan hiếm và suy thoái. Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên Đất nông nghiệp ở nhiều nơi thiếu nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì nghèo, không có đất sản xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá để rừng nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy hoạt động ấy mang tính nhỏ lẻ, manh múm, không ồ ạt nhưng lại được lặp đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên rất khó quản lý và gây nên tình trạng cạn kiệt dần của tài nguyên rừng. Suy thái tài nguyên rừng mang lại hậu quả nghiêm trọng cho chính con người . Tác động điển hình của suy thoái tài nguyên rừng là biến đổi khí hậu, gây lụt lội hạn hán xói mòn, sa mạc hóa đất . Rừng bị tàn phá tài nguyên đất không được che phủ bị rửa trôi chất màu mỡ sau một thời gian sẽ trở nên khô căn và hoang hoa. Mặt khác rừng đầu nguồn bị tàn phá làm tăng nguy cơ lụt lội , các trận lũ ống lũ quét xảy ra nhiều hơn mức độ ngày càng nghiệm trọng. Trận lụt lịch sử năm 2010 ở miền trung chính là điển hỉnh cho hâu quả của việc phá rừng đầu nguồn. Trước tình trạng như hiện nay thiết nghĩ chúng ta phải có những biện thiết thực pháp khắc phục tình trạng suy thoái tài nguyên rừng. Không chỉ riêng ở Việt Nam mà năm châu bốn bể, quốc gia nào cũng có chương trình "Gia tăng, bảo vệ và duy trì rừng" hay "Chương trình lá phổi xanh", nhất là khi tàn phá rừng bừa bãi đang diễn ra khắp nơi và trở thành vấn nạn. Sau đây là một số giải pháp nhằm khắc phục tài nguyên rừng:    - Thông qua nhiều hình thức, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng và trong đội ngũ cán bộ công chức trong tỉnh, đặc biệt là lực lượng đoàn viên thanh niên. - Củng cố, duy trì thường xuyên hoạt động của các đoàn truy quét thực hiện Chỉ thị số 12/2003/CT-TTg, Chỉ thị số 08/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ở các huyện có rừng. Xác định những khu vực trọng điểm để có biện pháp thực hiện quyết liệt, chặn đứng tình trạng phá rừng trái pháp luật, lập lại trật tự kỷ cương. - Tăng cường công tác quản lý nhân, hộ khẩu ở địa phương cơ sở. Phân loại, nắm bắt các đối tượng cầm đầu để có biện pháp xử lý, răn đe thích hợp. - Xử lý kịp thời và nghiêm minh các vụ vi phạm về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Kiên quyết đưa ra truy tố những đối tượng cầm đầu, chống người thi hành công vụ; đồng thời kiểm điểm trách nhiệm đối với chủ rừng, UBND các cấp, các ngành chức năng thiếu trách nhiệm để rừng bị phá. Tổ chức giải quyết tốt các khiếu nại tố cáo đúng theo trình tự Luật Khiếu nại tố cáo. - Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các ngành, các cấp trong quản lý, bảo vệ rừng tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng. - Rà soát Quy hoạch 3 loại rừng; xây dựng và thực hiện Quy hoạch bảo vệ, phát triển rừng giai đoạn 2010 – 2020 và kế hoạch sử dụng đất chi tiết giai đoạn 2010 – 2015 trên địa bàn tỉnh. - Giải quyết đất ở, đất sản xuất và giao khoán đất để trồng rừng, khoán bảo vệ rừng nhằm ổn định đời sống đồng bào dân tộc tại chỗ, người nghèo thiếu đất, không có đất sản xuất và các đối tượng đã bị thu hồi đất thật sự không có đất ở và sản xuất. Đẩy nhanh tiến độ giao khoán theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 8/11/2005 đối với những đơn vị đã nhận đất lâm nghiệp sau thu hồi. - Triển khai những biện pháp như: ưu tiên sử dụng nguồn lao động tại chỗ; các chính sách của Nhà nước về vay vốn ưu đãi, về khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn, hỗ trợ cây trồng, con giống, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nhằm tạo công ăn, việc làm, giúp đồng bào ổn định, cải thiện cuộc sống, bảo đảm cho người dân sống ven rừng, gần rừng có đời sống được cải thiện và yên tâm gắn bó với rừng, giảm sức ép về chặt phá rừng