Đề tài: Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước từ năm 2007 đến nay
Mục Lục
Lời mở đầu
Phần I : Giới thiệu chung
1. Chính sách tiền tệ
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
3. Các công cụ chính sách tiền tệ
Phần II : Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động của nó tới nền kinh tế từ năm 2007 đến nay
1. Năm 2007
2. Năm 2008
3. Năm 2009
4. Năm 2010
Phần III : Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Một số kiến nghị về điều hành chính sách tiền tệ cuối năm 2010
2. Một số đề xuất hoàn thiện hóa công cụ chính sách tiền tệ
Kết luận và tài liệu tham khảo
Phụ lục
Lời mở đầu
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách tiền tệ ,chúng em quyết định chọn đề tài: “Điều hành CSTT của NHNN từ năm 2007 đến nay”.
55 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6554 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước từ năm 2007 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh đó, ngân hàng còn chịu rủi ro về nợ xấu khó đòi, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản.Tỷ lệ nợ xấu( cho doanh nghiệp vừa và nhỏ) cảu hệ thống ngân hàng tính đến 31/7/2008 là 3,64%( 10.886 tỉ đồng),tăng 1% so với 2007.
Tăng trưởng tín dụng sau khi tăng cao tới 54% trong năm 2007 đã giảm xuống còn 24% trong năm 2008.Tuy lãi suất đi xuống từ tháng 7/2008 nhưng tăng trưởng tín dụng giảm mạnh trong nửa cuối năm. Nếu trong nửa đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng hằng tháng luôn dao động từ 2%-5% thì tốc độ tăng của tháng 7 chỉ còn 0,7% và tiếp tục giảm xuống 0,56% trong tháng 8
- Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
Cung ngoại tệ tăng mạnh, cộng với những tin đồn đồng Việt Nam tăng giá do sức ép hội nhập khiến đô la mất giá và liên tiếp đứng ngưỡng 16.000 đồng trong 3 tháng đầu năm.
Thị trường quay ngoắt 180 độ khi kinh tế bộc lộ khó khăn, nhập siêu gia tăng. Tỷ giá USD/VND ngoài chợ đen đột ngột phá mốc 17.000 đồng.Ngày 18/6, khi những số liệu mới công bố cho thấy nhập siêu ở mức kỷ lục, tỷ giá đã nhảy lên ở mức 19400 VND/1USD.Người dân, doanh nghiệp đua găm giữ ngoại tệ, do niềm tin vào đồng tiền bị lung lạc. NHNN đã phải công khai dự trữ ngoại hối và tăng cường can thiệp vào thị thị trường, nhằm củng cố niềm tin của công chúng với đồng nội tệ.Nhưng đến cuối năm 2008 tình hình vẫn tiếp diễn căng thẳng.
- Sự lỗi nhịp thường xuyên của LSCB so với lạm phát
Bước sang đầu năm 2008, với mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế, LSCB ban đầu được neo ở mức 8,25%/năm, từ tháng 2 bắt đầu được tăng “nhỏ giọt” lên 8,75%/năm và duy trì đến hết trung tuần tháng 5 mới có bước tăng vọt lên 12%/năm thì lạm phát đã tăng đại nhảy vọt lên 15,96%.Và dù lạm phát trong tháng 6 đã hạ nhiệt rất mạnh so với tháng 5(2,14% so với kỷ lục 3,91%), nhưng LSCB lại được đẩy thêm 2% nữa kể từ ngày 11/6.Tiếp theo, trong khi kỷ lục LSCB này được duy trì trong suốt quý III, thì lạm phát lại chỉ còn là 2,89% trong tháng 10, khi lạm phát âm xuất hiện, thì LSCB cũng chỉ giảm “ nhỏ giọt” xuống 13%/năm và ngày 5/11 tiếp tục giảm xuống 12%/năm.Xét trên tình hình cụ thể qua tùng tháng, có thể thấy sự “lỗi nhịp” thường xuyên của LSCB so với lạm phát thực tế
Tóm lại
Năm 2008 là 1 năm đầy sóng gió nhưng với sự điều tiết của NHNN đã góp phần quan trong kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý.Nhưng bên cạnh đó, NHNN vẫn còn có thời điểm thiếu nhịp nhàng, đồng bộ trong quá trình thực thi các giải pháp điều hành tiền tệ. Thị trường tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm 2008 còn có những biến động nhất định
3. Năm 2009
3.1. Thực trạng nền kinh tế năm 2009
Năm 2009, nền kinh tế phải đối phó với nhiều khó khăn, thách thức do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế bộc lộ dấu hiệu suy giảm từ cuối năm 2008 và mạnh nhất là quý I/2009. Nền kinh tế Việt Nam có mức độ mở cửa lớn với kinh tế thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, vì vậy, mặc dù các tổ chức tài chính và doanh nghiệp Việt Nam không đầu tư, nắm giữ các loại tài sản độc hại nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chịu tác động qua kênh đầu tư, thương mại (vốn FII ra, FDI vào chậm lại, khách quốc tế giảm, xuất khẩu sụt giảm)
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý II/2009 của cả nước đạt 4,5%; GDP trong 6 tháng đầu năm đạt 3,9%. Con số này mặc dù thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,5% của cùng kỳ năm 2008, nhưng đã tăng đáng kể so với mức 3,1% của quý I/2009
