Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính nhạy cảm, mở cửa thị trường
bảo hiểm theo cam kết WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho
toàn thị trường và cho mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, đòi hỏi các
nhà quản lý và các doanh nghiệp phải cố gắng tìm được lối đi phù hợp để tồn
tại, cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh tình hình cạnh tranh trên thị trường
đã đến mức báo động. Việt Nam còn phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ
sung một số chính sách và đề ra những chiến lược phát triển hợp lý sao cho
phù hợp với các cam kết trong WTO để tạo ra một sân chơi bình đẳng và an
toàn cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước.
99 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO của Việt Nam và giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà đầu tư nước ngoài phải tham khảo khi có ý định thành lập
công ty bảo hiểm tại Trung Quốc. Quy định đưa ra các tiêu chí cho các công
ty nước ngoài có kế hoạch hoạt động tại Trung Quốc và giao nhiệm vụ cho
CIRC giám sát, quản lý và cấp phép cho các công ty bảo hiểm nước ngoài.
Theo quy định này, một công ty bảo hiểm nước ngoài có ý định thành lập liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hay chi nhánh của công ty bảo
hiểm ở nước ngoài thì phải đáp ứng các điều kiện sau:
Có ít nhất 30 năm kinh nghiệm trong ngành bảo hiểm;
Đã thành lập văn phòng đại diện tại Trung Quốc trong ít nhất hai năm
tính đến khi nộp hồ sơ;
Có tài sản trị giá tối thiểu 5 tỉ USD trong năm trước khi nộp hồ sơ.
Số vốn đăng ký tối thiểu của liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài là 200.000.000 NDT (24.150.000 USD), hoặc bằng loại
tiền tệ có khả năng chuyển đổi dễ dàng khác có giá trị tương đương. Chi
nhánh của công ty bảo hiểm có vốn nước ngoài phải đảm bảo số vốn hoạt
70
động tối thiểu 200.000.000 NDT hay bằng loại tiền tệ có khả năng chuyển đổi
dễ dàng khác như của công ty mẹ. Theo các chuẩn mực quốc tế, thì yêu cầu
về vốn tối thiểu này là quá lớn, hạn chế một cách có hiệu quả sự xâm nhập thị
trường của các công ty nước ngoài. Các công ty tái bảo hiểm thậm chí phải
đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về vốn, 300.000.000 NDT hoặc khoảng
35 triệu USD.
5. Cấp phép hoạt động bảo hiểm
Bên cạnh yêu cầu về nghiêm ngặt về vốn và kinh nghiệm như mô tả ở
trên, nhà đầu tư nước ngoài còn phải:
Đến từ một nước hay một lãnh thổ có hệ thống pháp luật bảo hiểm
vững chắc và công ty bảo hiểm đó đã tuân thủ tốt các quy định pháp
luật của quốc gia hay lãnh thổ đó;
Đáp ứng các tiêu chuẩn về đảm bảo khả năng thanh toán của quốc gia
hay lãnh thổ nơi công ty đó đăng ký hoạt động;
Có giấy tờ chứng minh các cơ quan chức năng tại bản địa chấp thuận
việc công ty bảo hiểm xin được cấp phép hoạt động tại Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa; và
Đáp ứng các quy định khác của CIRC.
Từ kinh nghiệm hội nhập kinh tế của Trung Quốc, có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
của thị trường bảo hiểm như sau:
Một là, cần nhận thức được hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm là
một yêu cầu tất yếu, có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế của mỗi nước, tuy nhiên quá trình mở cửa phải tiến hành từng
bước.
Hai là, quá trình hội nhập thị trường dịch vụ tài chính, thị trường bảo
hiểm phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, đồng thời lại phải phù
hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
71
Ba là, các chính sách và công cụ tài chính mà mỗi quốc gia sử dụng
trong quá trình mở cửa và hội nhập thị trường bảo hiểm quốc tế cũng rất
phong phú và đa dạng, tuỳ thuộc vào chính sách mở cửa kinh tế của từng
nước. Những chính sách và công cụ phổ biến thường được các nước sử dụng
là: những ràng buộc pháp lý về vốn điều lệ; năng lực thanh toán; tỷ lệ trích
lập quỹ dự phòng bắt buộc; các quy định về tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc; các
quy định về đầu tư…Những chính sách và công cụ này ngoài mục đích bảo
hộ hợp pháp còn tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước thích
nghi dần với môi trường cạnh tranh mới trong quá trình hội nhập.
IV. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt
Nam, dựa vào định hướng và mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm của
Chính phủ cũng như xem xét các điều kiện tác động đến sự phát triển của thị
trường bảo hiểm, tiềm năng phát triển của thị trường, tham khảo kết quả điều
tra thực tế và kinh nghiệm phát triển thị trường bảo hiểm tại một số nước trên
thế giới, khóa luận đưa ra một số giải pháp chủ yếu phát triển dịch vụ bảo
hiểm ở Việt Nam đến năm 2010.
1. Các giải pháp vĩ mô
1.1. Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nƣớc về bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm ngày càng phát triển đòi hỏi có cơ chế quản lý linh
hoạt cũng như hành lang pháp lý hoàn chỉnh để tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh và ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Do bản chất
của thị trường bảo hiểm là rất nhạy cảm luôn cần có sự xử lý nhanh và hợp lý
nên công tác quản lý, kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng phải liên
tục, nghiêm túc và kịp thời. Mặt khác để khắc phục các vấn đề phát sinh của
thị trường bảo hiểm hiện nay bao gồm sự cạnh tranh không lành mạnh, xu
72
hướng đa dạng hóa của thị trường, các vấn đề về thủ tục giấy tờ cấp phép…
chúng ta phải đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước về kinh doanh bảo
hiểm.
1.1.1. Đổi mới phương thức quản lý
Để thị trường bảo hiểm vận hành theo đúng cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phương thức quản lý cần được đơn giản hóa và nâng
cao vai trò tự chủ của doanh nghiệp theo các hướng:
- Tăng quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp trong các vấn đề liên quan đến nội dung các báo cáo, kết quả
hoạt động và trong việc thực hiện các qui định của pháp luật.
- Hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện theo các chỉ tiêu giám sát quản
lý mang tính khách quan và công khai.
- Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Hoạt động quản lý phải mang tính chuyên nghiệp. Quan
hệ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp dựa trên tinh thần hợp tác,
xây dựng.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các khâu cấp giấy phép, thẩm
định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm và các thủ tục khác như thay
đổi vốn, mở rộng nội dung và phạm vi hoạt động.
1.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm
- Điều chỉnh những quy định chưa hợp lý và chưa rõ ràng
Cần nghiên cứu lại các quy định về thuế VAT. Mục tiêu phát triển của
ngành bảo hiểm không phải chỉ nhằm tăng doanh thu phí bảo hiểm, mà quan
trọng hơn là tăng tỉ lệ doanh thu phí bảo hiểm giữ lại trong nước, để đầu tư trở
lại nền kinh tế. Do đó, việc áp dụng thuế suất VAT 0% đối với việc tái bảo
hiểm trong nước cũng là một cách khuyến khích các công ty bảo hiểm giữ lại
phí bảo hiểm trong nước.
