Vấn đề huy động vốn là rất cần thiết khi công ty gặp khó khăn hoặc muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanhmà thiếu vốn. Việc Luật Doanh nghiệp quy định như vậy đã hạn chế rất lớn đến khả năng huy động vốn của công ty hợp danh. Khác với công ty hợp danh, pháp luật cho phép công ty cổ phần đựoc phát hành mọi loại chứng khoán để huy động vốn và chỉ không cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành cổ phần mà thôi. Đây tỏ ra là sự thiệt thòi của công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác đều được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh. Nhưng nếu xét về bản chất đối nhân của công ty hợp danh thì điều này trở nên hợp lý, ở công ty hợp danh yếu tố nhân thân luôn được coi trọng hàng đầu, việc thay đổi thành viên hợp danh là hết sức khó khăn và phức tạp, nếu cho phép công ty hợp danh phát hành và chào bán chứng khoán đồng nghĩa với việc sẽ có người ngoài mua và đương nhiên họ trở thành thành viên hợp danh của công ty mặc dù không có mối quan hệ nhân thân nào cả, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân - bản chất cơ bản của công ty hợp danh - một loại hình công ty đối nhân.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3725 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái niệm công ty hợp danh :
Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó. Khoản 1 Điều 130 của Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa:
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có tí nhất hai thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài các thanh viên hơp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Tành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Từ định nghĩa trên có thể nhận thấy pháp luật nước Việt Nam ghi nhận công ty hợp danh bao gồm cả hai loại: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn, cả hai loại công ty hợp danh này được ghi nhận nhưng không có sự phân tách mà gộp chung dưới một tên gọi duy nhất là “công ty hợp danh”. Thật vậy, pháp luât Việt Nam quy định công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh còn có thành viên góp vốn. Nói như vậy, có nghĩa là công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh, và phải có số lượng ít nhất là hai thành viên mới được thành lập hợp pháp. Đây chính là hình thức công ty hợp danh thong thường mang bản chất “hợp danh tuyệt đối” giống như quy định của nhiều nước trên thế giới. Nhưng điểm khác biệt ở đây là pháp luật Việt Nam đồng thời quy định “ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn”, tức là đã gi nhận loại hình công ty hữu hạn hay chính là công ty hợp vốn đơn giản theo quy định của pháp luật các nước, và đậy là một loại hình công ty đối nhân. Đối với công ty hợp danh hữu hạn ở Việt Nam cũng phải đáp ứng điều kiện cần thiết đó là phải có ít nhất hai thành viên hợp danh và không quy định số lượng thành viên góp vốn, sự xuất hiện chỉ một thành viên góp vốn cũng đủ làm cho bản chất của công ty hợp danh trở thành “hợp danh không tuyệt đối”.
Ta thấy sự cộng gộp này là khá gọn gàng, nhưng thực sự có là sự khoa học hay không khi đều ghi nhận cả hai hình thức công ty hợp danh nhưng lại điều chỉnh dưới một quy chế chung. Khái niệm này dẫn tới sự bất cập, mà trước hết là quy định về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi đó là điều kiện buộc công ty phải giải thể. Một trong những trường hợp các doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 157 Luật doanh nghiệp 2005 đó là “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Do Luật doanh nhiệp không phân định rõ hai loại công ty hợp danh nhưng vẫn ghi nhận sự tồn tại của hai hình thức công ty hợp danh hữu hạn và hợp danh thông thường nên việc tìm hiểu khi nào thì công ty hợp danh thông thường thiếu số lượng thành viên tối thiểu? Khi nào công ty hợp danh hữu hạn thiếu số lượng thành viên tối thiểu? là một vấn đề khá phức tạp. Đồng thời Luật doanh nghiệp 2005 không quy định trong công ty hợp danh hữu hạn thì phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn, nếu chỉ áp dụng điều kiện chung là không đủ hai thành viên hợp danh thì công ty phải giải thể, vậy khi không còn một thành viên góp vốn nào trong công ty hợp danh hữu hạn thì công ty không phải giải thể? Mà khi không còn thành viên góp vốn thử hỏi công ty đó có còn đúng là công ty hợp danh hữu hạn nữa hay không?
