Mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra.
Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
- Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ.) phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn.
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6643 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp.
Giảm thiểu những thăng trầm chu kỳ kinh tế:
+ Mở rộng khối tiền tệ trong giai đoạn suy thoái để sớm chuyển sang giai đoạn phát triển.
+ Điều tiết khối tiền tệ để đảm bảo vừa chống lạm phát vừa không xảy ra tình trạng ngưng trệ.
+ Sớm chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế với một tỷ lệ lam phát có thể chấp nhận được.
ôMối quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ:
- Giảm lạm phát và thất nghiệp.
- Ổn định giá cả.
- Điều chỉnh tỷ giá.
2.4. Các khó khăn của Chính sách Tiền tệ trên Thực tế:
Trên thực tế, có rất nhiều khó khăn tiềm tàng đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ.
- Như chúng ta đã thấy, cung ứng tiền bao gồm cả các khoản tiền gửi ngân hàng, mà nó được quyết định một phần bởi hoạt động của ngân hàng trung ương, và một phần do quyết định của các hộ gia dình/doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó, sự thay đổi trong cung ứng tiền có thể không chính xác như ngân hàng mong muốn.
- Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực thi chính sách tiền tệ, điều này có nghĩa là có thể mất đến 18 tháng để áp dụng được chính sách tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều này có thể đến quá trễ! Ví dụ, ngân hàng trung ương có thể giảm lãi suất, nhưng các dự án đầu tư cần thời gian để xây dựng và thực hiện, và các nhà máy có thể không hình thành và hoạt động trong khoảng thời gian mong muốn.
- Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá cả, và điều này có thể có tác động cản trở đến chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu chúng ta đạt đến mức có đầy đủ việc làm, một chính sách tiền tệ tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả, và có ảnh hưởng nhỏ đến GDP thực tế và mức giá.
CHƯƠNG 2
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CÔNG CỤ
1. Các công cụ của chính sách tiền tệ: Gồm có 6 công cụ
Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
- Ưu điểm: các khoản vay của ngân hàng trung ương đảm bảo thu về được.
- Nhược điểm: việc vay hay không vay phụ thuộc vào các ngân hàng thương mại.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
- Ưu điểm: NHTW nắm được khối lượng tín dụng mà các NHTM và các tổ chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế do đó NHTW có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Nhược điểm: Hạn chế khả năng sinh lời của đồng tiền.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
- Ưu điểm: NHTW tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM, buộc các NHTM phải gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng.
- Nhược điểm: Biện pháp này chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong lưu thông đều nằm tại các NHTM.
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
- Ưu điểm: NHTW có thể tác động trực tiếp đến các dự án đầu tư bằng các điều kiện tín dụng.
- Nhược điểm: Lãi suất được ấn định có thể không phù hợp với nền kinh tế, gây khó khăn cho việc thực hiện các dự án đồng thời tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
- Ưu điểm: Có thể kế hoạch một cách chắc chắn khối lượng tiền trong lưu thông.
- Nhược điểm: Thiếu linh hoạt khi tình hình biến động và chỉ thực hiện được trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
& C¸c c«ng cô CSTT ®ang ¸p dông cña NHNN ViÖt Nam
Dù trữ b¾t buéc
L·i suÊt (L·i suÊt t¸i cÊp vèn vµ l·i suÊt c¬ b¶n)
ChÝnh s¸ch t¸i cÊp vèn.
Ho¹t ®éng thÞ trêng më
Tû gi¸ hèi ®o¸i
2. Mối quan hệ giữa các công cụ của chính sách tiền tệ:
Để hiểu rõ mối quan hệ này ta xem xét trường hợp Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách Thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền nội tệ đang lưu thông và ta giả sử NHTW thực hiện tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc khi đó lãi suất huy động của Ngân hàng tăng lên, như vậy người dân sẽ có xu hướng đi gởi tiền tiết kiệm ở Ngân hàng thay vì đầu tư vào trái phiếu hay tín phiếu. Mặt khác, theo diễn biến đó lượng tiền mặt ngoài lưu thông sẽ giảm đi tạo áp lực tăng giá đồng nội tệ và làm tỷ giá hối đoái giảm.
VD: Trong năm 2007, mục tiêu duy trì mức giảm giá đồng tiền một vài phần trăm, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và các dòng vốn khác được khai thông tốt hơn.