Vấn đề về chi phí quảng cáo cũng cần được cân nhắc. Có thể việc quy
73
định trần chi phí quảng cáo 10% trên tổng chi phí như áp dụng đối với các
ngành công nghiệp, dịch vụ khác là chưa hợp lý. Một công ty bảo hiểm với kỹ
năng đánh giá và quản lý rủi ro tốt thường có chi phí bồi thường thấp hơn.
Với trần chi phí quảng cáo 10% trên tổng chi phí, các công ty được quản lý
tốt sẽ bị kém lợi thế hơn do giới hạn chi phí quảng cáo của họ sẽ thấp hơn các
đối thủ cạnh tranh khác.
Các quy định về chấm dứt hợp đồng và hợp đồng vô hiệu cần được rà
soát lại nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định được rõ ràng và chính xác.
Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng và hợp đồng vô
hiệu hoàn toàn khác nhau, do đó việc cung cấp sai thông tin để giao kết hợp
đồng bảo hiểm không thể dẫn đến hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc
hợp đồng vô hiệu.
- Bổ sung các quy định còn thiếu
Yêu cầu trình độ, kinh nghiệm của lãnh đạo công ty bảo hiểm cần được
quy định rõ ràng. Cần phải có quy định cụ thể những vị trí nào cần đáp ứng
tối thiểu những yêu cầu gì về trình độ, kinh nghiệm.
Mặc dù việc chuẩn hoá các điều khoản và điều kiện của hợp đồng bảo
hiểm có thể gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường, nhưng việc chuẩn hoá các
thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm và các tài liệu đi kèm là hết sức
quan trọng. Các công ty bảo hiểm cần phải sử dụng cùng một thuật ngữ bảo
hiểm (có thể do Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam xây dựng) nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho người mua bảo hiểm đọc, hiểu và so sánh được các hợp đồng
bảo hiểm của các công ty bảo hiểm khác nhau và tránh việc hiểu sai, hiểu lầm
trong tương lai.
Cần ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan tới các hoạt động cho
vay, đầu tư vào bất động sản, cổ phiếu của các công ty bảo hiểm, đặc biệt các
công ty có vốn nước ngoài nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư vốn nhàn
rỗi của các công ty bảo hiểm, và nhờ đó một mặt, tăng lượng vốn đầu tư trở
74
lại nền kinh tế, mặt khác tăng lợi nhuận của các công ty bảo hiểm và người
mua bảo hiểm. Bên cạnh đó, các quy định liên quan tới quản trị công ty, minh
bạch tài chính cần phù hợp với chuẩn quốc tế và việc tuân thủ các quy định
pháp luật cần được giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà nước, tạo
lòng tin cho các công ty bảo hiểm khi đầu tư vào các công ty của Việt Nam.
Cần phải ban hành những quy định pháp lý chặt chẽ hơn liên quan tới
các hoạt động tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. Các văn bản pháp lý
hiện nay có quy định các tiêu chuẩn mà công ty tái bảo hiểm nước ngoài phải
đáp ứng, nhưng không quy định về việc các công ty bảo hiểm trong nước phải
công bố thông tin về công ty nhận tái bảo hiểm của họ. Việc cung cấp thông
tin về hoạt động tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm không chỉ hỗ trợ bảo
vệ người mua bảo hiểm, mà còn hỗ trợ các cơ quan chức năng phát hiện các
trường hợp công ty bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm chỉ nhằm để tái ra
nước ngoài “fronting business”. Mặc dù loại hình kinh doanh này không bị
cấm ở Việt Nam, cũng cần phải được quản lý và giám sát chặt chẽ. Loại hình
kinh doanh này cung cấp cho nền kinh tế Việt Nam một số sản phẩm bảo
hiểm cần thiết, nhất là trong những trường hợp công ty bảo hiểm trong nước
chưa có khả năng thực hiện, tuy nhiên loại hình kinh doanh này cũng có thể
gây ảnh hưởng xấu tới quyền lợi của người mua bảo hiểm bởi các công ty bảo
hiểm chịu trách nhiệm pháp lý về trách nhiệm đã cam kết nhưng lại không có
đủ năng lực để bảo hiểm những rủi ro này. Nếu loại hình kinh doanh này phát
triển nhiều, sự phát triển lành mạnh của thị trường có thể sẽ bị ảnh hưởng.
Mọi quy định pháp lý về bảo hiểm bắt buộc nên được quy định rõ ràng
trong một số văn bản pháp luật nhất định. Cần có sự kết hợp giữa các cơ quan
chức năng khác nhau để đảm bảo hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động bảo
hiểm của các ngành khác nhau như xây dựng, vận tải biển, cháy nổ... dễ hiểu
hơn, rõ ràng hơn và việc thi hành luật được chặt chẽ hơn.
75
Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên mất
khả năng thanh toán cần được quy định chi tiết và cụ thể hơn. Các quy định
hiện hành có đề cập tới việc chuyển giao các hợp đồng bảo hiểm, nhưng
không đề cập cụ thể tới trường hợp một công ty bảo hiểm chủ động chấm dứt
hoạt động trên thị trường. Luật cũng liệt kê những biện pháp nhằm phục hồi
khả năng thanh toán của một công ty bảo hiểm, việc thành lập ban giám sát
nhằm kiểm soát các công ty mất khả năng thanh toán, nhưng chưa quy định
cụ thể các biện pháp này cần được thực hiện thế nào, ban giám sát được thành
lập và hoạt động ra sao. Luật cũng dẫn chiếu đến “Luật Phá sản Doanh
nghiệp”, nhưng công ty bảo hiểm không giống như bất kỳ công ty nào khác.
Quyền lợi của người mua bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ. Áp dụng thủ tục
phá sản doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên nhận thanh toán có thể
không đảm bảo được quyền lợi của người mua bảo hiểm. Do đó cần rà soát kỹ
các văn bản pháp lý có liên quản để đảm bảo các nguyên tắc của Luật Phá sản
Doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của người mua bảo
hiểm vẫn được bảo vệ tối đa.
Cần xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động điều tra tư
nhân và điều tra dân sự để các doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện chủ động
hơn về mặt thị trường. Các kết quả của hoạt động điều tra tư nhân và điều tra
dân sự cần phải được pháp chế hóa cụ thể để có giá trị pháp lý làm cơ sở cho
các doanh nghiệp bảo hiểm chủ động đánh giá và xử lý những trường hợp có
dấu hiệu trục lợi bảo hiểm trước khi vụ việc bị coi là mang yếu tố hình sự. Sở
dĩ cơ chế này là cần thiết vì trong ngành bảo hiểm, để thực hiện hoạt động
điều tra cần phải có những kỹ năng và chuyên môn phù hợp. Hệ quả của việc
xây dựng cơ chế này một mặt sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm tránh được
những trường hợp trục lợi bảo hiểm, mặt khác nếu ở một mức độ có thể chấp
nhận được thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có cách xử lý mà vẫn đạt được mục
đích giao kết hợp đồng với khách hàng đó.