Như vậy, qua trên đã cho ta thấy được điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng nhìn chung, khái niệm công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Với quy định về công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam. Tuy nhiên với quy định như vậy có thể thấy còn nhiều vấn đề còn tồn tại xoay quanh khái niệm công ty HDHH tại Luật doanh nghiệp 2005.
II. Thành viên công ty hợp danh:
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Vì vậy, tìm hiểu quy chế thành viên trong công ty hợp danh tức là phân tích hai loại thành viên này cùng những quyền và nghĩa vụ pháp lý của nó.
1. Thành viên hợp danh:
Điểm b khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”. Theo đó, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh ở Việt Nam chỉ có thể là cá nhân, pháp luật không cho phép một pháp nhân, một tổ chức trở thành thành viên hợp danh trong công ty. Đối với một số trường hợp đặc biệt, nếu công ty hợp danh hoạt động trong những ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thuốc thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán… thì thành viên hợp danh trong công ty đó phải có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn hoặc bằng cấp, nghiệp vụ nhất định.
Như vậy, việc phân biệt giữa cá nhân và pháp nhân là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lý khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế cuả pháp nhân. Tuy nhiên ta thấy rằng với nền kinh tế thì trường hiện nay thì việc quy định không cho phép pháp nhân là thành viên hợp danh là chưa hợp lý đối với việc lựa chọn hình thức đầu tư của các thương nhân mà không có lý do chính đáng từ phía cộng đồng hay từ các nhà đầu tư là pháp nhân theo hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài.
Thành viên hợp danh chịu chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình đối với nghĩa vụ và khoản nợ của công ty. Chủ nợ có quyên yêu cầu bất cứ thành viên hợp danh nào thanh toán các khoản nợ của công ty đối với chủ nợ. Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ tài sản của mình (tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Có thể thấy với một chế độ trách nhiệm vô hạn như vậy, Luật Doanh nghiệp đồng thời trao cho thành viên hợp danh những quyền hạn chủ yếu trong việc điều hành và quản lý công ty. Nói cách khác, thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và tồn tại của công ty hợp danh về cả mặt pháp lý lẫn thực tế. Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những quyền hạn và nghĩa vụ cơ bản của thành viên hợp danh. Cụ thể thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền từ việc điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty…Bên cạnh đó thành viên hợp danh phải có nghĩa vu quản lý công ty theo đúng quy định của pháp luật, liên đới chịu trách nhiệnm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty,…Có thể thấy Luật Doanh nghiệp 2005 đã trao cho thành viên hợp danh quyền của một công ty thực sự, đồng thời cũng áp dụng một chế độ trách nhiệm vô hạn mà loại thành viên này phải chịu khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng kí vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên đó có trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không, trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thoã thuận khác (Khoản 3 Điều 139 Luật Doanh nghiệp 2005). Ngay cả khi chấm dứt tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm, thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bàng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên (Khoản 5 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Xuất phát từ việc thành viên hợp danh nắm giữ vai trò quan trọng trong việc thanh lập và quản lý công ty hợp danh mà điều kiện để trở thành thành viên hợp danh cũng chính là điều kiện được quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005.
Cũng chính từ vai trò quan trọng và chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005 đã có một số quy định hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh, đó là:
- Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác; trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.
- Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
- Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.
