Đề tài Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2010

Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực, bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là nội dung mà nhóm sinh viên chúng tôi đã tổ chức thảo luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010. Vì đây là lần đầu tiên nhóm tổ chức thảo luận về đề tài kinh tế nên chưa hiểu sâu về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong cô cùng các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 21014 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực, bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là nội dung mà nhóm sinh viên chúng tôi đã tổ chức thảo luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010. Vì đây là lần đầu tiên nhóm tổ chức thảo luận về đề tài kinh tế nên chưa hiểu sâu về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong cô cùng các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! NHÓM THỰC HIỆN NHÓM 11 1, Những dấu hiệu dự báo khủng hoảng từ trước: - Vào năm 1982, giá dầu tăng và sự kiểm soát chặc chẽ tín dụng đã kềm hãm kinh tế phát triển; đồng thời làm tăng lạm phát. Kết quả tiền lời tăng đến 21% cao nhứt trong lịch sử Bắc Mỹ. Ngân sách Hoa Kỳ bị thâm thụt và thất nghiệp gia tăng. - Vào năm 2000, vì hệ thống kế toán không chính xác và thiếu minh bạch nên các hãng mạng lưới (dot.com) phóng đại các con số thu nhập; cộng thêm biến cố 9/11 đưa tới sự tuột dốc của thị trường chứng khoán và làm mất hàng ngàn tỷ tiền đầu tư của dân chúng từ tháng 3 năm 2000 đến tháng 10 năm 2002. - Vào năm 2007, giá dầu và ngũ cốc tăng; cộng thêm chi phí quá nặng cho chiến tranh Irak, Afghanistan và sự cho vay dễ dãi của ngân hàng cho những người mua nhà (sub prime mortage) đưa tới khủng hoảng kinh tế 2008. Như vậy Sub prime mortage trở thành giọt nước làm tràn ly dẫn đến khủng hoảng. 2, Chứng khoán hóa: Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001. Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn. Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ. 3, Bong bong thị trường nhà ở: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh). Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở. Khi bong bóng dot.com bị bể, chính phủ và các kinh tế gia Hoa Kỳ bày ra chiến dịch “mỗi gia đình làm chủ một căn nhà” để phát triển kinh tế dựa trên chương trình cho vay với lãi suất thấp trong mấy năm đầu và cao cho các năm sau (sub prime rate), viết tắt SP. Đôi khi, các nhà tín dụng còn mạo hiểm cho con nợ vay tiền mua nhà có tên là Ninja tức là người vay tiền không cần có công ăn việc làm, không cần trả tiền vốn ban đầu và không cần trả nợ trong các năm đầu. Tóm lại, bất cứ ai chỉ cần ký tên vay tiền là có thể làm chủ căn nhà. Chẳng hạn, giá nhà bán 100 đô-la, ngân hàng cho vay 120 đô-la (cao hơn giá nhà mua).20 đô-la, đồng được xử dụng để trả tất cả chi phí như tiền vốn ban đầu, tiền lời cho các năm đầu, kể cả các dịch vụ mua nhà cửa. Các năm kế tiếp, người mua nhà sẽ trả tiền lời cao hơn. Những người mua nhà đầu tư hy vọng giá nhà tăng, họ có thể bán lại căn nhà đầu tư để kiếm lời. Bong bóng Dot.com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng.. Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị tích lũy các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô-la. Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra. Theo hai định luật vô thường thịnh-suy và nhân duyên giữa các nhân, giá nhà và giá dầu tăng cao. Các hãng xưởng bắt đầu đóng cửa; số người thất nghiệp gia tăng. Người vay tiền không đủ sức trả nợ. Càng ngày càng nhiều người bán nhà hay chạy nợ, bỏ nhà lại cho ngân hàng (foreclosure) . Kết quả , giá nhà đổ, nhà bán không có người mua, kéo theo sự suy sụp của các ngành nghề khác. Thị trường chứng khoán tuột dốc và thế giới bị lỗ trên 1.000 tỷ đô la trong năm 2008. Điểm chót không kém quan trọng, các ngân hàng ngoại quốc ham lời nên đã chia sẻ với các ngân hàng Hoa Kỳ cho những người mua nhà vay tiền tại Hoa Kỳ. Giá nhà bị sụp đổ kéo theo sự suy thoái của thị trường chứng khoán làm cho các ngân hàng ngoại quốc bị mất hàng tỷ đô; thí dụ, ING (Hòa Lan) mất 4.5 tỷ, BNP (Pháp) 5 tỷ, Northern Rock (Anh) 25 tỷ, UBS (Thụy Sĩ) 4 tỷ v.v.            