76
1.1.3. Thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế
Hoạt động quản lý phải được thực hiện theo các nguyên tắc và chuẩn
mực quốc tế, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, nhằm
đáp ứng nhu cầu hội nhập của Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể:
- Xây dựng qui trình kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp
theo từng đối tượng cụ thể thông qua:
Trong quá trình xem xét cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh bảo
hiểm phải đánh giá năng lực của chủ đầu tư, người quản trị điều hành,
kế hoạch kinh doanh;
Xem xét, phê chuẩn các thay đổi trong quá trình hoạt động như: thay
đổi chủ đầu tư, người quản trị điều hành, thay đổi phương án kinh
doanh, vốn điều lệ, chia tách, sáp nhập doanh nghiệp;
Giám sát doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các qui định của nhà nước
và các qui định của bản thân doanh nghiệp về quản lý tài chính, kế
toán, đánh giá rủi ro, quản lý tài sản;
Giám sát việc trích lập các nguồn dự phòng nghiệp vụ, biên khả năng
thanh toán bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp;
Giám sát việc sử dụng các nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
bảo đảm vốn chủ sở hữu phù hợp với qui mô kinh doanh của doanh
nghiệp;
Quản lý hoạt động đầu tư, bảo đảm đầu tư của doanh nghiệp được đa
dạng, trong hạn mức qui định của pháp luật, định giá tài sản đầu tư
thận trọng, cân đối giữa tài sản nợ và nguồn vốn của doanh nghiệp,
bảo quản tài sản có của doanh nghiệp;
Theo dõi, kiểm tra phương án tái bảo hiểm, các nhà nhận tái bảo hiểm
quốc tế;
Đánh giá các chỉ tiêu tài chính, kinh tế của doanh nghiệp một cách
thường xuyên, xây dựng chỉ tiêu cảnh báo sớm, đánh giá kịp thời tình
77
hình tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm;
Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây bất ổn định thị trường.
Giám sát hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ các qui định về công
khai hóa thông tin, cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, bồi
thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm nhanh chóng đầy đủ;
Thực hiện thanh tra định kỳ, đột xuất trên hồ sơ và thanh tra tại hiện
trường của doanh nghiệp bảo hiểm, phân tích đánh giá hệ thống quản
lý và giám sát của doanh nghiệp để từ đó có thể ngăn ngừa các hành vi
vi phạm.
1.1.4. Tăng cường hội nhập
Tăng cường và mở rộng quan hệ với các cơ quan quản lý bảo hiểm
nước ngoài để nghiên cứu các chuẩn mực quản lý quốc tế, để từng bước áp
dụng phối hợp với trình độ phát triển của thị trường, học hỏi kinh nghiệm và
các công nghệ quản lý, trao đổi thông tin, nắm bắt diễn biến thị trường bảo
hiểm quốc tế, đặc biệt là về các thông tin có liên quan đến các công ty bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
1.2. Tăng cƣờng năng lực làm luật, kiểm tra, giám sát của các cán
bộ quản lý nhà nƣớc
Thực tế cho thấy sự phát triển của thị trường, sự gia tăng cạnh tranh
giữa các công ty bảo hiểm, việc đưa vào các sản phẩm mới, các thuật ngữ
mới, các phương thức kinh doanh mới, một mặt sẽ đóng góp vào sự phát triển
của nền kinh tế, của ngành và của người tiêu dùng, nhưng mặt khác cũng làm
nảy sinh các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, sự mâu
thuẫn giữa các công ty bảo hiểm và người mua bảo hiểm.
Do đó, để có thể điều tiết thị trường một cách hiệu quả và bảo vệ quyền
lợi của các khách hàng thiếu kinh nghiệm, song song với việc tổ chức các
khoá đào tạo hay gửi cán bộ đi đào tạo ở trong nước, nước ngoài; các cơ quan
quản lý cần phải tăng cường trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan quản lý
78
nhà nước ở các nước khác, tăng cường đối thoại với Hiệp hội bảo hiểm và với
các doanh nghiệp bảo hiểm. Cho đến nay, công việc này đang được thực hiện
tương đối tốt và cần tiếp tục duy trì. Việc tuyển dụng các nhân viên trước đây
từng làm việc ở các công ty bảo hiểm nước ngoài vào làm việc trong các cơ
quan quản lý nhà nước cũng nên được khuyến khích. Bên cạnh đó, việc đầu tư
cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý cần được chú trọng,
nhằm đảm bảo việc cập nhật và xử lý kịp thời các diễn biến trên thị trường.
1.3. Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp bảo
hiểm
Khác với các ngành khác, ngành bảo hiểm hoạt động dựa trên số liệu
thống kê được thu thập trong một thời kỳ dài. Một mặt, ngành bảo hiểm với
lịch sử phát triển ngắn chưa thể xây dựng một cơ sở dữ liệu đầy đủ phục vụ
hoạt động của các công ty bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt
khác, hoạt động thu thập số liệu thống kê tại Việt Nam chưa được thực hiện
tốt so với các quốc gia khác. Đồng thời cơ chế để các cơ quan quản lý nhà
nước cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa rõ ràng.
Do dó, đây là một đòi hỏi cấp bách của ngành bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên,
việc xây dựng được hệ thống này là hết sức khó, không chỉ từ góc độ tài
chính, mà còn từ góc độ mức độ tự nguyện của các doanh nghiệp tham gia thị
trường. Bộ Tài Chính có thể giao cho Hiệp hội Bảo hiểm khởi xướng dự án
này. Cần xác định rõ các loại thông tin, số liệu cần được thu thập, lưu trữ,
mức độ xử lý và chia sẻ thông tin giữa các nhóm đối tượng khác nhau trên thị
trường. Trách nhiệm thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin, số liệu của các
doanh nghiệp bảo hiểm có thể được quy định trong các văn bản pháp quy liên
quan. Cần có cơ chế rõ ràng về việc các cơ quan quản lý nhà nước cung cấp
thông tin cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Cần cân nhắc việc tách bạch giữa
quản lý nhà nước và dịch vụ công. Có rất nhiều thông tin mà chỉ các cơ quan
quản lý nhà nước mới có thể thu thập (số liệu thống kê trên cả nước, hồ sơ về
79
tai nạn giao thông, cháy nổ...) và các doanh nghiệp bảo hiểm cũng sẵn sàng
chi trả để có được các thông tin này phục vụ cho hoạt động của mình. Do đó
việc tách quản lý nhà nước khỏi dịch vụ công vừa đảm bảo các cơ quan quản
lý nhà nước có ngân sách để thu thập thông tin, vừa tạo cơ chế để các cơ quan
quản lý nhà nước cung cấp thông tin và doanh nghiệp bảo hiểm được tiếp cận
thông tin một cách chính thống.
1.4. Phát triển thị trƣờng tài chính
Ngành bảo hiểm có mối quan hệ mật thiết với thị trường chứng khoán.
Ở đa số các nền kinh tế có ngành bảo hiểm phát triển, các công ty bảo hiểm
đều được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối với ngành bảo hiểm, thị
trường chứng khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò
cung cấp các cơ hội đầu tư. Tại Việt Nam, một phần do môi trường pháp lý,
một phần do sự hạn chế về khả năng tài chính và sự minh bạch tài chính của
các công ty, mới chỉ có rất ít công ty bảo hiểm được niêm yết trên thị trường
chứng khoán (Bảo Minh, Vinare và PVI). Do đó, thị trường chứng khoán Việt
Nam chưa thực sự thực hiện được vai trò huy động vốn của mình. Đối với đầu
tư, trên thị trường còn quá ít sản phẩm, hoạt động cập nhật thông tin còn yếu,
sự minh bạch thấp nên việc đầu tư cổ phiếu chưa thu hút được nhà đầu tư, đặc
biệt các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đa số các công ty bảo hiểm tập trung
vào trái phiếu Chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Một số nghiên cứu khác cho
thấy, trong tương lai, tại Việt Nam, ngân hàng sẽ không còn đủ sức đáp ứng
nhu cầu vốn của doanh nghiệp, và thị trường vốn cần phải được cải thiện
nhằm đảm bảo đủ vốn cho sự phát triển của nền kinh tế.
