Báo cáo Đánh giá việc thi hành luật phòng, chống HIV/AIDS về công tác can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV tại 05 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ 1. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV Trong giai đoạn tới, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau: 1.1. Chính thức hóa và cụ thể hóa các quy định về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trong Luật phòng, chống HIV/AIDS để tạo hành lang pháp lý mạnh hơn cho việc tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV mà cụ thể là cần bổ sung một chương riêng quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, trong đó cần tập trung làm rõ một số nội dung sau:

pdf88 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá việc thi hành luật phòng, chống HIV/AIDS về công tác can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV tại 05 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác điều trị thay thế. Theo thống kê, có ít nhất 40% số người nghiện ma túy đang được điều trị thay thế tại các cơ sở điều trị Methadone là người nhiễm HIV (cá biệt một số cơ sở điều trị Methadone của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có tới 50-70% bệnh nhân là bệnh nhân AIDS đang điều trị thuốc kháng vi rút (ARV)); đồng thời có một tỷ lệ khá lớn số lượng người nghiện chích ma túy hiện đang điều trị tại các cơ sở Methadone đồng nhiễm viêm gan C (có cơ sở lên tới 97,5%). Mặc dù công tác trong điều kiện làm việc có mức độ rủi ro cao, độc hại, nhưng các cán bộ đang công tác tại các cơ sở điều trị thay thế (điều trị Methadone) chưa được hưởng bất kể chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nào, trong khi các công chức, viên chức công tác trong lĩnh vực xét nghiệm, khám, điều trị, chăm sóc người bệnh HIV/AIDS, lao, tâm thần tại các cơ sở y tế công lập đã được hưởng các chế độ phụ cấp ưu đãi theo quy định tại Nghị định của Chính phủ số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/07/2011 quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập. 2.4. Về kỹ thuật xây dựng văn bản Kỹ thuật xây dựng văn bản là một vấn đề rộng lớn, phúc tạp bao gồm tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm và hệ thống hoá pháp luật. Việc tuân thủ các phương pháp, phương tiện này nhằm bảo đảm cho pháp luật có đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Quá trình xây dựng văn bản không đơn thuần là kết cấu, câu chữ, hình thức văn bản mà chính là quá trình từ phương pháp phát hiện các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, điều tra, khảo sát, xác định các mục tiêu, các nguyên tắc, đến việc chọn hình thức thể hiện, sử dụng ngôn ngữ pháp luật tính cô đọng, lôgic, chính xác và một nghĩa, xây dựng các quy phạm, các chế định và dự thảo văn bản trên thực tế, thẩm tra văn bản... 56 Từ cách tiếp cận này, qua rà soát cho thấy: Hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV còn một số vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất đó việc chưa thống nhất trong việc sử dụng cụm từ "người nghiện chất dạng thuốc phiện" và "người nghiện ma túy". Sự không thống nhất này dẫn đến khó xác định một cách cụ thể các chủ thể khi áp dụng các quy định của pháp luật, ví dụ nếu là người nghiện chất dạng thuốc phiện thì có phải áp dụng quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy hay không và ngược lại? Thứ hai đó là về khái niệm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh. Nếu xét theo khái niệm của Luật khám bệnh, chữa bệnh thì các cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế sẽ là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Tuy nhiên, nếu áp dụng các quy định của luật khám bệnh, chữa bệnh thì sẽ khó khăn cho việc hoạt động của các cơ sở này vì các lý do: (1) không xác định được mô hình tổ chức là bệnh viện, phòng khám đa khoa hay chuyên khoa; (2) không thể tổ chức được việc cung cấp thuốc tại chỗ nếu không phải là bệnh viện nhưng nếu tổ chức theo mô hình bệnh viện thì lại không thể tổ chức được vì thiếu nhiều điều kiện và cũng không phù hợp với thực tiễn của hoạt động điều trị thay thế; (3) không có đủ người hành nghề có chứng chỉ hành nghề chuyên khoa tâm thần như quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Thứ ba, nhiều văn bản trong hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV là văn bản đơn hành nên giá trị pháp lý không cao và gây khó khăn khi muốn áp dụng các văn bản này cho các chủ thể pháp luật khác. Ví dụ, quy định về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân sự của cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng methadone chỉ áp dụng đối với các cơ sở thuộc Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh nên không thể áp dụng cho các cơ sở thuộc các tỉnh, thành phố khác. 57 BÀN LUẬN 1. Ưu điểm: Qua công tác hệ thống hoá pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cho thấy hiện nay có 26 văn bản trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV. Những ưu điểm của các văn bản này là: a) Hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV luôn luôn gắn với các chính sách, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ đã thể hiện rõ nét nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS đều được Nhà nước thể chế hoá bằng pháp luật và được tổ chức thực thi trong cuộc sống. b) Hệ thống pháp luật về phòng chống HIV/AIDS đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như tính ổn định, phù hợp tuy chưa cao nhưng bước đầu đã tạo được hành lang pháp lý cho các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV góp phần từng bước ngăn chặn và đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam. 2. Tồn tại: Bên cạnh những ưu điểm trên, hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV vẫn còn những mặt tồn tại cần khắc phục để hoàn thiện như: 1. Hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV không nằm ngoài hệ thống pháp luật Việt Nam nên đều có hạn chế chung là luật, pháp luật phần lớn đều quy định về nguyên tắc, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành làm cho hiệu lực tức thì của luật, pháp lệnh chưa thực hiện được. 2. Các văn bản qui phạm pháp luật được ban hành kịp thời để điều chỉnh các vấn đề mới nảy sinh đã giúp cho công tác quản lý ngành tốt hơn nhưng tính dự báo chưa cao nên sau một thời gian thực hiện đã nảy sinh một 58 số bất cập nhất định cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. 