Những tháng cuối năm có nguy cơ tái lạm phát. Tái lạm phát cao lên vào những tháng cuối năm khi có sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Ở trong nước là sự điều độ về liều lượng giữa tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát không dễ dàng.Diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng( theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim nghạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu giảm 11,5% và nhập khẩu giảm 17%)
Theo số liệu thống kê, cán cân thương mại tháng 10/2009 tiếp tục thâm hụt ở mức 1,9 tỷ USD, tăng mạnh so với mức 1,52 tỷ USD tháng 9/2009.Như vậy, tổng giá trị nhập siêu trong 10 tháng đầu năm 2009 là 8,78 tỷ USD.Điều đó tạo áp lực về khả năng cung cầu ngoại tệ, tác động đến tâm lý giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, xuất hiện tình trạng găm giữ ngoại tệ khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung, tạo ra áp lưc tăng tỷ giá.
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 31,3% xuất khẩu, nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm, nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu… do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.Thêm vào đo, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện nhiều hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về lý thuyết làm cho VND tăng giá nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN cung ứng thêm tiền. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND
Kết thúc năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32% với lạm phát được kiềm chế dưới 7%. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế võ mô ở trạng thái khá ổn định.
3.2. Điều hành CSTT của NHNN năm 2009
Năm 2009, một năm mà CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
Trong những tháng đầu năm 2009, NHNN đã chuyển hướng điều hành từ ưu tiên kiểm soát lạm phát trong năm 2008 sang chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2009 bằng việc từng bước nới lỏng CSTT để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế
Về lãi suất
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7%
Bảng diễn biến lãi suất cơ bản năm 2009
Bắt đầu từ
Duy trì đến
LSCB/năm
22/12/2008
31/1/2009
8,5%
1/2/2009
30/11/2009
7%
1/12/2009
31/12/2010
8%
Tháng 2/2009 vì nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, lạm phát năm 2008 đã được kiểm soát, LSCB giảm xuống 7%, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 8%/năm xuống còn 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 6%/năm xuống còn 5%/năm. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đối với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh và kể cả các dự án đầu tư bất động sản khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn.
Từ tháng 2/2009 đến tháng 11/2009 LSCB được NHNN giữ nguyên ở mức 7%/năm. Mục đích: Duy trì mức lãi suất vừa phải để kích thích tăng trưởng kinh tế. NHNN muốn phát đi thông điệp là lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, việc giữ nguyên LSCB có thể giúp trấn an tâm lý nhà đầu tư và thị trường khi mà thông tin tỷ giá hối đoái điều chỉnh, nhiều mặt hàng tăng giá được công bố dồn dập trong thời gian cuối năm
Cuối năm vào tháng 12, NHNN tăng LSCB lên mức 8%/năm. Mục tiêu của việc nâng LSCB lên 8%, lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5% lên 6% là kiếm soát những rủi ro về tăng trưởng nóng và lạm phát đang nổi lên trong nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế bền vững năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, đồng thời quyết tâm có những phản ứng chính sách phù hợp từ đó ổn định nền kinh tế vĩ mô. Việc tăng LSCB thêm 1% thừa nhận thực tiễn là ngân hàng đã căng thẳng lãi suất và không huy động được, phải nới lỏng lãi suất cho vay và huy động vốn. Đây là biện pháp cần được chấp nhận trong giai đoạn này, nếu không dòng tiền sẽ càng căng thẳng.Lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn. Việc điều chỉnh tăng các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu với mục đích kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết của Quốc hội và quyết định này còn tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế
Về nghiệp vụ thị trường mở
Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các TCTD, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Nhờ vậy, lãi suất vay vốn giữa các ngân hàng giảm mạnh, kỳ hạn một tuần còn 11%/năm, vay qua đêm còn 8,5%/năm.