Do đó, trong bối cảnh phát triển này, sự cải thiện của thị trường chứng
khoán, việc cải thiện các quy định pháp lý, nỗ lực của các công ty bảo hiểm
cần phải được tiến hành đồng thời nhằm dẫn vốn từ các công ty bảo hiểm tới
các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, và mặt khác, biến thị
80
trường chứng khoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty
bảo hiểm.
1.5. Đào tạo nhân sự chất lƣợng cao phục vụ ngành bảo hiểm
Nguồn nhân lực hiện nay mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị trường
ở mức độ trung bình. Phân tích cho thấy vẫn còn khoảng cách tương đối lớn
giữa kiến thức sinh viên được học ở trường đại học và công việc thực tế khi đi
làm. Sẽ không thực tế khi yêu cầu các sinh viên mới tốt nghiệp có thể đảm
đương ngay các công việc, tuy nhiên nghiên cứu cho thấy chương trình đào
tạo tại các trường đại học vẫn còn chưa bám sát nhu cầu của ngành, vẫn còn
nặng các môn học về bảo hiểm bắt buộc, trong khi nhu cầu về kiến thức về
bảo hiểm thương mại lớn hơn rất nhiều.
Do đó, việc đào tạo nhân sự cho ngành bảo hiểm vẫn phải được cải
cách cơ bản từ các trường đại học. Chính Phủ (thông qua Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Tài chính) cần chỉ đạo các tổ chức đào tạo này chủ động tìm kiếm các
cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp bảo hiểm để sinh viên có nhiều cơ hội
thực hành hơn, nội dung giảng dạy phù hợp hơn với nhu cầu của ngành. Việc
liên kết đào tạo với các tổ chức đào tạo bảo hiểm, hiệp hội bảo hiểm của nước
ngoài cũng cần được khuyến khích hơn nữa.
Một điểm quan trọng nữa mà hiện nay chúng ta còn “yếu và thiếu” đó
là các chuyên gia phân tích, đánh giá rủi ro và tính phí bảo hiểm. Việc đánh
giá chính xác rủi ro nhận bảo hiểm đồng thời đưa ra một mức phí phản ánh
được rủi ro đó và được thị trường chấp nhận là yếu tố quan trọng quyết định
sự sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là đối với doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ. Tất cả những việc này đều do các chuyên gia tính phí bảo
hiểm đảm nhận. Việt Nam thực sự có rất ít chuyên gia tính phí được đào tạo
bài bản, chuyên nghiệp và có kinh nghiệm. Bởi vậy, việc đào tạo chuyên gia
tính phí bảo hiểm cần được quan tâm hơn nữa.
1.6. Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm
81
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập theo Quyết định số
23/1999/QĐBTCCBCP ngày 09/07/1999. Có thể nói rằng sự ra đời của Hiệp
hội đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trên con đường phát triển của thị
trường bảo hiểm Việt Nam. Với vai trò là một tổ chức xã hội, thực hiện chức
năng hỗ trợ và làm cầu nối giữa các doanh nghiệp, đại diện cho các doanh
nghiệp bảo hiểm trước cơ quan quản lý nhà nước và công chúng, trong thời
gian qua Hiệp hội đã có một số thành công nhất định. Hiệp hội đã cùng các
doanh nghiệp đưa ra được các thỏa thuận cam kết cạnh tranh lành mạnh, tăng
cường sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị
trường, thúc đẩy thị trường đi theo đúng đường lối chính sách của Nhà nước
Việt Nam. Tuy nhiên, sự gắn kết giữa các thành viên của Hiệp hội vẫn chưa
thật sự chặt chẽ. Hiệp hội thiếu bộ phận giám sát thi hành thỏa thuận của các
thành viên dẫn đến các trường hợp vi phạm thỏa thuận về mức phí cạnh tranh,
tranh giành, thu hút đại lý của nhau. Để phát triển thị trường bảo hiểm trong
thời gian tới, Hiệp hội bảo hiểm cần nâng cao vai trò của mình theo các
hướng sau đây:
- Xây dựng qui định về xử phạt hành chính đối với trường hợp hội
viên vi phạm điều lệ của Hiệp hội.
- Mở rộng phạm vi hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm về đào
tạo, trao đổi thông tin, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm,
đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, đề phòng hạn chế tổn thất.
- Xem xét, sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo
hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia Hiệp hội, gắn
quyền lợi và trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm với Hiệp hội.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh doanh bảo hiểm và Hiệp hội để kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
thỏa thuận giữa các hội viên nhằm đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị
82
trường. Xử lý kịp thời các trường hợp không tuân thủ Qui chế hợp tác và các
hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
- Kết hợp với cơ quan quản lý nhà nước xem xét, giám sát, kiểm soát
các sản phẩm bảo hiểm mà các doanh nghiệp đưa ra thị trường nhằm đảm bảo
các sản phẩm này thực sự có lợi cho khách hàng tham gia bảo hiểm và có lợi
cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm.
2. Các giải pháp đối với công ty bảo hiểm
2.1. Xây dựng chiến lƣợc phát triển dài hạn
Ngành bảo hiểm Việt Nam hiện đang trải qua các giai đoạn phát triển
tương tự ngành bảo hiểm Trung Quốc thời kỳ trước khi gia nhập WTO (1996
– 2001) và những năm đầu sau khi trở thành thành viên WTO. Trong thời kỳ
này, đa số các công ty bảo hiểm đều tập trung vào phát triển doanh thu. Tại
Trung Quốc, trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm trong
nước áp dụng chiến thuật “biển người” - tuyển rất nhiều đại lý và thay đổi đại
lý rất nhanh. Cuối năm 2001, số lượng đại lý bảo hiểm trong lĩnh vực nhân
thọ của Trung Quốc vượt con số một triệu người. Tương tự ở Việt Nam, trong
lĩnh vực nhân thọ, các công ty bảo hiểm cạnh tranh nhau bằng cách tuyển
nhiều đại lý, còn trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các công ty bảo hiểm
cạnh tranh nhau bằng cách giảm phí bảo hiểm. Nhận thức được vấn đề này, từ
năm 2003, các công ty bảo hiểm lớn trong nước của Trung Quốc đã bắt đầu
chú trọng tới việc tuyển dụng, lựa chọn và đào tạo. Và từ năm 2005, bắt đầu
thời kỳ hoàn toàn mở cửa, các công ty bảo hiểm Trung Quốc bắt đầu “thay
đổi chiến lược hoạt động, hướng tới sự phát triển liên tục lâu dài, thay vì tìm
kiếm lợi nhuận trước mắt”. Một mặt, các công ty tập trung giá tăng giá trị cho
sản phẩm, và mặt khác nỗ lực ổn định tăng trưởng hàng năm về doanh thu và
lợi nhuận
Học hỏi kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm Trung Quốc, các công
ty bảo hiểm Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển lâu dài. Doanh thu
83
phí bảo hiểm là một chỉ số quan trọng về phát triển, nhưng trong bối cảnh
hiện nay của các công ty bảo hiểm Việt nam, có thể chỉ số này không quan
trọng bằng chỉ số phát triển nguồn nhân lực (ví dụ, sự cải thiện trình độ
chuyên môn, kỹ năng quản lý...) hoặc các chỉ số về hiệu quả hoạt động (chuẩn
hoá các quy trình, tiết kiệm thời gian cho từng công việc...), bởi đây là những
cơ sở vững chắc cho sự phát triển trong tương lai. Tất nhiên, không có doanh
thu cao, không công ty nào có thể đầu tư, kể cả để phát triển nguồn nhân lực
hay phục vụ những mục đích khác. Tuy nhiên, các công ty cần tự xác định
cho mình một thế cân bằng để không bị kiệt sức khi bước vào một giai đoạn
mới của cạnh tranh.
