Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế đang vận động không ngừng đòi hỏi từng quốc gia phải từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, để giảm khoảng cách của sự nghèo nàn với các nước tư bản phát triển. Đặc biệt trong những năm gần đây khu vực CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG là khu vực kinh tế có thể nói là năng động nhất trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực này và cũng chịu ảnh hưởng của quy luật phát triển. Trong mỗi quốc gia thì đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác vào cuộc sống. Hoạt động đầu tư phát triển có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện cùng với sự tác động của nhiều nhân tố . Chính sự khác nhau đó tạo nên cơ cấu đầu tư. Vì vậy có thể nói cơ cấu đầu tư là khung xương của đầu tư phát triển. Cơ cấu đầu tư có hợp lý và vững chắc thì hoạt động đầu tư phát triển mới có thể đạt được hiệu quả cao. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển cũng như cơ cấu đầu tư hợp lý như vậy nên trong những năm vừa qua đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển, tuỳ vào từng điều kiện bên trong và bên ngoài mà xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Tuy vậy, việc thu hút, sử dụng và phân bổ vốn đầu tư phát triển vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cơ cấu đầu tư chưa tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất đòi hỏi cần phải tìm hiểu nghiên cứu để có được sự đánh giá về những kết quả đã đạt được, những hạn chế từ đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm điều chỉnh và xây dựng cơ cấu đầu tư Việt Nam ngày càng hợp lý hơn. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng em xin mạnh dạn đưa ra một vài nhận xét và giải pháp chủ quan của mình nhưng do khả năng có hạn, chúng em không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót, mong thầy thông cảm và góp ý cho chúng em!

pdf61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trung bình cả nước. Thứ hai là tình trạng di cư. Miền Trung là nơi có tỉ lệ di cư cao nhất cả nước. Lý do di cư quan trọng nhất là tình trạng thiếu cơ hội việc làm ở địa phương, mức sống thấp và thiếu đất canh tác... Điều đáng lo ngại là những người có trình độ cao thường có xác suất di cư cao, dẫn đến tình trạng thiếu nhân công có kiến thức và trình độ kỹ thuật. - Nguyên nhân: Nguyên nhân đầu tiên là giáo dục và dạy nghề, cụ thể là học vấn và trình độ kỹ thuật của lực lượng lao động. Tỉ lệ lao động của VKTTĐ miền Trung có mức học vấn thấp hơn mức trung bình của cả nước và thấp hơn nhiều so với hai VKTTĐ phía Bắc, phía Nam. Trình độ kỹ năng của lao động cũng vậy. Nguyên nhân thứ hai là sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng (CSHT) điện, nước, đường sá, viễn thông, Internet... Bên cạnh đó, sự dư thừa công suất về cảng biển và sân bay cũng là một nguyên nhân dẫn tới sự kém hiệu quả trong khai thác CSHT. Trong các cảng tổng hợp của miền Trung có lẽ chỉ có cảng Quy Nhơn và Đà Nẵng tiệm cận tới mức độ hiệu quả, còn các cảng khác đều rơi vào tình trạng dư thừa công suất. Thêm vào đó, lưu ý rằng Sài Gòn hay Bà Rịa - Vũng Tàu mới là nơi có nhiều khả năng nhất để đón nhận tàu mẹ (mother feeders), và điều này đẩy các cảng biển miền Trung vào vị thế bất lợi về chi phí và cạnh tranh. c) Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.( Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm trong nước) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của vùng sẽ tăng từ khoảng 1,2 lần giai đoạn 2006-2010 lên 1,25 lần giai đoạn 2011-2020 so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Tăng giá trị xuất khẩu bình quân đầu người từ 149 USD năm 2005 lên 375 USD vào năm 2010 và 2.530 USD năm 2020. Các trung tâm du lịch Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vùng phụ cận miền Trung và Tây Nguyên sẽ dần hình thành cùng với các công trình lớn về kết cấu hạ tầng để gắn kết khu vực này với các vùng lân cận góp phần thực hiện hành lang Đông-Tây của tiểu vùng Mê Kông mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển khu tam giác biên giới 3 nước Việt Nam-Lào- Campuchia. TP Đà nẵng sẽ trở thành trung tâm của miền Trung có dân số từ 1 triệu người vào năm 2010, gần 2 triệu người vào năm 2020 với các cảng biển, sân bay quốc tế xuyên Việt, xuyên Á. Đà Nẵng sẽ là đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển và vận tải quốc tế của miền Trung, Tây Nguyên và các nước khu vực sông Mê Kông. Tại đây sẽ xây dựng khu sinh dưỡng công nghiệp (chuyên nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, công nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp), các trung tâm tài chính, ngân hàng, chứng khoán và bưu chính viễn thông của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm văn hoá, giáo dục, đào tạo, trung tâm khoa học công nghệ miền Trung… Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình "khu trong khu". Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm thể chế, chính Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 47 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Sân bay Chu Lai sẽ được đầu tư phục hồi và nâng cấp giai đoạn 1 phục vụ nửa triệu lượt hành khách và khoảng 500 tấn hàng hoá/năm. Về lâu dài đây sẽ là sân bay quốc tế trung chuyển của vùng và của khu vực. Đồng thời tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp mở rộng sân bay Đà Nẵng. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu kinh tế tổng hợp đa ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập trung phát triển công nghiệp lọc dầu-hoá dầu-hoá chất, từng bước phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản xuất container…bên cạnh đó sẽ phát triển hệ thống giao thông liên khu với 10 bến cảng dầu khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn sóng, đê chắn cát… Khu kinh tế- thương mại Chân Mây (Thừa Thiên Huế), trước mắt phát triển cảng Chân Mây. Trong giai đoạn 2006-2010 xây dựng trung tâm thông tin quốc tế, cùng hệ thống dịch vụ thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng, và các ngành nghề khác. Giao thông cảng biển sẽ là huyết mạch: Trước mắt, nâng cấp cảng Tiên Sa, đưa năng lực thông qua trên 4 triệu tấn/năm vào năm 2010, cùng với việc xây dựng cảng nước sâu Liên Chiểu có công suất 2 triệu tấn/năm (giai đoạn 1) và 8,5 triệu tấn/năm (giai đoạn 2), đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng Dung Quất, Kỳ Hà, Quy Nhơn. Theo dự báo đến năm 2010, số lượng bến bãi sẽ tăng thêm để bảo đảm lượng hàng thông qua vào khoảng 4 triệu tấn/năm.  KHU CÔNG NGHIỆP DUNG QUẤT: Khu kinh tế Dung Quất đang trở thành hình ảnh năng động của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với “đại công trường”... Cuối năm 2005, Dung Quất chưa hề có tên trong danh sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng đến nay, khu kinh tế này đã xếp vị trí thứ 5 trong cả nước về thu hút vốn FDI. Hiện Dung Quất đã thu hút 110 dự án với số vốn đầu tư đến 5,5 tỉ USD. Tính đến tháng 8/2009, tại Khu kinh tế Dung Quất đã có 147 dự án được chấp thuận đầu tư, với tổng vốn đăng ký khoảng 10 tỷ USD; trong đó có 113 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 7,6 tỷ USD; số vốn đã thực hiện khoảng hơn 4,1 tỷ USD. Hiện nay, Dung Quất được đánh giá là khu kinh tế thành công nhất trong cả nước. Chỉ trong 3 năm qua (2006-2008) Dung Quất đã đóng góp gần 50% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, và đưa Quảng Ngãi từ một tỉnh có thu nhập thấp kể từ năm 2005 trở về trước (500 tỷ đồng năm 2005) trở thành thành viên của “Câu lạc bộ 1.000 tỷ” vào năm 2006. Năm 2008 thu ngân sách đạt 1.610 tỷ và dự kiến năm 2009 đạt 6.220 tỷ đồng. Nổi bật là cụm công nghiệp nặng Doosan của Hàn Quốc (vốn 260 triệu USD) đã khởi công xây dựng từ cuối năm 2006 và Tập đoàn thép Tycoon của Đài Loan (vốn 1 tỉ USD) đang tập trung san ủi mặt bằng, chuẩn bị khởi công; Nhà máy đóng tàu Dung Quất (vốn 700 triệu USD), phân xưởng sản xuất hạt nhựa polypropylen sau lọc dầu (vốn 200 triệu USD)... Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất là một dự án mang tầm quốc gia do Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nay là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam làm chủ đầu tư. Với tổng mưć đầu tư là hơn 3 tỉ USD (khoảng 40.000 tỉ đồng). Và ngày 24 tháng 2 năm 2009 mẻ dầu đầu Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 48 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam tiên của nhà máy đã ra đời, nó đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quá trình phát của ngành dầu khí Việt Nam. CHƯƠNG III : HẠN CHẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1.Những hạn chế trong cơ cấu đầu tư ở Việt nam 1.1. Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây. Hầu hết các dự án được cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy được cải thiện nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và còn nhiều bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước; có tình trạng cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương, vấn đề quản lý còn nhiều bất cập… Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân được 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết; tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân đạt thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như chậm giải phóng mặt bằng, các Bộ ngành và địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước, bộ máy quản lý còn nhiều hạn chê.́.. 1.2. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả. Trong nông nghiệp: chủ yếu vẫn tập trung đầu tư vào thủy lợi (chiếm khoảng 70% vốn đầu tư của ngành), mà chưa chú ý nhiều đến đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp như đầu tư phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đầu tư cho hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, chế biến nông sản, mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp. Chưa quan tâm đúng mức đến công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn do chưa đầu tư tương xứng để phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển trang trại, làng nghề truyền thống nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này còn khiêm tốn. Trong công nghiệp: cơ cấu đầu tư cho công nghiệp chiếm 43% trong tổng số đầu tư toàn xã hội là thấp, chưa đủ để phát triển và cơ cấu lại ngành công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp để có thể hội nhập, trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt; hiện tượng đầu tư theo phong trào, theo lợi nhuận trước mắt còn tồn tại, lãng phí vốn, tài nguyên, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành cơ khí, đầu tư công nghiệp đóng tầu, chế tạo máy công cụ, máy phục vụ nông nghiệp, chế biến nông Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 49 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam sản... Đầu tư chưa gắn chặt với chuyển giao công nghệ và phát triển công nghệ cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của một số lĩnh vực công nghiệp chế biến. Về giao thông vận tải: chủ yếu vẫn tập trung vào giao thông đường bộ (chiếm trên 70% vốn đầu tư của ngành), trong đó lại tập trung chủ yếu hệ thống đường quốc lộ; hệ thống đường giao thông nông thôn, vùng kinh tế khó khăn chưa được đầu tư thoả đáng để phát huy hiệu quả chung; đầu tư phát triển phương tiện vận tải còn ở mức thấp. Đầu tư cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực còn ở mức thấp, chưa gắn chặt với chiến lược phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế. Cơ cấu vùng: mặc dù những năm qua đã cố gắng điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, nhưng tỷ lệ đầu tư của các vùng miền Núi phía Bắc, Duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên vẫn còn ở mức khiêm tốn (chỉ ở mức từ 8 đến 12% tổng mức đầu tư toàn xã hội), vốn đầu tư vẫn tập trung cao ở các vùng Đồng bằng sông Hồng (khoảng 24%) và vùng Đông Nam bộ (khoảng 27%). Đầu tư cho các công trình liên vùng, liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương. Các công trình, dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giải ngân chậm, thời gian thực hiện dự án kéo dài, nợ quá hạn, lãi đến hạn trả chưa trả được có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn; chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tại hệ thống Quĩ Hỗ trợ phát triển còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đặc biệt là dự báo sự biến động của thị trường, ảnh hưởng lớn đến việc xác định hiệu quả của dự án. 1.3. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ vững chắc, nhất là các thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp... Quản lý nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch trong phạm vi cả nước; thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch. Nhiều cơ quan nhà nước, nhiều cá nhân có trách nhiệm chưa quan tâm đúng mức và chưa nhận thức đúng đắn về công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm... Quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chưa được thể chế hoá; phương pháp lập quy hoạch chưa thống nhất; thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập các quy hoạch ngành, nên xảy ra tình trạng chồng chéo và không ăn khớp giữa quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thiếu quy chế phê duyệt thống nhất. Nhận thức về quy hoạch trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điểm chưa thống nhất; việc phân định nội dung cũng như phạm vi giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng còn nhiều điểm chưa rõ. Các quy hoạch ngành, tuy đã xác định rõ hơn những ngành thuộc loại quy hoạch "mềm" và quy hoạch "cứng", nhưng ngay đối với các ngành sản phẩm chủ lực cần được lập quy hoạch cũng chưa được xác định ở cấp nhà nước. Nguyên nhân của tình hình nêu trên có nhiều nhưng trước hết phải kể đến công tác điều tra cơ bản chưa đủ, thông tin phục vụ nghiên cứu quy hoạch thiếu, lực lượng nghiên cứu Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 50 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam quy hoạch hạn chế; công tác dự báo và xử lý liên ngành, liên vùng yếu; công tác chỉ đạo quy hoạch chưa đúng mức. Quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, quy hoạch của từng tỉnh ít gắn kết với nhau. Quy hoạch phát triển ngành chưa thể hiện cụ thể trên các địa bàn lãnh thổ của các tỉnh, thành phố. Mặt khác trong khi có một số quy hoạch ngành đã thể hiện trên lãnh thổ nhưng quy hoạch tỉnh, thành phố chưa căn cứ vào quy hoạch ngành bố trí trên lãnh thổ của mình. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, một số ngành, một số địa phương còn tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của quy hoạch sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều quy hoạch sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã không kịp thời triển khai các quy hoạch cụ thể, quy hoạch chi tiết để tiến hành đầu tư, dẫn tới có tình trạng quy hoạch "treo". Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng thấp vẫn được thông qua. 1.4. Bố trí đầu tư còn dàn trải. Nhìn chung, bố trí vốn đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C. Nguyên nhân của tình trạng trên là: Về trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương: Nhu cầu đầu tư còn có khoảng cách rất lớn so với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, khi bố trí cụ thể bị căng kéo bởi quá nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, khi xem xét để quyết định dự án đầu tư mới chưa nghiêm chỉnh chấp hành đúng các quy định trong việc xét duyệt một dự án đầu tư. Nhiều dự án chưa được xem xét kỹ, hiệu quả, tính khả thi thấp. Trên thực tế, số lượng dự án các Bộ, ngành và địa phương phê duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách hàng năm của Nhà nước. Ngoài ra, trong việc bố trí, phân bổ vốn đầu tư cho các dự án, không loại trừ có trường hợp do nể nang, do quan niệm vốn ngân sách là phải chia đều giữa các huyện, xã, dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải còn tiếp diễn. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý: còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. Việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cho các Bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối mạnh. Tuy nhiên, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện tại thiếu các chế tài, những quy định cụ thể (kể cả biện pháp hành chính) nhằm kiểm soát và hạn chế được việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đáp ứng được các yêu cầu theo quy định, một mặt do đội ngũ cán bộ chưa được chuẩn bị chu đáo, cán bộ nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm, năng lực còn hạn chế, chưa có hệ thống thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Mặt khác, lãnh đạo ở một số Bộ, ngành và địa phương cũng chưa nhận thức đầy đủ được vị trí, vai trò của công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong quản lý đầu tư nói chung. 1.5. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư và xây dựng vẫn còn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Còn có những biểu hiện tiêu cực trong quản lý đầu tư và thi công công trình. Chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư. Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 51 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư; hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đất đai chưa đồng bộ; chưa xác định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước; phân công, phân cấp chưa rõ ràng. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức, không phù hợp với thực tế sử dụng. Sử dụng đơn giá, định mức không theo quy định làm tăng khối lượng vốn đầu tư, tăng dự toán công trình. Còn những biểu hiện tiêu cực trong quản lý và thi công công trình, nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng số lượng, điều chỉnh dự toán rút tiền và vật tư của công trình. Nhiều dự án đầu tư không theo quy hoạch, điều tra khảo sát thị trường không kỹ, chưa quan tâm sâu sát đến đầu ra của sản phẩm, dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoài ra, trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn còn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Chất lượng của các tổ chức tư vấn đầu tư còn thấp; khi xây dựng dự án và thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán chưa dựa vào các quy chuẩn, đơn giá, định mức... gây nên lãng phí lớn. Năng lực của các chủ đầu tư không phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý; không kiểm tra, giám sát được các tổ chức tư vấn, các nhà thầu. Công tác giám sát thi công còn mang tính hình thức. 1.6. Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc. Nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghìn tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng). Nguyên nhân của tình trạng nợ đọng: Khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40-50% nhu cầu; do sự cấp bách phải thực hiện một số mục tiêu quan trọng của các địa phương, một số công trình, dự án thuộc các ngành thủy lợi, giao thông phải khẩn trương thi công ngay trước mùa mưa lũ, phải vay mượn hoặc ứng trước vốn để thi công. Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông, thủy lợi, bên A, cơ quan cấp phát vốn, cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt, nên nhiều nhà thầu tích cực ứng trước vốn để thi công. Các Bộ ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan như hiện nay. Nhiều Bộ, ngành và địa phương còn tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý. Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 52 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam 1.7. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay. Công tác quản lý đầu tư và xây dựng còn nhiều thiếu sót, buông lỏng. Mặc dù Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh cho cấp Bộ ngành, tỉnh và thành phố theo quy định tại Nghị định 07/CP; tuy nhiên, công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng. 1.8. Những tồn tại trong công tác đấu thầu, trong giám sát và đánh giá đầu tư. Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều chủ dự án chưa chủ động, chỉ dựa vào ý kiến của tư vấn, không xem xét kỹ kết quả trước khi trình duyệt, dẫn đến những sai sót không đáng có trong quá trình thực hiện. Cấp có thẩm quyền chưa chỉ đạo sát sao, quản lý công tác đấu thầu chưa chặt chẽ. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trình xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện. Đây cũng là yếu tố dẫn tới lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng. Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cơ sở ký hợp đồng sẽ có thể dẫn đến thất thoát. Hiện nay còn thiếu các quy định về chế tài, trách nhiệm lập và duyệt đối với báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện. Một số nội dung trong Quy chế Đấu thầu chưa được cụ thể hoá về: mẫu hoá các nội dung trong quá trình đấu thầu, hình thức áp dụng; quy định về khiếu nại trong đấu thầu. Công tác đào tạo trong đấu thầu còn bất cập, thiếu các Trung tâm đào tạo thường xuyên cán bộ về đấu thầu, làm giảm hiệu quả triển khai công tác này. Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các đơn vị Bộ, ngành, 40% các tỉnh, thành phố có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Đối với việc giám sát và đánh giá đầu tư của các chủ đầu tư còn rất hạn chế, chỉ có 30% các chủ Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 53 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. 1.9. Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp. Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yêu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán. Các chủ đầu tư, nhất là chủ đầu tư, các ban quản lý dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa khẩn trương cùng các nhà thầu hoàn tất các thủ tục nghiệm thu, thanh quyết toán. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành nghiệm thu, đưa vào sử dụng trong nhiều năm nhưng không quyết toán công trình. 2. Định hướng đổi mới cơ cấu đầu tư trong thời gian tới (2008-2015): Thứ nhất : Đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời động viên mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển. Đối với vốn đầu tư của nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển. Mục tiêu là kinh té nhà nước phải thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế , đồng thời phải giải quyết căn bản được các vấn dề xã hội , mở đường, hỗ trợ và hướng dẫn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi nhà nước, là lực lượng vật chất có iệu quả để Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Thứ hai : Đổi mới cơ cấu đầu tư phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Mục tiêu của chính sách công nghiệp hóa trong giai đoạn tới là phải làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế xã hội. Công nghiệp hóa trong thời kỳ này cũng phải dựa trên cơ sở của kinh tế thị trường. Sự thay đổi cơ cấu đầu tư phải nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi các quá trình công nghiệp hóa, góp phần làm chuyển dịch một cách sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, khác phục sự mất cân đối giữa các vùng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và nâng cao mức sống nhân dân. Thứ ba : Coi trọng quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường , phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở, đồng thời đảm bảo vai trò quản lý nhà nước. Trong quá trình xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý, phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên đổi mới theo hướng hạn chế những quyết định đầu tư theo kiểu hành chính. Mở rộng quyền cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở định hướng Nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng nghiên cứu và nhu cầu của tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu, ảnh hưởng đến tình hình dầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian vừa qua . Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cần giảm các công việc quản lý hành chính, can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 54 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam cụ thể mà tập trung sức làm tốt việc dự báo, cung cấp thong tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác đầu tư ở cơ sở . Thứ tư : Đổi mới cơ cấu đầu tư đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng và xây dựng các vùng trọng điểm. Để tạo thế và lực trong phát triển, câǹ xây dựng một số VKTTD. Giữa các vùng vừa tận dụng lợi thế của mình vừa tạo nên sự liên kết, thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân sô,́ phát triển, giải quết viêc̣ làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng cao khả năng tích lũy nhằm phát triển kinh tê.́ Để đảm bảo sự hợp lý khi xác định cơ câú đầu tư giữa các vùng, cần xem xét các đặc tính Xã hội, các điều kiện kinh tê,́ cać điều kiện tự nhiên. Trong điều kiện hiện tại, khu vực cać thành phố lớn vẫn là trung tâm phát triển Công nghiệp. Vùng này dân số chi ̉ chiếm khoảng 14% nhưng đã thu hút hơn 70% vốn đầu tư tư nhân. Do vậy trong thời gian tới việc huy động vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng mở rộng liên kết với cać tỉnh lân cận, hình thành cać vùng kinh tế trọng điểm, có khả năng phát triển và có lợi thế so sánh, tạo sức mạnh caṇh tranh trên thị trường quốc tê.́ Các VKTTD sẽ là đầu tàu phát triển của cả quốc gia. Thứ năm : Phân công lại lao động giữa cać vùng và trong từng vùng bằng cách phát triển những ngành thu hút nhiều lao động nhằm tranh thủ lợi thế cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế bởi giá lao động của nước ta thấp hơn so với các nước khác. Việt nam là một nước đông dân( đứng thứ 13 trên thế giới) nên có một nguồn lao động dồi dào khoảng 35-40 triệu, đây là nguồn lực, tiềm lực to lớn để phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, tốc đô ̣ phát triển kinh tế khá cao, tuy nhiên trong lĩnh vực lao động còn nhiều vấn đề bức xuć. Ty ̉ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị khá cao 6,44%, trên 1/3 qũi thời gian của lao động nông chưa sử dụng hết, sự phân bố lao động giữa cać vùng, các khu vực kinh tế còn chưa hợp ly,́ chưa tạo điều kiện cho việc phát huy tốt nhất lực lượng lao động. Tình trạng phân công lao như vậy hiện nay ở nước ta đang là một trở ngại lớn cho viêc̣ khai thać các nguồn lực, tài nguyên, đất đai, nguồn vốn, khoa hoc̣ công nghệ và cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có và việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với tỉ lệ lao động trong khu vực I là 68% và thời gian nhàn rỗi nhiều đến 1/3 quĩ thời gian lao động thì thất nghiệp vô hình trong nông nghiệp là rất lớn và chỉ đóng góp 22% GDP của toàn xã hội. Khu vực II chỉ chiếm 13% lực lượng lao động, khu vực III là 19% nhưng đóng góp vào GDP tương ứng là 41%, 36%. Khu vực II và III có tôć độ phát triển cao 14%-16% đối với công nghiệp và trên 20% đối với dic̣h vụ. Hướng phân công lại lao động giữa cać vùng, trong từng vùng bằng caćh phát triển những ngành thu hút nhiều lao động nhằm tranh thủ lợi thế so sańh trong hội nhập quốc tê.́ Cần đầu tư cho phát triển nông nghiệp một cách thỏa đáng để biến nông nghiệp thành một ngành sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp để có thể rut bớt lao động bổ sung vào cać ngành khać. Cũng cần tập trung đầu tư vào những ngành công nghiệp có suất đầu tư thấp bởi suất đầu tư thấp thì hiệu quả caṇh tranh sẽ cao hơn do thu hút được nhiều lao động như ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiêp thực phẩm, công nghiệp nhe,̣ công nghiệp may mặc, da giày… Ngoài ra ngành dich vụ du lịch cũng có thể thu hút được nhiều lao động nên trong thời gian tới chúng ta câǹ phải khai thác hơn nữa đối với ngành này. Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 55 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam Thứ sáu : Cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng hơn, mềm dẻo hơn để thu hút dòng vốn FDI. Đồng thời chú trọng khai thác tiềm năng vốn trong dân cư và khu vực tư nhân: Trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì quan hệ với nước như Nhật Bản, cać nước NICs, đồng thời mở rộng quan hệ với các đối tác mới ở khu vực Châu Âu, Châu My,̃ cać công ty đa quôć gia, các tập đoàn kinh tế lớn để thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt Nam. Tiếp theo nữa là câǹ phải cải thiện chính saćh đầu tư và môi trường đầu tư thông thoáng hơn để thu hút vốn FDI. Thứ bảy : Đầu tư hơn nữa cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ để xây dựng nguồn nhân lực đất nước hướng tới nền kinh tế tri thức. Một trong những hướng sinh lời nhiều nhất trong tương lai là đầu tư cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ. Đầu tư cho giáo duc̣ đào tạo, khoa học công nghệ là đầu tư xây dựng nguồn nhân lực cho đất nước. Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng chưa được cao. Xấp xỉ 68% nguồn nhân lực tập trung vào nông nghiệp, điều này phản ánh cơ cấu nhân lực của nền kinh tế còn lạc hậu. Điều này làm cho chính phủ cần phải có những chính saćh khuyến khích hoạt động đào tạo nâng cao kĩ năng nghề nghiệp cho người lao động để tạo ra đội ngũ lao động tốt phục vụ cho công cuôc̣ Công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta. Tăng chi phí đào tạo nghiên cứu khoa học công nghệ, tập trung vào phát triển cać ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành có hàm lượng trí tuệ và tri thức ở mực độ cao cũng như không nên tập trung vào những ngành trên thị trường đã bão hòa. Đầu tư mạnh mẽ cho giáo duc̣ đào tạo, khoa học công nghệ để xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam đủ năng lực, đưa nền kinh tế nước ta tới nền kinh tế tri thức. Thứ 8: Định hướng các ngành công nghiệp chủ chốt - Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh Nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh là nhóm ngành đáp ứng tốt các tiêu chí về năng lực sản xuất, về giá cả, chất lượng và thị trường, đồng thời tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước (về lao động, về tài nguyên...) và có khả năng phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Căn cứ vào thực tế phát triển và vai trò của các nhóm ngành công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước giai đoạn 2001-2005; vào điều kiện của Việt Nam trong việc đầu tư phát triển cũng như tiềm năng phát triển của các nhóm ngành trong tương lai cả ở thị trường trong nước và thế giới, trong giai đoạn tới một số ngành sản xuất quan trọng sẽ được tập trung các nguồn lực gồm: chế biến nông lâm thuỷ sản, dệt may, da giày, lắp ráp cơ điện tử, đóng tàu. Đây là những ngành khai thác được lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (chế biến nông lâm thuỷ hải sản), giải quyết được nhiều việc làm, có nhu cầu thị trường lớn, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển (khu vực tư nhân, đầu tư nước ngoài...), đáp ứng được định hướng lấy xuất khẩu làm động lực phát triển trong giai đoạn 2006-2010. Định hướng chung cho nhóm ngành này trong 5 năm tới phải chuyển dịch theo hướng tăng giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm dần tỷ lệ gia công, tăng cường khâu thiết kế (dệt may, da giày, lắp ráp cơ điện tử) và trình độ đội ngũ lao động, tăng cường chuyển giao công nghệ, trang thiết bị để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trong giai đoạn hội nhập sắp tới. Tiếp tục huy động nguồn vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài để phát triển nhóm ngành. Riêng với cơ khí đóng tàu, cần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ để Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 56 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam phát triển trong giai đoạn tới, đồng thời đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thép tấm dùng cho cơ khí đóng tàu để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá cho sản phẩm. Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của dệt may phấn đấu đạt 9-10 tỷ USD, sản xuất được 1.400 triệu m2 vải lụa các loại, tạo được bước chuyển dịch cơ bản về cơ cấu sản phẩm, tăng dần sản phẩm có giá trị cao, hàng mốt thời trang, tăng dần tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu. Đối với da giày, cần duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân trên 10%/năm; đến năm 2010 đạt sản lượng trên 620 triệu đôi giày dép các loại, kim ngạch xuất khẩu đạt 6,2 tỷ USD. Đối với cơ khí đóng tàu, phấn đấu đến năm 2010 nâng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm lên 60% (hiện là 30%), nghiên cứu đầu tư đóng mới được tàu dầu có trọng tải đến 100.000 tấn, sửa chữa được tàu có trọng tải 400.000 tấn; chế tạo và lắp ráp được động cơ tàu thuỷ có công suất lớn. Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm điện tử, linh kiện và phầm mềm đạt 3,5 tỷ USD vào năm 2010. Lĩnh vực chế biến nông lâm thuỷ sản, tập trung nâng cao năng lực chế biến các sản phẩm từ nông lâm nghiệp như xay sát gạo, chế biến thức ăn sẵn, chế biến hải sản, hạt điều, chè, cà phê, chế biến gỗ... Tiếp tục nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ, cà phê, chè, hạt điều, gạo... -Nhóm ngành sản xuất tư liệu sản xuất: Đây là nhóm ngành công nghiệp có vai trò quan trọng, tăng khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế gồm: điện, dầu khí, than, hoá chất cơ bản, khai khoáng, cơ khí. Nhóm ngành này được coi là cơ sở, nền tảng cho toàn ngành công nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung, có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, cung cấp các đầu vào cơ bản về nguyên nhiên liệu, máy móc, thiết bị phụ tùng, ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành cũng như chất lượng của các loại sản phẩm công nghiệp. Tập trung phát triển nhóm ngành này chính là tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và ngành công nghiệp tiềm năng phát triển. Định hướng phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn tới là tập trung hoàn thành đúng tiến độ các dự án trọng điểm của ngành để đảm bảo đáp ứng cho các nhu cầu trong nước, tăng cường đầu tư chế biến sâu, nâng cao dần giá trị gia tăng trong sản phẩm, khai thác nguồn tài nguyên trong nước có hiệu quả, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động và chống ô nhiễm môi trường sinh thái. Trong giai đoạn tới, mục tiêu phát triển cụ thể của các ngành như sau: đối với ngành điện, tăng trưởng sản lượng điện sản xuất bình quân khoảng 15-17%/năm, đạt 106-118 tỷ kWh vào năm 