Việc pháp luật hạn chế quyền của thành viên hợp danh cũng là một điều dễ hiểu bởi thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của công ty hợp danh, hơn nữa tính đối nhân luôn gắn liền với loại thành viên này, do đó việc cho phép thành viên hợp danh được tự do chuyển nhượng vốn cũng như được tự do thoải mái trong hoạt động kinh doanh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, đến trật tự của môi trường kinh doanh nói chung và làm méo mó bản chất đối nhân cơ bản của công ty hợp danh.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp đối với là cá nhân là thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thì không được nhân danh bản thân để hoạt động kinh doanh một cách độc lập, mà chỉ được phép nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh vì lợi ích của công ty. Như vậy pháp luật Việt Nam vô hình chung đã không công nhận tư cách thương nhân của thành viên hợp danh. Chỉ có công ty hợp danh mới là chủ thể kinh doanh thực sự và có tư cách thương nhân.
Về việc chấm dứt tư cách thành viên của thành viên hợp danh, tại Khoản 1 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tư cách thành viên hợp danh chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Tự nguyện rút vốn khỏi công ty.
Việc cho phép các thành viên hợp danh được quyền rút vốn khỏi công ty đã tao một cơ chế thong thoáng, linh hoạt cho các thành viên đó có thể tạm ngừng kinh doanh vì hoàn cảnh cá nhân hoặc chuyển hướng sang các mô hình kinh doanh khác có lợi hơn. Nnưng việc rút vốn cũng kéo theo việc thay đổi nhân sự, cơ cấu quản lý và điều hành công ty, gây khó khăn cho công ty, bởi thành viên hợp danh nắm vai trò quyết định. Bởi vậy Luật Doanh nghiệp cho phép các thành viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi công ty đông thời có những quy định ràng buộc đối với hành vi rút vốn của loại thành viên này: “Thành viên hợp danh chỉ được rút vốn nếu được Hội đông thành viên chấp thuận và phải thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất sáu tháng trước ngày rút vốn; chỉ được rút vốn vào thời điểm kết thúc năm tài chính và báo cáo năm tài chính đó đã được thông qua” (Khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Và đương nhiên khi rút vốn khỏi công ty thì đồng nghĩa với việc cá nhân đó không còn tư cách là thành viên hợp danh của công ty nữa.
- Chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết.
Trường hợp này, người thừa kế của thành viên đó được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Và người thừa kế chỉ được trở thành viên hợp danh của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận (Điểm h Khoản 1 Điều 134 Luật Doanh nghiệp).
- Bị Toà án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Thành viên hợp danh nắm vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi công việc từ quản lý nội bộ đến điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, đòi hỏi thành viên hợp danh là cá nhân phải có năng lực, do đó việc vắng mặt cũng như việc thành viên hợp danh bị mất hoặc hạn chế năng lự hành vi dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, vậy nên tư cách thành viên của ngời đó phải chấm dứt. Trong trường hợp này, phần vốn góp của người đó được hoàn trả công bằng và thoã đáng (Khoản 4 Điều 138).
- Bị khai trừ khỏi công ty.
Khi một công ty khai trừ, tức là thành viên hợp danh đó đã làm những việc không đúng, không đáp ứng yêu cầu và làm ảnh hưởng tiêu cực đến công ty, họ không còn xứng đáng là thành viên của công ty và bị chấm dứt tư cách thành viên. Khoản 3 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những trường hợp thành viên hợp danh bị khai trừ khỏi công ty, đó là: Không có khả năng góp vốn hoặc không góp vốn như đã cam kết sau khi công ty đã có yêu cầu góp vốn lần thứ hai; Vị phạm quy định tại Điều 133 Luật Doanh nghiệp; Tiến hành công việc kinh doanh không trung thực, không cẩn trọng hoặc có hành vi không thích hợp khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của công ty và các thành viên khác; Không thực hiện đúng các nghĩa vụ cuẩ thành viên hợp danh .
- Các trường hợp khác do điều lệ công ty quy định.