3. Thực trạng tổ chức triển khai các quy định của pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV 3.1. Đánh giá công tác thông tin, giáo dục, truyền thông Các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm đã được triển khai trên diện rộng với sự tham gia của các bộ, ban ngành, đoàn thể, bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú. Dưới đây là kết quả các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông được triển khai trong những năm qua. 3.1.1. Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cho cán bộ, công chức, viên chức: Ngay sau khi các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS được ban hành, đặc biệt là Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), trên cơ sở các hướng dẫn về phổ biến, giáo dục pháp luật, ngành y tế đã tổ chức nhiều hội nghị phổ biến cho đối tượng là các cán bộ, nhân viên của ngành y tế cũng như các bộ, ngành có liên quan khác như công an, lao động - thương binh và xã hội... Bên cạnh việc tổ chức các hội nghị phổ biến văn bản quy phạm pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự 59 "Chúng tôi đã tiến hành hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông pháp luật về can thiệp giảm tác hại với nhiều hình thức từ hội nghị phổ biến đến lồng ghép việc phổ biến nội dung các văn bản trong các lớp tập huấn - PVS Lãnh đạo Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Hải Phòng" phòng lây nhiễm HIV cho các cán bộ, công chức, viên chức còn được thực hiện thông qua hình thức sao gửi văn bản. Tuy nhiên, do việc phổ biến nội dung cụ thể của các văn bản quy phạm pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV mới chỉ chủ yếu áp dụng đối với các văn bản có hình thức ban hành là luật, nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ còn các văn bản khác thì chỉ được sao gửi đến các Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị trực thuộc Bộ chứ ít khi có không hướng dẫn triển khai cụ thể nên về đến các cơ quan, đơn vị trên, lãnh đạo lại gửi cho các bộ phận liên quan, còn các bộ phận khác lại không biết hoặc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chỉ thông báo trong các buổi giao ban hàng tuần và hội nghị sơ kết, tổng kết 06 tháng, cuối năm nên hiệu quả không cao. Bên cạnh đó, do việc phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật về can thiệp giảm tác hại chưa được coi trọng đúng mức nên cũng đã ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức triển khai các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về can thiệp giảm tác hại cho cộng đồng, mà cụ thể là do chưa có hiểu 60 "Tất cả các văn bản về can thiệp giảm tác hại đều được sao gửi cho các đơn vị - PVS Lãnh đạo Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Sơn La, Nghệ An, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng" "Thú thật là văn bản nhiều quá nên nhiều lúc chỉ đọc qua nội dung rồi sao cho anh em để nghiên cứu triển khai chứ cũng không phổ biến cụ thể - PVS Lãnh đạo Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Kiên Giang" "Cũng có nghe nói là có văn bản quy định ưu tiên về truyền thông trên truyền hình và phát thanh nhưng do đó là nhiệm vụ của phòng truyền thông nên chúng tôi chỉ thực hiện việc cung cấp nội dung còn tổ chức thực hiện thì do phòng truyền thông triển khai cụ thể- PVS Lãnh đạo phòng can thiệp - Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Sơn La" biết sâu về các quy định của pháp luật liên quan đến can thiệp giảm tác hại nên việc xây dựng các thông điệp truyền thông chủ yếu tập trung vào các biện pháp can thiệp chứ ít tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của công dân liên quan đến vấn đề này. 3.1.2. Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cho cộng đồng Trên cơ sở các quy định của pháp luật, các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV đã được triển khai trên diện rộng với sự tham gia của các bộ, ban ngành, đoàn thể, bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú. Dưới đây là kết quả các hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV được triển khai trong những năm qua. 3.1.2.1. Hoạt động truyền thông trực tiếp: Truyền thông trực tiếp trên các nhóm đối tượng có nguy cơ vẫn là hoạt động chính của truyền thông về can thiệp gảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV. Hoạt động truyền thông trực tiếp có thể được lồng ghép với các hoạt động can thiệp giảm tác hại do các cộng tác viên hoặc tuyên truyền viên đồng đẳng cho nhóm nguy cơ cao thực hiện qua hoạt động phân phát bơm kim tiêm và bao cao su hoặc truyền thông trực tiếp lồng ghép vào các chiến dịch truyền thông trên địa bàn hoặc hoạt động truyền thông định kỳ thông qua các câu lạc bộ đồng đẳng, những người đồng cảm, ban ngành đoàn thể. Bên cạnh đó, hình thức truyền thông trực tiếp đến tận từng nhà dân kết hợp với cấp phát tài liệu truyền thông cũng được thực hiện, đặc biệt là đi thăm hộ gia đình có người nghiện chích ma túy hoặc người nhiễm HIV. 61 "Nội dung truyền thông chủ yếu là về các biện pháp can thiệp như cách sử dụng bao cao su, tác dụng của việc sử dụng BKT sạch - TLN với cán bộ phòng can thiệp Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Kiên Giang" Bảng 5. Số lượt người được tiếp cận thông tin giáo dục truyền thông về can thiệp giảm hại qua các năm. T T Đối tượng truyền thông Số lượt người được tiếp cận hằng năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 1 Người NCMT 13778 14490 23513 73159 89007 200033 2 Phụ nữ mại dâm và tiếp viên nhà hàng 7989 37127 20169 41587 60591 76334 3 Người quan hệ tình dục đồng giới nam 71 343 1249 2023 2942 3986 4 Người nhiễmHIV 4051 7631 10772 18963 21653 27378 5 Thành viên gia đình người nhiễm HIV 4467 5083 10014 13781 18525 27377 6 Các đối tượng khác (nhóm di biến động, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ...) 