Đồng Việt Nam không những không giảm mà còn có dấu hiệu tăng giá so với đồng Đôla, gây bất lợi cho xuất khẩu. Thêm vào đó, nhập khẩu trong quí 1 lại tăng đột biến (cho dù chủ yếu là nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho sản xuất) đã làm cho thâm hụt cán cân ngoại thương trở nên trầm trọng hơn.
Đứng trước áp lực nêu trên, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng ngoại tệ dự trữ phòng khi bất trắc xảy ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tung tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ Đôla, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông.
Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước. Việc gia tăng ngoại tệ cho dự trữ quốc gia là điều cần thiết, nhưng việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế sẽ làm áp lực lạm phát gia tăng, khi mà mới năm tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng trong nước đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái (WB 2007).
Điều này làm cho mục tiêu khống chế mức tăng giá trong năm 2007 ở con số 6,5% trở nên khó khăn hơn. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước đang gặp thử thách.
Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong thời gian còn lại của năm 2007, chỉ có cách rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế. Tăng dự trữ bắt buộc là giải pháp được lựa chọn. Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10% thì theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỉ đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỉ Đôla nêu trên, quay trở lại kho của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, với hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực lạm phát vì tiền chảy vào đã được đem cất trong “két” nên chẳng có điều gì xảy ra cả!
Bất kì chính sách tiền tệ nào của ngân hàng trung ương cũng dẫn đến hậu quả nhất định và để giải quyết hậu quả đó NHTW thường chọn một gói chính sách gồm nhiều công cụ và dĩ nhiên các công cụ này có mối liên hệ với nhau.
3. Một số điểm cần lưu ý khi vận dụng các công cụ của chính sách tiền tệ cùng một lúc:
Việc sử dụng đồng thời nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ là việc làm bình thường, trên lý thuyết và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, thị trường là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế.
Vì thế, cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về mức độ cần thiết, về liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp sốc - giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm.
J Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất.Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản của các NHTM.
J Thay đổi quan điểm về chi phí phải trả cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu đặt ra kể cả mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ đều có những cái giá phải trả - đó là những chi phí, những tốn kém cần thiết. Không thể đơn giản cho rằng dự trữ bắt buộc thì không phải trả lãi suất hay mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nhất thiết phải có chênh lệch (lợi nhuận)... Việc điều chỉnh tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thời gian gần đây cũng là sự thay đổi đáng kể về quan điểm. Còn đối với công cụ thị trường mở, khi thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ chứ không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được - nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ngược lại, định giá thấp xuống để bán cho được - nếu muốn hút tiền từ lưu thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá cao và bán giá thấp - đó là một loại chi phí buộc phải trả.
J Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. Ngoại tệ cần phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên dù không hành chính hoá vấn đề này, song, nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng không được từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về - sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất... Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN - đại diện cho Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ NÀY VÀO TÌNH HÌNH THỰC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA VÀ HIỆN NAY
1. Chính sách tiền tệ của NHTW trong thời gian qua:
Giai đoạn từ 1998 đến 2007: để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 - 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ… Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng - nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây).
Biều đồ: Tốc độ tăng cung tiền và GDP của 3 nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%, cung tiền đo bằng M2
Nguồn: Website của NHNN
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở Thái Lan hầu như không đáng kể.
Hai quý đầu của năm 2008: cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở nên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở nên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.
@ Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008:
- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN).
- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).
- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).
Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm.
Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 - đến tháng 6/2008
Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008
12%/năm
1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008
19/05/2008
8.75%/năm
305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008
01/02/2008
8,25%/năm
1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005
01/12/2005
Nguồn: Website của NHNN
Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền và qua đó mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm... Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm.
Bảng 2: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản 6 tháng cuối năm 2008
Lãi suất CB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%
3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
10%
2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
05/12/2008
11%/năm
2808/QĐ--NHNN ngày 20/11/2008
21/11/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008
05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008
Nguồn: Website của NHNN
- Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm.