Như vậy, có thể nhận thấy thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản của công ty hợp danh, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của công ty, nắm giữ vai trò quan trọng trong quản lý và điều hành mọi công việc của công ty, đồng thời chịu chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ cũng như các nghĩa vụ của công ty hợp danh
2. Thành viên góp vốn:
Thành viên góp vốn có thể nói đây là loại thành viên “phụ” trong công ty hợp danh, sự có mặt của nó hay không đều không làm ảnh hưởng đến việc ra đời của một công ty hợp danh, nhưng sự xuất hiện của thành viên góp vốn sẽ làm thay đổi bản chất đối nhân tuyệt đối của công ty hợp danh, khi đó bản chất đó chỉ còn là tương đối.
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 đã quy định: “Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn”. Nói như vậy nghĩa là pháp luật Việt Nam đã ghi nhận loại thành viên này trong công ty hợp danh. Khác với thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân. Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vổn trong công ty hợp danh. Theo Khoản 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì mọi cá nhân, tổ chức đều có thể góp vốn vào công ty hợp danh, trừ các trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Về chế độ trách nhiệm, Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định như sau: “thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”. Như vậy thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Họ không phải liên đới chịu trách nhiệm với các thành viên khác, cũng như không phải dùng thêm một tài sản nào khác ngoài số vốn để thanh toán nợ khi công ty làm ăn thua lỗ. họ hưởng lợi nhuận dựa trên phần vốn góp và chỉ chịu rủi ro trong phạm vi phần vốn góp đó mà thôi. Nhưng tại điểm a khoản 2 Điều 140 quy định về thành viên góp vốn “phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”. Như vậy, ở đây có sự mâu thuẫn giữa hai điều luật trên, liên quan đến cụm từ “cam kết” và “đã góp”. Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Có thể thấy đây là thiếu xót lớn của Luật doanh nghiệp 2005, việc quy định như vậy sẽ dẫn đến tình trạng khó áp dụng khi cùng một văn bản chuyên ngành điều chỉnh lại có sự mâu thuẫn nhau: thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi toàn bộ số vốn họ cam kết góp hay chỉ trong phạm vi phần vốn đã góp?
Thành viên góp vốn chính là những nhà trợ lực về vốn tạo điều kiện cho công ty hợp danh mở rộng quy mô và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cũng trao cho họ những quyền hạn nhất định: Được tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên vê việc sữa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; Được chia lợi nhuận hằng năm tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty; Được cung cấp thông tin về kết quả và tình hình kinh doanh của công ty;…Nhưng pháp luật cũng quy định thành viên góp vốn trong công ty hợp danh không có quyền quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, không được nhân danh công ty để tiến hành hoạt động kinh doanh. Đây không phải là sự thể hiện bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử giữa hai loại thành viên, mà nó khá là hợp lý. Xuất phát từ sự phân công rõ ràng về trách nhiệm của mỗi loại thành viên trong công ty hợp danh: thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ và nghĩa vụ của công ty. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty, mọi rủi ro, nguy cơ mà công ty có thể sẽ gặp phải đều ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và quyền lợi của họ. Do đó, để đảm bảo cho sự an toàn của mình, đảm bảo quyền lợi cho bản thân cũng như cho cả công ty, nhằm tránh rủi ro có thể xảy ra, các thành viên hợp danh phải được nắm giữ quyền điều hành và quản lý công ty. Họ sẽ có trách nhiệm và cẩn thận hơn trong việc kinh doanh của công ty. Còn đối với loại thành viên góp vốn, dù công ty có làm ăn thua lỗ đến đâu thì họ cũng chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình, họ không phải mất thêm một tài sản nào khác cả. Có thể nói việc tham gia của loại thành viên này vào công ty hợp danh là khá an toàn bởi họ được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Với tinh thần khá thoải mái, được thì hưởng lợi, mất thì chỉ mất vốn, không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của mình nên thành viên góp vốn khó có thể điều hành và quản lý công ty một cách cẩn trọng và có trach nhiệm như loại thành viên hợp danh được. Do vậy nên pháp luật không trao cho họ quyền điều hành và quản lý công ty.