2.2. Xây dựng văn hoá phục vụ khách hàng
Các phân tích cho thấy nhiều công ty bảo hiểm trong nước chưa xây
dựng được văn hoá phục vụ khách hàng, trong khi các công ty nước ngoài,
thừa hưởng văn hoá này từ công ty mẹ, đang phát triển nó rất thành công tại
Việt Nam. Trong khi các công ty nước ngoài chuẩn hoá mọi quy trình công
việc, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi có thắc mắc, khi thanh toán
phí bảo hiểm, khi yêu cầu thông tin, khi yêu cầu bồi thường... Ngược lại, các
công ty trong nước mặc dù hiểu tầm quan trọng của các quy trình này, lại
chưa có một chiến lược phù hợp và một kế hoạch hành động để thực hiện nó.
Các công ty nước ngoài yêu cầu nhân viên của mình làm theo những quy trình
cụ thể khi phục vụ khách hàng, còn các công ty trong nước lại phụ thuộc vào
sự năng động của các cá nhân nhân viên trong việc phục vụ khách hàng. Điều
này cũng gây ra một số vấn đề, bởi không phải mọi nhân viên nào đều năng
động như nhau khi làm việc với khách hàng. Do đó, nếu có một nhân viên nào
đó không năng động, sẽ không có cơ chế để buộc họ phải tuân theo và việc
chăm sóc khách hàng sẽ không được đảm bảo.
Vì vậy, các công ty trong nước cần nâng cấp hệ thống và chương trình
đào tạo của mình nhằm cung cấp tốt hơn các dịch vụ chăm sóc khách hàng.
84
Nhân viên bán hàng có thể hỗ trợ rất tốt khách hàng, nhưng như thế vẫn chưa
đủ. Các công ty cần phải đặt mình vào vị trí của khách hàng để đánh giá
phương thức phục vụ khách hàng của mình nhằm xác định những khâu cần
cải thiện hơn nữa. Mục tiêu không phải chỉ là phục vụ tốt khách hàng mà là
ngày càng nâng cao hiệu quả công việc.
2.3. Nâng cao kỹ năng quản lý
Các nhà quản lý các công ty bảo hiểm trong nước có thể đã ở vị trí quản
lý trong một thời gian dài, nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm về kinh tế thị
trường. Cách quản lý theo kiểu xã hội chủ nghĩa vẫn là gốc rễ trong các công
ty trong nước. Đưa ra quyết định chậm, phạm vi trách nhiệm không rõ ràng,
thang lương, thưởng không được xây dựng dựa trên thành quả làm việc, hạn
chế quyền tự quyết ở các cấp thấp hơn... chỉ là một vài ví dụ điển hình. Đây là
hiện tượng phổ biến trong mọi ngành ở Việt Nam, chứ không chỉ riêng ngành
bảo hiểm. Ngoài các kỹ năng quản lý nói chung, các nhà quản lý còn cần
những kỹ năng chuyên ngành bảo hiểm. Thông thường các nhà quản lý, đặc
biệt các nhà lãnh đạo, không cần đến các kỹ năng kỹ thuật chuyên ngành cụ
thể. Tuy nhiên, họ cũng phải hiểu ngành của mình, các yếu tố ảnh hưởng, xu
hướng phát triển, lợi thế cạnh tranh trong ngành.
Do đó, các công ty trong nước cần tập trung vào những kế hoạch đào
tạo dài hạn. Lương, thưởng, chức vị phải gắn với kết quả công việc. Các công
ty cũng thể xem xét việc tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài vào các vị trí
quản lý, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đưa kinh nghiệm
và kỹ năng của họ vào điều hành kinh doanh. Các công ty trong nước cần chú
trọng tới việc xây dựng kế hoạch chiến lược xem xét liệu sự tham gia của đối
tác nước ngoài vào điều hành kinh doanh có mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp. Nếu có lợi ích, các công ty phải nỗ lực tìm kiếm đối tác chiến lược
nhằm thiết lập mối quan hệ hợp tác lâu dài.
2.4. Nâng cao kỹ năng bảo hiểm các rủi ro phức tạp
85
Hiện nay các công ty trong nước dựa vào các công ty tái bảo hiểm nước
ngoài và đối thủ cạnh tranh nước ngoài để thực hiện bảo hiểm cho các rủi ro
lớn và phức tạp như các nhà máy điện, các giếng dầu, hàng không, bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp... Hiện nay mặc dù không có khả năng bảo hiểm
những rủi ro này, các công ty trong nước vẫn có thể giành được hợp đồng bởi
phần lớn các dự án này được tài trợ bởi vốn ngân sách, và chỉ các công ty bảo
hiểm trong nước được cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những dự án này.
Sau khi ký kết hợp đồng, các công ty bảo hiểm trong nước tái lại cho các công
ty tái bảo hiểm ở nước ngoài và phần lớn doanh thu phí bảo hiểm đều được tái
ra nước ngoài. Các công ty bảo hiểm trong nước chỉ lưu lại một phần phí nhỏ.
Khi các rào cản đối với các nhà cung cấp nước ngoài được xoá bỏ theo
yêu cầu của tự do hoá thì các công ty trong nước sẽ mất phân đoạn thị trường
này. Do đó, các công ty trong nước cần ngay lập tức học hỏi các kỹ năng
(thông qua đào tạo, tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài), thu thập số liệu
thống kê để chuẩn bị cho tương lai bởi những công việc này đòi hỏi rất nhiều
thời gian.
2.5. Xây dựng hệ thống thu thập, lƣu trữ, xử lý số liệu thống kê
Mặc dù hoạt động thống kê chỉ có thể được tiến hành nếu có sự phối
hợp ở mọi cấp, từ Chính phủ, xuống ngành, xuống các công ty, và cần có một
tổ chức đứng ra điều phối hoạt động thu thập số liệu này ở mọi cấp, các công
ty bảo hiểm cần tích cực trong hoạt động này bởi đây là vấn đề thiết yếu đối
với mọi công ty.
2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin
Các công ty bảo hiểm trong nước bị tụt hậu rất xa so với các đối thủ
cạnh tranh nước ngoài trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin. Cho tới
nay, chưa có một công ty bảo hiểm trong nước nào có phần mềm bảo hiểm
chuyên biệt mặc dù các công ty đều nhận thấy tầm quan trọng của yếu tố này.