Bảng 3: Những dấu mốc thay đổi lãi suất DTBB năm 2008
Lãi suất DTBB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%/năm
3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
9%/năm
2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008
5/12/2008
10%/năm
2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
5,0%/năm
2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008
01/10/2008
3,5%/năm
1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008
01/9/2008
Nguồn: Website của NHNN
- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra…
Tất cả những quyết định trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các NHTM trong việc mở rộng “hầu bao” cho vay đối với nền kinh tế. Ngay sau đó, mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Ngày 01/12, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thiết lập mặt bằng lãi suất mới với mức thấp nhất là 11,4%/năm; ngày 05/12, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng công bố lãi suất thấp nhất của mình là 11%/năm; ngày 10/12, NHTM Xuất nhập khẩu Việt Nam giảm lãi suất cho vay với doanh nghiệp, ngắn hạn còn 13,2%/năm, giảm 1,2%/năm so với cuối tháng 11… Tháng 12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 13-14%/năm. Động thái giảm lãi suất của các ngân hàng là một giải pháp tích cực cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn để duy trì và mở rộng sản xuất.
2. Đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ năm 2008:
2.1. Về mặt tích cực:
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đi đúng hướng. Lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành cho các định chế tài chính hồi tháng ba.Chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát lạm phát một cách thành công.Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chính sách trong tháng 10 và bắt đầu chú ý nhiều hơn đến việc ổn định hoạt động kinh tế trong nước.
Chính sách nới lỏng tiền tệ của ngân hàng đang thực hiện trong giai đoạn gần đây, cho thấy NHTW có khả năng có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt. Chuyển từ mục tiêu kiềm chế lạm phát, tốc độ thay đổi chính sách tiền tệ hơi quá nhanh, vì lạm phát vẫn ở mức cao trên 20%.
Nhưng nhìn chung, có thể nói rằng sự điều chỉnh của NHTW là kịp thời. Những thay đổi chính sách nhanh chóng gần đây cho thấy rằng NHTW đang thiết lập hệ thống thu thập thông tin tốt và nhiều cơ hội để đối thoại với các thành viên chính của thị trường, đó là một yếu tố rất quan trọng để chính sách tiền tệ được điều hành thật sự hiệu quả.
2.2. Về mặt hạn chế:
Điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc, khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra.
Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.
Bên cạnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến thị trường tài chính, một điểm yếu khác của Việt Nam là hiệu quả đầu tư, kết quả là giá thành tăng cao. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam cao hơn những nước láng giềng có lẽ là năng lực sản xuất thấp trong so sánh với nhu cầu trong nước và hiệu quả đầu tư thấp.
Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường... là những căng thẳng mà Ngân hàng Nhà nước đang gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả. Điều chỉnh thông tin một cách có hệ thống và tin cậy, một hệ thống số liệu thống kê cũng chưa được trang bị tốt cho Ngân hàng Nhà nước.
2.3. Giải pháp:
Để điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cần phải có một thị trường tiền tệ hoạt động đầy đủ. Nhưng thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển tốt và Ngân hàng Nhà nước đã gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ một cách linh hoạt trên thị trường.
Nhiệm vụ trước mắt của Ngân hàng Nhà nước là phải cân bằng giữa áp lực lạm phát của nền kinh tế trong nước và yêu cầu về các biện pháp cần thiết để làm dịu bớt tác động tiêu cực của sự suy giảm sâu hoạt động kinh tế thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam đang giảm nhanh và FDI đang chuyển hướng. Số lượng khách du lịch đến Việt Nam đang giảm. Lượng kiều hối cũng có thể sụt giảm. Để hỗ trợ hoạt động kinh tế, Chính phủ đã công bố gói giải pháp kích thích kinh tế. Gói giải pháp này sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam năng động trở lại. Nhưng năng lực sản xuất trong nước của Việt Nam chưa đáp ứng kịp với nhu cầu trong nước, vì vậy, chúng ta cần thận trọng, tránh để xảy ra tình trạng tái phát và nhập khẩu lớn.
2.4. Những tác động của kinh tế thế giới đến thị trường tiền tệ của Việt Nam trong thời gian tới:
Năm 2009 sẽ là một năm khó khăn cho kinh tế thế giới và Việt Nam. Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng trên khắp thế giới, không chỉ một vài quốc gia, cả những quốc gia đã phát triển và đang phát triển đều có thể phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, sự sụt giảm kinh tế lớn và những khó khăn trong việc quản lý các món nợ và nợ xấu (NPL).
