Quảng cáo ngoài trời không phải là phƣơng tiện đƣợc các công ty sử dụng
phổ biến bởi vì ngƣời ta chỉ nhìn thấy nội dung quảng cáo khi đang di chuyển.
Những quảng cáo ngoài trời chỉ lọt vào tầm nhìn của ngƣời qua lại trong những
khoảng thời gian ngắn và số lần lặp lại thấp. Đặc biệt đối với những công ty ít
đƣợc nhiều ngƣời biết đến tên tuổi, phƣơng tiện quảng cáo này kém hiệu quả bởi
vì chúng không thể truyền đạt nhƣng thông đạt phức tạp cần thiết để giới thiệu
tên tuổi và sản phẩm của mình. Do đó nhiều công ty đã từ chối sử dụng hình
thức quảng cáo ngoài trời, một phần vì họ không thấy hiệu quả một phần ví chi
phí cao.
94 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5022 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược đại dương xanh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dáng hoặc chất liệu hoặc những
thay đổi nhỏ trong mô hình kinh doanh. Những sự khác biệt này mau chóng bị
bắt chƣớc và không còn là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nữa. Vì thế mới
xảy ra tình trạng một doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp bỏ ra nhiều công sức để
63
sáng tạo ra một mẫu mã mới, tung ra thị trƣờng và bán chạy thì chỉ vài hôm sau
những doanh nghiệp cùng loại cũng tung ra thị trƣờng loại sản phẩm tƣơng tự.
Khi nhìn nhận thị trƣờng từ phƣơng diện những đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ
nhất nhƣ: hộ kinh doanh gia đình, tiểu thƣơng, ngƣời bán dạo thì mời thấy hết
đƣợc nguy cơ của sự bắt chƣớc. Công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam từ
những năm 1986 đã tạo điều kiện cho ngƣời dân bung ra kinh doanh, làm ăn nhỏ
lẻ ở khắp các tỉnh thành trong cả nƣớc. Ngƣời dân đua nhau làm ăn, sáng tạo ra
những phƣơng pháp làm ăn mới rồi lại bị bắt chƣớc hàng loạt khiến cạnh tranh
trở nên gay gắt, một vài ngƣời rời bỏ thị trƣờng đi tìm hƣớng kinh doanh mới và
quy trình lại lặp lại. Đặc tính „học hỏi- bắt chƣớc‟ này đã ăn sâu vào bản tính dân
tộc và gây trở ngại rất nhiều cho các doanh nghiệp muốn biến sự độc đáo trong
phƣơng thức kinh doanh của mình thành lợi thế cạnh tranh.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến một hàng rào pháp lý lỏng lẻo, chƣa hoàn
thiện và sự thiếu đồng bộ của cơ quan hành pháp dẫn đến việc các doanh nghiệp
không bảo vệ đƣợc các phát minh phát kiến của mình. Ngay cả khi doanh nghiệp
đã đăng ký sở hữu trí tuệ hoặc sở hữu công nghiệp thì các cơ sở khác vẫn ngang
nhiên bắt chƣớc mẫu mã, hình thức kinh doanh của doanh nghiệp mình. Việc trở
nên độc nhất vô nhị ở thị trƣờng Việt Nam là điều quá đỗi khó khăn của các
doanh nghiệp.
64
CHƢƠNG 3
BÀI HỌC TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ
GIỚI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG ÁP DỤNG
CHIẾN LƢỢC ĐẠI DƢƠNG XANH TẠI VIỆT NAM
3.1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
3.1.1. Curves (Mỹ) và UkeU (Anh) – bài học về việc quan tâm đến tâm lý và
nhu cầu của khách hàng
Vấn đề cốt lõi trong chiến lƣợc đại dƣơng xanh là việc tìm ra và khai thác
những nhu cầu chƣa đƣợc thỏa mãn của khách hàng. Tuy nhiên, những nhu cầu
này phải là những nhu cầu có thật của khách hàng, tránh trƣờng hợp doanh
nghiệp tự tạo ra nhu cầu và ngộ nhận đó là nhu cầu của thị trƣờng. Sẽ là rất rủi ro
cho doanh nghiệp nếu nhƣ không nghiên cứu kỹ tâm lý khách hàng và không sâu
sát với nhu cầu thị trƣờng bởi lẽ không thể cố tạo ra một đại dƣơng xanh khi
không có nhu cầu thực.
Những ví dụ điển hình về việc quan tâm đến tâm lý và nhu cầu của khách
hàng dẫn đến hình thành nhiều đại dƣơng xanh trên thế giới. Ngƣợc lại có những
công ty đã học những bài học đắt giá khi không đi sâu đi sát với nhu cầu thực tế.
Curves, một công ty kinh doanh trong lĩnh vực làm đẹp và sức khỏe cho phụ
nữ, đã thành công trong việc khám phá ra đại dƣơng xanh nhờ biết cách quan
tâm đến nhu cầu và tâm lý của khách hàng. Từ khi bắt đầu việc chuyển nhƣợng
quyền kinh doanh năm 1995, Curves đã phát triển mạnh mẽ và có đƣợc hơn 2
triệu khách hàng tại hơn 6000 địa điểm khác nhau. Trung bình cứ 4 giờ đồng hồ
lại có một cửa hàng của Curves đƣợc khai trƣơng trên khắp thế giới.
Trên thực tế, sự tăng trƣởng này hầu nhƣ hoàn toàn do truyền miệng và bạn
bè giới thiệu nhau. Khi mới bắt đầu, Curves đƣợc xem nhƣ đang bƣớc vào một
thị trƣờng đã quá bão hòa, các công ty luôn tích cực mời chào và hứa hẹn mang
lại nhiều lợi ích hơn cho khách hàng so với đối thủ cạnh tranh, còn khách hàng
65
thì lại không mấy hào hứng. Tuy nhiên trên thực tế Curves đã tạo ra đƣợc sự
bùng nổ về nhu cầu giữ hình thể đẹp trong ngành công nghiệp kinh doanh thể
thao và sức khỏe ở Mỹ. Curves đã thành công dựa trên việc biết kết hợp sáng
tạo những ƣu điểm của 2 hình thức kinh doanh trong ngành là: câu lạc bộ sức
khỏe kiểu truyền thống và những chƣơng trình luyện tập ở nhà.
Hình thức kinh doanh thứ nhất trong ngành là những câu lạc bộ chăm sóc sức
khỏe kiểu truyền thống dành cho cả nam và nữ - loại câu lạc bộ này tràn ngập ở
Mỹ. Họ đƣa ra một loạt những bài tập và môn thể thao, tại những vị trí trung tâm
thành phố. Họ lắp đặt những trang thiết bị hiện đại để thu hút những ngƣời có
thu nhập cao. Những câu lạc bộ kiểu này có đủ các loại máy tập aerobic và tập
thể lực, quầy giải khát, ngƣời hƣớng dẫn, phòng khép kín, với vòi hoa sen và tắm
hơi. Những câu lạc bộ kiểu này tạo điều kiện cho ngƣời tập có cơ hội giao tiếp
khi tập luyện. Mức phí cho tất cả những dịch vụ này vào khoảng 100 USD một
tháng, chỉ một nhóm khách hàng nhỏ với thu nhập cao mới thƣờng xuyên tham
gia.
Hình thức kinh doanh thứ hai là những chƣơng trình luyện tập tại nhà nhƣ
băng hình, sách, và tạp chí với các bài tập hƣớng dẫn. Chi phí cho loại hình tập
luyện này thấp nhƣng ngƣời tập ít hào hứng và rất dễ bỏ cuộc vì không có ngƣời
động viên hƣớng dẫn thƣờng xuyên.
Nhận thấy tâm lý và nhu cầu của khách hàng, Curves đã cho ra đời hình thức
luyện tập theo một nhóm 10 ngƣời, trong thời gian chỉ 30 phút/ ngƣời và chi phí
thấp hơn nhiều so với hình thức tập tại các câu lạc bộ kiểu truyền thống. Các
phòng tập đƣợc bố trí ở gần khu dân cƣ nên ngƣời tập không mất thời gian đi
lại. Ngƣời tập đến với trung tâm của Curves vừa đƣợc hƣớng dẫn luyện tập , vừa
đƣợc giao tiếp với bạn bè trong nhóm tập qua đó khích lệ tinh thần luyện tập
hăng say. Các bài tập đƣợc thiết kế trong khoảng thời gian ngắn 30 phút lại đặt
gần khu dân cƣ, tiện đi lại nên ngƣời tập không mất nhiều thời gian cho việc
chăm sóc sức khỏe một ngày mà vẫn giữ đƣợc thể hình đẹp. Thêm vào đó giá cả
66
của hình thức tập luyện này không đắt hơn là mấy so với chi phí luyện tập tại
nhà mà hiệu quả lại hơn nhiều nên đã đƣợc nhiều ngƣời lựa chọn.