2010. Ngành dầu khí phấn đấu gia tăng trữ lượng xác minh hàng năm khoảng 30 - 35 triệu tấn dầu quy đổi, đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu xăng dầu và 20- 30% nhu cầu chất dẻo, tổng sản lượng khai thác dầu thô vào năm 2010 khoảng 19-20 triệu tấn, khai thác khí khoảng 11 tỷ m3. Ngành than tăng sản lượng than sạch lên 40 triệu tấn vào năm 2010. Ngành thép cần đảm bảo sản lượng thép sản xuất trong nước đạt 6,3-6,5 triệu tấn vào năm 2010, cân đối được 50% phôi cho cán thép xây dựng thông thường (khoảng 2,5 triệu tấn). Ngành hoá chất cơ bản đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 14%/năm, đáp ứng 100% nhu cầu phân lân, NPK, khoảng 70-80% nhu cầu phân đạm urê cho nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng hoá chất cơ bản và sản phẩm hoá dầu. Ngành khai khoáng tập trung vào các dự án khai thác bauxit và sản xuất alumin ở Lâm Đồng, chế biến sâu quặng titan và các dự án sản xuất kẽm, chì ở Thái Nguyên. Ngành cơ Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 57 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam khí phấn đấu nâng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm lên 60% vào năm 2010, đáp ứng khoảng 50% nhu cầu chế tạo thiết bị cho nền kinh tế, nhất là thiết bị toàn bộ cho các ngành xi măng, giấy, chế biến lương thực, thực phẩm như chế biến tinh bột sắn, các thiết bị phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp, các thiết bị cho nhà máy thuỷ điện... tốc độ tăng trưởng sản xuất chung toàn ngành đạt 18 - 20%/năm. - Nhóm ngành công nghiệp tiềm năng Là nhóm ngành hiện tại năng lực cạnh tranh còn thấp nhưng có tiềm năng phát triển trong tương lai. Đây là nhóm ngành ứng dụng khoa học công nghệ mới, công nghệ hiện đại, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng nguồn lao động có trình độ, phát triển theo hướng hội nhập, sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu và khai thác, mở rộng thị trường nước ngoài. Nhóm ngành này bao gồm lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm; hoá dược, hoá mỹ phẩm, chất tẩy rửa; cơ khí chế tạo; nhóm sản phẩm từ công nghệ mới. Định hướng phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn tới là tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, chủ động tiếp cận, từng bước thực hiện chuyển giao công nghệ, phát triển trước một bước công nghiệp phụ trợ và tăng cường công tác đào tạo lao động có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của nhóm ngành này trong giai đoạn 2010-2020. Mục tiêu phát triển của nhóm ngành này là phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu các sản phẩm phần mềm 300-400 triệu USD vào năm 2010; tập trung phát triển lĩnh vực chế tạo linh kiện điện tử, điện tử công nghiệp, công nghiệp công nghệ thông tin; hình thành một số trung tâm đúc, rèn, nhiệt luyện, tạo phôi có công nghệ tiên tiến, phấn đấu đáp ứng 50% nhu cầu chế tạo thiết bi trong nước; xây dựng ngành công nghiệp hoá dược đáp ứng 40- 45% nhu cầu thuốc kháng sinh, 30-35% nhu cầu nguyên liệu sản xuất vitamin C, 20% nhu cầu về tá dược, 100% nhu cầu về hoạt chất từ nguồn nguyên liệu thiên nhiên (cây có dầu). Thứ 9 : Dịch vụ sẽ phải là mũi nhọn. Nhận định về tầm quan trọng của hoạt động dịch vụ trong kế hoạch phát triển KTXH, Chính phủ đã nhận định: "Dịch vụ sẽ là mảng chiến lược những năm về sau". Ðiều này là một tất yếu khách quan bởi sức ép tự do hoá đối với lĩnh vực dịch vụ của VN trong BTA Và Trong WTO sắp tới. Trước mắt, theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, ta cam kết mở cửa các lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm cho các công ty dịch vụ Mỹ vào hoạt động theo lộ trình với những giới hạn mà VN đặt ra đối với các loại hình đầu tư, dịch vụ này tuỳ theo mức độ nhạy cảm (an ninh quốc gia, kinh tế). Thời hạn mở cửa cho các ngành hàng dịch vụ là từ 3 - 5 năm, trong đó phần góp vốn của Mỹ không quá 49%, riêng khu vực ngân hàng có thể 100% sau 9 năm Hiệp định có hiệu lực. Trong giai đoạn 2006-2010, vai trò của khu vực dịch vụ sẽ được coi là mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, sẽ tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm vận tải hàng không, xây dựng, xuất khẩu lao động... Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ. Ðồng thời, tập trung tăng cường xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch tài chính ngân hàng, thu kiều hối, và bưu chính viễn thông, vận tải đường không và đường biển. Việc đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển các dịch vụ văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, dịch vụ việc làm... theo cơ chế thị trường cũng là vấn đề cần quan tâm. Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 58 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam KẾT LUẬN Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Hoạt động đầu tư cũng theo đó mà được cải thiện cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Những tín hiệu khởi sắc hơn trong tình thu hút vốn đầu tư trong vài năm gần đây tạo một tâm lý lạc quan và tin tưởng vào những chính sách đúng đắn Đảng và Nhà nước. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng em đã chủ quan đưa ra một số nhận xét và giải pháp trong việc thúc đẩy và hoàn thiện cơ cấu đầu tư ở Việt Nam, tuy nhiên do trình độ có hạn, chúng em không tránh khỏi có một số thiếu sót. Hy vọng thầy giúp đỡ để bài viết trở nên hoàn thiện hơn. Chúng em xin cám ơn thầy ! Tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình kinh tế đầu tư. 2. Thời báo kinh tế Việt Nam. 3. Một số đề tài của trường kinh tế quốc dân và kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 4. Niên giám thống kê – Tổng cục thống kê. 5. Bộ Kế hoạch và đầu tư. 6. Bộ tài chính - Ủy ban Kinh tế và ngân sách quốc hội 7. Một số trang Web khać. Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 59 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam Mục Lục LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT........................................................................................3 CHƯƠNG I:.........................................................................................................4 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ...................4 1. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ HỢP LÝ......................4 2. PHÂN LOẠI CƠ CẤU ĐẦU TƯ........................................................................4 2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn...............................................................4 2.1.1 Vốn trong nước:................................................................................5 2.1.2 Nguồn vốn nước ngoài:....................................................................6 2.2. Cơ cấu vốn đầu tư.................................................................................8 2.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.....................................................8 2.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ.....................9 3. SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ............................................................9 3.1. Định nghĩa:............................................................................................9 3.2. Tác động của cơ cấu đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế..............9 4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CƠ CẤU ĐẦU TƯ.....................................10 4.1. Nhóm nhân tố nội bộ nền kinh tế:.......................................................10 4.2. Các nhân tố bên ngoài........................................................................11 CHƯƠNG II:......................................................................................................12 THỰC TRẠNG CƠ CẤU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM.............................................12 1. CƠ CẤU ĐẦU TƯ THEO NGUỒN VỐN.........................................................12 1.1. Vốn đầu tư trong nước:........................................................................12 1.2 Vốn đầu tư nước ngoài:.........................................................................20 2. CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ:...............................................................................31 2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN........................................................31 2.2. Vốn đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ...............32 3. CƠ CẤU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO NGÀNH:.............................................33 4. CƠ CẤU ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO ĐỊA PHƯƠNG, VÙNG LÃNH THỔ........36 4.1. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam......................................................38 4.2. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ:.........................................................43 Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 60 Cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Khái quát cơ cấu đầu tư tại Việt Nam - Phát triển du lịch: Khu vực này tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vào bậc nhất cả nước với Hà Nội là trung tâm. Các dự án sân gôn, khu nghỉ mát đẳng cấp quốc tế đã và đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là tại khu vực xung quanh di sản thế giới Vịnh Hạ Long. ...............................................................43 4.3. Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ.......................................................45 CHƯƠNG III :.....................................................................................................49 HẠN CHẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC..........................................................49 1.Những hạn chế trong cơ cấu đầu tư ở Việt nam.........................................49 1.1. Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế.................................................................................................49 1.2. Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả.....................................................................................................49 1.3. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển................................................................50 1.4. Bố trí đầu tư còn dàn trải. ...................................................................51 1.5. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn. .........................................51 1.6. Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng còn là vấn đề bức xúc. . 52 1.7. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay..........................................................................53 1.8. Những tồn tại trong công tác đấu thầu, trong giám sát và đánh giá đầu tư................................................................................................................53 1.9. Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp. ............54 2. Định hướng đổi mới cơ cấu đầu tư trong thời gian tới (2008-2015):..........54 KẾT LUẬN................................................................................................................59 Nhóm 5 lớp: K4 KTDT B – TUEBA Page 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý khái quát cơ cấu đầu tư tại việt nam.pdf
Luận văn liên quan