Nếu như thay đổi thành viên hợp danh là khó khăn và phức tạp, cũng như việc hạn chế quyền của loại thành viên này thì đối với thành viên góp vốn hoàn toàn ngược lại, sự có mặt hay vắng mặt của họ đều không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty hợp danh, nên việc thay đổi thành viên góp vốn khá dễ dàng. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, thành viên góp vốn được tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác, được nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác tiến hành kinh doanh các ngành, nghề đã đăng ký của công ty. Trong khi đó, các thành viên hợp danh không được phép chuyển nhượng phần vốn góp của mình nếu không có sự chấp thuận của cá thành viên hợp danh còn lại, và họ không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề của công ty.
Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá cụ thể về quy chế thành viên của công ty hợp danh. Theo đó, công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh nắm vai trò quản lý và điều hành trong công ty, chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ và khoản nợ của công ty. Ngoài thành viên hợp danh, công ty hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn, loại thành viên này không có quyền quản lý công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp đối với các nghĩa vụ của công ty.
III. Các vấn đề về vốn trong công ty hợp danh:
1. Về việc góp vốn vào công ty:
Công ty hợp danh là loại hình công ty mang bản chất đối nhân, yếu tố được quan tâm hang đầu là nhân than của các thành viên trong công ty chứ không phải là vốn. Chính vì bản chất đối nhân cùng với sự tồn tại hai loại thành viên trong công ty hợp danh mà việc góp vốn cũng tạo nên sự khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Theo Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”.
Nếu trong các loại hình đối vốn, phân vốn góp của các thành viên luôn được thể hiện dưới dạng vật chất như vàng, tiền bạc,…thì loại hinh công ty đối nhân như công ty hợp danh lại có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp quy định công ty hợp danh Việt Nam có hai loại thành viên là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Thành viên góp vốn là biểu hiện của tính đối vốn, khi mà sự xuất hiện của họ sẽ làm cho công ty hợp danh không còn mang bản chất đối nhân tuyệt đối, và cũng như các thành viên trong công ty đối vốn, phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh cũng được thể hiện dưới dạng vật chất. Nhưng sự khác biệt chính là ở loại thành viên hợp danh – vì nó chính là biểu hiện của tính đối nhân cơ bản trong công ty hợp danh, nên vấn đề nhân than luôn được gắn liền với loại thành viên này. Tài sản góp vốn của thành viên hợp danh có thể mang tính phi vật chất, gắn liền với nhân thân của họ như kinh nghiệm, bí quyết kinh doanh, uy tín,… Điều đó đã tạo nên một cơ cấu vốn đa dạng trong công ty hợp danh, nhằm phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác.
Phần vốn góp của thành viên hợp danh và thành viên góp vốn được chuyển quyền sở hữu cho công ty và ghi vào Điều lệ công ty, đó chính là vốn Điều lệ của công ty hợp danh. Ngoài vốn Điều lệ thì công ty hợp danh còn có các loại tài sản khác, đó là: Tài sản tạo lập được mang tên công ty; Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; và các tài sản khác theo quy định của pháp luật (Điều 132 Luật Doanh nghhiệp 2005).
Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Tại thời điểm góp đủ vốn như cam kết thành viên được cấp giấp chứng nhận phần vốn góp.