Nhƣ vậy, nhờ quan tâm đến tâm lý và nhu cầu của khách hàng, công ty kinh
doanh trong lĩnh vực làm đẹp và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ đã mở ra cho
mình một đại dƣơng xanh riêng.
Ngƣợc lại, cũng có những ví dụ điển hình về thất bại trong chiến lƣợc đại
dƣơng xanh do không quan tâm đến nhu cầu và tâm lý của khách hàng một cách
thích đáng. Đó là bài học về thất bại của mô hình trƣờng đại học qua mạng của
Anh. Ý tƣởng về một trƣờng đại học giảng dậy và đào tạo qua mạng của Anh
đƣợc đề xƣớng lần đầu tiên bởi Tổng thƣ ký Hội đồng giáo dục của Anh vào
tháng 2 năm 2000 với mong muốn đây sẽ là phƣơng tiện để truyền tải qua mạng
Internet những gì tinh hoa nhất của hệ thống giáo dục sau đại học của Anh đến
với thế giới. Ông này đã yêu cầu quỹ hỗ trợ giáo dục sau đại học của Anh
(HEFCE) hỗ trợ . Đến tháng 8 năm 2000, các nghiên cứu chính về mô hình kinh
doanh, công cụ, và thị trƣờng đã đƣợc hoàn tất. Đến tháng 6 năm 2001, rất nhiều
nghiên cứu khác đƣợc hoàn thành và công ty trách nhiêm hữu hạn toàn cầu về
trƣờng đại học qua mạng (United Kingdom eUniversities Worldewide Limited –
viết tắt là UkeU) đã đƣợc sát nhập với nhóm quản lý Interim. Đến tháng 3 năm
2002, các vị trí giám đốc và các vị trí trong Hội đồng quản trị đã đƣợc bổ nhiệm
và bản hợp đồng xây dựng hệ thống mạng cho đào tạo qua Internet đã đƣợc công
ty ký với Sun Microsystems. Đến tháng 3 năm 2003, hai khóa học đã đƣợc đƣa
vào thử nghiệm. Nhƣng mãi đến thàng 9 năm 2003 mới có khoảng hơn 12 ngƣời
đăng ký học. Đến tháng 1 năm 2004, có khoảng 24 khóa học các loại chiêu sinh.
Tuy nhiên đơn vị tài trợ ý tƣởng kinh doanh này là quỹ hỗ trợ giáo dục sau
đại học của Anh không hài lòng với tiến độ của dự án nên họ đã quyết định tái
cơ cấu lại công ty chủ quản của dự án là UkeU vào thàng 2 năm 2004. Và công
ty sau khi cơ cấu lại cũng nhanh chóng đóng cửa vào tháng sáu năm 2004. Nhƣ
vậy khái niệm về trƣờng đại học qua mạng của Anh (UK e-university) chỉ tồn tại
trong 4 năm rƣỡi và thời gian hoạt động thật của mô hình chỉ có 2 năm.
67
Nguyên nhân thất bại của dự án UkeU, một dự án tƣởng nhƣ sẽ mở ra một
chiến lƣợc đại dƣơng xanh trong ngành giáo dục, chủ yếu ở chỗ các nhà lãnh đạo
không đánh giá vấn đề từ nhu cầu của thị trƣờng mà dựa trên nhận định về khả
năng có thể cung cấp sản phẩm “ đào tạo qua mạng” (lợi thế về cơ sở hạ tầng và
sự hỗ trợ từ các trƣờng đại học trong cả nƣớc). Các chuyên gia về marketing chỉ
ra mức độ rủi ro khi các nhà lãnh đạo nhận thấy nhu cầu học qua mạng tại một
số nƣớc nhƣ Mỹ nhƣng lại ngộ nhận đó là nhu cầu của thị trƣờng trên quy mô
quốc tế. Trong khi xu thế giáo dục toàn cầu là sự kết hợp các phƣơng pháp giảng
dạy khác nhau để phù hợp với nhu cầu đa dạng của học sinh, trong đó Internet
chỉ là công cụ hỗ trợ cho phƣơng pháp giảng dậy trực tiếp thì UkeU lại hƣớng tới
hình thức giảng dậy thuần túy qua mạng. Định hƣớng của UkeU không đúng với
nhu cầu của thị trƣờng nên đã gặp thất bại nặng nề. Đây là bài học quý giá cho
các doanh nghiệp trong việc quan tâm đến tâm lý và nhu cầu của khách hàng.
( Nguồn: Lessons to be learned from the failure of theUK e-University _ Paul
Bacsich_Middlesex University)
3.1.2. QB House (Nhật) – thành công nhờ thay đổi định hƣớng chức năng-
cảm xúc của ngành
Nhƣ đã đề cập ở chƣơng 1, việc thay đổi định hƣớng chức năng – cảm xúc
của ngành có thể dẫn đến việc hình thành những đại dƣơng xanh mới. Một ví dụ
điển hình có thể kể đến trong phần này đó là trƣờng hợp của công ty QBHouse
Nhật Bản. QB House đã tạo ra một đại dƣơng xanh trong ngành cắt tóc ở Nhật
Bản và phát triển nhanh chóng khắp Châu Á. Bắt đầu việc kinh doanh từ năm
1996 ở Tokyo, QB house đã mở rộng từ một cửa hiệu lên hơn 200 cửa hiệu trong
năm 2003. Số khách hàng tăng từ 57.000 lƣợt năm 1996 lên 3,5 triệu lƣợt năm
2002. Công ty đã mở rộng sang Singapore và Malaysia và đang đặt mục tiêu mở
hàng ngàn cửa hàng ở châu Á cho đến năm 2013. Tâm điểm trong chiến lƣợc đại
dƣơng xanh của QB House là chuyển đổi các hiệu cắt tóc ở Nhật từ một ngành
chú trọng đến cảm xúc và rƣờm rà nhƣ một nghi lễ thành một ngành dịch vụ
68
thiết thực hơn. Ở Nhật thời gian cắt tóc của nam giới mât khoảng chừng một giờ
đồng hồ. Mỗi lần nhƣ vậy ngƣời ta thực hiện một loạt các công đoạn và biến việc
cắt tóc trở thành một quy trình phức tạp. Ngoài việc sử dụng khăn mặt nóng, xoa
bóp vai, phục vụ trà và café, ngƣời cắt tóc còn phải tuân theo một trình tự nhiều
bƣớc, bao gồm chăm sóc đặc biệt cho tóc và da, sấy khô, và cạo tóc. Thời gian
thực sự dành cho việc cắt tóc chỉ chiếm một phần nhỏ trong tồng số thời gian.
Thêm vào đó, những công đoạn này cũng là lý do kiến khách hàng phải chờ. Giá
của một lần cắt tóc nhƣ vậy từ 3000 đến 5000 yên ( 27-45 USD).
QB House đã thay đổi cách làm đó, họ nhận thấy nhiều ngƣời, đặc biệt là
những ngƣời đi làm, không muốn mất tới một tiếng đồng hồ để cắt tóc. Vì thế
QB House đã bỏ hết những yếu tố phụ đó đi và chỉ tập trung vào cắt tóc. Họ còn
giảm bớt thời gian dành cho gội sấy bằng cách lắp đặt hệ thống làm sạch bằng
không khí, hệ thống này hút hết phần tóc bị cắt bỏ khỏi ngƣời. Những thay đổi
này đã giảm thời gian cắt tóc từ 1 tiếng đồng hồ xuống còn 10 phút cho một lần
phục vụ. QB House còn cho lắp đặt một hệ thống đèn hiệu ở ngoài cửa hàng để
báo cho khách biết có phải chờ hay không.
Bằng cách này, QB House đã giảm đƣợc giá thành cho một lần cắt tóc xuống
còn 1000 yên (9 USD) so với mức trung bình của thị trƣờng là 3000- 5000 yên
(7-45 USD) mà vẫn mang lại lợi nhuận cao hơn cho cửa hàng. Bằng cách tập
trung vào giá trị đích thực của “ sản phẩm”, BQ House không những đã thu hút
đƣợc khách hàng đến với mình mà còn tăng đƣợc lợi nhuận của cửa hàng.
3.1.3. JCDecaux ( Pháp) – cách thức thu hút những ngƣời chƣa mua hàng
của doanh nghiệp
Việc thu hút những đối tƣợng chƣa phải là khách hàng của doanh nghiệp đã
cơ bản đƣợc trình bày ở phần lý thuyết hình thành chiến lƣợc đại dƣơng xanh.