Tóm lại, sự cho vay dễ dãi của các ngân hàng tín dụng tại Hoa Kỳ đã đưa tới sự sụp đổ thị trường bất động sản, kéo theo sự lỗ lã của các ngân hàng, làm cho các ngành nghề khác bị đóng cửa, thợ thuyền thất nghiệp. Tiền đầu tư, hưu trí của dân chúng bị bốc thành hơi. Nhìn một cách khái quát hơn, nguyên nhân sâu xa chính từ cư cấu và động lực tăng trưởng bất hợp lí của Mỹ nhưng nó đã bị bỏ qua bởi các nhà hoạc định chính sách tự mãn và sự lạc quan thái quá của người dân Mỹ. Nền kinh tế mất cân bằng: Trong khi  hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70% GDP. Chiến lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin của người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưng nó đã tạo nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tế trở nên mất cân bằng. Tiêu dùng của người dân Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc quan thái và được khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho vay tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn và có dấu hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế trở nên dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết bởi các mối quan hệ vay nợ dễ dãi và chồng chéo. Để tài trợ cho khoản thâm hụt thương mại cực lớn của mình nước Mỹ đã sử dụng biện pháp vay nợ nước ngoài bằng cách phát hành trái phiếu ra toàn thế giới và các nước đã hăng hái mua các trái phiếu này đặc biệt là Trung Quốc và các nước Châu Á. Tính chung cho 5 năm trở lại đây trung bình mỗi ngày nước Mỹ vay nợ thêm 2 tỷ USD. Và các nhà kinh tế theo chủ nghĩa hoài nghi đã cảnh báo nguy cơ khủng hoảng nhưng các cảnh báo này đã bị bỏ qua. Thậm chí có nhiều nhà kinh tế  cho rằng thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ được bù đắp bởi các khoản đầu tư của các nước trên thế giới quay ngược trở lại nước Mỹ và cán cân thanh toán vẫn cân bằng. Họ lập luận rằng hệ thống kinh tế bao giờ cũng có khả năng tự điều chỉnh về mức cân bằng do đó không có vấn đề gì đáng lo ngại. Tuy nhiên các nhà kinh tế lạc quan đã vô tình bỏ qua một yếu tố hết sức quan trọng trong nhận định của mình. Bởi lẽ khi thâm hụt thương mại của một quốc gia tăng lên liên tục trong nhiều năm thi nghiễm nhiên đồng tiền của quốc gia  đó nhiều khả năng sẽ phải giảm giá do ngân hàng trung ương có thể phải in thêm tiền nhằm tài trợ cho khoản thâm hụt này. Ngoài ra nếu nước Mỹ tiếp tục sử dụng các khoản nợ nước ngoài nhằm tài trợ cho tiêu dùng thì khi các khoản nợ này đáo hạn đồng USD sẽ  được in ra để trả nợ với khối lượng lớn do đó không còn hấp dẫn giới đầu tư. Xu hướng này nếu xảy ra sẽ tiếp tục kích thích giới đầu cơ thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ chống lại đồng USD và do đó trong hoàn cảnh xấu nhất có thể gây ra khủng hoảng nghiêm trọng. Đồng USD mất giá, lòng tin của công chúng vào triển vọng kinh tế xấu đi lập tức sẽ dẫn tới người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu và nước Mỹ mất đi động lực chính của mình cho tăng trưởng và chìm vào suy thoái toàn diện. Các tổ chức tín dụng phải gánh chịu hậu quả đầu tiên bởi các khoản cho vay dễ dãi của họ không có khả năng thu hồi. Các khoản vay này lại được chứng khoán hóa và bán cho giới đầu tư khiến cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi giới đầu tư bị thiệt hại nặng nề. Đến lượt mình giới đầu tư lại bán tháo các khoản đầu tư đang nắm trong tay khiến chúng rớt giá thảm hại gây thiệt hại nặng cho các ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng đầu tư sụp đổ khiến các khoản ủy thác đầu tư của công chúng bốc hơi và đẩy hàng trăm ngàn người vào cảnh khánh kiệt. Bên cạnh đó các tổ chức kinh tế lớn phá sản sẽ khiến hàng triệu người khác lâm vào cảnh mất việc và đến lượt họ lại cắt giảm chi tiêu tối đa hoặc không thanh toán được các khoản nợ của mình. Có thể nói nước Mỹ đã rơi vào một vòng xoáy không có lối thoát do nó tự gây ra cho mình bởi tính tự mãn và sự kiêu ngạo của các nhà hoạnh định chính sách. 1, Toàn cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ (2007-2010): Năm 2007-khủng hoảng xảy ra Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa chấm dứt,  hậu quả vẫn chưa lường hết. Những người phản đối kế hoạch giải cứu tại Phố Wall. (Ảnh: Foxbusiness) * Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. * Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ. * Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra. Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng đòi rút tiền gửi của mình ra * Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh. * Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11. * Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney. Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi. GDP trong quý IV năm 2007 đã giảm mức tăng đáng kể, chỉ tăng 0,6% so với mức tăng 4,9% quý III/2007 Năm 2008-2009: Đại suy thoái Tình hình phá sản 2007-2008 Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ nặng.     * Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn. * 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố. * 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock. * 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro. * Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng không nổi. 16-17/3/2008, công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ * 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản. * 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày. * 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. * Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác. * 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. * 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.   