Các công ty trong nước cần giải quyết vấn đề này ngay lập tức. Cần phải có
86
một chiến lược công nghệ thông tin rõ ràng nhằm thích ứng với những thay
đổi trong tương lai. Trong môi trường kinh doanh ngày nay, công nghệ thông
tin là xương sống của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công nghệ thông
tin hỗ trợ giảm chi phí lao động, làm cho hoạt động hiệu quả hơn và góp phần
nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Việc đầu tư hàng triệu đôla vào một
hệ thống công nghệ thông tin thực sự là một thử thách đối với các công ty
nhỏ, nhưng các công ty cần nỗ lực hơn nữa nhằm tìm ra hướng đi thích hợp
cho mình.
2.7. Phát triển mạng lƣới khách hàng truyền thống
Hiện nay các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước hoạt động tốt
hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ sự bảo hộ của Chính
phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng. Các công ty
bảo hiểm Việt Nam cần nỗ lực tận dụng kiến thức thị trường và các mối quan
hệ nhằm phát triển một mạng lưới khách hàng truyền thống. Đây là một yếu
tố quan trọng hỗ trợ các công ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện các
kế hoạch phát triển chiến lược để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có
tiềm lực.
2.8. Tăng cƣờng khả năng tài chính
Tác động đầu tiên của sự tự do hoá bất kỳ thị trường bảo hiểm nào là sự
gia tăng về mặt số lượng các công ty bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm Việt
Nam không phải là một ngoại lệ. Mặc dù việc gia tăng số lượng công ty bảo
hiểm có thể dẫn tới gia tăng cạnh tranh, nhiều công ty quy mô nhỏ sẽ không
thể theo kịp được năng lực của toàn ngành. Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân
thọ, các công ty bảo hiểm có vốn nước ngoài đều thuộc các tập đoàn tài chính
lớn với khả năng tài chính dồi dào. Để đối mặt với sự cạnh tranh này, tập
đoàn Bảo Việt đã được tái cơ cấu để trở thành một tập đoàn tài chính. Về một
khía cạnh nào đó, quyết định tái cơ cấu Bảo Việt dường như là một nỗ lực
nhằm tăng cường sự tham gia của nội lực trên thị trường. Tuy nhiên, Bảo Việt
87
là một trường hợp đặc biệt, có được sự hỗ trợ lớn của Chính phủ để phát triển
thành tập đoàn tài chính của Việt Nam. Các công ty bảo hiểm nhà nước khác,
hay các công ty nhà nước đã được cổ phần hoá hay các công ty 100% vốn
trong nước không có được sự hỗ trợ này, do đó họ cần phải có chiến lược
riêng của mình để có khả năng tài chính vững chắc hơn, không chỉ để đối mặt
với các thách thức của thị trường, mà còn để mở rộng và phát triển. Tuy
nhiên, các minh chứng thực tế cho thấy các công ty nhỏ sẽ bị đẩy ra khỏi thị
trường hoặc chỉ giữ được một phần phí doanh thu bảo hiểm rất nhỏ. Ví dụ, 79
trong số 104 công ty bảo hiểm ở thị trường Indonesia chỉ chiếm chưa đến 1%
thị phần toàn ngành bảo hiểm [18].
Trong những năm qua, sau khủng hoảng tài chính Châu Á, xuất hiện xu
hướng kết hợp các dịch vụ tài chính khác nhau và hình thành nên những tập
đoàn tài chính khổng lồ. Xu hướng đã diễn ra ở các nước như Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc. Mối quan hệ gắn bó và hỗ trợ lẫn nhau giữa bảo hiểm, ngân
hàng và các dịch vụ tài chính khác đã dẫn tới việc sáp nhập các ngân hàng,
công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư, đem lại lợi ích chung cho mọi công ty trong
tập đoàn.
Do đó, các công ty bảo hiểm trong nước của Việt Nam cần nghiên cứu
nghiêm túc khả năng sáp nhập hoặc liên kết với các ngân hàng Việt Nam,
hiện cũng đang đối mặt với cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài.
Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, các liên minh giữa các công ty bảo hiểm
trong nước, các ngân hàng sẽ, một mặt, hỗ trợ cải thiện khả năng tài chính của
các ngân hàng và công ty bảo hiểm, và mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho
việc kết hợp các dịch vụ tài chính với nhau, tạo ra các sản phẩm ngân hàng và
bảo hiểm hấp dẫn hơn đối với khách hàng. Đây là một cách để phát triển
bancassurance ở Việt Nam, một phương thức kinh doanh đã được thực hiện
rất thành công tại Singapore, Trung Quốc. Hơn nữa, đây là cách duy nhất để
Việt Nam có những tập đoàn tài chính lớn, có thể niêm yết trên thị trưòng
88
chứng khoán. Kinh nghiệm Trung Quốc cũng cho thấy đa số các công ty bảo
hiểm trong nước đều lấy việc niêm yết trên thị trường chứng khoán là chiến
lược phát triển lâu dài. Ở Việt Nam, hiện mới có Vinare, Bảo Minh và PVI đã
niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhưng những công ty bảo hiểm nhỏ
khác thì con đường này thực sự còn nhiều chông gai.
89
KẾT LUẬN
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính nhạy cảm, mở cửa thị trường
bảo hiểm theo cam kết WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho
toàn thị trường và cho mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, đòi hỏi các
nhà quản lý và các doanh nghiệp phải cố gắng tìm được lối đi phù hợp để tồn
tại, cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh tình hình cạnh tranh trên thị trường
đã đến mức báo động. Việt Nam còn phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ
sung một số chính sách và đề ra những chiến lược phát triển hợp lý sao cho
phù hợp với các cam kết trong WTO để tạo ra một sân chơi bình đẳng và an
toàn cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước.
Về cơ bản, khoá luận đã chỉ ra một số vấn đề sau:
1. Các cam kết WTO đặt ra những thách thức lớn cho ngành bảo hiểm
Việt Nam, tuy nhiên so với BTA thay đổi không nhiều; vì vậy, Việt
Nam có một thời gian khá dài để chuẩn bị nên thị trường thích ứng
nhanh. Khung pháp lý được sửa đổi bổ sung phù hợp với các quy định
của WTO, các chính sách phát triển có tính chất định hướng từ phía nhà
nước cũng như các chiến lược cụ thể của các doanh nghiệp đã được đưa
ra, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nước trước
sức ép cạnh tranh ngày càng tăng từ phía nước ngoài.
2. Thị trường bảo hiểm Việt Nam thời kỳ “hậu WTO” phát triển với
những thành quả đáng mừng với tổng doanh thu năm 2006 đạt 17.860
tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 1000 tỷ đồng. Hầu hết
các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường (37 doanh nghiệp) đều có
mức tăng trưởng khá, hiệu quả kinh doanh cao. Nhìn chung, thị trường
bảo hiểm đã thực hiện tốt vai trò phòng ngừa rủi ro, huy động và sử
dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước, qua đó đóng góp vào việc duy
trì sự phát triển ổn định nền kinh tế xã hội.