Sau đây là những bài học sống động về việc các doanh nghiệp trên thế giới đã
vân dụng nguyên tắc này vào việc hình thành nên đại dƣơng xanh. Việc thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng luôn đƣợc doanh nghiệp xem là mục tiêu quan
69
trọng nhất của chiến lƣợc kinh doanh. Việc thỏa mãn đƣợc tối đa nhu cầu của
những khách hàng mà doanh nghiệp đang phục vụ đã khó chứ doanh nghiệp
hiếm khi nghĩ đến những đối tƣợng chƣa phải là khách hàng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên với tƣ duy bó hẹp trong phân đoạn thị trƣờng mà doanh nghiệp đang
chuyên doanh, việc tìm ra một đại dƣơng xanh là không thể. Hãy xem xét trƣờng
hợp của JCDecaux, một công ty của Pháp chuyên kinh doanh những không gian
quảng cáo ngoài trời đã lôi kéo những khách hàng từ chối sử dụng sản phẩm,
dịch vụ của họ nhƣ thế nào. Trƣớc khi JCDecaux đƣa ra một hình thức quảng
cáo ngoài trời mới trên những “ tài sản công cộng” vào năm 1964, trong ngành
chỉ có hai hình thức là quảng cáo bằng bảng hiệu và quảng cáo trên các phƣơng
tiện giao thông. Những tấm bảng quảng cáo đƣợc đặt ở ngoại vi thành phố và
dọc theo những con đƣờng mới ngƣời tham gia giao thông nhanh chóng đi qua
còn quảng cáo trên cac phƣơng tiện giao thông là những hình ảnh trên xe buýt và
tải, mọi ngƣời chỉ nhìn thấy khi xe đi lƣớt qua.
Quảng cáo ngoài trời không phải là phƣơng tiện đƣợc các công ty sử dụng
phổ biến bởi vì ngƣời ta chỉ nhìn thấy nội dung quảng cáo khi đang di chuyển.
Những quảng cáo ngoài trời chỉ lọt vào tầm nhìn của ngƣời qua lại trong những
khoảng thời gian ngắn và số lần lặp lại thấp. Đặc biệt đối với những công ty ít
đƣợc nhiều ngƣời biết đến tên tuổi, phƣơng tiện quảng cáo này kém hiệu quả bởi
vì chúng không thể truyền đạt nhƣng thông đạt phức tạp cần thiết để giới thiệu
tên tuổi và sản phẩm của mình. Do đó nhiều công ty đã từ chối sử dụng hình
thức quảng cáo ngoài trời, một phần vì họ không thấy hiệu quả một phần ví chi
phí cao.
Khi nghĩ đến yêu cầu chung cơ bản của những đối tƣợng từ chối sử dụng sản
phẩm dịch vụ của ngành, JCDecaux nhận thấy lý do chính khiến ngành này chƣa
phổ biến và chƣa mở rộng đó là thiếu những quảng cáo tĩnh tại các khu vực
trung tâm thành phố. Khi tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này, JCDecaux nhận
thấy rằng có thể hợp tác với chính quyền thành phố để kinh doanh những vị trí
quảng cáo này ,chẳng hạn nhƣ điểm chở xe buýt , nơi mọi ngƣời dừng lại khoảng
70
vài phút và có thời gian để đọc quảng cáo. JCDecaux lập luận rằng nếu họ có thể
sử dụng các địa điểm này để đặt quảng cáo ngoài trời, họ có thể thu hút những
đối tƣợng chƣa phải là khách hàng của công ty. Để đổi lấy quyền sử dụng bề mặt
các tài sản công cộng để quảng cáo, JCDeaux đã bảo trì, sửa sang miễn phí các
tài sản công cộng cho chính quyền thành phố.
Chiến lƣợc này đã giúp chính quyền thành phố cắt giảm đƣợc khoản chi phí
đầu tƣ cho đô thị. Để đổi lại, JCDeaux có đƣợc đặc quyền đƣa những biển quảng
cáo lên những lên những tài sản công cộng đặt tại khu vực trung tâm thành phố.
Khi quảng cáo đƣợc đặt ở trung tâm thành phố, thời gian xuất hiện trung bình
trƣớc đối tƣợng khách hàng tiềm năng tăng lên, đồng thời cho phép công ty đƣa
ra những nội dung quảng cáo phong phú hơn. Thêm vào đó, JCDeaux có thể
giúp các công ty đƣa ra những chiến dịch quảng cáo trong 2 đến 3 ngày, thay vì
15 ngày đối với những chiến dịch quảng cáo trên những bảng quảng cáo thông
thƣờng. Bằng cách làm nhƣ vậy JCDeaux đã thu hút đƣợc rất nhiều đối tƣợng
trƣớc đây chƣa phải là khách hàng của mình.
Với việc ký kết hợp đồng từ 8 đến 25 năm với chính quyền thành phố,
JCDeaux có đƣợc đặc quyền trƣng quảng cáo dài hạn trên các tài sản công cộng.
Ngoài khoản đầu tƣ vốn ban đầu, chi phí của JCDeaux trong những năm tiếp
theo chỉ là bảo dƣỡng và làm mới. Lợi nhuận hoạt động lên tới 40% so với 14 %
của quảng cáo trên biển hiệu và 18% của quảng cáo trên phƣơng tiện vận tải.
Hiện nay, JCDecaux là nhà cung cấp không gian quảng cáo trên đƣờng phố số 1
trên toàn thế giới với 283.000 biển quảng cáo tại 33 quốc gia. Ngoài ra, nhờ việc
hƣớng tới đối tƣợng khách hàng tiềm năng và tập trung vào những lý do cơ bản
khiến họ từ chối sử dụng dịch vụ của ngành, JCDeaux cũng làm tăng nhu cầu
quảng cáo ngoài trời của khách hàng hiện tại trong ngành. Trƣớc khi JCDeaux
đƣa ra dịch vụ mới, những khách hàng hiện tại trong ngành xem quảng cáo bằng
bảng hiệu và trên các phƣơng tiện vận tải là những lựa chọn duy nhất có thể có.
Có thể thấy, những đối tƣợng chƣa phải là khách hàng đã giúp điều chỉnh lại các
71
giả định ngầm của ngành nhằm tạo ra sự đột phá về mặt giá trị cho tất cả những
đối tƣợng liên quan.
Những lý do chính khiến khách hàng từ chối sử dụng sản phẩm của bạn là gì?
Hãy tìm hiếu những yêu cầu chung của họ. Tập trung vào đó thay vì tập trung
vào những điểm khác biệt. Bạn sẽ có đƣợc những ý tƣởng về cách thức mở ra
một đại dƣơng xanh với những nhu cầu tiềm ẩn chƣa đƣợc khai thác. Đó là thông
điệp đƣợc gửi đến từ ví dụ của công ty JCDeaux.
3.1.4. Novo Nordisk (Đan Mạch) - tạo ra đại dƣơng xanh nhờ việc tập trung
vào nhóm khách hàng trƣớc đây không đƣợc chú ý tới
Novo Nordisk là một hãng dƣợc phẩm hàng đầu trên thế giới chuyên về các
chế phẩm điều trị bệnh tiểu đƣờng, có trụ sở chính ở Đan Mạch. Novo Nordisk
là một tập đoàn đa quốc gia với quy mô về lao động lên đến 27.000 ngƣời ở khắp
81 quốc gia. Các sản phẩm và dịch vụ của hãng đã có mặt trên 179 quốc gia.
Novo Nordisk đã thành công trong việc tạo ra đại dƣơng xanh trong ngành sản
xuất Insulin nhờ việc tập trung vào nhóm khách hàng trƣớc đây không đƣợc chú
ý tới.
Insulin đƣợc ngƣời mắc bệnh tiểu đƣờng sử dụng để điều tiết lƣợng đƣờng
trong máu. Về mặt lịch sử, ngành sản xuất insulin cũng nhƣ các ngành dƣợc
phẩm khác, tập trung sự chú ý vào những yếu tố ảnh hƣởng chính: đó là các
bác sĩ. Các bác sĩ thƣờng có ảnh hƣởng quyết định trong việc mua insulin của
ngƣời mắc bệnh, vì thế họ trở thành nhóm khách hàng mục tiêu trong ngành.
Do đó, ngành này dành sự tập trung và nỗ lực để sản xuất ra loại insulin thanh
khiết hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của bác sĩ. Vấn đề đặt ra là từ những năm
1980, ngày càng có nhiều đổi mới trong công nghệ tinh chế. Khi độ tinh khiết
của insulin là chỉ tiêu chính để các hãng cạnh tranh với nhau, họ sẽ cải thiện
sản phẩm theo hƣớng đó và ít quan tâm đến những nhu cầu khác. Novo đã tự
nghiên cứu sản xuất ra loại insulin mô phỏng chính xác insulin trong cơ thể
con ngƣời.