Kinh tế thế giới đang đối mặt với áp lực giảm phát lớn và có thể trải qua tình trạng lạm phát trì trệ (stagflation). Tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam có thể giới hạn vì liên tục có nhu cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Việt Nam là nước có nguồn nhân lực và tài nguyên khá tốt. Hệ thống chính trị ổn định. Câu hỏi cần đặt ra là làm thế nào quản lý và dành ưu tiên cho các khoản đầu tư đó, xét dưới góc độ hiệu quả đầu tư.
CHƯƠNG 4
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA VÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG BẢN TỆ VÀ CÁC ĐỒNG TIỀN KHÁC
1. Cơ sở của chính sách tỷ giá linh hoạt và tăng giá VND
Ở các nước châu Á có cùng chung chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu như VN, đồng USD liên tục giảm giá. Đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với đồng USD khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước này trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất trong 7 năm qua so với đồng USD. Đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm nay. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng NDT đã lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đáng lo nhất là ở Ấn Độ và Thái Lan, đồng nội tệ tăng giá sẽ tạo lợi thế rõ rệt cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, kể từ năm 2006 đến nay, giá của đồng Baht đã tăng 20%. Đồng Rupee (Ấn Độ) đã tăng 12% so với đồng USD trong năm.
Vì lẽ đó, VN không quá lo ngại đối với vấn đề VND lên giá sẽ làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt hơn. Thứ nhất, đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Bên cạnh đó, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Mặt khác, các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở VN cũng được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ, yếu tố đầu vào rẻ hơn.
2. Tăng cường linh hoạt tỷ giá và tăng giá VND ở thời điểm hiện nay
{ Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong thời gian qua:
Khi VN gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên, mặt trái của chính sách này là do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn, lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát trong thời gian qua. Nếu linh hoạt tỷ giá, khi tỷ giá thị trường thích hợp, Nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số lượng VND ít hơn để mua USD rẻ bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
{ Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu:
Vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, đồng USD của Mỹ đã mất giá đáng kể so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở VN, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần gây nên “lạm phát chi phí đẩy” vào VN. Sản xuất tại VN hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ làm tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn. Nếu tỷ giá linh hoạt hơn, nếu VND mạnh hơn sẽ phản ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.
{ Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND: Giúp hạn chế và sàng lọc nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn vốn đầu vào.
Ở VN hiện nay, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu chi phí đầu vào cao. Nếu linh hoạt tỷ giá thì VND sẽ lên giá vừa chống lạm phát vừa có nhiều tác dụng tích cực khác. Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát.
Trong điều kiện đồng tiền VN chưa được tự do chuyển đổi trên thị trường, nếu cầu lớn hơn cung thì giá sẽ vượt trần, còn nếu cung lớn hơn cầu thì giá đó nằm dưới giá sàn của NHNN qui định. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng mua bán USD ở bên ngoài để thanh toán dù biết đó là một hành động vi phạm pháp luật. Vì thế, Nhà nuớc cần thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, cho phép các nhà đầu tư có cơ hội vận dụng những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, giảm thiểu tác động tiêu cực do biến động của tỷ giá hối đoái, thúc đẩy mở rộng đầu tư nước ngoài.
3. Nhận xét:
Thực tế, việc tăng giá đồng nội tệ không trực tiếp gây ra rối loạn thị trường tiền tệ mà chủ yếu do cách vận dụng các chính sách của quốc gia như: cố định tỷ giá, đầu tư sai không hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu,… Hiện nay các nước phát triển đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi theo hướng này. Dĩ nhiên, các quốc gia cần phải đạt những điều kiện nhất định mới có thể tự do hoá tỷ giá và tăng giá đồng nội tệ. Việc tăng giá đồng nội tệ cần cân nhắc tác động của nó:
@ Tăng giá nội tệ có thể làm tăng nhập siêu, đặc biệt là nhập những hàng hoá xa xỉ, không phải là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống.
@ Tăng giá nội tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi canh tranh về tỷ giá trên trường quốc tế, có thể mất thị phần.