và gây cháy rừng. - Thanh, kiểm tra giao khoán sử dụng rừng và đất rừng; rà soát, chấn chỉnh lập lại trật tự trong sử dụng đất lâm nghiệp, nhất là việc sử dụng đất lâm nghiệp sau thu hồi; chấn chỉnh công tác quản lý, lưu giữ, hồ sơ, thủ tục trình tự giao khoán rừng và đất lâm nghiệp. Biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng và có tác động trực tiếp đến tài nguyên nước (TNN). Nước ta có đặc điểm địa lý kéo dài theo phương kinh tuyến, địa hình bị chia cắt mạnh đã tác động trực tiếp tới sự ảnh hưởng của các chế độ gió mùa, là nguyên nhân gây ra sự phân bố rất không đồng đều về TNN theo thời gian và không gian. Hàng năm lượng nước tập trung trong 3-4 tháng mùa mưa chiếm tới 70-75%, chỉ riêng một tháng cao điểm trong mùa mưa có thể chiếm tới 30%. Trong khi về mùa khô, lượng nước chỉ chiếm 25-30%. Chính sự phân bố không đều này là nguyên nhân gây ra lũ, úng, lụt và các đợt hạn hán nghiêm trọng. Thiên tai, lũ lụt, bão, úng ngập, hạn hán, chua phèn, xâm nhập mặn thường xuyên là mối đe doạ đối với sản xuất và đời sống dân cư nhiều vùng của nước ta. Do vậy, việc điều hoà phân phối nguồn nước, khai thác mặt lợi của nước và giảm thiểu tác hại do nước gây ra cần phải được quản lý thống nhất theo lưu vực sông (LVS). Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề suy thoái TNN lưu vực sông diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Suy thoái TNN trên LVS được biểu hiện ơ sự suy giảm sút về số lượng và đặc biệt là chất lượng. Trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức TNN, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước; việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước, cho nên suy thoái TNN đã trở thành khá phổ biến đối với các LVS, vì vậy Việt Nam được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có TNN suy thoái. Trước yêu cầu sử dụng nước còn tiếp tục gia tăng trong khi tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt và suy thoái, cần phân tích rõ các nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân về quản lý để có các giải pháp ngăn chặn và giảm thiểu suy thoái đang phát triển nghiêm trọng này. * Nguyên nhân suy thoái Tài nguyên Nước LVS ở Việt Nam: - Do sự gia tăng dân số quá nhanh - Do khai thác quá mức TNN và các tài nguyên liên quan đến nước như đất, rừng khiến TNN bị suy kiệt. Ngoài ra, các hồ thuỷ điện lớn khi vận hành chỉ nhằm phục vụ cho phát điện cũng gây cạn kiệt dòng chảy cho hạ lưu. Mực nước của một số sông, như sông Hồng những năm gần đây xuống thấp ngoài nguyên nhân suy giảm lượng mưa còn do việc vận hành của các hồ Hoà Bình và các hồ loại vừa và lớn ở thượng nguồn thuộc đất Trung Quốc. Việc Trung Quốc đã và sẽ xây dựng các đập lớn trên thượng nguồn sông Đà như đập Long Mạ cao 140m, đập Japudu cao 95m, đập Gelanta cao 113m với mục đích chính là phát điện thì ngay cả thuỷ điện Sơn La và Hoà Bình cũng bị ảnh hưởng do chế độ vận hành của các hồ này…, và các đập ở thượng nguồn sông Cửu Long, sẽ gây ảnh hưởng tới chế độ thuỷ văn, cũng như sự bồi lắng của đồng bằng sông Cửu Long… không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới điều kiện tự nhiên mà còn ảnh hưởng tới các mặt kinh tế - xã hội. - Do chưa kiểm soát được các nguồn thải và chưa quan tâm đầu tư thoả đáng cho các hệ thống thu gom, xử lý các chất thải lỏng, thải rắn. Tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá, làng nghề thủ công ngày càng mở rộng, lượng chất thải rắn, thải lỏng chưa kiểm soát được thải vào nguồn nước sẽ gây ô nhiễm suy thoái nhanh các nguồn nước mặt, nước dưới đất, làm gia tăng tình trạng thiếu nước và ô nhiễm nước, nhất là về mùa khô, điển hình nhất là ở sông Nhuệ, sông Thị Vải… - Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Khí hậu toàn cầu đang nóng lên đã và sẽ tác