72
Tuy nhiên, Novo Nordisk đã nhận thấy rằng họ có thể tránh đƣợc cạnh tranh
và tạo ra một đại dƣơng xanh bằng cách chuyển sự tập trung vốn có trong ngành
từ các bác sĩ sang ngƣời sử dụng - đó chính là những bệnh nhân. Khi tập trung
vào các bệnh nhân, Novo Nordisk nhận thấy insulin đƣợc cung cấp cho những
bệnh nhân tiểu đƣờng trong những lọ nhỏ, rất khó phân phát. Những lọ nhỏ
khiến ngƣời bệnh khó khăn trong việc lắp ống tiêm, kim tiêm và theo dõi liều
lƣợng insulin. Việc mang theo kim tiêm và ống tiêm cũng tạo ra sự bất tiện cho
bệnh nhân, nhƣng đây là điều khó tránh khỏi vì nhiều bệnh nhân phải tiêm
insulin vài lần mỗi ngày.
Điều đó giúp Novo Nordisk nghĩ tới một cơ hội mới, với sản phẩm NovoPen,
đƣợc tung ra thị trƣờng năm 1985. NovoPen giống với một chiếc bút máy; nó
chứa một bình đựng insulin cho phép bệnh nhân dễ dàng mang theo lƣợng
insulin đủ cho một tuần. Chiếc bút đƣợc thiết kế với cơ chế bấm, ngay cả bệnh
nhân mù cũng có thể kiểm soát đƣợc liều lƣợng insulin. Ngƣời bệnh có thể mang
theo Novopen và tự tiêm Insulin một cách dễ dàng và thuận tiện.
Hình 3.1 : Các sản phẩm của Novo Nordisk
Để chiếm lĩnh thị trƣờng mới đƣợc mở ra, Novo Nordisk tiếp tục giới thiệu
sản phẩm Novolet vào năm 1989, một sản phẩm hình chiếc bút dùng đề tiêm
Insulin, sử dụng một lần với lƣợng Insulin đƣợc bơm sẵn, tạo sự thuận lợi và dễ
dàng hơn cho ngƣời bệnh. Đến năm 1999, hãng lại tiếp tục tung ra sản phẩm
Innovo, một hệ thống tiêm Insulin với bộ nhớ điện tử tích hợp. Innovo kiểm soát
liều lƣợng Insulin qua bộ nhớ bên trong và hiển thị liều dùng, lần tiêm cuối cùng
và thời gian, đây là thông tin quan trọng giúp ngƣời bệnh tránh đƣợc những lo
lắng về việc quên tiêm thuốc.
73
Chiến lƣợc đại dƣơng xanh của Novo Nordisk đã thay đổi bối cảnh trong
ngành và chuyển hãng này từ một nhà sản xuất Insulin thành một hãng chuyên
chữa trị bệnh tiểu đƣờng. Novopen và những sản phẩm sau đó đã tràn ngập khắp
thị trƣờng. Doanh thu bán Insulin đựng trong các dụng cụ hoặc chiếc bút do
Novo sản xuất hiện chiếm phần lớn ở Châu Âu và Nhật Bản, nơi các bệnh nhân
đƣợc khuyên nên tiêm Insulin thƣờng xuyên mỗi ngày. Novo Nordisk chiếm hơn
60% thị phần ở châu Âu và 80% ở Nhật, 70% tổng doanh thu của hãng đến từ
việc chữa trị bệnh tiểu đƣờng, một dịch vụ bắt nguồn từ suy nghĩ của hãng theo
hƣớng chú trọng đến nhu cầu của bệnh nhân (ngƣời sử dụng) hơn yêu cầu của
bác sĩ (ngƣời có ảnh hƣởng tới quyết định mua hàng).
3.1.5. Tập đoàn sản xuất thang máy Elco ( Mỹ)- vận dụng nguyên tắc quản
lý 3 E vào thực tiễn
Việc vận dụng chiến lƣợc đại dƣơng xanh vào thực tiễn đòi hỏi phải đƣợc
thực hiện một cách bài bản và tuân theo một quy trình hợp lý. Nguyên tắc 3E
nhƣ đã trình bày ở phần lý thuyết sẽ là kim chỉ nam cho các doanh nghiệp khi
vận hành một quy trình mới. Kinh nghiệm của công ty Elco, một công ty
chuyên sản xuất thang máy sẽ cho thấy rõ điều đó.
Vào cuối những năm 1980, doanh thu của ngành công nghiệp thang máy bị
giảm mạnh. Khi cầu nội địa giảm, Elco lập tức dành ƣu đãi cho những ngƣời
mua hàng với việc tăng chất lƣợng sản phẩm và giảm chi phí nhằm kích thích
cầu nội địa và đột phá trong cạnh tranh. Trong quá trình xây dựng và thực hiện
chiến lƣợc đại dƣơng xanh, công ty này đã nhận thấy rằng họ cần phải thay thế
hệ thống sản xuất theo đợt bằng hệ thống sản xuất hình mạng cho phép những
nhóm công nhân tự quản có thể đạt đƣợc kết quả cao nhất. Ban quản lý công ty
đã thống nhất và sẵn sàng bắt tay vào việc. Để thực hiện mục tiêu cơ bản của
chiến lƣợc này, nhóm quản lý đã quyết định áp dụng giải pháp có vẻ nhanh nhất
và tối ƣu nhất để thực hiện tiếp tục.
74
Đầu tiên là phải lắp đặt hệ thống mới ở nhà mày Chester của Elco sau đó
chuyển sang thực hiện ở nhà mày High Park. Ban lãnh đạo công ty đƣa ra lập
luận này bởi vì nhà máy Chester là nơi có mối quan hệ công nhân kiểu mẫu. Giới
công nhân nghe lời quản lý và hiếm khi có sự phản đối nào. Trong khi đó nhà
máy High Park lại là nơi có nghiệp đoàn vững mạnh và nghiệp đoàn này có thể
sẽ phản đối những sự thay đổi trong quy trình sản xuất.
Về lý thuyết thì kế hoạch có vẻ tốt. Nhƣng trên thực tế mọi việc xảy ra không
nhƣ dự tính. Việc đƣa quy trình sản xuất mới vào áp dụng ở nhà máy Chester
nhanh chóng dẫn đến sự náo loạn và lộn xộn. Chỉ trong vòng vài tháng, cả chi phí
và chất lƣợng sản phẩm đều không đạt hiệu quả. Công nhân lo lắng, giám đốc nhà
máy yêu cầu sự giúp đỡ từ phía những chuyên gia của tổng công ty Elco.
Ngƣợc lại, tại nhà máy High Park, bất chấp những điều tiếng về sự phản đối
thƣờng có của nghiệp đoàn, nhà máy đã chấp nhận những chuyển biến chiến
lƣợc trong quy trình sản xuất. Hàng ngày, giám đốc của High Park đều chờ đợi
một sự phản đối từ nghiệp đoàn, nhƣng điều đó không xảy ra. Ngay cả khi, ngƣời
ta không thích quyết định chuyển đổi này, họ vẫn cảm thấy mình đƣợc đối xử
công bằng và vì thế sẵn sàng tham gia vào công cuộc cải tiến quy trình sản xuất,
một yếu tố cốt yếu của quá trình phát triển chiến lƣợc mới của doanh nghiệp.
Nghiên cứu kỹ hơn phƣơng pháp chuyển đổi chiến lƣợc đƣợc thực thi ở cả
hai nhà máy, ngƣời ta đã tìm thấy lý do ẩn đằng sau sự khác biệt này. Tại nhà
máy Chester, giám đốc nhà máy đã vi phạm nguyên tắc 3E và thất bại trong việc
xây dƣng một đội ngũ cán bộ đồng lòng nhất trí trong công cuộc cải tiến quy
trình sản xuất. Thứ nhất, họ thất bại trong việc lôi kéo công nhân tham gia vào
những quyết định chiến lƣợc trực tiếp tác động đến nhà máy. Do thiếu những
ngƣời chuyên nghiệp trong lĩnh vực mô hình sản xuất kiểu tế bào, Elco đã thuê
một công ty tƣ vấn thiết kế một kế hoạch tổng thể cho sự chuyển đổi. Các nhà tƣ
vấn đƣợc yêu cầu ngắn ngọn là phải lập kế hoạch nhanh chóng, ít can thiệp và
tiếp xúc với nhận viên sao cho có thể thực hiện kế hoạch nhanh chóng và ít gây
hại, và thế là các nhân viên tƣ vấn thực hiện theo đúng chỉ dẫn đó. Khi công
75
nhân Chester đến xƣởng làm việc, họ nhận thấy những ngƣời lạ ở nhà máy.