Dù VN hiện đang nhập siêu, nhưng đa phần hàng hoá nhập về là các yếu tố sản xuất. Việc nhập khẩu giá rẻ sẽ giúp chi phí máy móc, nguyên vật liệu cho sản xuất rẻ, góp phần xoa dịu lạm phát. VN cũng có thể dùng các biện pháp hành chính để can thiệp vào danh mục hàng hoá nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay để tránh nhập những hàng hoá tiêu dùng xa xỉ, không thiết yếu. Việc tăng giá VND hiện nay là hợp xu thế chung của thế giới, khi mà USD ngày càng mất giá, sẽ không ảnh hưởng lớn đến thị phần xuất khẩu ở VN. Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế. VN cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Mặt khác, khi tỷ giá hối đoái giảm, các ngân hàng cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, tạo điều kiện thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND. Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế.
Trong thời điểm lạm phát cao như hiện nay nên có biện pháp kiểm soát chặt hơn và hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.
CHƯƠNG 5
VAI TRÒ CỦA NGOẠI HỐI TRONG VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA QUỐC GIA
1.Vai trò của ngoại hối trong việc thực thi chính sách tiền tệ :
Vai trò chủ yếu của ngoại hối là đảm bảo thanh toán quốc tế và bình ổn tỷ giá hối đoái. Vai trò đó dược thể hiện qua qui mô dự trữ ngoại hối của mỗi quốc gia, mà công tác quản lý thường do NHTW đảm nhiệm.
Việc duy trì một mức dự trữ ngoại hối vừa đủ là cần thiết nhằm bảo vệ giá trị đồng nội tệ, hạn chế sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, chống đỡ khủng hoảng kinh tế và tài chính. Điều này là phù hợp đối với mọi nền kinh tế, nhưng sẽ đặc biệt quan trọng hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển bắt đầu thực hiện mở cửa, tự do hoá các giao dịch vốn quốc tế. Tuy nhiên, nếu dự trữ ngoại hối quá lớn sẽ làm phát sinh chi phí cho việc nắm giữ dự trữ ngoại hối do lợi nhuận thu được từ đầu tư dự trữ ngoại hối thường thấp hơn chi phí đi vay vốn nước ngoài. Do vậy, các quốc gia hiện nay đều quan tâm đến việc xác định mức dự trữ ngoại hối vừa đủ, phù hợp với quy mô của nền kinh tế, tình hình tự do hoá cán cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo vệ giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền tệ và chi phí của việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Thông thường, mức dự trữ ngoại hối vừa đủ được xác định theo nguyên tắc: mức dự trữ ngoại hối của một nước cần tương đương từ 3 đến 6 tháng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước đó.
Với các nước tự do hoá tài khoản vốn hay có chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của Nhà nước như Việt Nam, nếu chỉ sử dụng nguyên tắc so sánh mức dự trữ ngoại hối với 3 đến 6 tháng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ không thích hợp vì các nước này phải đối mặt với rủi ro đảo chiều một cách đột ngột của các luồng vốn ngắn hạn như luồng vốn đầu tư gián tiếp thông thường, các nước này cần có một lượng dự trữ ngoại hối lớn hơn để sẵn sàng can thiệp khi xảy ra hiện tượng rút vốn và chuyển tiền ồ ạt ra nước ngoài.
Với các nước có mức độ đô la hoá cao, chỉ số lượng tiền rộng (M2) và số ngoại tệ gửi tại hệ thống ngân hàng so với dự trữ ngoại hối cũng được xem xét đến nhằm đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại hối của NHTW khi có hiện tượng rút ngoại tệ ồ ạt của người cư trú và khả năng can thiệp để bình ổn tỷ giá.
Với các nước có mức dự trữ ngoại hối vượt mức dự trữ ngoại hối vừa đủ và đã tương đối tự do hoá tỷ giá, để nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối theo hướng đa dạng hoá loại hình đầu tư và ưu tiên mục tiêu sinh lời, có thể trích một phần dự trữ ngoại hối giao cho công ty hoặc quỹ đầu tư để đầu tư sinh lợi một cách thuần tuý (không sử dụng để can thiệp) như Hàn Quốc, Trung Quốc. Tuy nhiên, với các nước này, phần lớn dự trữ ngoại hối vẫn do NHTW trực tiếp đầu tư, quản lý để đảm bảo khả năng can thiệp khi cần thiết.