Các nhân viên của Lehman Brothers. (Ảnh: foxbusiness) * 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ phần sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. * 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố. Tập đoàn AIG. (Ảnh: Foxbusiness) * 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. * 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống. * 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính. * 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall. * 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. * 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ. * 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. WaMu - một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. (Ảnh: Foxbusiness) * 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay. * 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD *Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Khi Iceland lâm vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy nền kinh tế. Thất nghiệp đua nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa làm ăn. Tháng 9 và 10 cũng trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9. Kể từ sau giai đoạn này, biến động tại phố Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá. Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 đôla vào 20/2 và lập kỷ lục trên 147 đôla một thùng vào 11/7. Trong quý 4 năm 2008 GDP của Mỹ đã giảm 3.8% theo báo cáo đầu tiên ngày 30 tháng giêng năm 2009 rồi điều chỉnh lại là 5.4% chứng tỏ suy thoái đang gia tăng. Số xe hơi và xe chở hàng của Mỹ xuống còn 9 triệu 600 000 xe mỗi năm so với thời cực đại khoảng 16 triệu xe một năm. Cũng trong năm này, nhập siêu 813 tỷ 800 triệu đô-la nghĩa là xuất cảng được 1377 tỷ nhưng nhập cảng 2190 tỷ đô-la. Chỉ số kỹ nghệ trung bình của Mỹ khoảng 14164 vào 9/10/2007 đến 27/2/2009 chỉ còn 7067, mất gần 50% chứng tỏ nước Mỹ đã rơi vào đại khủng hoảng kinh tế. Tính cả năm 2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 2,4%, mức tăng trưởng tính theo năm thấp nhất từ năm 1946. Cuối năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ xấp xỉ 10%, cao nhất kể từ sau đại suy thoái 1929-1939 (khi đó là 25%) Năm 2010, kinh tế Mỹ dần hồi phục và bước đầu thoát khỏi khủng hoảng với tỉ lệ tăng trưởng khoảng 2% tuy nhiên tỉ lệ thất nghiệp vẫn rất cao (hơn 10%) Trung tâm Anderson Forecast thuộc Đại học California, Los Angeles hôm 9/12/2010 công bố bản nghiên cứu khẳng định nền kinh tế Mỹ “đang trên đà phát triển dù với tỷ lệ thất nghiệp rất cao.” Trung tâm Anderson Forecast là một trong những tổ chức thường xuyên nghiên cứu va đưa ra những dự báo kinh tế cho bang California nói riêng và nước Mỹ nói chung. Trung tâm Anderson Forecast khẳng định đà tăng trưởng chậm chạp của nền kinh tế Mỹ phản ánh tác động của bảng cân đối tiêu dùng và cũng là kết quả của quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế nhập khẩu cao với tỷ lệ tiết kiệm thấp sang nền kinh tế hướng về xuất khẩu với tỷ lể tiết kiệm cao. Chính sách “Đồng đô-la yếu” của chính quyền Obama là động lực của sự chuyển đổi trên. Chính sách này đã giảm mức tăng tiêu dùng xuống còn 2%. Trong khi tỉ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi tại Mỹ thì mức lương thực tế chỉ tăng ở mức hạn chế với 6.5%. Trong quý I-2010, tỉ lệ thất nghiệp là 10,5%. 2, Những tác động và hậu quả: a. Đối với Hoa Kì Cuộc khủng hoảng đã đưa nước Mỹ bước vào thời kì tồi tệ nhất trong lịch sử từ sau cuộc đại suy thoái thập niên 1930. Hàng loạt các ngân hàng hàng đầu thế giới như Lehman, Merrill Lynch,… tuyên bố phá sản hoặc bị bán rẻ cho nước ngoài. Năm 2008, Mỹ nợ 10000 tỷ đô-la, một món nợ lứn nhất mà chưa quốc gia nào có. Năm 2009, kinh tế mỹ tăng trưởng âm 2,4%, thấp nhất từ 1946. Tỉ lệ thất nghiệp tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tiêu dùng của các hộ gia đình giảm làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Hàng hóa ế thừa, mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, dẫn đến lạm phát cao. Tỷ lệ thất nghiệp Hoa kì (%) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 2007 4.6 4.5 4.4 4.5 4.5 4.6 4.7 4.6 4.7 4.8 4.7 4.9 2008 4.9 4.8 5.4 5.0 5.5 5.6 5.8 6.2 6.2 6.6 6.8 7.2 2009 7.6 8.1 8.5 8.9 9.4 9.5 9.4 9.7 9.8 Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ 2007-2010 Cuộc khủng hoảng đã làm cho nền công nghiệp hàng đầu nước Mỹ sụp đổ-Công nghiệp ô tô với sự