Thị truờng mở đuợc điều hành khá linh hoạt phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường, trong năm 2009 chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống (chào bán không đáng kể); lãi suất được NHNN công bố và thực hiện theo phương thức đấu thầu, kỳ hạn từ 1-2 tuần nhưng chủ yếu là 2 tuần. Khối lượng chào mua tùy theo diễn biến vốn khả dụng và mục tiêu CSTT. Trong khoảng nửa đầu năm, khi vốn khả dụng của hệ thống tương đối ổn định thì khối lượng giao dịch ở mức thấp, khoảng từ 1.000-1.500 tỷ đồng/phiên, nhưng khi vốn khả dụng có xu hướng giảm do tín dụng được đẩy mạnh trong quá trình thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, khối lượng giao dịch tăng lên 8.000-9.000 tỷ đồng/phiên và vào cuối năm còn lên tới khoảng 15.000 tỷ đồng/phiên. Trong tuần cuối của năm 2009, thị truờng mở đuợc thực hiện 2 phiên/ngày để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD trong dịp Tết dưong lịch.
Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần di kèm với việc điều chỉnh lãi suất dự trữ bắt buộc vào những tháng đầu năm 2009. NHNN đã hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% theo Quyết định số 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/208 xuống 3% ngày 24/2/2009 đối với tiền gửi bằng VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng. Tỷ lệ DTBB này áp dụng cho các NHTM Nhà nước ( không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn), NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính. Còn đối với tỷ lệ DTBB cho tiền gửi bằng VND có kỳ hạn trên 12 tháng vẫn là 1%. Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng vẫn giữ nguyên. Lãi suất tiền gửi DTBB của các NHTM ở NHNN giảm từ 8,5% theo quyết định ngày 19/12/2008 xuống còn 3,6% ngày 23/1/2009 và tiếp tục giảm từ 3,6% xuống 1,2%/ năm theo quyết định 17/7/2009.
Về chính sách tỷ giá
Quý 1/2009: cả quý hầu như không tăng và giữ ổn định vào khoảng 16700 VND/1USD. 2/2/09 tỷ giá ở mức 16978 và đến 16/03 là 16975 nhưng đến cuối tháng 3 tỷ giá lại giảm tới mức 16936 ngày 30/03
Quý 2: tỷ giá vẫn giữ ổn định ở mức 16937-16943 và tăng lên vào cuối tháng 6 ở mức 16953 ngày 30/06/09
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ,NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như ngày 24/3/2009, NHNN tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá từ + 3% lên + 5% cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng
Việc nới rộng biên độ tỷ giá nhằm vào các lợi ích như: Đối với NHNN, việc nới rộng biên độ cho thấy NHNN đã có những bước đi chủ động hơn trong việc điều hành CSTT trong đó có tỷ giá, gây tâm lý tốt và tạo được lòng tin ngày một lớn hơn của công chúng về các quyết định chính sách. Hơn nữa, điều đó còn góp phần giảm được tình trạng đô la hóa do tâm lý đầu cơ ngoại tệ. Đối với các NHTM có thể giao dịch với tỷ giá sát với cung cầu ngoại tệ trên thị trường hơn. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tạo được sự kích thích tốt hơn, nhất là khi đồng USD bị mất giá so với các ngoại tệ mạnh khác trên thế giới. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, có thể góp phần thúc đẩy họ đầu tư và tham gia vào TTCK nhiều hơn. Đối với việc phát hành trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ cũng có thể được hưởng lợi từ yếu tố lãi suất do việc nới rộng biên độ tỷ giá, góp phần làm giảm áp lực về lãi suất phải trả đối với trái phiếu Chính phủ.