2. Về việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác:
Vì công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam tồn tại hai loại thành viên, nên vấn đề chuyển nhượng vốn cũng có sự khác nhau giữa hai loại thành viên này. Đối với thành viên hợp danh, phần vốn góp của họ thường gắn liền với nhân thân, do đó việc chuyển nhượng vốn là điều xem ra khó có thể thực hiện, bởi khi thành viên hợp danh chuyển nhượng phần vốn góp đó cho người ngoài công ty, có nghĩa là công ty sẽ phải tiếp nhận một thành viên hợp danh mới mà có thể người đó hoàn toàn không hề quen biết, điều này ảnh hưởng đến bản chất đối nhân của công ty hợp danh là yếu tố nhân thân luôn luôn được các thành viên quan tâm hàng đầu. Do đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định rất hạn chế việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên hợp danh cho người khác. Điều đó chỉ thự hiện được nếu có sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại (Theo Khoản 3 Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Còn đối với thành viên góp vốn trong công ty hợp danh, bởi tính chất đối vốn của nó nên việc chuyển nhượng phần vốn góp của loại thành viên này cho người khác là khá tự do và dễ dàng. Điều này cũng dễ hiểu bởi thành viên góp vốn chỉ là những trợ lực về vốn góp cho công ty, giúp công ty có khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của mình, việc thay đổi loại hình thành viên này cũng không làm ảnh hưởng đến cơ cấu nhân sự, sự tồn tại của công ty cũng như tính đối nhân của nó.
3. Về việc huy động vốn:
Khoản 3 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Công ty hợp danh không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào”.
Vấn đề huy động vốn là rất cần thiết khi công ty gặp khó khăn hoặc muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanhmà thiếu vốn. Việc Luật Doanh nghiệp quy định như vậy đã hạn chế rất lớn đến khả năng huy động vốn của công ty hợp danh. Khác với công ty hợp danh, pháp luật cho phép công ty cổ phần đựoc phát hành mọi loại chứng khoán để huy động vốn và chỉ không cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành cổ phần mà thôi. Đây tỏ ra là sự thiệt thòi của công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác đều được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh. Nhưng nếu xét về bản chất đối nhân của công ty hợp danh thì điều này trở nên hợp lý, ở công ty hợp danh yếu tố nhân thân luôn được coi trọng hàng đầu, việc thay đổi thành viên hợp danh là hết sức khó khăn và phức tạp, nếu cho phép công ty hợp danh phát hành và chào bán chứng khoán đồng nghĩa với việc sẽ có người ngoài mua và đương nhiên họ trở thành thành viên hợp danh của công ty mặc dù không có mối quan hệ nhân thân nào cả, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân - bản chất cơ bản của công ty hợp danh - một loại hình công ty đối nhân.
Nói như vậy không có nghĩa là công ty hợp danh không có khả năng huy động vốn. Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng vốn Điều lệ bằng cách tăng vốn góp của các thành viên trong công ty hoặc tiếp nhận thêm thành viên mới, kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn và trở thành thành viên góp vốn theo quy định của pháp luật và theo Điều lệ của công ty.
Tuy nhiên, Việc quy định công ty hợp danh không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào để huy động vốn là một thiệt thòi cho công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác. Điều này đã tạo ra một cơ chế cứng nhắc thiếu linh hoạt trong công ty hợp danh, đồng thời kìm hãm sự pháp triển của loại hình công ty đối nhân này.
4. Tư cách pháp lý của công ty hợp danh:
Khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Như vậy Luật Doanh nghiệp 2005 công nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là một điểm mới khác biệt so với Luật Doanh nghiệp 1999. Luật Doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh đã được công nhận là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Việc công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhằm tạo điều kiện bình đẳng cho công ty khi tham gia vào môi trường kinh doanh cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác. Cũng như tạo sự công bằng cho công ty hợp danh khi mà cùng được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh và ghi nhận là chủ thể kinh doanh hợp pháp nhưng công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân thì tại sao công ty hợp danh lại không có tư cách pháp nhân. Vì thế, Luật Doanh nghiệp 2005 đã lên tiếng nhằm bảo vệ quyền lợi cũng như địa vị pháp lý cho công ty hợp danh. Việc thừa nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là không mâu thuẫn gì với quy định pháp nhân trong Bộ Luật Dân sự 2005. Xét về vấn đề tài sản của công ty hợp danh: tài sản góp vốn của các thành viên được chuyển quyền sỡ hữu trở thành tài sản của công ty, tài sản được tạo lập trong hoạt động kinh doanh cũng là tài sản của công ty. Như vậy, tuy có ít nhất là hai thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty nhưng công ty hợp danh vẫn có khối tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác, tức là vẫn thoả mãn các dấu hiệu của pháp nhân trong luật Dân sự 2005. Rõ ràng, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí trách nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm nó là một cái gì đó khac hơn pháp nhân. Còn các thành viên của nó xét về mặt pháp lý là những người bão lãnh liên đới cho các hoạt động của công ty. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản của các thành viên.
5. Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành trong công ty hợp danh:
Là loại hình công ty đối nhân nên việc tổ chức nội bộ và quản lý trong công ty hợp danh mang nhiều nét khác biệt và đặc trưng so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Cơ quan quản lý cao nhất trong công ty hợp danh đó chính là Hội đồng thành viên. Luật Doanh nghiệp 2005 đã có nhiều tiến bộ khi quy định hội đồng thành viên trong công ty hợp danh bao gồm tất cả các thành viên: “Tất cả các thành viên hợp danh lại thành Hội đông thành viên” (Khoản 1 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2005), tức là thành viên hợp danh và cả thành viên góp vốn, chứ không chỉ có mỗi thành viên hợp danh mới được tham gia vào Hội đông thành viên như quy định trước đây tại Nghị định 03/2000/NĐ – CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 1999. Có thể nói Luật Doanh nghiệp 2005 đã mỡ rộng hơn cơ cấu của Hội đồng thành viên của công ty hợp danh so với văn bản trước đó, khi mà ghi nhận cả vai trò của loại thành viên góp vốn trong cơ quan quản lý cao nhất này. Nhưng xét về bản chất, Hội đồng thành viên trong công ty hợp danh không giống với Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn. Các thành viên của Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn đều có quyền tham gia biểu quyết, thảo luận các vấn đề quan trọng của công ty. Nhưng ở công ty hợp danh, trong Hội đồng thành viên, chỉ có thành viên hợp danh mới có quyền quyết định các vấn đề lớn của công ty, còn thành viên góp vốn tuy được tham gia vào hội đồng thành viên nhưng không có quyền quản lý, điều hành công ty, không được tham gia thảo luận, quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Thành viên góp vốn chỉ được tham gia vào những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ, còn những vấn đề chung quan trọng của công ty thì chỉ có thành viên hợp danh mới có quyền quyết định. Như vây, có thể thấy pháp luật cho phép thành viên góp vốn được tham gia vào Hội đồng thành viên của công ty hợp danh nhưng thực chất họ không có “thực quyền”, tức là có mặt trong có quan quản lý nhưng lại không có quyền quản lý.
Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (nếu Điều lệ công ty không có quy định khác). Vai trò của người đứng đầu công ty hợp danh cũng có sự khác biệt so với vị trí, vai tro của người đứng đầu công ty trách nhiệm hữu hạn,công ty cổ phần. Nếu chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có một vị trí quan trọng so với các thành viên khác trong công ty, có quyền thực hiện những công việc kinh doanh của công ty nhân danh chức vụ của bản thân thì Chủ tịch, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong công ty hợp danh là một thành viên hợp danh và không có quyền cao hơn các thành viên hợp danh còn lại, không có quyền tự quyết định một vấn đề gì nếu không có sự thông qua của Hội đồng thành viên. Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty hợp danh chỉ có quyền điều phối các hoạt động vạch sẵn, sự thoả thuận và nhất trí của tất cả các thành viên hợp danh. Nói cách khác, người nắm giữ các chức vụ quản lý trong công ty hợp danh đơn giản chỉ là một thành viên hợp danh với những quyền và nghĩa vụ như bao thành viên hợp danh khác.