kiện phá sản của ba hãng ô tô hàng đầu là General Môtors (GM), Ford Motor và Chrysler. Tình hình khủng hoảng của ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ thể hiện rõ nhất qua tình hình kinh doanh của Detroit's Big Three từ quý IV năm 2007. Tháng 2 năm 2008, GM thông báo rằng năm 2007 hãng bị lỗ 38,7 tỷ dollar (trước khi trừ thuế và phần trả nợ). Ford có mức lỗ kinh doanh trong năm 2007 là 2,723 tỷ dollar. Sang năm 2008, tình hình kinh doanh càng tồi tệ hơn. Doanh số của 3 hãng chế tạo ô tô lớn nhất nước này trong năm 2008 giảm xuống mức thấp ngang hồi thập niên 1950. Tám tháng đầu năm 2008, Chrysler bị lỗ tới 400 triệu dollar. GM bị lỗ trước thuế 4,2 tỷ dollar chỉ riêng trong quý III năm 2008, trong khi Ford lỗ 2,75 tỷ dollar. Mặc dù nhận được các khoản vay của Chính phủ nhưng các công ty này vẫn lần lượt tuyên bố phá sản. Tỷ trọng của nền kinh tế Hòa Kỳ đối với kinh tế thế giới càng giảm, tỷ trọng này năm 2008 là 23.79% - mức thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây, giảm 8% so với năm 2001. Tốc độ tăng trưởng trung bình của kinh tế Hoa Kỳ giảm từ 3,42%/năm (từ 1991-2000) xuống 1,61%/năm (từ 2001- 2010) trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình của kinh tế thế giới tăng từ 3,07%/năm (1991-2000) lên 3,2%/năm (2001-2010). Trong suốt giai đoạn 10 năm trở lại đây, kinh tế Hoa Kỳ liên tục có tốc độ phát triển thấp hơn tốc độ trung bình của toàn thế giới. Giá trị đồng USD giảm sút, tính đến tháng 9 năm 2009, đồng USD đã mất giá 10% so với tháng 12 năm 2005 và 18% so với tháng 12 năm 2000 (tính theo tỷ giá USD/SDR). Bảng 2: TỶ GIÁ NGOẠI TỆ TÍNH TRÊN SDR THÁNG 9 NĂM 2009 Tiền tệ % thay đổi so với 12/2005 % thay đổi so với  12/2000 USD -9,3 -17,8 EURO 11,4 32,7 Yên 17,6 9,9 Nhân dân tệ 7,2 - 0,5 b. Đối với thế giới Hoa kì là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế Mỹ suy thoái, xuất khẩu nhiều nước bị thiệt hại. Nhất là các nước xuất khẩu theo hướng đông á. Một số nền kinh tế như Nhật bản, Đài Loan, Singapo rơi vào suy thoái, Các nền kinh tế khac tăng trưởng chậm lại. Châu Âu vốn có mối quan hệ mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây lâm vàophá sản đến mức khủng hoảng ở một số nước như Iceland, Nga…Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc khủng hoảng kể từ ngày đầu thành lập. Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn bị rút khỏi khu vực và giá dầu giảm mạnh. Khủng hoảng ở Mỹ là nguyên nhân cuộc khủng hoản kinh tế toàn cầu 2008-2010 Chi phí để thế giới khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng này là khoảng 11.900 tỉ USD, theo ước tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Điều đó có nghĩa là nếu chia bình quân, mỗi người trong thế giới 6,7 tỉ dân vào thời điểm đó đã có thể có thêm 1.779 USD nếu cuộc khủng hoảng không xảy ra. Tính ra thiệt hại tương đương 1/5 sản lượng kinh tế toàn cầu đã biến mất. Khoản tiền chi ra để cứu nguy nền kinh tế thế giới lần này là lớn nhất trong lịch sử. Theo tính toán của IMF trong báo cáo đưa ra trước dịp “kỷ niệm” hai năm bắt đầu khủng hoảng, chi phí cứu nguy này vẫn đang tiếp tục tăng. Hầu hết số tiền chi ra là từ các nước phát triển, với con số lên tới 10.200 tỉ USD. Trong khi đó, các nước đang phát triển chỉ chi 1.700 tỉ USD. GDP toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm trở lại đây), kéo tốc độ phát triển trung bình của toàn giai đoạn đi xuống, từ 4,04%/năm cho giai đoạn 2001 đến 2007, xuống còn 3,2% cho cả giai đoạn 2001-2010. Trong năm 2010, ước tính kinh tế thế giới đã bước đầu phục hồi với tốc độ tăng trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này được dự báo sẽ giảm xuống 4,2% trong năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012 (IMF). Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu 2000 - 2010 Đồ thị 2 : Tăng trưởng xuất khẩu và GDP toàn thế giới (1990 – 2010) Nguồn: IMF Data Statistic 1, Cục Dự trữ Liên bang (Fed): Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy. Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại trái phiếu chính phủ Hoa Kì hiện có), hạ lãi suất,.. Chủ trì chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ 28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá. Fed còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008. 2, Chính phủ Trước tình hình khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, chính quyền Bush đã trình quốc hội thông qua gói tài chính 700 tỷ dollar. Ban đầu Hạ viện Hoa Kỳ do Đảng Dân chủ Hoa Kỳ chiếm đa số bác bỏ vì cho rằng không thể phí tiền để cứu không được quá nhiều tổ chức tài chính gặp khó khăn. Song sau khi kế hoạch sử dụng 700 tỷ dollar được điều chỉnh sang hướng chi cho cả các chương trình phục vụ đông đảo người dân nhằm kích thích tiêu dùng (như trợ giúp cho người thất nghiệp, hỗ trợ dinh dưỡng cho người nghèo và người thu nhập thấp, phát triển cơ sở hạ tầng), qua đó vực dậy nền kinh tế, nó đã được Thượng viện thông qua. Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Tổng thống Bush đã ký Emergency Economic Stabilization Act of 2008 cho phép thực hiện gói kích thích 700 tỷ dollar này. Dù theo đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ, nhà cầm quyền Hoa Kỳ chỉ có thể can thiệp vào sinh hoạt kinh tế một cách gián tiếp qua hai hệ thống tiền tệ và tài chính. Theo hệ thống tiền tệ, chính phủ có thể giảm lãi suất để những người vay nợ có thể trả tiền nhà hay các hãng có thể mượn nợ để khuếch trương xí nghiệp; tức là tạo công ăn việc làm. Hành động này nhằm mục đích chận đứng giá nhà đổ, đồng thời làm giảm con số thất nghiệp. Tổng thống Obama phải đối phó nhiều vấn đề cấp thiết và cần thiết cho sự khủng hoảng kinh tế 2008 tại Hoa Kỳ. Thứ nhất là tạo niềm tin của người dân vào hệ thống tiền tệ; thứ hai là chận đứng thất nghiệp đang gia tăng; thứ ba là kích thích nhu cầu thị trường; tức là làm tăng mức cung để tạo công ăn việc làm cho dân chúng. Do đó, trước tình trạng khẩn trương khủng hoảng kinh tế, quốc hội Hoa Kỳ đã phê chuẩn cho tổng thống Obama xử dụng số tiền 800 tỷ đô-la để cứu nguy kinh tế Hoa Kỳ. Nhằm mục đích tạo niềm tin hệ thống ngân hàng, chính phủ giúp một vài ngân hàng, tín dụng hay hãng bảo hiểm (thí dụ AIG) để bảo vệ số tiền hưu trí của người dân Nhằm mục đích chận đứng nạn thất nghiệp, chính phủ phải giúp các đại công ty; thí dụ ba hãng xe hơi GM, Chrysler và Ford Nhằm mục đích tăng mức cầu, chính phủ giảm lãi suất, giảm thuế, xây cất các công tác hạ tầng cơ sở để tạo công ăn việc làm và kích thích thị trường tiêu thụ Nhằm mục đích làm giảm nạn thất nghiệp trong nước, khuynh hướng bế quan tỏa cảng gia tăng. Khuynh hướng này bị thế giới lên án. Kinh tế toàn cầu do Hoa Kỳ đề xướng có thể bị thất bại nên tổng thống Obama đã bãi bỏ quyết định này; nhưng tinh thần “nhà ai nấy lo” càng ngày càng được sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ. Chính phủ và quốc hội cũng đã thông qua nhiều bộ luật quan trọng, trong đó có Luật Tái đầu tư và phục hồi năm 2009, ban hành 17-2-2009 có mục tiêu là hồi phục lại nền kinh tế của Mỹ đang suy thoái trầm trọng. + Luật này nhằm tạo ra công ăn việc làm, cố cứu vãn một số công việc và cố gắng khôi phục sản xuất. + Thúc đẩy việc mua hàng của khách hàng (giảm thuế, các khoản trợ giúp cho những người nợ địa ốc,….) + Dùng lưới điện thông minh nhằm mục đích hạn chế nhập cảng dầu thô. + Các khoản trợ giúp cho giáo dục, y tế, đặc biệt là phát triển công nghệ và năng lượng…… Trong luật này có một phần dành cho đầu tư cỏ sở hạ tầng như chương trình Tân kinh tế của Tổng thống Roosevelt năm 1933 trong kì đại khủng hoảng kinh tế 1929-1939. Tổng số gói kích cầu cho dự án này là 787 tỉ đô-la. Sự thành công hay thất bại của luật này phụ thuộc vào 11 điểm sau: 1- Phân lời thực sự của Quỹ Liên bang (Real Federal Funds rate).         Phân lời của Quỹ Liên bang là phân lời (rate) của các ngân hàng cho vay lẫn nhau đoản kỳ. Phân lời thực sự của Quỹ Liên bang là phân lời của các nhà băng cho vay ngắn hạn trừ đi chỉ số lạm phát. 2- Đường biểu diễn phân lời hàng năm: (Interest rate yield curve) 3- Độ lệch phiếu nợ (Bond) của các công ty: (Corporate bond spread)           Độ lệch phiếu nợ AAA là hiệu số giữa phân lời hàng năm của các công ty và phân lời hàng năm của công khố phiếu 10 năm. Thí dụ phân lời công khố phiếu 10 năm là 3.5% và của công ty là 6% thì hiệu số này 2.5% 4- Số giờ làm việc (Worked hours) của khu vực tư:    Số giờ làm việc có chỉ số 2002 là gốc 100 (so sánh với 2002). Người ta định nghĩa số giờ làm việc tùy theo các hãng tư cần sản xuất nhiều thì công nhân được làm thêm giờ tức là giờ làm việc phụ trội và nếu số giờ làm việc này giảm tức là nền kinh tế không khá. Thường thường tại các hãng tư khi nào kinh tế phát triển thì công nhân mới phải làm giờ phụ trội. Như vậy số giờ làm việc này ổn định hay là tăng lên trong  3, 4 tháng liền thì chỉ số này chứng tỏ nền kinh tế đang trên đà hồi phục. Cụ thể là tháng giêng năm 2009 số giờ làm việc của công nhân có chỉ số 102.9, tháng 2 là 102.2, tháng 3 là 101.2, tháng 4 là 100.4, tháng 5 là 9.99, tháng 6 là 9.94, tháng 7 là 99.2, tháng 8 là 99.1… 6- Đơn đặt mua hàng hóa phi quốc phòng: (non defense capital goods orders)   Đơn đặt hàng phi quốc phòng là chỉ số kinh tế khi các nhà đầu tư chủ các hãng tin tưởng vào nền kinh tế thì các công ty mới đầu tư vào máy móc mới, các máy điện toán và các hàng hóa Trong năm 2009, số đơn đặt hàng giá trị hàng tháng đều dưới 35 tỷ và chứng tỏ nền kinh tế của Hoa Kỳ chưa được hồi phục. 7- Tiền tệ lưu hành (Money Supply):   Tiền tệ lưu hành còn có tên là tiền tệ cung cấp, là số tiền ký thác ở ngân hàng và trong Quỹ Thị trường Tiền tệ (Money Market Fund) sau khi đã điều chỉnh vì lạm phát là trị số tín dụng của số tiền có thể sử dụng được. 8- Giá chứng khoán 9- Chỉ số ISM.             