Những ngƣời này không chỉ ăn mặc khác hẳn họ mà còn nói chuyện với nhau
gần nhƣ thì thầm. Để ít can thiệp vào công nhân nhất, họ đã không giao tiếp và
phối hợp với các công nhân. Thay vì thế, họ theo dõi sau lƣng mọi ngƣời, ghi
chép và xây dựng các biểu đồ. Trong nhà máy xuất hiện lời đồn đại rằng, sau khi
công nhân về nhà vào buổi chiều, những ngƣời này sẽ tập trung tại xƣởng, điều
tra nơi làm việc của công nhân và sôi nổi bàn luận.
Trong suôt thời gian này, giám đốc nhà máy Chester ngày càng vắng mặt
nhiều hơn. Ông ta dành nhiều thời gian cho các buổi họp tƣ vấn. Sự vắng mặt của
giám đốc đã tạo ra phản ứng tiêu cực tại nhà máy. Công nhân lo lắng tự hỏi tại sao
giám đốc của họ lại bỏ rơi họ nhƣ vậy và lời đồn đại bắt đầu lan nhanh nhƣ điện.
Tất cả mọi ngƣời đều bị thuyết phục với ý nghĩ rằng những nhà tƣ vấn đang tìm
cách giảm biên chế cho nhà máy. Họ chắc chắn rằng họ sắp mất việc làm nay mai.
Vì thế niềm tin và sự tận tụy ở nhà máy Chester sụt giảm nghiêm trọng.
Thực ra ban giám đốc Elco không có ý định đóng cửa nhà máy. Họ chỉ muốn
giảm bớt số ngƣời nhàn rỗi, không đƣợc sử dụng tới chế tạo những chiếc thang
máy trong thời gian nhanh hơn, với chất lƣợng cao hơn để nâng cao tính cạnh
tranh trên thị trƣờng. Nhƣng những công nhân nhà máy Chester không hiểu đƣợc
ý định tốt đẹp đó.
Ban giám đốc nhà máy Chester đã không giải thích tại sao họ tiến hành
những quyết định chiến lƣợc này và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của công
nhân cũng nhƣ đối với cách thức làm việc của họ. Ban giám đốc nhà máy chỉ cho
họ biết về kế hoạch thay đổi tổng thể trong một phiên họp 30 phút với các công
nhân.Mọi ngƣời đƣợc biết rằng cách làm việc mà họ vốn vẫn tự hào sẽ bị xóa bỏ
và đƣợc thay thế bởi cái gọi là “hệ thống sản xuất hình mạng”. Không ai giải
thích cho họ về việc tại sao việc chuyển hƣớng chiến lƣợc là cần thiết , công ty
cần phải dẫn đầu trong cuộc cạnh tranh để kích thích nhu cầu mới là nhƣ thế nào
và tại sao sự thay đổi trong quy trình sản xuất lại là một yếu tố cơ bản trong
chiến lƣợc đó. Có thể thấy công ty đã vi phạm nguyên tắc “Thuyết phục” trong
76
nguyên tắc quản lý 3E. Và vì công ty đã không giải thích cho công nhân về vai
trò của những ngƣời tƣ vấn đến làm việc tại công ty nên dẫn đến nảy sinh lòng
nghi ngở về nguy cơ bị thất nghiệp trong đội ngũ công nhân. Công ty đã vi phạm
nguyên tắc “Cam kết” dẫn đến hiệu quả công việc bị giảm sút.
Ban giám đốc cũng không nói rõ kỳ vọng gì ở công nhân trong quy trình sản
xuất mới này. Họ thông báo với công nhân rằng họ không đánh giá kết quả dựa
trên thành tích cá nhân mà dựa trên kết quả nhóm. Họ nói rằng những công nhân
lành nghề, nhiều kinh nghiệm cần phải giúp đỡ những công nhân chậm chạp và
thiếu kinh nghiệm hơn nhƣng lại không nói cụ thể hệ thống hình mạng sẽ làm
việc nhƣ thế nào. Ban giám đốc cũng đã vi phạm nguyên tắc “ xác định rõ ràng
các kỳ vọng”. Việc vi phạm cả ba nguyên tắc trên đã khiến cho nội bộ nhà máy
lục đục, nhân viên không còn tin tƣởng ở lãnh đạo và quy trình đổi mới đã thất
bại hoàn toàn.
Ngƣợc lại, giám đốc nhà máy High Park đã tuân thủ theo đúng nguyên tắc 3E
khi thực hiện chiến lƣợc mới. Khi những nhà tƣ vấn đến , ban giám đốc giới
thiệu họ với tất cả các công nhân. Giám đốc lôi kéo công nhân tham gia vào quá
trình quyết định bằng cách tổ chức những buổi họp trên quy mô toàn nhà máy.
Từ đó những ngƣời công nhân thấy đƣợc trách nhiệm của mình trong công cuộc
cải tiến này. Khi những công nhân có thắc mắc về nguyên nhân thay đổi, ban
giám đốc và những nhà tƣ vấn đã lý giải cho họ về kinh nghiệm thực tế họ thấy
trên nhiều nhà máy khác. Từ chỗ đƣợc tham gia vào các hoạt động quyết định sự
đổi mới của công ty đến chỗ đƣợc thuyết phục bởi những chuyên gia tƣ vấn,
ngƣời lao động càng cam kết gắn bó với hoạt động này và giữ vai trò chủ động
và hợp tác trong công việc mới. Bên cạnh đó, ban giám đốc cũng nói rõ những
tiêu chuẩn đánh giá và những kỳ vọng của ban lãnh đạo vào đội ngũ công nhân.
Bằng cách thực hiện lần lƣợt ba nguyên tắc 3E, ban giám đốc nhà máy High
Park đã dành đƣợc sự thông cảm và hỗ trợ của đội ngũ công nhân. Và quy trình
sản xuất theo mô hình mạng đã đƣợc áp dụng thành công ở nhà máy High Park.
77
Bài học về hai nhà máy của công ty Elco đã cho thấy tầm quan trọng của
việc áp dụng một quy trình quản lý hợp lý trong việc áp dụng chiến lƣợc đại
dƣơng xanh. Qua đó cũng cho thấy việc xây dựng sự tin tƣởng và liên kết trong
công ty cũng nhƣ văn hóa doanh nghiệp trong công ty có ý nghĩa thành bại đối
với việc quản trị doanh nghiệp.
3.2. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC TĂNG
CƢỜNG ÁP DỤNG CHIẾN LƢỢC ĐẠI DƢƠNG XANH TẠI VIỆT NAM
3.2.1.Giải pháp đối với các doanh nghiệp chƣa áp dụng chiến lƣợc đại
dƣơng xanh
3.2.1.1. Chú trọng hoạt động nghiên cứu và phân tích thị trường
Nghiên cứu thị trƣờng là một trong những công việc cần thiết và quan trọng
trong quá trình phát triển sản phẩm mới. Công tác nghiên cứu thị trƣờng có tính
chất quyết định trong toàn bộ hoạt động marketing của doanh nghiệp. Tìm hiểu
đƣợc thị trƣờng cần gì, khách hàng đang có nhu cầu gì là cần thiết để doanh
nghiệp nâng cao thế mạnh cạnh tranh của mình và sản xuất đúng hƣớng. Trong
tổng thể chiến lƣợc đại dƣơng xanh, việc phân tích thị trƣờng còn có ý nghĩa
quan trọng hơn. Nghiên cứu, phân tích thị trƣờng cho phép doanh nghiệp hiểu
đƣợc các đối thủ cạnh tranh của mình đang hƣớng vào đâu, nhu cầu của khách
hàng hiện tại và nhu cầu của nhóm khách hàng tiềm năng chƣa đƣợc đáp ứng, từ
đó xây dựng nên chiến lƣợc đại dƣơng xanh.
Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam, nếu nhận định thị trƣờng đang bão hòa
và doanh nghiệp đang nằm trong vùng đại dƣơng đỏ, cần nghiêm túc thực hiện
việc nghiên cứu và phân tích thị trƣờng để nhanh chóng tìm ra hƣớng đi mới cho
doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất.
Việc nghiên cứu thị trƣờng không những phải quan tâm đến đối tƣợng khách
hàng hiện tại mà còn phải quan tâm đến những đối tƣợng không phải khách hàng
của doanh nghiệp nhƣ đã đề cập ở chƣơng 1. Bên cạnh đó, các đặc điểm nhân
khẩu học của khách hàng, thói quen mua sắm của khách hàng, mức giá hợp lý,
78
những bức xúc của khách hàng trong khi sử dụng sản phẩm cũng nên đƣợc
doanh nghiệp đặc biệt chú ý đến. Có thể nói công tác nghiên cứu thị trƣờng có
ảnh hƣởng quyết định đến thành bại của doanh nghiệp trên thị trƣờng.