90
3. Việc gia nhập WTO đã mang lại những tác động tích cực đến hệ thống
pháp lý về bảo hiểm của nhà nước trên nhiều khía cạnh như: nâng cao
tính minh bạch, các quy định tiệm cận hơn với tiêu chuẩn quốc tế. Các
doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận với nguồn vốn đầu tư lớn, tiếp
thu công nghệ và các kỹ năng quản lý tiên tiến của các tập đoàn bảo
hiểm nước ngoài. Tuy nhiên, hệ thống pháp lý về bảo hiểm vẫn còn
nhiều điểm chưa hợp lý, doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam vẫn còn
nhiều điểm yếu về tài chính, khả năng quản lý cũng như nguồn nhân
lực.
4. Trên cơ sở các phân tích trên, tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp phát triển thị trường bảo hiểm. Về phía nhà nước, phải hoàn thiện
hệ thống pháp luật bảo hiểm theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng
lực của cán bộ quản lý nhà nước, hoàn thiện thị trường tài chính nhằm
tạo điều kiên thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Về
phía doanh nghiệp, cần phải chú trọng hơn đến các chiến lược phát
triển, kỹ năng quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là phát
triển nguồn nhân lực. Có như vậy, thị trường Việt Nam mới có thể phát
triển lành mạnh và vững chắc trong xu thế phát triển chung của cả
nước, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế của thị trường
bảo hiểm toàn cầu.
Tác giả hy vọng phần nào đã nêu được một số giải pháp mang tính gợi mở
để giải quyết các hạn chế còn tồn tại, phát triển mở rộng thị trường bảo hiểm
ở Việt Nam trong thời gian tới. Hy vọng rằng với những nỗ lực lớn lao của
các doanh nghiệp bảo hiểm, sự quan tâm của Đảng và Nhà n−ớc, sự quan tâm
cùng với ý thức bảo hiểm của ng−ời dân thì thị tr−ờng bảo hiểm ở Việt Nam
sẽ phát triển nhanh chóng, sớm hội nhập với thị tr−ờng khu vực và thế giới
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban công tác gia nhập WTO, (2006), Báo cáo của Ban công tác về việc
Việt Nam gia nhập WTO
2. Ban công tác gia nhập WTO, (2006), Biểu cam kết về thương mại dịch vụ
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Dự án VIE 02.009
4. Bộ Tài chính (2006), Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006
5. Chính phủ, NĐ46/ NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chế độ tài chính đối
với doanh nghiệp bảo hiểm
6. Chính phủ, Nghị định 118/2003/NĐ-CP về qui định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
7. Chính phủ, QĐ153/2003/QĐ-BTC về hệ thống chỉ tiêu giám sát hoạt động
của các doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó Bộ tài chính đã ban hành
8. Chính phủ, Thông tư 31/2004 TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 118
của Chính phủ
9. Hoàng Văn Châu, Vũ Sĩ Tuấn, Nguyễn Như Tiến (2002), Giáo trình bảo
hiểm trong kinh doanh, NXB Khoa học và kỹ thuật
10. Đặng Đình Đài (2002), Giáo trình Kinh tế các ngành thương mại dịch vụ,
NXB Thống Kê, Hà Nội
11. GATS, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
12. Luật Kinh doanh bảo hiểm, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
13. Phùng Ngọc Khánh (2007), Định hướng phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam 2007-2010, Tạp chí bảo hiểm số 2/2007, tr4
14. Bùi Thu Ngà (2006), Một số giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam nhằm đáp ứng các quy định về dịch vụ bảo hiểm trong Hiệp định
thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, Đại học Ngoại Thương- Hà Nội.
15. Nguyễn Như Tiến (2006), Thị trường bảo hiểm Việt Nam cơ hội và thách
thức trong quá trình hội nhập, NXB Lý luận chính trị
92
Tiếng Anh
16. Tang Xue Bin (3/2005), “Impact of the opening of market & assession to
WTO on the insurance industry in China”, Vietnam insurance outlook
2005.
17. Ping An Insurance Company – Presentation delivered in Vietnam
Insurance Outlook 2005
18. Swiss Re Sigma (2003) Emerging Insurance Markets- Lessons learned
from crises
19. Swiss Re Sigma(2005), No.2. Global Insurance Industry 2004
Website
20. Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006 và 6 tháng đầu năm 2007,
Website của Hiệp Hội bảo hiểm Việt Nam www.avi.org.vn
21. Diễn đàn bảo hiểm www.baohiem.pro.vn
22. Giải thích biểu cam kết WTO, Website của Bộ tài chính www.mof.gov.vn
23. Các công ty bảo hiểm niêm yết trên thị trường chứng khoán, Website Công ty
chứng khoán ngân hàng Sài Gòn Thương Tín,
24. Minh Đức (2006), Hậu WTO- tín hiệu đầu tiên từ thị trường bảo hiểm,
www.vneconomy.com
25. Thanh Nga (2007), Bảo hiểm qua ngân hàng, www.vneconomy.com
26. Bản tóm tắt biểu cam kết WTO, www.vnexpress.net
27. Dịch vụ tài chính Việt Nam trong hội nhập WTO, www.wto.org
93
PHỤ LỤC 1. DANH SÁCH CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NĂM 2006
STT TÊN CÔNG TY
NĂM
THÀNH
LẬP
HÌNH THỨC
SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU
LỆ
I. Công ty bảo hiểm phi nhân thọ: 21 Công ty
Trong nước: 12 Công ty
1 Bảo Việt Việt Nam 1964 Nhà nước 900 tỷ đồng
2 Tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh) 1994 Cổ phần 1.100 tỷ đồng
3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) 1995 Cổ phần 140 tỷ đồng
4 Công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí (PVI) 1996 Cổ phần 150 tỷ đồng
5 Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện (PTI) 1998 Cổ phần 105 tỷ đồng
6 Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) 1995 Cổ phần 160 tỷ đồng
7 Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông (VASS) 2003 Cổ phần 200 tỷ đồng
8 Công ty cổ phần bảo hiểm AAA (AAA) 2005 Cổ phần 80 tỷ đồng
9 Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC) 2006 Cổ phần 80 tỷ đồng
10 Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIC)
2005 Nhà nước 100 tỷ đồng
11
Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp
và phát triểnnông thôn Việt Nam (Agrinco)
2006 Cổ phần 160 tỷ đồng
12 Công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Tín 2006 Cổ phần 80 tỷ đồng
Có vốn Đầu tư nước ngoài: 9 Công ty
13 Công ty LD bảo hiểm Liên hiệp (UIC) 1997 Liên doanh 6 triệu USD
14 Công ty LD bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA) 1996 Liên doanh 6,2 triệu USD
15 Công ty LD TNHH bảo hiểm Châu á - Ngân hàng
công thương (IAI)
2002 Liên doanh 6 triệu USD
16 Công ty LD TNHH bảo hiểm Samsung Vina
(Samsung Vina)
2002 Liên doanh 5 triệu USD
17 Công ty bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam
(Groupama)
2001 100% vốn nước
ngoài
6,2 triệu USD