ISM viết tắt của chữ Institute for Supply Management Index, viện quản lý chỉ số hàng cung cấp. 10- Giá dầu thô 11- Số xe bán được   7 trong 11 chỉ thị kinh tế đã kể trong những loạt bài trước có chỉ số dương trong tháng 9 bao gồm số giờ làm việc, giấy phép xây cất, đơn đặt hàng hóa phi quốc phòng, giá trị chứng khoán, đơn đặt hàng xuất cảng gia tăng, lãi suất thực sự của quỹ Liên bang, đường biểu diễn tiền lời hàng năm.             4 chỉ thị kinh tế âm bao gồm số tiền lưu hành, giá dầu thô, xe hơi bán được và giấy nợ của công ty tư. 3, Vai trò của ông chủ Nhà trắng: a, G.Bust Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây đau đầu cho giới chức Mỹ trước sự trông chờ của các doanh nghiệp cũng như sự theo dõi của thế giới, song cũng là dịp để các nhân vật chủ chốt của chính quyền Mỹ, mà đặc biệt là Tổng thống Bush, thể hiện vai trò của mình... Từ trái qua: Bộ tứ giải cứu thị trường tài chính gồm Chủ tịch Fed Ben Bernanke, Tổng thống George W. Bush, Bộ Trưởng Tài chính Mỹ Henry Paulson và Chủ tịch Uỷ ban chứng khoán Mỹ Christopher Cox. Ảnh Reuters. Tổng thống Mỹ G.Bush đã yêu cầu Quốc hội can thiệp mạnh tay hơn của chính phủ Liên bang vào thị trường tài chính Mỹ mà ông nói đó là sự bảo đảm và cần thiết để làm dịu đi cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ này. Ông Bush cũng trấn an người dân Mỹ rằng chính quyền nước này sẽ vẫn tiếp tục duy trì các điều luật nhằm bảo vệ số tiền gửi và tài khoản tiết kiệm của họ tại ngân hàng. “Sẽ không có ai mất một đồng xu nào trong tài khoản. Tuy nhiên, ông Bush cũng cảnh báo các nhà lãnh đạo đảng Dân Chủ về việc đưa ra các chỉ trích phản đối kế hoạch giải cứu của chính quyền Bush, mà điều này có thể dẫn tới việc trì hoãn các hành động thực thi. "Giờ không phải lúc để chúng ta chia rẽ đảng phái”. Vị tổng thống khẳng định lại chính quyền Mỹ sẽ bảo vệ tất cả số tài sản hiện có của các quỹ tương hỗ và tạm ngưng các hoạt động cá cược về việc cổ phiếu tài chính sẽ giảm giá. Bộ Tài chính sẽ yêu cầu Quốc hội cho quyền quyết định trong việc mua lại các khoản nợ xấu - nguyên nhân đang làm Phố Wall tê liệt. Bush cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính rút 50 tỷ đô la từ quỹ dành cho giai đoạn khủng khoảng để bảo đảm số cổ phần hiện có của các quỹ tương hỗ thị trường. Chính phủ Liên bang công bố sẽ mở rộng chương trình cho vay khẩn cấp để hỗ trợ số tài sản 2 ngàn đô la Mỹ của các quỹ này. Tổng thống Mỹ với Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân hàng Trung ương đứng hai bên, đang công bố biện pháp giải cứu các quỹ đầu tư tiền tệ (ảnh: AP) Tổng thống George W. Bush trong một buổi làm việc tại Nhà Trắng với một số thành viên của Quốc hội. Hai ứng viên Tổng thống John McCain và Barack Obama cũng có mặt. Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of 2008 theo đó chính phủ sẽ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân. b, Kế hoạch của Barack Obama Barack Obama - khi đó hẵn còn là ứng viên Tổng thống Hoa Kỳ - phát biểu trước Thượng viện về cuộc khủng hoảng 2007. Barack Obama, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, sau khi trúng cử đã nêu ra một chương trình kích thích kinh tế trong đó Hoa Kỳ sẽ tiến hành kích cầu bằng: Những dự án phát triển cơ sở hạ tầng chưa từng có kể từ thập niên 1950; Nâng cấp hệ thống sử dụng năng lượng của các văn phòng cơ quan chính phủ Hoa Kỳ theo hướng tiết kiệm năng lượng; Đầu tư lớn cho phát triển công nghệ nhất là thông tin y tế điện tử, hệ thống máy tính cho các trường phổ thông và phát triển mạng Internet băng thông rộng; Cấp thêm ngân sách cho Chương trình bảo hiểm y tế (Medicaid). Cấp thêm 50 tỷ dollar ngoài khoản 20 tỷ dollar đã được đồng ý cho ngành công nghiệp ô tô với điều kiện là ngành này phải cải tổ đáng kể. Một bộ luật quan trọng của ông đã được đưa ra- Luật tái đầu tư và phục hồi 2009 (đã nêu ở trên) đóng vai trò quan trọng đưa Mỹ thoát khỏi khủng hoảng. Obama ký Luật tái đầu tư và phục hồi Chương trình nghị sự phục hồi kinh tế của Tổng thống và Phó Tổng thống mới có nội dung: Hành động khẩn cấp để tạo việc làm cho người Mỹ; Trợ giúp khẩn cấp cho các hộ gia đình gặp khó khăn; Trợ giúp trực tiếp và khẩn cấp cho người sở hữu nhà, thay vì cứu trợ các tổ chức tài chính cho vay nhà ở thế chấp vô trách nhiệm; Phản ứng nhanh, mạnh với khủng hoảng tài chính bằng tất cả các công cụ mà nước Mỹ có. Ngày 17 tháng 2 năm 2009, Barack Obama đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi (American Recovery and Reinvestment Act). Đạo luật này cho phép