3.2.1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi, đủ mạnh để thực hiện chiến lược đại
dương xanh
Đội ngũ cán bộ là nòng cốt, là tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Cho dù
đang thực hiện chiến lƣợc đại dƣơng đỏ hay đang trong quá trình thực hiện chiến
lƣợc đại dƣơng xanh thì ngƣời lao động vẫn là nguồn lực quyết định sự thành bại
của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải có chiến lƣợc xây dựng đội ngũ
cán bộ trong dài hạn. Ngoài việc tạo đƣợc mức lƣơng ổn định và tƣơng xừng với
sức lao động bỏ ra, doanh nghiệp cần có chiến lƣợc đào tạo, tái đào tạo ngƣời lao
động và xây dựng đƣợc lòng tin cho họ.
Trong công cuộc hội nhập hiện nay, doanh nghiệp phải đối mặt với những biến
động không ngừng. Việc chuẩn bị đội ngũ nhân lực chất lƣợng cao sẵn sàng đối phó
với mọi tình huống là hết sức cần thiết. Không thể để “nƣớc đến chân mới nhảy”.
Kinh nghiệm của nhƣng doanh nghiệp thành công cho thấy việc chuẩn bị trƣớc đội
ngũ lao động sẽ giúp doanh nghiệp vƣợt qua khó khăn. Ông Lí Quí Trung, giám đốc
của tập đoàn Nam An, chủ sở hữu thƣơng hiệu Phở 24 cho biết : “Doanh nghiệp
luôn phải chuẩn bị trƣớc đội ngũ cán bộ nhân viên để đối phó với những khó khăn
trong thời gian 2 năm sau đó. Có nhƣ vậy mới không bị động trƣớc tình huống” .
Doanh nghiệp cần có những chƣơng trình đào tạo nhân viên định kỳ hoặc cho họ
tham gia những khóa huấn luyện ngắn hạn. Việc bắt tay hợp tác giữa các cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp là cần thiết để định hƣớng ngƣời học, những ngƣời sẽ là nòng
cốt cho doanh nghiệp sau này, ngay từ đầu. Trong quá trình làm việc, doanh nghiệp
cần khuyến khích nhân viên sáng tạo, tạo cơ hội học hỏi cho các nhân viên có tài.
Bên cạnh đó, việc xây dựng tâm lý và tƣ duy sẵn sàng chấp nhận đổi mới cho nhân
viên cũng là hết sức quan trọng. Họ sẽ không bị ngỡ ngàng trƣớc những biến đổi
của thời cuộc mà nhanh chóng thích nghi, và phát huy hiệu quả công việc. Có đƣợc
những sự chuẩn bị này doanh nghiệp sẽ sẵn sàng cho việc tìm kiếm và áp dụng
chiến lƣợc đại dƣơng xanh.
79
3.2.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp đã áp dụng chiến lƣợc đại dƣơng xanh
3.2.2.1 Nhanh chóng tạo dựng được tên tuổi trước khi mô hình bị bắt chước
Khi đã tạo dựng đƣợc chiến lƣợc đại dƣơng xanh cho riêng mình, doanh nghiệp
lại phải đối mặt với nguy cơ bị copy mô hình kinh doanh từ phía các doanh nghiệp
khác. Một trong những việc doanh nghiệp có thể làm đối phó với tình huống này là
nhanh chóng tạo dựng cho mình tên tuổi và đẳng cấp trên thị trƣờng mới. Nhƣ Ông
Lý Quý Trung, chủ của một chiến lƣợc đại dƣơng xanh đã từng nhận định: “Mô
hình thì có thể bắt chƣớc nhƣng thƣơng hiệu thì không thể xây dựng hay bắt chƣớc
trong một sớm một chiều.”
Để xây dựng đƣợc thƣơng hiệu và đƣa thƣơng hiệu ấy đi vào lòng công chúng,
doanh nghiệp cần chú ý đến những điểm sau: thứ nhất, tìm mức giá bán phù hợp để
tung sản phẩm vào thị trƣờng, sao cho sản phẩm đến đƣợc tay ngƣời tiêu dùng càng
nhiều càng tốt. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lƣợng của sản
phẩm để thỏa mãn tối đa khách hàng. Cần có chiến lƣợc cụ thể để marketing, định
vị sản phẩm trên thị trƣờng. Xây dựng thƣơng hiệu một cách bài bản nhƣ thiết kế
logo, slogan, hình ảnh và đăng ký bảo hộ cho sản phẩm….Tác giả của phở 24 còn
cho rằng: “ Xây dựng thƣơng hiệu, là ngƣời đi lối đi riêng hay đi tiên phong, bạn
đều nên thu hút sự quan tâm của media và dƣ luận. Bởi vì chính quảng bá là tác
nhân trực tiếp sản sinh ra thƣơng hiệu, khác với quảng cáo chỉ bảo vệ và duy trì
thƣơng hiệu mà thôi.”
3.2.2.2. Xác định đúng thời điểm tái đổi mới giá trị
Phần lớn các chiến lƣợc đại dƣơng xanh cuối cùng cũng sẽ bị bắt chƣớc. Khi đối
thủ cạnh tranh bằng mọi cách giành giật thị trƣờng với doanh nghiệp, doanh nghiệp
thƣờng có xu hƣớng phản ứng lại để bào vệ thị thị phần mà mình đã giành đƣợc.
Đối thủ cạnh tranh của công ty thƣờng rất lỳ lợm trong cuộc chiến này. Bị ám ảnh
bởi việc cố gắng duy trì thị phần, doanh nghiệp có thể sẽ rơi vào cái bẫy cạnh tranh
và bị đặt trên đƣờng đua để cạnh tranh trong một cuộc chiến mới. Dần dà, cuộc
cạnh tranh chứ không phải khách hàng trở thành trung tâm của trong mọi kế hoạch
và hành động chiến lƣợc của công ty. Nếu cứ nhƣ vậy, hình dạng cơ bản của đƣờng
giá trị của công ty sẽ bắt đầu hội tụ với các đối thủ cạnh tranh.
80
Để tránh cái bẫy cạnh tranh này, doanh nghiệp cần phải thƣờng xuyên giám
sát đƣờng giá trị và sơ đồ chiến lƣợc của doanh nghiệp mình. Việc giám sát
đƣờng giá trị nhƣ vậy sẽ giúp doanh nghiệp biết khi nào thì nên tiến hành đổi
mới giá trị, khi nào thì không.
Việc giám sát đƣờng giá trị cũng giúp bạn tránh đƣợc việc tìm kiếm một đại
dƣơng xanh mới trong khi vẫn còn có những nhánh lợi nhuận đổ vào đại dƣơng
hiện tại. Khi đƣờng giá trị vẫn còn phân kỳ, doanh nghiệp cần chống lại những cám
dỗ của việc đổi mới giá trị một lấn nữa. Thay vì thế, nên tập trung khai thác, mở
rộng , đào sâu, những hƣờng kinh doanh hiện tại bằng cách cải tiến các hoạt động
vận hành và sự mở rộng về địa lý để đạt đƣợc lợi thế kinh tế theo quy mô và chiếm
đƣợc thị phần nhiều hơn nữa. Mục đích chính của doanh nghiệp là phải thống trị đại
dƣơng xanh đó trƣớc các đối thủ cạnh tranh đầu tiên càng lâu càng tốt.
Khi các đối thủ cạnh tranh xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trƣờng, cuộc
cạnh tranh càng trở nên khốc liệt và đại dƣơng xanh lúc này sẽ chuyển sang
nhuốm đỏ. Khi đƣờng giá trị của đối thủ cạnh tranh đang hội tụ gần giống với
đƣờng giá trị của doanh nghiệp thì cũng là lúc nên tiến tới đổi mới về giá trị để
xây dựng một chiến lƣợc đại dƣơng xanh khác cho mình.
3.2.3. Giải pháp từ phía chính phủ
3.2.3.1. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao và có chính sách thu hút
nhân tài về nước
Chiến lƣợc đại dƣơng xanh không chỉ có ý nghĩa đối với một mô hình nhỏ là
cấp doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn hơn nếu nhƣ những tƣ duy này đƣợc
áp dụng trên quy mô quốc gia. Nếu nhƣ vậy, công cuộc cải cách đất nƣớc sẽ có
những bƣớc đột phá mới. Nhƣ đã trình bày trong các chƣơng trƣớc về tầm quan
trọng của đội ngũ nhân sự trong chiến lƣợc, thiết nghĩ ở cấp quốc gia, việc nâng
cao chất lƣợng cán bộ nhân viên và việc thu hút ngƣời tài về phục vụ đất nƣớc là
việc làm hết sức ý nghĩa
81
Những năm qua, nhiều tỉnh thành phố ở Việt Nam đã thực hiện chính sách
trải thảm mời đón, thu hút nhân tài về địa phƣơng công tác. Vậy nhân tài là ai?