Việc tiến hành họp Hội đông thành viên do Chủ tịch Hội đồng thành viên triệu tập hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên không triệu tậo họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh thì thành viên đó có quyền triệu tập họp hội đồng. Cuộc họp của Hội đồng thành viên phải được ghi vào sổ biên bản của công ty. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả các công việc kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ của công ty không quy định thì khi quyết định những vấn đề quan trọng phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận (Khoản 3 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2005). Còn khi quyết định những vấn đề khác không quan trọng thì chỉ cần ít nhất hai phần ba tổng số thành viên hợp danh chấp thuận. Tỉ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Việc quy định tỉ lệ tối thiểu của thành viên hợp danh trong các quyết định của công ty đã cho thấy vai trò quan trọng của thành viên hợp danh trong Hội đồng thành viên nói riêng và trong công ty nói chung, thành viên góp vốn không được nhắc đến trong tỉ lệ đó đồng nghĩa với việc vai trò của họ không được nhắc đến trong việc quản lý công ty, họ nhất trí hay không nhất trí đều không quan trọng. Khi tham gia họp, thảo luận những vấn đề của công ty mỗi thành viên hợp danh có một phiếu biểu quyết hoặc có số biểu quuyết khác quy định tại Điều lệ công ty. Quyền tham gia biểu quyết của thành viên góp vốn bị hạn chế hơn, họ chỉ được “Tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sữa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sữa đổi, bổ sung các quyền và gnhĩa vụ của thành viên góp vốn, về tổ chức lại và giải thể công ty và các nội dung khác của Điều lệ công ty có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ” (Điểm a Khoản 1 Điểu 140 Luật Doanh nghiệp 2005). Như vậy, để thấy rằng trong công ty hợp danh, các thành viên hợp danh mới là người có quyền quản lý công ty, còn các thành viên góp vốn tuy được tham gia vào cơ quan quảm lý cao nhưng lại hoàn toàn không có quyền quảm lý.
Việc điều hành các công việc kinh doanh của công ty, các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hang ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hang ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó biết được về hạn chế đó. Trong khi điều hành, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức danh quản lý và kiểm sát công ty. Khi một số hoặc tất cả các thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa sô. Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã dăng ký của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp đó đã được các thành viên còn lại chấp thuận. Chủ tịch Hội đông thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có nhiệm vụ quản lý và điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty với tư cách là thành viên hợp danh; phân công, phối hợp công việc kinh doanh giữa các thành viên hợp danh; đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kịên, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác…(Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2005). Có thể thấy trong việc điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, vai trò của thành viên góp vốn hầu như không được nhắc đến.
Như vậy, trong công ty hợp danh Hội đồng thành viên là cơ quan có quyền hạn cao nhất, trong đó, các thành viên hợp danh nắm giữ mọi quyền hành đối với việc quản lý và điều hành các công việc kinh doanh của công ty. Pháp luật đã công bằng khi cho thành viên góp vốn cũng được tham gia vào cơ quan quảm lý cao nhất nhưng lại không trao cho họ quyền quản lý và điều hành công ty, họ có mặt trong cơ quan quảm lý với tư cách thành viên công ty nhưng lại không có quyền quản lý. Đây là một vấn đề cần nhìn nhận và xem xét nhằm bảo đảm quyền lợi cho loại thành viên góp vốn trong công ty hợp danh.
Kết luận
Tóm lại, qua phần trình bày trên đã phần nào làm sáng tỏ những quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh. Ta thấy đến Luật Doanh nghiệp 2005 công ty hợp danh đã được quy cụ thể và rõ ràng hơn. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho các nhà đầu tư tham gia vào hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi hơn. Đồng thời qua việc bình luận các quy định của pháp Luật doanh nghiệp 2005 về cnng ty hợp danh, có thể nhận thấy rằng, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác được luật doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh, công ty hợp danh cũng có những nét đặc thù và những ưu thế riêng, gốp phần thúc đẩy nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận các quy định của Luật doanh nghiệp (2005) về công ty hợp danh.doc