Chính phủ thực hiện gói kích thích thứ hai kể từ khi khủng hoảng nổ ra. Gói kích thích này trị giá 787 tỷ dollar. Trước đó, ông Obama cũng thông qua chính sách “Đồng đô-la yếu”, là động lực chính chuyển đổi từ một nền kinh tế nhập khẩu cao với tỉ lệ tiết kiệm thấp sang nền kinh tế hướng xuất khẩu với tỉ lệ tiết kiệm cao. Mục tiêu là tăng cường xuất khẩu, giảm nhập khẩu. 1. Khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010 và khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 Theo những ý kiến bi quan, tình hình khủng hoảng lúc bấy giờ của Mỹ giống như cuộc đại suy thoái 1929-1939 hoặc giống với thời kì suy thoái của Nhật những năm 1990. Đại khủng hoảng thập niên 1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới trỏ lại bình thường, Nhật cũng mất 10 năm mới ổn định được hệ thống tài chính và khôi phục kinh tế, vì vậy, nhiều khả năng Mỹ cũng mất tới 10 năm mới hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên khác với thập niên 1930, các đối sách hiện nay của Mỹ không đon độc mà có sự hợp tác của các nền kinh tế lớn do sự lệ thuộc vào nhau, Mỹ sụp đổ sẽ kéo theo sự bất ổn của các nền kinh tế khác. Thêm vào đó, khác với thập niên 1930, hồi đó mỹ và nhiều nước khác đều gặp khó khăn ở mức độ gần như nhau, hiện ny kinh té thế giới ngoài Mỹ phát triển khá mạnh. Năm 2007, tăng trưởng kinh tế ở Mỹ là 2% trong khi thế giới là 5%. Cùng với cơ chế hợp tác của các nước lớn sẵn có sẽ là điều kiện về thị trường giúp kinh tế Mỹ sớm hồi phục. Một điểm nữa là Chính phủ ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn và hiệu quả hơn vì có các cơ chế làm dịu tác động cuộc khủng hoảng so với thập niên 1930. So với Nhật ở thập niên 1990, tình hình nước Mỹ hiện nay cũng khác ít nhất ở 2 điểm: Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật vào thời điểm đó tăng đến mức quá cao một cách bất thường, hình thành nền kinh tế bong bong quá lớn nên khi nổ tác động rất mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ. Tình hình ở Mỹ phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm soat nhưng về giá bất động sản tăng không cao như Nhật. Thứ hai, vào thập niên 1990 Nhật bị giảm phát nặng nên lãi suất danh nghĩa giảm dần đến số không nhưng lãi suất thực vẫn cao, trong khi đó Mỹ hiện nay lạm phát vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật lúc đó. 2. Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng? * Mở cửa kinh tế và hội nhập đã mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn khi xảy ra biến động. Tác động của cuộc khủng hoảng này có tính hai mặt, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do hội nhập ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới nên Việt Nam cũng chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp. + Tác động đến tăng trưởng nền kinh tế: Khủng hoảng dã làm cho tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm và tỉ lệ thất nghiêp tăng cao. Thực tế năm 2008, tốc độ này chỉ đạt 6,23% ( dự báo của Quốc hội là 7%), thấp nhất trong vòng 9 năm qua. Sản xuất thu hẹp, thu nhập giảm sút, that nghiệp gia tăng. + Tác động đến FDI: Trái với tất cả nhiều dự đoán ban đầu cho rằng FDI Việt Nam sẽ giảm mạnh do ảnh hưởng của khủng hoảng, tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2008 tăng kỉ lục trong hơn 20 năm. Tính đến 19/12/2008, tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam hơn 64 tỷ đô-la Mỹ, tăng 199,9% so với 2007. + Tác động đến xuất khẩu Việt Nam Xuất khẩu của Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nhiều bởi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam Tình hình trên đã đưa đến kết quả là cả năm 2008 xuất khẩu chỉ đạt khoảng 64 tỉ đô-la, tăng 31,8% so với 2007. Xuất khẩu đã giảm không chỉ về số đơn đặt hàng mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã gặp khó khăn do tiêu thị hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư. * Việt Nam đã làm gì để đối phó với khủng hoảng Chính phủ Việt Nam đã đề ra 05 nhóm giải pháp cơ bản như sau: - Giải pháp thúc đẩy sản xuất - kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu - Giải pháp đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng - Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt - Thực hiện sâu rộng chính sách an sinh và xã hội - Phối hợp tốt trong tổ chức chỉ đạo, điều hành * Bài học rút ra từ khủng hoảng Thực tế đã cho thấy, Trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã, đang và sẽ bị thử thách, kết qur chống lạm phát, vượt qua khủng hoảng và triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta sẽ còn tùy thuộc rất lớn vào quyết tâm chính trị, nhận thức và cách thức giải quyết các điểm mấu chốt sau: Phối hợp hài hòa bàn tay Nhà nước pháp quyền và bàn tay thị trường Những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới đã, đang và sẽ còn chứng tỏ, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, và cả khi “bàn tay vô hình” của thị trường bị lạm dụng và đề cao thái quá, thì đều có nguy cơ dẫn đến những cực đoan, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và thậm chí dẫn đến khủng hoảng nếu có những bất đồng quá mức giữa nhà nước và thị trường. Các khiếm khuyết của thị trường tự do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích cực của Nhà nước kiểu mới, mang tính pháp quyền và đại diện cao hơn. Đặc biệt, cần sớm khắc phục những bất cập về nhận thức và lạm dụng trong thực tế về quyền lực chủ quan của nhà nước, về sức mạnh thị trường khách quan, về tính đa mục tiêu của chính sách, cần nâng cao chất lượng xây dựng các quy hoạch, dự án; thực hiện nghiêm túc các quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép thầu và các gian lận thầu khác gây tổn hại lợi ích chung và dài hạn; tăng cường kiểm toán độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu hiệu quả Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước – nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước – nhà quản lý công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển dịch nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước; yêu cầu về tổ chức lại nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước sẽ cấp thiết hơn nhằm tăng cường sự hợp tác, gắn kết, sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, cũng như hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội nói chung Hơn nữa, cần sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành mạnh trong việc cung cấp các sản phẩm và nguyên , nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế, rồi mới bãi bỏ sự kiểm soát hành chính về giá cả. Coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách. Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam còn thể hiện trong sự dám đối diện, chấp nhận và biết cách vượt qua thử thách trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu, lẫn quy trình của kinh tế thị trường, coi trọng tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng hữu quan, nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu thống kê và dữ liệu thông tin quốc gia và chuyên ngành hiện đại, có chất lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng về quản lý nhà nước các cấp, kinh doanh và nghiên cứu khoa học; khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý thông tin, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân có nhu cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng các thông tin này, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng. Hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy, Việt Nam cần có nhiều biện pháp, chnhs sách để khuyến khích người tài, có chế độ bồi dưỡng hợp lí và nhất là việc đầu tư đúng mức, tránh “ bỏ xót” nhân tài. Muốn được như vậy cần phải có sự nổ lực từ phía nhà nước và sự đồng thuận từ nhân dân. Tham nhũng làm thất thu và thất thoát, giảm hiệu quả các nguồn lực xã hội, những luật định quản lý kinh tế – xã hội, làm nản lòng nhà đầu tư trong và ngoài nước, gây cản trở cho sự vận hành thông suốt của nền kinh tế với tư cách một chỉnh thể tự nhiên, là cội nguồn mọi bất ổn, trở ngại và thách thức lớn nhất, gây tổn thất to lớn, khó lường cho lợi ích, uy tín quốc gia, làm gia tăng tình trạng rối loạn kỷ cương xã hội, xu hướng ly tâm và mất đồng thuận, kẻ thù nguy hiểm nhất từ bên trong đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Vì vậy, phòng, chống tham nhũng đang là bài toán khó mà vẫn chưa có lời giải triệt để.Nền kinh tế trong sạch vững mạnh không thể có hiện tượng tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta cần mạnh tay hơn nữa, đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng. Tất cả vì một Việt Nam tươi sang và vững mạnh hơn ! Những hình ảnh ấn tượng của cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 - 2009 Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010 đã tác động sâu rộng vào mọi mặt của các nền kinh tế trên thế giới. Nó đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Mỹ cùng nhiều quốc gia khác đang gánh chịu những tổn thất nặng nề mà cuộc khủng hoảng này mang lại. Tuy nhiên năm 2010 đã có nhiều dấu hiệu khả quan cho sự phục hồi và thực tế nền kinh tế đã bắt đầu vực dậy từ đầm lầy khủng hoảng, tuy còn chậm. Nhứng bài học và kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng này hy vọng sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam nói riêng và Thế giới nói chung sẽ phát triển vững chắc trong tương lai. Nhóm thực hiện xin chân thành cảm ơn cô và các bạn đã đọc và góp ý cho bài thảo luận này! NHÓM THỰC HIỆN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010.doc