Cụ thể với NHTW Hàn Quốc, công tác quản lý dự trữ ngoại hối được coi là một trong những hoạt động quan trọng nhất của NHTW. NHTW cần duy trì dự trữ ngoại hối ở mức ít nhất đảm bảo đủ để can thiệp duy trì sự ổn định không gây ra những biến động lớn trên thị trường ngoại hối cũng như toàn bộ thị trường tài chính và nền kinh tế, có thể chống đỡ các cú sốc từ bên ngoài và duy trì sức mạnh kinh tế của quốc gia.
2. Vai trò của ngoại hối trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam:
Đối với Việt Nam, ngoài việc giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng năm nhóm giải pháp, Chính phủ cũng đặt ra mục tiêu điều hành linh hoạt chính sách tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Kịch bản được dự báo là xuất khẩu chịu ảnh hưởng do sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu và việc giảm giá của các mặt hàng khiến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giảm lớn trong khi như cầu nhập khẩu (dù đã giảm) vẫn cao do yêu cầu về tăng trưởng. Giá trị giải ngân FDI trong năm 2009 dự kiến ở mức 10 tỉ đô la, vẫn bằng năm 2008. Năm 2007, giải ngân ODA chỉ đạt khoảng 1,5 tỉ đô la so với dự kiến 2,5 tỉ năm 2008. Tiếp tục theo xu hướng thời khủng hoảng, đầu tư gián tiếp sẽ rút vốn ròng khỏi thị trường trong năm 2009 khoảng 1,5 tỉ đô la (số dư vốn FII tại Việt Nam hiện tại là khoảng 8,2 tỉ đô la).
Đầu năm 2008 dòng kiều hối rất khả quan khi dự kiến lượng tiền chuyển về nước trong năm đạt khoảng 8 tỉ đô la. Tuy nhiên, dòng vốn này cuối cùng chỉ đạt từ 6-7 tỉ trong năm và dự báo chỉ đạt từ 4-5 tỉ đô la vào 2009.
Và theo kịch bản như trên, các chuyên gia dự báo tiền đồng sẽ mất giá khoảng 3,5-5% so với đô la trong năm 2009. Kinh tế thế giới dự kiến sẽ suy thoái đến mức thấp nhất trong quí 2-2009 và dần phục hồi từ quí 3. Đồng đô la, yen Nhật sẽ tiếp tục lên giá so với các ngoại tệ khác đến hết quí 2. Do vậy, tỷ giá đô la/tiền đồng tương ứng sẽ tăng dần lên và đạt mức cao nhất khoảng 18.000- 18.200 đồng ở cuối quí 2 và sau đó giảm dần về mức 17.600-17.800 đồng vào cuối năm. Thị trường ngoại hối của Việt Nam trong năm 2009, vì thế, được xác định sẽ căng thẳng.
ÄNhận xét: Nhìn lại những cột mốc chính ở trên để thấy rằng tình hình tỷ giá trong năm 2008 diễn biến rất phức tạp. Dù chính sách can thiệp đã đi đúng hướng song, theo các chuyên gia, các chính sách can thiệp tỷ giá thời gian qua chưa phát huy được hiệu quả là do dòng tiền ngoại hối vào và ra không khớp nhau khi các nhà đầu tư nước ngoài dồn vốn để đầu tư vào đầu năm và rút vốn ồ ạt tại thời điểm tháng 5, tháng 6 và quí 4-2008. Việc điều hành tỷ giá sẽ hiệu quả hơn nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện được chính sách tỷ giá rõ ràng và nhất quán, có cách thức để đo lường mức tỷ giá phản ánh được cung, cầu thị trường, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách ngoại hối và chính sách tiền tệ và phải có quyết sách linh hoạt, đúng thời điểm.
3. Vai trò của ngoại hối trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Trung Quốc:
Với Trung Quốc, quy mô dự trữ ngoại hối đã vượt xa các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế và hiện đang đứng đầu thế giới về quy mô dự trữ ngoại hối. Nguồn bổ sung dự trữ ngoại hối là từ thặng dư cán cân vãng lai nên có tính ổn
định hơn đối với các nước bổ sung dự trữ ngoại hối từ thặng dư của cán cân vốn. Mọi biến động trong cơ cấu dự trữ cũng như quy mô dự trữ ngoại hối đều được NHTW các nước quan tâm. Gần đây, để nâng cao hiệu quả đầu tư dự trữ, Trung Quốc dự định phát hành trái phiếu để tách khoảng 200 - 300 tỷ USD cho Công ty Đầu tư Nhà nước (CIC) để đầu tư thuần tuý.