166007 215604 275140 303638 471259 505568 Tổng 198370 282286 342866 455161 665988 842688 (Nguồn: Báo cáo hoạt động hằng năm của các tỉnh được điều tra) Số lượt người được truyền thông trực tiếp với các nhóm có hành vi nguy cơ cao tăng đều theo năm. Đặc biệt với những nhóm người được xem là ít và khó tiếp cận như nhóm người có quan hệ tình dục đồng giới nam thì số lượt tiếp cận hàng năm cũng tăng một cách đáng kể. 62 Bảng 6. Phân phát tài liệu truyền thông TT Loại tài liệu Số lượng tài liệu đã phân phát Tổng 2007 2008 2009 2010 2011 2012 1 Tờ rơi 175087 218896 372623 422881 585122 804617 2585226 2 Ápphíc 16089 14611 15621 23439 18479 46919 490758 3 Sách 40714 22947 36685 58197 52930 420700 635003 4 Các tài liệu truyền thông khác 16622 25508 40538 94850 63854 43670 223042 Tổng 250519 283970 467476 601377 722396 1317918 3934029 (Nguồn: Báo cáo hoạt động hằng năm của các tỉnh được điều tra) Số tài liệu truyền thông được sử dụng tăng đều theo năm. Đặc biệt số tờ rơi, sách mỏng được phân phát số lượng lớn, trong 5 năm qua đã phân phát được hơn 46 triệu tài liệu truyền thông. 3.1.2.2. Truyền thông trên hệ thống truyền thanh của xã/phường Theo kết quả đánh giá sơ bộ hoạt động truyền thông tuyến xã phườngthuộc 05 tỉnh được điều tra cho thấy: Số lượt truyền thông trên hệ thống truyền thanh của xã phường tăng từ 16.134 lượt năm 2007 lên 20.631 lượt năm 2008, trung bình tăng 5.400 lượt/năm với tổng số trong bốn năm là 250.863 lượt. 3.1.2.3 Truyền thông nhân sự kiện Truyền thông nhân sự kiện cũng là một thế mạnh các địa phương thường áp dụng trong phòng, chống HIV/AIDS. Các địa phương cũng đã tận dụng các ngày hội, ngày lễ hoặc các sự kiện lớn để tổ chức truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, trong đó hầu hết các tỉnh được điều tra đều tập trung tổ chức truyền thông nhân ngày Ngày Thế giới phòng, chống 63 HIV/AIDS, đặc biệt từ năm 2008, đã tổ chức Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, hoạt động này đã thu hút được hàng triệu người tham gia. Hoạt động truyền thông đặc biệt là truyền thông trực tiếp đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng và nhóm đối tượng có nguy cơ cao về HIV/AIDS, cùng với chương trình can thiệp giảm tác hại, đã giúp họ thay đổi hành vi, thực hiện hành vi an toàn phòng lây nhiễm HIV cho bản thân và cho cộng đồng, góp phần hạn chế sự lây nhiễm HIV/AIDS tại các địa phương. Hoạt động thông tin giáo dục truyền thông đã có tác động không nhỏ đến sự thay đổi về kiến thức phòng, chống HIV/AIDS trong các nhóm nguy cơ cao và trong các nhóm cộng đồng dân cư. Kết quả điều tra năm 2009 cho thấy 54,7% phụ nữ mại dâm, 47,6% nam tiêm chích và 53,6% nam quan hệ tình dục đồng giới có thể xác định đúng các cách phòng tránh lây nhiễm HIV qua đường tình dục và có thể loại bỏ được các quan niệm sai lầm về lây truyền HIV.1 Bảng 7. Tỷ lệ người NCMT sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với PNMD 1 IBBS 2009 thực hiện tại 10 tỉnh trên nhóm TCMT và GMD và 4 tỉnh với nhóm MSM 64 Bảng 8. Tỷ lệ phần trăm phụ nữ bán dâm cho biết có sử dụng bao cao su với khách hàng Tuy nhiên, qua điều tra tại 05 tỉnh cho thấy tỷ lệ hiểu biết pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV của đối tượng có hành vi nguy cơ cao là khá thấp, cụ thể như sau: Không có tỉnh nào có tỷ lệ phần trăm người có hiểu biết đầy đủ các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV vượt qua 50%, mà cụ thể là hầu như các đối tượng là nghiện chích ma túy thì chỉ biết biện pháp can thiệp giảm hại là BKT và điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế chứ không coi việc sử dụng bao cao su như là một biện pháp can thiệp giảm tác hại. Tương tự như vậy đối với nhóm đối tượng là phụ nữ bán dâm và người có quan hệ tình dục giới cũng chỉ chủ yếu coi việc sử dụng bao cao su là biện pháp can thiệp giảm hại mà không xác định được việc sử dụng riêng BKT trong tiêm chích ma túy cũng là biện pháp can thiệp giảm hại. Bảng 9. Tỷ lệ phần trăm người có hiểu biết đầy đủ các biện pháp can thiệp giảm tác hại. 65 Tương tự như kết quả khảo sát sự hiểu biết đầy đủ về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV thì cũng không có tỉnh nào có tỷ lệ phần trăm người có hiểu biết đầy đủ các nội dung của pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV vượt quá 20%, cụ thể là hầu như tất cả các nhóm đối tượng được phỏng vấn đề không xác định được quyền và nghĩa vụ của mình. Đây là trở ngại lớn nhất của việc tổ chức thực thi các quy định của pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bởi khi đối tượng chưa ý thức được đầy đủ nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về can thiệp giảm tác hại thì việc thực hiện nó sẽ chưa thể đạt hiệu quả, ví dụ như người nghiện chích ma túy đã nhiễm HIV không xác định được được việc sử dụng BKT chung cũng thể bị coi là hành vi cố ý lây truyền HIV cho người khác nên chỉ coi việc này là nhằm hạn chế sự lây truyền HIV chứ không nghĩ rằng mình có thể bị khởi tố hình sự. Bảng 10. Tỷ lệ phần trăm người có hiểu biết đầy đủ các nội dung của pháp luật về CTGH Qua đánh giá công tác truyền thông về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV vẫn còn những khó khăn, bất cập tập trung tại một số vấn đề sau: - Pháp luật dù đã có quy định về đào tạo, đào tạo liên tục cho cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong đó bao gồm cả các cán bộ làm công tác truyền thông về can thiệp giảm hại nhưng đến nay vẫn chưa có văn 66 bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, đặc biệt là chưa xây dựng được khung chương trình đào tạo về thông tin, giáo dục truyền thông trong hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cũng như việc chỉ định các cơ sở đào tạo về vấn đề này. - Ngoại trừ một văn bản liên tịch giữa Bộ Y tế, Bộ Thông tin và truyền thông là của Thông tư liên tịch số 20/2010/TTLT-BTTTT-BYT ngày 20/8/2010 hướng dẫn việc ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo điện tử đối với thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS thì chưa có các văn bản hướng dẫn việc phối hợp liên ngành giữa cơ quan truyền thông, giáo dục sức khỏe của ngành y tế với ngành tư pháp, ngành thông tin truyền thông và ngành văn hóa, thể thao và du lịch trong việc thực hiện các hoạt động truyền thông, đặc biệt là trong việc xây dựng các thông điệp truyền thông về pháp luật trong hoạt động can thiệp giảm tác hại nên chất lượng của hoạt động này chưa cao. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện Thông tư liên tịch số 20/2010/TTLT-BTTTT-BYT cũng chưa được quan tâm đúng mức nên dẫn đến tình trạng các buổi tọa đàm, phóng sự thường được phát vào thời điểm ít thu hút được người dân trong độ tuổi lao động quan tâm. - Hạn chế về kinh phí triển khai thực hiện cũng là một trong các nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động truyền thông, đặc biệt là truyền thông ở tuyến xã, phường. Nguồn kinh phí của chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS cấp cho xã phường chỉ đủ chi trả cho phụ cấp cho cán bộ chương trình, kinh phí còn lại chỉ đủ đáp ứng cho tháng chiến dịch truyền thông phòng, chống HIV/AIDS chứ không đủ để chi cho việc thực hiện truyền thông theo định kỳ. - Các hoạt động truyền thông mới chỉ đạt về độ bao phủ và số lượng thực hiện nhưng hình thức, phương pháp tổ chức chưa thực sự phù hợp với đặc điểm của nhóm đối tượng này nên hiệu quả không cao. 67 3.2. Đánh giá việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV 3.2.1. Đánh giá việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về can thiệp bằng bao cao su Các quy định của Luật, Nghị định số 108/2007/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Nghị định đã tạo ra hành lang pháp lý khá thuận lợi cho việc tổ chức các can thiệp bằng BCS. Điều này thể hiện rõ qua việc độ bao phủ của chương trình cung cấp bao cao su tăng đều qua các năm. Bảng 11. Độ bao phủ của chương trình bao cao su Năm Số quận/huyện triển khai chương trình (n=85) Số xã/phường/thị trấn triển khai chương trình (n=1388) 2007 53 789 2008 57 834 2009 64 906 2010 67 1011 2011 83 1167 2012 83 1298 (Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo hoạt động hằng năm của các tỉnh được khảo sát) Việc triển khai cung cấp BCS được thực hiện qua nhiều mô hình đa dạng nhằm làm tăng tính sẵn có cũng như khả năng tiếp cận với BCS cho các đối tượng có hành vi nguy cơ cao. Các mô hình chính đã được xây dựng và triển khai bao gồm: Mô hình phân phát BCS thông qua nhân viên tiếp cận cộng đồng; mô hình hộp cung cấp BCS cố định; mô hình cung cấp BCS tại các nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở dịch vụ giải trí, Phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện hoặc lồng ghép tại câu lạc bộ/điểm giáo dục sức khỏe... trong đó, mô hình phân phát BCS thông qua NVTCCĐ và cung cấp BCS tại các nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở dịch vụ giải trí là hai mô hình được đánh giá là có hiệu quả nhất. 68 Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai các quy định của pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bằng biện pháp cung cấp bao cao su cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức: * Pháp luật chỉ quy định về trách nhiệm của các chương trình, dự án trong việc cung cấp BCS miễn phí hoặc bán trợ giá cũng như trách nhiệm của người phụ trách các địa điểm vui chơi, giải trí, bến tàu, bến xe, nhà ga, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, nhà hàng trong việc phối hợp với các chương trình, dự án trong việc cung cấp bao cao su miễn phí hoặc đặt máy bán bao cao su tự động tại cơ sở của mình và các cơ sở dịch vụ lưu trú khác mà chưa có quy định về trách nhiệm phải tự cung cấp BCS của nhóm đối tượng này. 69 "Sử dụng NVTCCĐ đi phát BCS là hiệu quả nhất bởi họ có khả tiếp cận được đối tượng, sau đó là hình thức đặt BCS tại các nhà nghỉ, khách sạn vì đây là địa điểm diễn ra hầu hết các hoạt động tình dục - PVS cán bộ Phòng Can thiệp giảm hại Trung tâm PC HIV/AIDS Hải Phòng" "Hình thức cung cấp BCS cho PNMD tốt nhất là thông qua NVTCCĐ vì họ không chỉ có khả tiếp cận được đúng đối tượng mà còn có khả năng tìm kiếm được các đối tượng mới. Bên cạnh đó, hình thức cung cấp BCS tại các nhà nghỉ, khách sạn cũng là hình thức có hiệu quả cao bởi nó không chỉ phục vụ riêng cho đối tượng là PNMD mà còn cho cả các đối tượng khác như người NCMT có quan hệ tình dục - PVS cán bộ Phòng Can thiệp giảm hại Trung tâm PC HIV/AIDS Nghệ An" "Mặc dù việc cung cấp BCS tại kênh không truyền thống như nhà nghỉ, khách sạn đạt hiệu quả khá cao nhưng do số lượng BCS của chương trình còn giới hạn so với nhu cầu thực tiễn nên cần có quy định trách nhiệm của chủ các cơ sở này trong việc tự cung cấp BCS - PVS Lãnh đạo Trung tâm PC HIV/AIDS Kiên Giang" * Một số quy định của pháp luật còn chưa thực sự chặt chẽ nên dễ tạo kẽ hở để lợi dụng nhằm mục đích kiếm lợi, mà cụ thể là theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc in dòng chữ "cung cấp miễn phí, không được bán" có thể in trực tiếp trên bao bì của BCS hoặc in trên nhãn phụ của BCS. Quy định này tuy đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn là rất nhiều BCS được nhập khẩu trực tiếp nên khó có thể in trực tiếp lên BCS nhưng nếu chỉ in trên nhãn phụ thì trên thực tế là rất ít khi nhãn phụ được gắn cùng BCS. * Pháp luật về phòng, chống mại dâm tuy không có quy định cụ thể về việc coi BCS là tang chứng của hoạt động mại dâm nhưng trên thực tế thì các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú vẫn gặp khá nhiều phiền hà liên quan đến việc cung cấp BCS tại cơ sở, trong khi đó pháp luật về can thiệp giảm hại lại chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên đã tạo tâm lý e ngại cho các chủ cơ sở khi tự mua BCS để cung cấp tại cơ sở mình. * Vẫn còn tồn tại sự thiếu đồng thuận trong phối hợp liên ngành khi tổ chức thực hiện biện pháp can thiệp bằng BCS tại các kênh không truyền thống như cơ sở dịch vụ ăn uống, điểm massage... 