18 Công ty TNHH bảo hiểm QBE (Việt Nam) (QBE) 2005 100% vốn nước
ngoài
5 triệu USD
19 Công ty TNHH bảo hiểm phi nhân thọ AIG (Việt
Nam) (AIG)
2005 100% vốn nước
ngoài
10 triệu USD
20 Công ty TNHH bảo hiểm Liberty (Liberty) 2006 100% vốn nước
ngoài
10 triệu USD
21 Công ty TNHH bảo hiểm ACE (ACE) 2006 100% vốn nước
ngoài
20 triệu USD
II. Công ty bảo hiểm nhân thọ: 7 Công ty
Trong nước: 1 Công ty
94
STT TÊN CÔNG TY
NĂM
THÀNH
LẬP
HÌNH THỨC
SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU
LỆ
22 Bảo Việt Nhân thọ 2004 Nhà nước 1.500 tỷ đồng
Có vốn Đầu tư nước ngoài: 6 Công ty
23 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt
Nam (*)
2007(**) 100% vốn nước
ngoài
25 triệu USD
24 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt
Nam
1999 100% vốn nước
ngoài
75 triệu USD
25 Công ty TNHH Manulife (Việt Nam) 1999 100% vốn nước
ngoài
25 triệu USD
26 Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ Việt Nam 2000 100% vốn nước
ngoài
25 triệu USD
27 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Ace 2005 100% vốn nước
ngoài
20 triệu USD
28 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prévoir Việt Nam 2005 100% vốn nước
ngoài
10 triệu USD
III. Công ty tái bảo hiểm: 1 Công ty
29 Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt
Nam (VINARE)
1994 Cổ phần 500 tỷ đồng
IV. Công ty môi giới bảo hiểm: 8 Công ty
Trong nước: 5 Công ty
30 Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc (Việt
Quốc)
2001 Cổ phần 6 tỷ đồng
31 Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm á Đông (á Đông) 2003 Cổ phần 6 tỷ đồng
32 Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Đại Việt (Đại
Việt)
2003 Cổ phần 6 tỷ đồng
33 Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Thái Bình
Dương (PIB)
2005 Cổ phần 6 tỷ đồng
34 Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Cimeico
(Cimeico)
2006 Cổ phần 4 tỷ đồng
Có vốn Đầu tư nước ngoài: 3 Công ty
35 Công ty TNHH Aon Việt Nam (Aon) 1993 100% vốn nước
ngoài
300.000 USD
36
Công ty TNHH môi giới bảo hiểm Gras Savoye
Willis Việt Nam(Gras Savoye)
2003
100% vốn nước
ngoài
300.000 USD
37 Công ty TNHH môi giới bảo hiểm Marsh Việt Nam
(Marsh)
2004 100% vốn nước
ngoài
300.000 USD
95
PHỤ LỤC 2. DOANH THU - THỊ PHẦN PHÍ BẢO HIỂM GỐC NĂM
2005 VÀ ƢỚC NĂM 2006
STT TÊN CÔNG TY
DOANH THU phí bảo
hiểm gốc
THỊ PHẦN PHÍ BẢO
HIỂM GỐC
Năm 2005
Năm 2006
(ƣớc)
Năm 2005
Năm 2006
(ƣớc)
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ 5.486 6.445 100% 100%
Trong nước 5.217 6.114 95,10% 94,86%
1 Bảo Việt Việt Nam 2.106 2.252 38,39% 34,94%
2 Tổng công ty cổ phần Bảo Minh 1.178 1.372 21,47% 21,29%
3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex 729 680 13,29% 10,55%
4 Công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí 703 1.166 12,81% 18,09%
5 Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện 266 277 4,85% 4,30%
6 Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng 113 114 2,06% 1,77%
7 Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông 91 112 1,66% 1,74%
8 Công ty cổ phần bảo hiểm AAA 5 50 0,09% 0,78%
9 Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu - 46 - 0,71%
10
Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát
triểnViệt Nam 26 45 0,47% 0,70%
Có vốn Đầu tư nước ngoài 269 331 4,90% 5,14%
11 Công ty LD bảo hiểm Liên hiệp 115 130 2,10% 2,02%
12 Công ty LD bảo hiểm quốc tế Việt Nam 72 90 1,31% 1,40%
13
Công ty LD TNHH bảo hiểm Châu á - Ngân
hàngcông thương 17 24 0,31% 0,37%
14 Công ty LD TNHH bảo hiểm Samsung Vina 26 46 0,47% 0,71%
15
Công ty bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt
Nam
1 2 0,02% 0,03%
16 Công ty TNHH bảo hiểm QBE (Việt Nam) 38 24 0,69% 0,37%
17
Công ty TNHH bảo hiểm phi nhân thọ AIG
(Việt Nam)
- 15 - 0,23%
Công ty bảo hiểm nhân thọ 8.130 8.483 100% 100%
Trong nước 3.064 3.098 37,69% 36,52%
18 Bảo Việt Nhân thọ 3.064 3.098 37,69% 36,52%
Có vốn Đầu tư nước ngoài 5.066 5.385 62,31% 63,48%
19
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi
Việt Nam (*)
287 370 3,53% 4,36%
20
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ
Prudential Việt Nam
3.355 3.529 41,26% 41,60%
21
Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ Việt
Nam
523 522 6,43% 6,16%
22 Công ty TNHH Manulife (Việt Nam) 898 897 11,05% 10,57%
96
STT TÊN CÔNG TY
DOANH THU phí bảo
hiểm gốc
THỊ PHẦN PHÍ BẢO
HIỂM GỐC
Năm 2005
Năm 2006
(ƣớc)
Năm 2005
Năm 2006
(ƣớc)
23 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Ace 3 52 0,04% 0,62%
24
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prévoir
Việt Nam
- 15 - 0,18%
Tổng cộng 13.616 14.928
PHỤ LỤC 3. BIỂU CAM KẾT DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRONG WTO CỦA VIỆT NAM
Ngành, phân ngành Hạn chế tiếp cận thị trường Hạn chế đối xử
quốc gia
A. Bảo hiểm và các dịch
vụ liên quan đến bảo
hiểm
a. Bảo hiểm gốc
(a) Bảo hiểm nhân thọ, trừ
bảo hiểm y tế
(b) Bảo hiểm phi nhân thọ
b. Tái bảo hiểm và nhượng
tái bảo hiểm
c. Trung gian bảo hiểm
(như môi giới bảo hiểm
và đại lý bảo hiểm)
(1) Không hạn chế đối với:
- Dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam;
- Dịch vụ tái bảo hiểm;
- Dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế, bao gồm bảo hiểm cho các rủi ro
liên quan tới:
+ Vận tải biển quốc tế và vận tải hàng không thương mại quốc tế, với
phạm vi bảo hiểm bao gồm bất kỳ hoặc toàn bộ các khoản mục
sau: hàng hoá vận chuyển, phương tiện vận chuyển hàng hoá và
bất kỳ trách nhiệm nào phát sinh từ đó; và
+ Hàng hoá đang vận chuyển quá cảnh quốc tế.
- Dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm;
(1) Không hạn
chế.
d. Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm
(như tư vấn, dịch vụ
tính toán, đánh giá rủi
ro và giải quyết bồi
thường)
- Dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi
thường.
(2) Không hạn chế.
(3) Không hạn chế , ngoại trừ:
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài không được kinh
doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng
và lắp đặt, bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình dễ gây
nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế này sẽ
được bãi bỏ vào ngày 1/1/2008.
Sau 5 năm kể từ khi gia nhập, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, căn cứ vào các quy
định quản lý thận trọng.
(4) Chưa cam kết, trừ các cam kết chung.
(2) Không hạn
chế.
(3) Không hạn
chế.
4) Chưa cam
kết, trừ các cam
kết chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3704_3141.pdf