CHƯƠNG 6
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC
1. Quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá ở Trung Quốc có thể chia thành 4 giai đoạn:
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc cải cách kinh tế, Trung Quốc đang nổi lên là một nền kinh tế năng động và có nhiều triển vọng. Phát huy những tiềm năng kinh tế– xã hội – tự nhiên có nhiều lợi thế với những bước đi thận trọng và hiệu quả trong quá trình chuyển đổi, Trung Quốc đang trổi dậy để trở thành một trung tâm mới của nền kinh tế thế giới – một cực khác của Châu Á cùng Nhật Bản.
+ Giai đoạn 1949 – 1979: Trong thời kỳ này, nền Kinh Tế Trung Quốc quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Chinh phủ thực hiện quản ly tập trung đối với hoạt động ngoại hối, áp dụng chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá này do Ngân hàng nhân dân Trung Quốc công bố.
+ Giai đoạn 1980 – 1990: Cùng với cải cách kinh tế năm 1979, chế độ tỷ giá được thay đổi theo hướng gia tăng yếu tố thị trường. Bên cạnh tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhân dân Trung Quốc công bố, còn có tỷ giá mua bán trên thị trường. Mặc dù tỷ giá chính thức được điều chỉnh nhiều lần nhưng tỷ giá trên thị trường ngoại tệ luôn có xu hướng cao hơn tỷ giá chính thức.
+ Từ năm 1991, Trung Quốc hướng tới chuyển đổi chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có quản lí. Tuy nhiên, tỷ giá chính thức vẫn ít được áp dụng hơn tỷ giá thị trường.
+Từ năm 1993, thị trường ngoại hối giữa các doanh nghiệp phát triển mạnh hơn và hơn 80% sử dụng tỷ giá của thị trường. Sự sai lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường gây ra những tác động tiêu cực, lượng ngoại tệ do dân cư nắm giữ rất lớn trong khi dự trữ ngoại hối của quốc gia còn hạn chế.
+ Từ năm 1994, Trung Quốc có nhiều chuyển biến lớn trong việc điều hành chính sách tỷ giá: đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá thị trường để
thống nhất hai tỷ giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lí, tạo điều kiện cho việc chuyển đổi đồng Nhân dân tệ.
+ Đến giữa tháng 7/2005 Trung Quốc đã bất ngờ tuyên bố tăng giá đồng nhân dân tệ (NDT) từ 8,277 lên 8,11 NDT ăn 1 USD, tương đương 2,1%, chấm dứt một thập niên duy trì tỷ giá cố định của đồng tiền này với đồng USD. Đây được xem là một bước chuyển biến tích cực trong chủ trương nới lỏng thị trường tiền tệ của Trung Quốc. Các nhà phân tích dự đoán, nhiều khả năng đồng NDT sẽ tiếp tục tăng 10 - 15% giá trị so với đồng USD trong vòng 2 năm nữa.
Ngay lập tức Mỹ, EU, Nhật Bản và các đối tác thương mại châu Á đã có những tuyên bố tích cực trước động thái này. Mỹ và EU hy vọng các công ty của họ có thể cạnh tranh hiệu quả hơn với sự tràn ngập của hàng giá rẻ từ Trung Quốc, còn Nhật Bản coi đây là bước đi cần thiết giúp Trung Quốc tiến gần hơn đến thị trường tiền tệ quốc tế cho dù biết rằng việc nâng giá đồng NDT sẽ khiến đồng Yên tăng giá và gây ra những tác hại cho nền kinh tế hướng về xuất khẩu của nước này.
Nhiều năm Mỹ và các đối tác thương mại khác liên tục gây sức ép lên chính sách tiền tệ của Trung Quốc. Lí do được đưa ra là Trung Quốc định giá đồng NDT thấp hơn giá trị thực của nó, qua đó đem lại những lợi thế về giá cả cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc. Riêng trong năm ngoái thâm hụt mậu dịch của Mỹ trước đối thủ châu Á đáng gờm này đã đạt mức kỷ lục 162 tỷ USD. Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng chính sách tiền tệ mới của họ xuất phát từ định hướng chiến lược nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước chứ không phải vì áp lực từ bên ngoài. Và đây là thời điểm thích hợp để định lại giá trị tiền tệ cho phù hợp với tiến trình cải cách tài chính cũng như sự phát triển ổn định của kinh tế toàn cầu. Trung Quốc cũng lên tiếng cảnh báo tỷ giá tiền tệ mới của nước này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thâm hụt mậu dịch của Mỹ.