70 "Việc quy định in dòng chữ "cung cấp miễn phí, không bán" trên nhãn phụ đôi lúc tạo kẽ hở cho NVTCCĐ nếu họ muốn lợi dụng để bán BCS của chương trình - PVS Lãnh đạo Trung tâm PC HIV/AIDS Sơn La" "Thỉnh thoảng khi thực hiện kiểm tra khách sạn, nếu thấy BCS không phải của dự án, công an và bên phòng, chống tệ nạn xã hội vẫn hỏi tại sao lại để nhiều BCS tại quầy lễ tân? - PVS chủ khách sạn tại Kiên giang" "Nên cân nhắc việc cung cấp bao cao su tại quán bar, cơ sở masage, vũ trường vì dễ bị hiểu lầm là cho phép hoạt động mại dâm tại các cơ sở đó - TNL với cán bộ phòng, chống tệ nạn xã hội thành phố Hồ Chí Minh" 3.2.2. Đánh giá việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về can thiệp bằng BKT: Cũng tương tự như chương trình BCS, các quy định của Luật, Nghị định số 108/2007/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Nghị định đã tạo ra hành lang pháp lý khá thuận lợi cho việc tổ chức các can thiệp bằng BKT. Điều này thể hiện rõ qua việc độ bao phủ của chương trình cung cấp BKT tăng đều qua các năm. Bảng 12. Độ bao phủ của chương trình BKT Năm Số quận/huyện triển khai chương trình (n=85) Số xã/phường/thị trấn triển khai chương trình (n=1388) 2007 55 791 2008 59 815 2009 68 912 2010 70 1023 2011 83 1176 2012 83 1302 (Nguồn: Tổng hợp số liệu báo cáo hoạt động hằng năm của các tỉnh được khảo sát) Việc triển khai hoạt động can thiệp bằng BKT đã được thực hiện bằng nhiều hình thức khá đa dạng thông qua nhiều mô hình khác nhau nhằm tăng tính sẵn có và tính dễ tiếp cận của BKT cho đối tượng nghiện chích ma túy. Các mô hình chính đã được xây dựng và triển khai bao gồm: Mô hình phân phát BKT thông qua nhân viên tiếp cận cộng đồng; mô hình hộp cung cấp BKT cố định; mô hình điểm phân phát BKT cố định; mô hình điểm phân phát thứ cấp qua nhà thuốc, hiệu thuốc, trạm y tế, Phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện hoặc lồng ghép tại câu lạc bộ/điểm giáo dục sức khỏe..... Tại các tỉnh được khảo sát, mô hình phát BKT được áp dụng phổ biến nhất là thông qua mạng lưới nhân viên tiếp cận cộng đồng, hộp cung cấp BKT 71 Phát BKT qua mạng lưới nhân viên tiếp cận cộng đồng là kênh phát BKT chính ở hầu hết các tỉnh được khảo sát với tỷ lệ chiếm đến 90% số BKT được phát ra. Yếu tố chính quyết định sự thành công của mô hình này là do có khả năng tiếp cận đối tượng tốt. Bên cạnh việc phát BKT, nhân viên tiếp cận cộng đồng còn có nhiệm vụ tìm kiếm, tiếp cận đối tượng nghiện chích mới trên địa bàn để thực hiện việc cung cấp BKT, tài liệu truyền thông và thực hiện việc truyền thông giáo dục sức khoẻ trực tiếp cho người nghiện chích ma túy đồng thời tư vấn chuyển gửi đối tượng đến các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn xét nghiệm tự nguyện, khám điều trị STI, phòng khám ngoại trú... Ngoài việc phát BKT trực tiếp cho người nghiện chích ma túy tại các tụ điểm tiêm chích, nhân viên tiếp cận cộng đồng còn quy ước với người NCMT về những điểm, hộp BKT bí mật đặt tại nhà NVTCCĐ, tụ điểm tiêm chích, quán nước, cửa hàng tạp hoá... để tăng khả năng tiếp cận BKT sạch cho người NCMT. Mô hình này hiện nay đã nhận được sự ủng hộ của chính quyền, ban ngành, đoàn thể và cộng đồng mà minh chứng rõ ràng nhất đó là việc toàn bộ các nhân viên tiếp cận cộng đồng đã được cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng. Tuy nhiên, mô hình này cũng đang gặp một số thách thức và hạn chế sau: - Chất lượng hoạt động của NVTCCĐ phụ thuộc rất nhiều vào tính tự giác, nhiệt tình với công việc của bản thân họ. - Nhiều NVTCCĐ là cán bộ kiêm nhiệm (đặc biệt là ở tuyến huyện và tuyến xã) nên không đủ thời gian cho việc giám sát, khó bao quát hết hoạt động của các tuyên truyền viên đồng đẳng trên địa bàn. - Mạng lưới thiếu ổn định do bản thân nhiều NVTCCĐ cũng là người NCMT, họ có thể bị bắt do có những hành vi phạm pháp, nhiều người thay đổi công việc hoặc chết do mắc các bệnh liên quan đến AIDS... khi đó các chương trình, dự án lại phải tuyển dụng và đào tạo từ đầu. - Chi phí để duy trì hoạt động của mạng lưới cao do phải trả lương và phụ cấp đi lại hàng tháng trong khi nếu không có nguồn kinh phí viện trợ mà 72 chỉ sử dụng nguồn kinh phí của chương trình mục tiêu quốc gia và sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách địa phương thì sẽ rất khó khăn. Việc phát BKT qua hệ thống Trạm Y tế thường được kết hợp với hình thức hộp BKT cố định nên có ưu điểm là chi phí vận hành thấp đồng thời có thể lồng ghép cung cấp nhiều dịch vụ cho đối tượng đích như truyền thông giáo dục sức khoẻ, khám STI... và có khả năng duy trì bền vững do mô hình này tận dụng được các dịch vụ cũng như con người sẵn có của hệ thống y tế. Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm lớn là chỉ tiếp cận được đối tượng NCMT cũ, đã lộ diện mà rất hạn chế trong việc tiếp cận với đối tượng NCMT mới do đối tượng sợ bị phát hiện, e ngại sự kỳ thị từ phía cán bộ y tế và cộng đồng. Hộp BKT đặt ở nơi kín đáo được nhiều đối tượng NCMT hưởng ứng do có thể tiếp cận lấy BKT bất cứ khi nào có nhu cầu. Hộp BKT thường được treo ở các cơ sở y tế như Trạm Y tế, điểm điều trị Methadone, cơ sở TVXNTN... và do cán bộ y tế quản lý. Mô hình này được triển khai khá thành công tại Hà Tĩnh, hộp BKT được chia làm 2 ngăn, ngăn trên đựng BKT sạch và BCS, ngăn dưới đựng BKT bẩn. Hàng ngày cán bộ Trạm y tế có trách nhiệm kiểm tra, nếu hết BKT thì đặt BKT sạch vào và thu gom BKT bẩn ở ngăn dưới của hộp và ở khu vực xung quanh. Mô hình hộp BKT cố định có chi phí vận hành thấp và có khả năng duy trì bền vững. Tuy nhiên cũng có nhược điểm, đó là khó quản lý số lượng và mục đích sử dụng BKT của người NCMT. Do đó dễ xảy ra tình trạng “trống” BKT trong hộp, mặc dù trước đó CTV vừa mới đặt BKT vào hộp. Ngoài ra, hộp BKT có thể bị cộng đồng phản đối do kỳ thị với người NCMT, 73 "Nếu chỉ trông vào kinh phí của Chương trình quốc gia và ngân sách của địa phương thì sẽ không thể đủ cho hoạt động duy trì mạng lưới, đặc biệt là khi các NVTCCĐ đã quen hưởng phụ cấp cao của Dự án nước ngoài - PVS cán bộ Phòng Can thiệp giảm hại Trung tâm PC HIV/AIDS Hải Phòng" sợ mất an ninh trật tự trong khu vực và sợ ô nhiễm môi trường do BKT bẩn bị người NCMT vứt tràn lan. Bên cạnh các khó khăn trong việc tổ chức triển khai các mô hình thì hoạt động can thiệp bằng bơm kim tiêm cũng đang gặp phải các khó khăn liên quan đến vấn đề pháp lý. Thứ nhất là do pháp luật về phòng, chống ma túy chưa có quy định rõ ràng về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong phòng, chống ma túy nên người NCMT vẫn có tâm lý e ngại khi tiếp cận với các điểm cung cấp bơm kim tiêm cố định do sợ bị theo dõi. Bên cạnh đó, việc quy định phải có xác nhận của công an cấp xã nơi cư trú về tình trạng pháp lý cũng là một rào cản cho việc mở rộng mạng lưới NVTCCĐ bởi nhiều người, kể cả đối tượng là cộng tác viên, cũng e ngại có sự hiểu lầm là mình thuộc nhóm đối tượng NCMT, còn đối tượng là người NCMT lại lo ngại bị tiết lộ thông tin về tình trạng nghiện của mình. Một vấn đề nữa cũng đang là vướng mắc xuất phát từ thực tiễn đó là việc giao cho công an cấp xã xác nhận về tình trạng pháp lý bởi một số nội dung xác nhận không thuộc thẩm quyền của công an, mà cụ thể: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người đề nghị làm NVTCCĐ phải là người không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không đang trong thời gian chấp hành bản án hình sự hoặc quyết định áp dụng biện pháp 74 "Do thiếu các quy định cụ thể về can thiệp giảm hại trong phòng, chống ma túy nên chúng tôi chỉ có thể truyền thông về lợi ích của việc sử dụng bơm kim tiêm chứ không thể làm người NCMT yên tâm để tiếp cận với các điểm cung cấp bơm kim tiêm một cách công khai - PVS cán bộ phòng can thiệp Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Nghệ An" "Chúng em cũng muốn tham gia là NVTCCĐ nhưng cứ nghĩ đến việc công an xã biết là mình là người NCMT thì em lại ngại - TNL với nhóm người NCMT Sơn La" xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn và việc xác nhận này do cơ quan công an thực hiện. Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp ở chỗ cơ quan công an không nắm được việc áp dụng biện pháp xử lý đối với đối tượng đề nghị do thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, quy định về tiêu chuẩn để được làm NVTCCĐ cũng còn có điểm bất cập bởi theo quy định hiện hành thì NVTCCĐ phải người không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không đang trong thời gian chấp hành bản án hình sự hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp tuy đang bị chấp hành bản án hình sự nhưng lại không liên quan đến tội phạm về ma túy hay mại dâm như người đang trong thời gian chấp hành bản án hình sự là án treo đối với các tội danh như gây tai nạn giao thông hay kinh tế cũng không được làm NVTCCĐ. 3.2.3. Chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Chương trình điều trị Methadone được bắt đầu triển khai thí điểm tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04/2008. Đến nay, chương trình này đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, cụ thể như sau: - Giảm tần suất sử dụng heroin: Việc sử dụng Heroin đã giảm đi đáng kể về cả tần suất và liều sử dụng ở bệnh nhân tham gia điều trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng các chất dạng thuốc phiện đã giảm từ 100% xuống còn 57% sau tháng đầu tiên điều trị, 30% sau tháng thứ 2 và còn 10% sau 3 tháng điều trị Methadone, ngay cả những bệnh nhân còn sử dụng heroin, tần suất sử dụng heroin cũng đã giảm rõ rệt (từ 60 lần/tháng xuống 2 75 "Thực tế bảo chúng tôi xác nhận việc một người có đang trong thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính hay không là không hợp lý vì chúng tôi đâu có quản lý việc này mà xác nhận - TLN với công an tỉnh Kiên Giang" lần/tháng), không còn tình trạng sử dụng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích ma tuý. - Cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh: Đa số bệnh nhân tham gia điều trị đã có những cải thiện về sức khỏe, chuyển biến tích cực về thái độ cũng như cuộc sống (thang đo chất lượng cuộc sống tăng từ 69 lên 81 điểm cho sức khoẻ). Nhiều bệnh nhân trước đây chưa có việc hiện nay đã và đang tích cực tìm việc làm và dành thời gian hỗ trợ gia đình. - Góp phần cải thiện về tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội: Tỷ lệ bệnh nhân có các hành vi vi phạm pháp luật trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị giảm một cách rất đáng kể và có ý nghĩa: với 40% bệnh nhân có hành vi vi phạm pháp luật tại thời điểm trước khi vào chương trình điều trị, thì sau 9 tháng giảm xuống còn 1,39%. Theo báo cáo của công an quận Lê Chân, chỉ sau 6 tháng triển khai chương trình Methadone, số vụ trộm cắp vặt liên quan đến nhóm người nghiện chích ma túy tại khu vực bệnh viện Việt Tiệp giảm 60-70% và số vụ vi phạm pháp luật có liên quan đến ma túy tại khu vực Chợ Sắt cũng giảm hơn 70%. Bên cạnh việc giảm các hành vi vi phạm pháp luật, những mâu thuẫn trong gia đình, xã hội cũng giảm mạnh khi bệnh nhân được điều trị bằng Methadone (từ 20% trước điều trị xuống còn 3,5% sau 9 tháng). 76 "Kết quả điều trị cho người nghiện rất khả quan, hầu hết đều có sự cải thiện tốt về sức khỏe, thái độ khi tiếp xúc cũng tốt hơn nhiều so với những ngày đầu mới tham gia, nhiều trường hợp nhờ có sức khỏe tốt lên mà đã tìm được làm - PVS bác sỹ điều trị của cơ sở điều trị thay thế quận Lê Chân Hải Phòng" "Kết quả triển khai hoạt động điều trị thay thế đã có đóng góp lớn cho việc ổn định an ninh trật tự trên địa bàn - TNL đại diện công an quận Lê Chân Hải Phòng" Tuy nhiên, hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức: - Người nghiện chất dạng thuốc phiện vẫn còn tâm lý e ngại khi tiếp cận với dịch vụ điều trị thay thế do sợ bị tiết lộ về tình trạng nghiện của mình. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ việc quy trình xét chọn người bệnh tham gia điều trị thay thế chưa thực sự hợp lý bởi người nghiện ma túy không thể trực tiếp đến cơ sở điều trị mà bắt buộc phải qua khâu xét chọn từ tuyến xã. - Thiếu sự nhất quán giữa quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy, xử lý vi phạm hành chính và pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS. Hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực phòng, chống ma túy nói chung và quản lý người nghiện ma túy nói riêng, do ngành công an và lao động, thương binh và xã hội quản lý. Hiện nay, người nghiện ma túy được hỗ trợ cai nghiện ma túy theo qua hai hình thức chủ yếu, gồm cai nghiện tự nguyện tại gia đình và cộng đồng và cai nghiện bắt buộc tại các cơ sở chữa bệnh được thành lập theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và luật phòng, chống ma túy. Theo đó, do việc chưa thống nhất trong việc sử dụng cụm từ "người nghiện chất dạng thuốc phiện" và "người nghiện ma túy" nên khó xác định một cách cụ thể các chủ thể khi áp dụng các quy định của pháp luật, ví dụ nếu là người nghiện chất dạng thuốc phiện thì có phải áp dụng quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy hay không và ngược lại? 77 "Một trong các yếu tố cản trở việc tiếp cận của người nghiện với dịch vụ điều trị thay thế đó chính là quy định phải qua khâu xét chọn tại cộng đồng - PVS bác sỹ điều trị của cơ sở điều trị thay thế quận Bình Thạnh - thành phố Hồ Chí Minh" "Qua thực tế triển khai tại địa phương, chúng tôi thấy rằng cần có sự thống nhất giữa các văn bản của trung