động nhiều đến TNN. Nhiều dự báo trên thế giới và ở trong nước đã cho thấy khi nhiệt độ không khí tăng bình quân 1,50 thì tổng lượng dòng chảy có thể giảm khoảng 5%. Ngoài ra, khi trái đất nóng lên, băng tan nhiều hơn sẽ làm nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn ở những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bố trên các sông chảy ra biển sẽ bị thu hẹp lại. Tất cả những điều đó sẽ làm suy thoái thêm nguồn nước khiến không có đủ nguồn nước ngọt để phục vụ cho sản xuất đời sống. - Do những nguyên nhân về quản lý: Về tổ chức: nguyên nhân khách quan là do còn gặp nhiều khó khăn về tổ chức quản lý TNN, quản lý LVS ở cấp Bộ và tổ chức có hiệu lực ở cấp LVS để quản lý TNN. Về quy hoạch: trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã đầu tư nhiều kinh phí cho các Bộ, ngành làm quy hoạch. Nhưng do nội dung lập quy hoạch và sự phối hợp giữa các ngành trên LVS chưa gắn bó, nên quy hoạch của các ngành còn nặng về khai thác phục vụ riêng cho chuyên ngành của mình, do vậy cần thiết cần có quy hoạch tổng hợp LVS  trong đó có quy hoạch bảo vệ TNN, quy hoạch thoát và xử lý nước thải, các chất thải rắn cho các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề thủ công làm cơ sở cho việc quản lý và đưa quy hoạch bảo vệ này vào kế hoạch thực hiện hàng năm như là thực hiện quy hoạch phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện, cấp nước đô thị, công nghiệp…. * Giải pháp giảm thiểu suy thoái tài nguyên nước trên lưu vực sông Để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn TNN, giảm thiểu khó khăn về suy thoái TNN cho các LVS, trong đó Chiến lược TNN của mình, các quốc gia đều coi trọng các biện pháp công trình và phi công trình. Biện pháp công trình Xây dựng các hồ chứa thượng lưu để điều tiết nguồn nước vận hành theo quy trình hợp lý đồng thời xây dựng các công trình khai thác lấy nước mặt, nước dưới đất ở trung lưu và hạ lưu các LVS nhằm đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng nước và duy trì dòng chảy môi trường; trong điều kiện cần thiết và cho phép thì còn phải xây dựng các công trình chuyển nước lưu vực để giải quyết cho những vùng khan hiếm nước mà các nguồn nước trong lưu vực không đáp ứng được. Đến nay trên toàn thế giới, các hồ chứa có tổng dung tích điều tiết được 6.000 tỷ m3, chiếm 14% tổng lượng dòng chảy. Ở Việt Nam tổng dung tích điều tiết của hồ chứa đã và đang xây dựng cho đến nay đạt gần 30 tỷ m3, chiếm 9% tổng lượng dòng chảy nội địa. Phát triển các hệ thống thu gom và xử lý các loại chất thải. Đối với sông nội đô cần tăng cường nạo vét, làm cống hộp lớn để chuyển tải và dẫn thêm nguồn nước sạch ở sông hồ vào nhằm pha loãng và đẩy nguồn nước bẩn này đến những trạm xử lý; đẩy mạnh việc xây dựng các trạm xử lý nước tải và chất thải rắn tập trung và phân tán. Đẩy mạnh trồng rừng, nâng cao độ che phủ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất nhằm điều hoà nguồn nước, giảm lũ, tăng lưu lượng mùa kiệt. Biện pháp phi công trình Tại Hội nghị Thượng đỉnh Jonhannesburg - Nam Phi 2002, nước đã được xếp vị trí hàng đầu trong phát triển. Liên hợp Quốc lấy ngày 22-3 hàng năm là ngày quốc tế về nước để mọi người và các cơ quan chức năng nâng cao nhận thức và trách nhiệm đối với việc quản lý bảo vệ và phát triển bền vững nguồn TNN. Công tác quản lý TNN ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được nhiều tiến bộ, tuy nhiên do tính chất phức tạp và mới mẻ nên đang được tiếp tục hoàn thiện. Về tổ chức: Giữa tháng 3/2007, Chính phủ đã quyết định hợp nhất nhiệm vụ quản lý LVS vào chức năng quản lý TNN. Đây cũng là xu thế tổ chức của Thế giới và các nước ASEAN trong việc tách quản lý ra khỏi sử dụng, gắn việc quản lý số lượng với chất lượng, gắn quản lý nước mặt với nước dưới