Năm 2009, Trung Quốc phải làm mất giá đồng NDT 10%
Ngày 21/01/2009, theo báo cáo của Ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS), nửa đầu năm nay Ngân hàng trung ương các nước Châu Á sẽ tìm cách làm giảm tính cạnh tranh của đồng NDT, đồng thời sẽ giảm lãi suất để chống lại các tác động do suy thoái kinh tế toàn cầu mang lại.
Được biết, năm 2008 sự tăng giá trị của đồng NDT so với đồng USD là 6,6%; năm nay dự kiến đồng NDT sẽ mất giá 0,2% so với đồng USD. Tuy nhiên với áp lực mất giá của đồng NDT là quá lớn, các chuyên gia kinh tế kiến nghị rằng sự mất giá đồng NDT nên giảm xuống 10%, đứng mức 7,5%.Giảm càng nhiều tính cạnh tranh là một sự lựa chọn chính sách
Báo cáo của Ngân hàng Hoàng Gia Scotland cho biết, cùng với việc các nước Châu Á giảm lãi suất để chống áp lực trượt giảm của kinh tế, đồng USD sẽ tăng so với tiền tệ của các nước Châu Á do đó tiền tệ Châu Á sẽ phải làm giảm tính cạnh tranh. Sự làm giảm tính cạnh tranh này là một lựạ chọn chính sách, chứ không phải là hướng phát triển.
Các chuyên gia đề nghị đồng NDT năm nay phải mất giá 10%: Đối với tình hình tỷ giá ngoại hối NDT, năm nay NDT gặp nhiều áp lực quá lớn, và sẽ tồn tại khả năng mất giá. Lý do làm mất giá đồng NDT có rất nhiều, lý do trực tiếp nhất chính là xuất khẩu. Do dự báo thị trường xuất khẩu năm nay của Trung Quốc không thể có những chuyển biến tốt mang tính thực chất, do đó xuất khẩu sụt giảm có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, khó thông qua đầu tư nội địa, tiêu dùng để hòa hoãn. Do vậy đồng NDT phải mất giá.
Ngoài ra, kinh tế trong nước hiện nay đang đối mặt với áp lực của sự lạm phát, nếu năm 2009 đồng NDT tiếp tục tăng cao, điều này sẽ không thể tưởng tượng nổi. Rất có thể đồng NDT có thể mất giá ở mức 7,3%.Tuy nhiên cũng có một số người trong ngành lo lắng về sự mất giá của tỷ giá ngoại hối NDT. Một nhân viên giao dịch ngoại hối của Ngân hàng Pari cho biết, các Ngân hàng trong nước đã giảm lãi suất, đồng thời nếu chủ động áp dụng các biện pháp làm mất giá đồng NDT, sẽ khiến trong nước có quá nhiều phương tiện thanh toán, “Nếu sự mất giá của NDT trên 3%, sẽ trở thành hiểm họa ngầm được chôn dưới lạm phát trong tương lai”.
Sau khi Obama nhậm chức, Trung Quốc đón Tết 2009 thì chính sách của các nước mới sáng tỏ, xu hướng tiền tệ của các nước cũng rõ ràng hơn. Nhưng hiện nay, thị trường vẫn chưa tìm được phương hướng cụ thể.
2. Một số bài học kinh nghiệm từ cơ chế điều hành tỷ giá của Trung Quốc:
Những phân tích gần đây cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua, có phần đóng góp quan trọng trong cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc . Mặc dù, Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc.
Ở đây, do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững.
Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã có những thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái để giúp : Chống lạm phát, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định và phát triển nhanh nền kinh tế…
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rõ :
- Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Vì vậy, chính sách tỷ giá chỉ có thể đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ.
- Mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra.
Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
- Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn.
- Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá.
- Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh…).
- Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại chính sách kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro trong quá trình biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu tốt rủi ro có tính chất chính trị. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn luôn luôn chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực sự có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi riêng trong điều kiện cụ thể của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG (file word).doc