ương liên quan đến vấn đề cai nghiện ma túy vì cùng một đối tượng mà có đến hai cách gọi và ba cách xử lý thì quá phức tạp và khó thực hiện - TLN đại diện cơ quan lao động, thương binh và xã hội quận Bình Thạnh - thành phố Hồ Chí Minh" - Thiếu các quy định về phân loại cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, điều kiện hoạt động và đăng ký hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Hiện nay, các quy định về điều kiện hoạt động mới chỉ được quy định trong Đề án thí điểm trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone của thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh chứ chưa phải là quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật, trong khi đó Nghị định số 108/2007/NĐ-CP lại cũng không có quy định cụ thể nên đã phần nào hạn chế việc thành lập mới các cơ sở điều trị. 78 "Thực tế, những quy định về các nội dung này là điều kiện tiên quyết cho việc xác định mô hình và việc thiết lập các cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện khi xây dựng các đề án về tổ chức hoạt động điều trị thay thế để trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt nhưng do chỉ có các quy định trong các đề án thí điểm nên rất khó thuyết phục khi trình Ủy ban - PVS đại diện Lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Nghệ An" CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN 1. Hệ thống văn bản về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV tuy đã bước đầu tạo ra được một hành lang pháp lý khá thông thoáng và thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thi hành các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và cần phải được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. 2. Hoạt động phổ biến các quy định của pháp luật được triển khai rộng rãi với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn mang tính hình thức và thiếu các thông điệp truyền thông phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng. 3. Việc thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bằng bao cao su và bao cao su được triển khai với phạm vi bao phủ ngày một rộng đã giúp tăng khả năng tiếp cận cho các đối tượng có hành vi nguy cơ. Hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế cũng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng cũng giống như việc tổ chức hoạt động can thiệp này cũng còn gặp nhiều khó khăn mà một trong số các nguyên nhân đó chính là sự thiếu đồng bộ hoặc chưa phù hợp của hệ thống pháp luật. 79 CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ 1. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV Trong giai đoạn tới, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau: 1.1. Chính thức hóa và cụ thể hóa các quy định về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trong Luật phòng, chống HIV/AIDS để tạo hành lang pháp lý mạnh hơn cho việc tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV mà cụ thể là cần bổ sung một chương riêng quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, trong đó cần tập trung làm rõ một số nội dung sau: a) Nội dung của các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV; b) Trách nhiệm của các chủ thể pháp luật bao gồm chính quyền các cấp, cơ sở y tế, ngành công an, ngành lao động - thương binh và xã hội cũng như của các đối tượng thụ hưởng chính sách trong việc tổ chức triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV; c) Các điều kiện bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV. 1.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về phòng, chống ma túy và phòng, chống mại dâm nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật, trong đó cần tập trung vào các vấn đề sau: a) Đối với pháp luật về phòng, chống ma túy: - Cần sớm có các quy định về các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong phòng, chống ma túy để tạo sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; - Sửa đổi, bổ sung các quy định về cai nghiện ma túy theo hướng loại trừ các đối tượng đang tham gia chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc 80 phiện bằng thuốc thay thế ra khỏi đối tượng bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, trừ trường hợp các đối tượng đó vẫn tiếp tục sử dụng ma túy trong quá trình điều trị; - Thống nhất việc sử dụng các từ ngữ "nghiện chất dạng thuốc phiện" và "nghiện ma túy" để tránh tình trạng áp dụng hai hệ thống pháp luật trên cùng một chủ thể pháp luật là người nghiện. b) Đối với pháp luật về phòng, chống mại dâm: Cần có các quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của các chủ thể pháp luật như chủ nhà hàng, khách sạn, các địa điểm vui chơi, giải trí... trong việc tổ chức biện pháp can thiệp giảm tác hại bằng bao cao su để tạo sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS cũng như nâng cao hiệu quả của các hoạt động can thiệp. 2. Về tổ chức triển khai các hoạt động can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV 2.1. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV, trong đó tập trung vào việc xây dựng kỹ năng cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về can thiệp giảm tác hại. 2. 2. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về can thiệp giảm tác hại trong đó cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng của các thông điệp, tài liệu truyền thông; tiếp tục đa dạng hóa các hình thức truyền thông bảo đảm tính phù hợp với từng nhóm đối tượng. 2. 3. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các mô hình tổ chức triển khai các hoạt động cung cấp bao cao su và bơm kim tiêm sạch bảo đảm tính phù hợp với từng nhóm đối tượng. 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: 1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2011), “Báo cáo công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam thời gian qua”, Hà Nội. 2. Bộ Y tế (2004), Hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS. 3.Bộ Y tế (2011), Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2012”, Hà Nội. 4. Chính phủ (2007), Nghị định số 108/2007/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi thành một số điều của Luật phòng, chống Virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), Hà Nội 5. Trường Đại học Y khoa Hà Nội (1995), Nhiễm HIV/AIDS: Y học cơ sở, lâm sàng và phòng chống, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.32-178. 