Phải chăng chỉ những ngƣời có học vị, học hàm cao hay những học sinh, sinh
viên học tập xuất sắc, có điểm số cao mới đƣợc coi là nhân tài? Thực tế, nền giáo
dục - đào tạo của ta cho ra trƣờng không ít những cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ… học
tập có điểm số cao, nhƣng chất lƣợng đích thực lại không cao. Thâm nhập thực
tiễn, họ giống nhƣ những con vẹt thuộc làu làu sách vở mà không có khả năng
sáng tạo, ứng dụng. Ngƣợc lại, có những ngƣời tốt nghiệp đại học với điểm số
không cao, nhƣng khi vào đời họ lại rất năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến,
sáng chế, nghiên cứu, ứng dụng đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Vì vậy,
cần có cái nhìn thấu đáo, kỹ lƣỡng khi tuyển chọn ngƣời lao động.
Bên cạnh đó còn phải kể đến những tệ nạn "học giả, bằng thật", "đạo văn";
trong đội ngũ thạc sĩ, tiến sĩ, bên cạnh những ngƣời tài đích thực cũng có không
ít những tiến sĩ "giấy" không có thực tài. Mang danh tiến sĩ mà quá trình công
tác không có đƣợc một công trình nghiên cứu khoa học nào đáng kể, không giúp
ích gì đƣợc cho công cuộc xây dựng đất nƣớc! Có những học sinh, sinh viên
đƣợc suy tôn "hiện tƣợng", "thần đồng", nhƣng chỉ một thời gian ngắn thì lụi tàn.
Cũng có những ngƣời đƣợc cử đi đào tạo ở nƣớc ngoài tiêu tốn bạc tỉ nhƣng hiệu
quả sử dụng chẳng là bao. Bên cạnh đó còn phải kể đến thực trang mua quan bán
chức, quan hệ cửa trƣớc cửa sau để đƣợc ngồi vào vị trí cao. Xã hội dễ lẫn lộn
những ngƣời “ con ông cháu cha”, những kẻ có tài nịnh hót, chạy chọt là những
“nhân tài”.
Từ sự nhận thức trên, tôi xin đề xuất mấy kiến nghị về chính sách phát hiện,
bồi dƣỡng, đào tạo và sử dụng nhân tài:
Thứ nhất, các ngành, các địa phƣơng cần kiểm kê, rà soát, đánh giá lại đội
ngũ có học vị cao để xác định ngƣời tài thật và ngƣời tài giả. Nên chăng định kỳ
tổ chức sát hạch để đánh giá đúng năng lực từng ngƣời…
82
Thứ hai, việc tuyển chọn ngƣời để bồi dƣỡng, đào tạo thành nhân tài trong
tƣơng lai, nhất là đào tạo ở nƣớc ngoài phải đƣợc tiến hành chặt chẽ dựa trên
những tiêu chí cụ thể và tổ chức thi sát hạch công khai, minh bạch, dân chủ,
trong sáng. Đối với những nhân tài xuất hiện từ thực tế, cần tạo điều kiện cho họ
đƣợc bồi dƣỡng, học tập nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, sử dụng nhân tài phải căn cứ vào sở trƣờng, sở đoản mà bố trí đúng
ngành nghề, đúng năng lực đi đôi với thực hiện chính sách đãi ngộ hợp lý, tạo
điều kiện để nhân tài phát huy tốt năng lực sở trƣờng, vai trò chuyên gia giỏi
đầu ngành. Không nên lấy lý do nhu cầu, lý do cấp ủy viên này nọ mà tùy tiện
cất nhắc, bố trí nhân tài trái ngành nghề dẫn đến chỗ triệt tiêu năng lực chuyên
sâu, thành thạo của họ. Là nhân tài đích thực, không có ai vì ham chức quyền
mà đánh mất năng lực sở trƣờng, từ bỏ con đƣờng nghiên cứu khoa học.
Thêm nữa, chính sách thu hút nhân tài về địa phƣơng phải xuất phát từ yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng mà "trải thảm" mời đón những
nhà khoa học, nhà quản lý giỏi, những chuyên gia đầu ngành mà địa phƣơng
đang thiếu và cần. Không nên mời đón tràn lan, hễ ai có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, tốt
nghiệp đại học loại giỏi thì mời về mặc dù địa phƣơng đang có quá đủ hay chƣa
cần đến những ngƣời này.
Quan trọng không kém là việc chính sách hỗ trợ phải hợp lý, công bằng,
nhất quán. Ví nhƣ ngƣời đƣợc cơ quan cho đi đào tạo đƣợc hƣởng nguyên
lƣơng cũng đƣợc hỗ trợ ngang bằng những thạc sĩ, tiến sĩ đƣợc gia đình nuôi ăn
học thành tài, hay ngƣời về địa phƣơng trƣớc thiệt thòi hơn ngƣời về sau là
không thỏa đáng. Phải có mức lƣơng thỏa đáng cho những ngƣời làm công tác
nghiên cứu khoa học, những ngƣời làm lãnh đạo để họ chuyên tâm vào công
việc và qua đó cũng hạn chế đƣợc tình trạng tham nhũng của lãnh đạo hay tình
trạng vì miếng cơm manh áo mà những nhà khoa học không còn tập trung vào
nghiên cứu khoa học.
83
Cuối cùng, Việt Nam có một lƣợng rất lớn những Việt kiều yêu nƣớc và hiện
đang làm công tác nghiên cứu, giảng dạy hoặc quản lý ở các nƣớc phát triển. Khi
đã đến tuổi trung niên hay về hƣu, bản thân họ cũng có nhu cầu trở về quê hƣơng
đƣợc làm việc và cống hiến cho đất nƣớc, và cũng không đặt nặng vấn đề tiền
lƣơng. Đây có thể là đội ngũ cố vấn tâm huyết và giàu kinh nghiệm. Bản thân họ
vừa là những ngƣời am hiểu tình hình Việt Nam, vừa nắm đƣợc những công
nghệ cao ở nƣớc ngoài. Vì vậy, nhà nƣớc cần có chính sách thông thoáng để thu
hút những Việt kiều này về phục vụ cho đất nƣớc.
Chính sách nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực phải luôn đi kèm với chính
sách phát triển hệ thống giáo dục, đảm bảo giáo dục theo kịp đổi mới của thời
đại. Chính sách thu hút nhân tài của nhà nƣớc phải minh bạch, đánh giá đúng
ngƣời đúng sự việc và học hỏi theo mô hình của các nƣớc khác trong việc thu
hút nhân tài.
3.2.3.2. Đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ và có chế tài xử lý những trƣờng hợp
vi phạm
Việc đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với những phát minh, sáng chế và
ngăn chặn việc copy hàng loạt ý tƣởng của doanh nghiệp có ý nghĩa sống còn
đối với việc áp dụng chiến lƣợc đại dƣơng xanh. Công cuộc nghiên cứu để đi
đến chiến lƣợc đại dƣơng xanh đòi hỏi tốn kém nhiều thời gian công sức, tuy
nhiên việc copy lai những thành quả này thì dễ dàng hơn nhiều. Nếu doanh
nghiệp không đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì công trình nghiên cứu của họ
sẽ không mang lại nhiều lợi ích cho họ và vì thế doanh nghiệp sẽ không còn mặn
mà với việc áp dụng chiến lƣợc mới nữa.
Trên thế giới, các quốc gia đặc biệt là những quốc gia phát triển rất chú trọng
đến quyền sở hữu trí tuệ bởi lẽ họ biết rằng bảo vệ những quyền sở hữu này thì mới
thúc đẩy đƣợc phát triển kinh tế, khuyến khích phát minh kỹ thuật và thu hút đƣợc
đầu tƣ để tạo ra công ăn việc làm mới và những cơ hội cho công dân của họ. Quyền
sở hữu trí tuệ có đƣợc bảo vệ thì các nhà phát minh sáng chế mới cảm thấy đƣợc
đền đáp xứng đáng và đƣợc khích lệ tiếp tục sáng tạo.
84
Tại Việt Nam, Luật sở hữu trí tuệ đã đƣợc Quốc hội khoá XI trong kỳ họp thứ
8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm
2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó.
Mặc dù có luật sở hữu trí tuệ nhƣng vì công tác hành pháp còn yếu kém nên
thực trạng bắt chƣớc sáng tạo của ngƣời khác, ăn cắp bản quyền vẫn xảy ra ở nhiều
nơi và tại nhiều lĩnh vực. Việc xử phạt chƣa nghiêm khắc, chủ yếu là phạt hành
chính và phạt tiền (một khoản tiền rất nhỏ so với lợi nhuận mang lại từ hành vi sai
trái trên) khiến các doanh nghiệp liên tục tái phạm.