Đồng thời, các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép, tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của NHTM và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá, yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ( lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống còn không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm xuống mức không quá 3%/năm từ ngày 1/6/2009,lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm từ ngày 1/6/2009)
Quý 3: tỷ giá liên tục tăng mạnh từ 16954 ngày 1/7/09 đến mức 16991 cuối tháng 9
Quý 4: tháng 10 và nửa đầu tháng 11 tỷ giá liên tục tăng và đến ngày 25/11 là 17034 VND/1USD. Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 VND/1USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ ± 5% xuống còn ± 3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. Ngay trong ngày 25/11/2009, khi NHNN công bố thông tin về việc điều chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã giảm từ mức 19750-19800 buổi sáng xuống còn 19500-19700 vào buổi chiều. Sang ngày 26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm xuống còn 19.300-19.500 VND/1USD
Bên cạnh đó, các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Việc điều chỉnh tỷ giá là việc làm cần thiết để tác động vào mức tăng trưởng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô
3.3Nhận xét về điều hành CSTT của NHNN năm 2009
Mặt tích cực
Năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình,ít sốc hơn so với năm 2009. Hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại bình thường và ổn định, thị trường tiền tệ và đặc biệt là thị trường ngoại hối đến nay đã thông suất, và qua đó NHTM cho vay ra được, các doanh nghiệp tiếp cận được vốn VND và ngoại tệ khi hoạt động kinh doanh của họ đã có dấu hiệu khởi sắc từ cuối 2009. Về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2%/năm và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Mặt hạn chế và bài học năm 2009
- Bài học thứ nhất là về sự kiểm soát tín dụng. Năm 2009 tăng trưởng tín dụng 37,73% đã vượt mức định hướng là một bài học về quản lý. Hơn thế nữa, chính sự tăng trưởng tín dụng như vậy chắc chắn có tác động đến lãi suất cả trên phương diện vĩ mô và vi mô. Về mặt vi mô, sự ước tính về tăng trưởng tín dụng theo định hướng từ đầu năm chắc chắn đã phần nào làm phá vỡ kế hoạch kinh doanh của từng NHTM và từ đó ảnh hưởng đến sự kế hoạch kinh doanh của DN.
- Bài học thứ hai là về sự cân đối vốn trong hệ thống. Sự nóng nguồn vốn trung và dài hạn trong hệ thống ngân hàng năm 2009 hiển nhiên là có thực. Qua đó cho thấy vấn đề về cải thiện cân đối về kỳ hạn tại các NHTM vẫn là một vấn đề nóng. Sự nóng về mất cân đối về kỳ hạn này được phản ánh vào lãi suất trên thị trường liên ngân hàng vẫn thường xuyên nóng. Lãi suất huy động cũng có biểu hiện mất cân đối ở chỗ: lãi suất liên tục tăng mà NHTM vẫn khó huy động. Lãi suất huy động ngắn hạn cao bằng lãi suất trung và dài hạn; thị trường tín dụng suất hiện nhiều loại phí bất hợp lý…
- Bài học thứ ba về sẵn sàng chống sốc lãi suất, tỷ giá. Với thực tế về nguồn vốn của doanh nghiệp và khả năng quản trị tài chính của doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua, chúng ta dễ thấy rằng các doanh nghiệp khá dễ tổn thương trước các cú sốc tiền tệ, nhất là sốc về lãi suất, số về tỷ giá... Việc thay đổi tỷ giá VND so với USD đã giải tỏa một phần tình trạng ách tắc trên thị trường ngoại hối. Việc Chính phủ yêu cầu các tổng công ty bán ngoại tệ NHNN cần có thêm giải pháp khác để việc cân bằng tỷ giá được diễn ra trong trung và dài hạn. Về trung hạn, với tình trạng cán cân thương mại vẫn được dự báo là thâm hụt 11 tỷ USD cho cả năm 2009 và 2010 thì người ta vẫn lo ngại về cú sốc ngoại hối, nếu NHNN không có định hướng quyết tâm điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị trường.
Về tiền tệ và lãi suất, khi cơ cấu nguồn vốn còn không cân đối với sử dụng vốn trong khu vực ngân hàng vẫn căng và nguồn vốn của DN dựa vào vốn vay ngân hàng…thì các DN cần đảm bảo rằng họ phải sẵn sàng chống sốc tiền tệ ( ít nhất là biến động lãi suất) trong tương lai. Khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường, từ DN đến nhà nước phải sẵn sàng đối phó với các cú sốc bằng các chính sách ứng phó phù hợp. Việc “ giật mình” với các cú sốc trong bất kỳ trường hợp nào nhà nước hay DN đều chứng tỏ mức độ sẵn sàng chưa cao và đó là lỗi chủ quan chứ không phải khách quan.