1. UNODC (2009) “Báo cáo hoạt động phòng chống ma túy trên toàn cầu năm 2008”, Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh: 7. Asamoah-Odei E, Garcia-Calleja JM & Boerma T (2004). “HIV prevalence and trends in sub-Saharan: no decline and large subregional Differences” Lancet, 364:35-40. 8. AIDS Center of the South-Kazakhstan Oblast (2007). Presentation to the national meeting on universal access to ART treatment and testing services. 3-4 September.Astana. 9. AIDS Foundation East- West (2007), Officially registered HIV cases by 82 region of the Russian Federation – 1 January 1987 10. Booth RE, Kwiatkowski CF, Brewster JT (2006). Predictors of HIV sero- status among drug injectors at three Ukraine sites.AIDS, 20(17): 2217- 2223 11. Choi KH et al.(2007).The influence of social and sexual networks in the spread of HIV and syphilis among men who have sex with men in Shanghai, China.Journal of Acquired Immune Deficiency Syndromes, 45(1):77-84 12. Dourado I et al.(2007).HIV-1 seroprevalence in the general population of Salvador, Bahia State, Northeast Brazil.Cadernos de Sausde Pusblica, 23 (1): 25-32. 13. Emmanuel F, Archibald C, Altaf A (2006). What drives the HIV epidemic among injecting drug users in Pakistan: a risk factor analysis.Abstract MOPE0524.XVI International AIDS conference.13-18 August.Toronto. 14. Euro HIV (2007).HIV/AIDS surveillance in Europe:end- year report 2006, No.75.Saint-Maurice, Institut de Veille Sanitaire 15. Hallett TB et al.(2006). Declines in HIV prevalence can be associated with changing sexual behaviour in Uganda, urban Kenya, Zimbabwe, and urban Haiti.Sexually Transmitted Infections, 82 (Suppl.I): il-i8. 83 16. Hamers F.F. (2006), HIV/AIDS in Europe : trends in EU- wide priorities, Eurosurveillance, 11 (11) 17. Health Protection (2007) HIV and AIDS in the United Kingdom update: data to the end of March 2007. Health Protection Report, 1 (17). 18. Inciardi JA, Syvertsen JL, Surratt HL (2005). HIV/AIDS in the Caribbean Basin. AIDS Care, 17 (Suppl.1): S9- S25. 19. Kumar R et al (2005). HIV-1 trends, risk factors and growth in India. National Commission on Macroeconomics and Health (NCMH) Background Papers – Burden of Disease in India. September. New Delhi, Ministry of Health & Family Welfare. 20. Ladnaya NN (2007). The national HIV and AIDS epidemic and HIV surveillance in the Russian Federation. Presentation to “Mapping the AIDS Pandemic” meeting. 30 June. Moscow. 21. Ministry of Health and Sanitation. Sierra Leone (2007). Antenatal HIV and syphilis sentinel surveillance (2006). Freetown. 22. Ministry of Health China (2006). 2005 update on the HIV/AIDS epidemic and response in China. Beijing, Ministry of Health China, UNAIDS, WHO. 84 23. Ministry of Health Pakistan (2005). National study of reproductive tract and sexually transmitted infections: Survey of high risk groups in Lahore and Karachi, March-August 2004. Islamabad. 24. Ministry of Health Belarus (2007). HIV epidemic situation in the Republic of Belarus in 2006. Information Bulletin, 24 Minks. 25. Ministry of Health Kazakhstan et al.(2005). Rusults of investigation of the real situation with drug abuse in Kazakhstan. Almaty (in Russian). 26. Ministry of Health New Zealand (2007). AIDS in New Zealand. Issue 59. Auckland. Available at 59 27. National AIDS Programme Myanmar (2007). Sentinel Survey Data for March-April 2006. Yangon. 28. National AIDS Program Argentina (2005). Epidemiological surveillance report. . December. Buenos Aires. 29. National Center for HIV/AIDS, Dermatology and STIs (2007). HIV Sentinel surveillance (HSS) 2006/2007: reslts, trends and estimates. Phnom Penh. 30. National Centre in HIV HIV Epidemiology and Clinical Research 85 (2006). HIV/AIDS, viral hepatitis and sexually transmissible infections in Australia; annual surveillance report 2006, Sydney. 31. National Centre in HIV Epidemiology and Clinical Research (2007). Australian HIV Surveillance Report, 23 (1). January. 32. PAHO (2007). AIDS in the Americas: the evolving epidemic, response and challenges ahead. Washington, DC. 33. Public Health Agency of Canada (2006). HIV and AIDS in Canada: surveillance report to June 30,2006. Ottawa. Available at: www.phac-aspc.gc.ca/aids- sida/publiccation/index.html surveillance. 34. Prestage G et al.(2006). Trends in unprotected anal intercourse among Sydney gay men. Abstract WEPE0721. XVI. Internationl AIDS Conference. 13-18 August. Toronto. 35. Russian Federal AIDS Centre (2007), Officially registered HIV cases in Russian Federation: 1 January 1987 – 31 December 2006, 14 Febreuary, Moscow, AIDS Foundation East West. 36. Soto RJ et al. (2007). Sentnel surveillance of sexually transmitted 86 infection/HIV and risk behaviours in velnerable population in five Central American countries. Journa of Acquired Immune Deficiency Syndromes. Ahead of print. 37. UNAIDS (2007). Comparing adult antenatal-clinic based HIV prevalence with prevalence from national population based surveys in sub-Saharan Africa. UNAIDS presentation. Accessed 17 November 2007 at 2007_en.pdf. 38. UNAIDS/WHO (2006). AIDS epidemic update: December 2006. UNAIDS, Geneva 2006. UNAIDS/06.29E. ISBN9291735426. 39. UNAIDS (2008). Report on the global AIDS epidemic. Geneva. 40. US Centers for Disease Control and Prevention (2007a). HIV/AIDS surveillance report: cases of HIV infection and AIDS in the United States and dependent areas, 2005. Vol.17.Revised June 2007. Atlanta. 41. UNAIDS (2007). Report on the global AIDS epidemic. Geneva. 42. Van Griensven F et al. (2006).HIV prevalence among populations of 87 men who have sex with men – Thailand, 2003 and 2005. Morbidity and Mortality Weekly Report, 55 (31): 844- 8.August 11. 43. WHO (2007). HIV/AIDS in the South-East Asia region.March. New Delhi, WHO Regional Office for South-East Asia. 44. WHO, UNAIDS, UNICEF (2007). Towards universal access: scaling up priority HIV/AIDS interventions in the health sector: progress report. April.Geneva. 88

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_viec_thi_hanh_luat_phong_chong_hiv_aids_ve_cong_tac_can_thiep_giam_tac_hai_trong_du_phong_l.pdf
Luận văn liên quan