Trƣớc thực trạng trên, tác giả xin đƣa ra đề xuất yêu cầu nhà nƣớc cần
nghiêm khắc trừng trị những trƣờng hợp cố ý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ để
đảm bảo quyền lợi cho những cá nhân, doanh nghiệp trực tiếp phát minh, sáng
chế ra ý tƣởng.
3.2.3.3. Hoàn thiện bộ máy hành chính và xóa bỏ bớt những rào cản hạn chế
kinh doanh
Điều mà các doanh nghiệp e ngại nhất khi tiến hành hoạt động kinh doanh ở
Việt Nam đó là thủ tục hành chính phức tạp, bộ mày hành chính còn quan liêu, sách
nhiễu dân. Đơn cử nhƣ việc, thành lập một doanh nghiệp mới ở Việt Nam sẽ mất ít
nhất là 10 ngày để đƣợc các cơ quan xét duyệt trong khi ở các nƣớc tƣ bản phát
triển khác thì quy trình này mất không quá một ngày. Các thủ tục xin cấp bằng phát
minh sáng chế hay sở hữu trí tuệ còn mất thời gian hơn nhiều. Theo luật định, thời
gian kể từ khi đăng ký quyền tác giả đến khi nhận đƣợc Giấy chứng nhận đăng ký
quyền tác giả là khoảng 15 ngày làm việc. Thời gian kể từ khi nộp đơn đến khi đƣợc
cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu là khoảng 10 đến 12 tháng (với điều kiện là
logo đáp ứng các điều kiện bảo hộ dƣới danh nghĩa nhãn hiệu và đơn đăng ký nhãn
hiệu không bị sửa đổi, bổ sung hoặc bị phản đối)...
85
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều rào cản hạn chế kinh doanh đƣợc đặt ra cho các
doanh nghiệp. Khi hành lang pháp lý chƣa đƣợc hoàn thiện nhà nƣớc có khuynh
hƣớng “ không quản lý đƣợc thì cấm” khiến nhiều nhiều ý tƣởng kinh doanh đã bị
hạn chế. Đơn cử nhƣ trƣờng hợp kinh doanh chuỗi cửa hàng tiện lợi ở các thành phố
lớn. Theo bà Phạm Đoan Trang, Giám đốc công ty Phạm Trang, chủ sở hữu của
chuỗi của hàng 24/7, các quy định về quản lý nhà nƣớc vẫn còn nhiều trở ngại cho
kinh doanh cửa hàng tiện ích. Chẳng hạn loại sản phẩm mà khách rất cần và các cửa
hàng 24/7 ở nƣớc ngoài thƣờng bán là bao cao su, thuốc giảm đau thông dụng... thì
khi đƣa vào bán ở VN chính phủ đòi hỏi phải có giấy phép kinh doanh riêng. "Tôi
đã thử bán và liên tục bị các đơn vị quản lý... hỏi thăm. Sau 11 giờ đêm, nhà thuốc
tây không còn, là cơ hội để cửa hàng 24/7 kinh doanh. Nhƣng cho đến bây giờ tôi
không biết phải làm sao để đƣa các loại hàng này vào bán", bà Trang bức xúc. Ý
tƣởng kinh doanh cửa hàng tiện ích có thể là một sáng kiến mới lạ ở Việt Nam
nhƣng những quy đinh ngặt nghèo của nhà nƣớc khiến những cửa hàng này khó có
thể phát triển đƣợc.
Hay nhƣ dịch vụ Karaoke là một ví dụ. Dịch vụ này ngày càng phát triển thể
hiện sự phát triển của nền kinh tế và ngƣợc lại. Dịch vụ này cũng đóng góp vào
ngân sách quốc gia qua thuế. Nhƣng có thời các nhà làm luật lại định cấm karaoke.
Đó có phải là cản trở hoạt động dịch vụ phát triển ?
Từ thực tế trên, tác giả xin đề xuất nhà nƣớc nhanh chóng hoàn thiện cơ chế
hành chính sao cho thông thoáng, nhanh chóng và triệt để xóa bỏ nạn quan liêu
tham nhũng, sách nhiễu doanh nghiệp và ngƣời dân. Đồng thời lắng nghe ý kiến của
doanh nghiệp, xem xét xóa bỏ những rào cản thƣơng mại, những quy định cấm vô
lý để Việt Nam nhanh chóng bắt kịp đƣợc với xu hƣớng phát triển của thế giới.
86
KẾT LUẬN
“Thƣơng trƣờng là chiến trƣờng”, đó là khái niệm đúng nhƣng chƣa đủ. Với
nhóm tác giả của chiến lƣợc đại dƣơng xanh, kinh doanh không chỉ là việc cạnh
tranh để chia phần “chiếc bánh” thị trƣờng mà còn là quá trình tạo ra những “chiếc
bánh” mới hay mở rộng “chiếc bánh” cũ của các doanh nghiệp. Đó là bản chất ngắn
gọn của chiến lƣợc đại dƣơng xanh.
Với 85 trang, 9 bảng và 11 hình, toàn bộ đề tài của khóa luận đã tập trung vào
những nội dung cốt lõi sau:
Chƣơng 1 hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đại dƣơng xanh và chiến lƣợc
đại dƣơng xanh, trong đó nhấn mạnh 6 nguyên tắc chung, gồm 4 nguyên tắc hình
thành và 2 nguyên tắc thực thi triển khai.
Chƣơng 2 khái quát hóa đƣợc thực tiễn áp dụng thành công chiến lƣợc đại
dƣơng xanh ở một số doanh nghiệp điển hình tại Việt Nam trong thời gian qua. Bối
cảnh nền kinh tế đất nƣớc sau hơn 2 năm ra nhập WTO cũng gợi mở ra nhiều thuận
lợi cũng nhƣ khó khăn trong quá trình áp dụng.
Chƣơng 3 là một loạt các ví dụ điển hình trên thế giới về việc áp dụng thành
công chiến lƣợc đại dƣơng xanh và những giải pháp để đẩy mạnh việc áp dụng
chiến lƣợc đại dƣơng xanh ở Việt Nam. Bài học của các doanh nghiệp trên thế
giới vừa là những ví dụ sinh động bổ sung cho những luận cứ ở chƣơng 1 vừa
gợi ra hƣớng đi và cách làm cụ thể cho doanh nghiệp Việt Nam. Những đề xuất
đƣa ra không chỉ ở cấp doanh nghiệp mà còn ở cấp nhà nƣớc. Xoay quanh các
vấn đề về nguồn nhân lực và định hƣớng thị trƣờng cho các doanh nghiệp, về
phía nhà nƣớc cần thực hiện công tác bảo về quyền sở hữu trí tuệ tốt hơn, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, lắng nghe ý kiến từ phía doanh nghiệp và xóa bỏ
các rào cản thƣơng mại.
Hi vọng rằng, những giải pháp đƣa ra ở chƣơng 3 sẽ đóng góp đƣợc phần nhỏ bé
cho bƣớc đột phá của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc áp dụng tốt hơn nữa
chiến lƣợc đại dƣơng xanh trong thời gian tới…
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. W. Chan Kim và Renée Mauborgne, Chiến lƣợc đại dƣơng xanh, 2007, NXB
Tri Thức.
2. Nguyễn Trung Vãn (Chủ biên), Giáo trình Marketing Quốc tế, 2008, NXB
Trƣờng đại học Ngoại Thƣơng.
3. Adam M. Brandenburger và Barry J Nalebuff, Lý thuyết trò chơi trong kinh
doanh, 2007, NXB Tri Thức.
4. Daniel H. Pink, Một tƣ duy hoàn toàn mới, 2008, NXB Lao động - Xã hội.
5. Matt Haig, Bí quyết thành công 100 thƣơng hiệu hàng đầu trên thế giới,
NXB Tổng hợp tp Hồ Chí Minh
Tiếng Anh:
6. W. Chan Kim and Renée Mauborgne, Blue Ocean Stratery, 2005, Havard
Business School Press.
7. Adrian J. Slywotzky and David J. Morrison, The Profit Zone, 1997, The
Businessweek Bestseller.
8. Paul Bacsich, Lessons to be learned from the failure of the UK e-University,
Middlesex University.
Websites:
9. www.saga.vn
10. www.doanhnghiep.com
11. www.Blueoceanstrategy.com
12. www.dantri.com.vn
13. www.unisa.edu.au/odlaaconference/
14. www.vietbao.vn
15. www.mekongnet.ru
88
16. www.gso.gov.vn
17. www.vneconomy.vn
18. www.vctv.vn
19. www.lefaso.org.vn
20. www.thanhnien.com.vn
21. www.economics.vnu.edu.vn
22. www.viet-studies.info
23. www.diendan.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4510_8418.pdf