đất. Trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN cũng như LVS thuộc về Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng vẫn cần phải có sự phối hợp liên ngành nhất là các ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngành điện cấp thoát nước, thuỷ sản với ngành tài nguyên và môi trường. Về quy hoạch: Hiện nay, quy hoạch thuỷ lợi, thuỷ điện, cấp nước…đã được Bộ NN&PTNT, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng…và các Bộ liên quan xây dựng, đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Để quản lý tổng hợp LVS, cần sớm hoàn chỉnh và trình duyệt chính thức quy hoạch các LVS trọng điểm bao gồm quy hoạch phát triển và quy hoạch bảo vệ nhằm hài hoà lợi ích giữa thượng lưu, hạ lưu, giữa các đôi tượng sử dụng nước để việc sử dụng được tiết kiệm, đạt hiệu quả và bền vững. Trước thực trạng suy thoái TNN ở LVS đang gia tăng thì quy hoạch bảo vệ càng phải được coi trọng và cần được đầu tư thực hiện quy hoạch bảo vệ với tỷ trọng thảo dáng so vơi tổng nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển. Việc quản lý thực hiện quy hoạch tổng hợp LVS ngoài ngành chủ quản thì các ngành khai thác sử dụng nước và các địa phương liên quan đều có nhiệm vụ tham gia với tinh thần cộng tác vì mục tiêu phát triển bền vững. Về các văn bản và chính sách: Các Bộ, ngành chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện các văn bản liên quan đến quản lý của ngành mình. Riêng về chính sách phí ô nhiễm, cần có lộ trình nâng dần càng sớm càng tốt để tạo nguồn kinh phí cho xử lý nước. Về thuế TNN ở Việt Nam cũng cần đánh giá lại mức thu cho phù hợp. Về sử dụng tiết kiệm nguồn TNN: Đối với một số LVS gặp khó khăn về TNN: Cần xây dựng mục tiêu sử dụng nước tiết kiệm trong tất cả các đối tượng sử dụng nước nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, dịch vụ…sao cho có hiệu quả hơn. Đối với việc tiết kiệm nước trong nông nghiệp: Kinh nghiệm chỉ đạo của Cục quản lý Tưới tiêu và Cấp nước nông thôn ở Trung Quốc cho thấy: trong chương trình hoàn chỉnh và hiện đại hoá các hệ thống thuỷ nông ở Trung Quốc đã tăng thêm được 6,67 triệu ha, được tưới và tiết kiệm hàng năm được 20 tỷ m3 nước. Ở Việt Nam nếu thực hiện theo chương trình này thì có thể sẽ nâng cao thêm được diện tích tưới tiêu và tiết kiệm được rất nhiều nước. Các ngành sử dụng nước khác nhau cũng cần có chương trình sử dụng nước tiết kiệm. Riêng đối với thuỷ điện, cần có quy trình vận hành hợp lý để vừa đảm bảo yêu cầu ngành điện và phục vụ các yêu cầu sử dụng nước ở hạ lưu cũng như duy trì động thái của dòng chảy. III - KẾT LUẬN Trọng thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá như hiện nay. Nền kinh tế đang có xu hướng toàn cầu hoá và phát triển hơn. Nhưng bên cạnh đó là những tác động, ảnh hưởng không tốt đến tài nguyên thiên nhiên như sự suy giảm các nguồn tài nguyên rừng, nước như em đã trình bày ở trên. Điều nãy đã đặt ra thách thức cho các nhà quản lý, những nhà lãnh đạo tương lai làm thế nào để phát triển bền vững và an toàn. Bên cạnh đó ta phải tuyên truyền nâng cao hiểu biết về biến đổi khí hậu cho người dân để họ hiểu được hậu quả của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không bền vững và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống quan ta. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Khắc Hiếu. Tổng quan về các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu và kết quả Hội nghị Liên Hợp Quốc về BĐKH ở Bali.Báo cáo tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và ứng phó của Việt Nam. Hà Nội 26-29/2/2008 2. IPCC, 2007. The 4th assessement report of the Intergovernmental Panel on 3. 4.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu thập tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt.doc
Luận văn liên quan