Năm 2010
3.1. Diễn biến kinh tế:
- Kinh tế thế giới: Trong 6 tháng đầu năm 2010, kinh tế thế giới có thêm nhiều diễn biến lạc quan nhưng vẫn còn không ít những diễn biến không thuận lợi:
Về tăng trưởng kinh tế: Theo ước tính của IMF, trong quý I/2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 4,3%, cao hơn mức kỳ vọng và gần sát mức đỉnh điểm 5% trước khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các khu vực, trong đó các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là 7,6% trong Quý I/2010, riêng Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng tới 11,9%. Đối với các nước phát triển, Mỹ đang có tốc độ phục hồi nhanh hơn so với khu vực Châu Âu và Nhật Bản, mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ.
Về lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp: lạm phát toàn cầu trong nửa đầu năm 2010 tăng so với năm 2009 những vẫn duy trì ở mức thấp và trong tầm kiểm soát. Cùng với việc tăng trưởng kinh tế mạnh hơn thì lạm phát tại các nước đang phát triển và mới nổi cũng tăng nhanh hơn so với các nước phát triển do ảnh hưởng của các biện pháp mở rộng cung tiền mạnh mẽ tại các nước này trong năm 2009 (tỷ lệ lạm phát tháng 4/2010 tại Trung Quốc là 2,8% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó tại Mỹ là 2,2% và Khu vực Châu Âu là 1,5%). Riêng Nhật Bản vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng giảm phát (-1,2%).Trong 4 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp tăng ở nhiều quốc gia, trong đó tỷ lệ tại Mỹ là 9,9%, khu vực Châu Âu là 10,1% và Nhật Bản là 5,1%.
Về diễn biến tỷ giá: trong 6 tháng đầu năm 2010, đồng USD tăng giá mạnh so với đồng Euro, GDP và AUD trong khi lại giảm giá đối với hầu hết các đồng tiền chủ chốt Châu Á. Nguyên nhân chính của việc đồng USD tăng giá mạnh so với đồng Euro, GDP và AUD là do cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha gây ra. Trong khi, tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại tăng cao tại Mỹ trong quý I/2010 đã khiến đồng USD giảm giá so với các đồng tiền Châu Á – khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh. Tính đến ngày 31/5/2010, đồng USD tăng 16,4% so với đồng EURO, tăng 11,22% so với GDP, tăng 5,93% so với AUD và giảm 1,89% so với JYP.
Mặc dù kinh tế thế giới đã có nhiều tín hiệu lạc quan: cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã được kiểm soát, kinh tế thế giới năm 2010 tiếp tục phục hồi, tuy nhiên hiện vẫn còn quá sớm để khẳng định kinh tế thế giới hoàn toàn thoát khỏi suy thoái và bước vào chu kỳ hồi phục bởi những rủi ro còn lớn do việc cắt giảm các khoản hỗ trợ để giảm thâm hụt ngân sách còn gặp khó khăn, trong khi Chính phủ các nước muốn nhanh chóng khôi phục sản xuất, nhiều nhà đầu tư còn gặp khó khăn và dè dặt trong việc trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm và thu nhập. Có những lúc người ta lo ngại về một cuộc khủng hoảng kép khi vấn đề nợ Hy Lạp tưởng như không thể kiểm soát nổi. Các thị trường chứng khoán sụt giảm thê thảm. Thị trường hàng hoá cũng rơi vào giai đoạn giảm giá.
- Kinh tế trong nước: Quý III đã khép lại và năm 2010 đã đi qua ¾ đoạn đường. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, so với cùng kỳ năm trước, GDP quý III ước tăng 7,18%, tính chung 9 tháng đầu năm tăng khoảng 6,52% và dự báo triển vọng GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%. Nghĩa là tới nay, chỉ tiêu tổng quát nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2010 - tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đã vượt ngưỡng dự kiến (6,5%). Trong đó,đặc biệt về xuất khẩu hàng hóa kết quả 9 tháng đạt trên 50 tỷ USD và cả năm có thể đạt trên 67 tỷ USD, tăng trên 18% so với năm 2009 (trong khi dự kiến kế hoạch chỉ đề ra là tăng 6% vì năm 2009 đã giảm sút 8,9% so với năm 2008). Và càng đáng khích lệ, nếu so sánh về số tuyệt đối, bởi năm 2008 mới đạt gần 62,7 tỷ USD và năm 2009 mới đạt gần 57,1 tỷ USD). Như vậy, kim ngạch xuất khẩu năm 2010 rất có khả năng trở thành mức kỷ lục kể từ trước tới nay, tức là mức cao nhất trong lịch sử ngoại thương Việt Nam.
Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh những “nốt thăng, nốt bổng” khá ấn tượng trong bài ca kinh tế 9 tháng vừa qua và dự ước cả năm 2010, không thể không lên tiếng cảnh báo những “nốt trầm, nốt giáng” đang có nguy cơ lan tỏa và kéo dài nặng nề. Trước tiên, đó là tình hình lạm phát đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tính bình quân trong cả nước đã tăng đột biến tới mức 1,31% so với tháng trước, khiến CPI bình quân 9 tháng/2010 tăng 8,64% so với cùng kỳ năm trước. Và thời gian từ nay tới cuối năm, gần như quy luật ở nước ta, CPI đều leo thang với nhiều lý do. Vì vậy, tính hiện thực của mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm 2010 ở mức dưới 8% đang bị lung lay.Ngoài ra, tình trạng thiếu vốn, khiến lãi suất ngân hàng thường neo đậu ở mức cao, gây khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Đặc biệt là tình hình liên tục mất giá của đồng tiền quốc gia (VND) so với đồng USD, đồng nhân dân tệ (Trung Quốc) nói riêng và so với hầu hết các ngoại tệ khác nói chung. Đó là chưa kể về mức mất giá của VND so với giá vàng, vì trên giác độ nhất định của học thuyết kinh tế Mác, vàng vẫn được coi là “vật ngang giá chung”
Nhìn ra thế giới, năm 2010 này nhiều nền kinh tế chưa gượng dậy được, lại thêm ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ công của các nước châu Âu, ít nhiều cũng sẽ tác động tới ta: từ thị trường xuất khẩu cho tới dòng vốn đầu tư và tỉ giá ngoại tệ. Trong bối cảnh đó, rất cần sự điều hành linh hoạt, nhạy bén, kịp thời của Chính phủ và sự đồng thuận của toàn xã hội để nền kinh tế tiếp tục vượt khó khăn, có những bước tăng trưởng vững chắc
3.2. Điều hành CSTT của NHNN năm 2010:
Bước sang năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi ở hầu hết các khu vực nhưng không đồng đều và quá trình phục hồi vẫn khá mong manh, lạm phát tại nhiều nước và giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu có xu hướng tăng. Trong bối cảnh kinh tế phục hồi và áp lực lạm phát tăng, hầu hết các nước chấm dứt hoặc rút dần các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó một số ngân hàng trung ương đã bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ trở lại để kiểm soát lạm phát. Thị trường tài chính thế giới biến động phức tạp do ảnh hưởng của khủng hoảng nợ ở Hy Lạp và nguy cơ xảy ra ở một số nước khác ở châu Âu. Do độ mở cửa kinh tế lớn hơn nhiều so với các nước trên thế giới và trong khu vực, nên nền kinh tế Việt Nam khó tránh khỏi những tác động từ môi trường kinh tế thế giới. Để đạt được mục tiêu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội, an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), chính sách tiền tệ đã được điều hành một cách chủ động, linh hoạt, thận trọng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính
Về lãi suất:
Trong giai đoạn cuối năm 2009, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều gặp nhiều khó khăn trong huy động vốn. Trong khi đó, các tổ chức tín dụng cũng hạn chế cho vay do tốc độ tăng trưởng cả năm 2009 đã đạt 37,73% (tăng hơn 10% so với dự kiến đầu năm).
Sự khó khăn về nguồn vốn của cả ngành ngân hàng và các doanh nghiệp khiến một số dư luận cho rằng Ngân hàng Nhà nước có khả năng nâng lãi suất cơ bản khi bước vào năm 2010, qua đó giúp các ngân hàng thương mại có được biên độ rộng hơn để điều chỉnh mức lãi suất huy động cũng như cho vay.
Tuy nhiên, tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2010 diễn ra ngày 23/12 vừa qua, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho biết dù sẽ rất nỗ lực để đạt tốc độ tăng trưởng GDP 6,5% trong năm 2010 nhưng bình ổn các chỉ số vĩ mô như lạm phát, nhập siêu, chỉ số giá... vẫn sẽ là những mục tiêu hàng đầu.
Đây chính là nguyên nhân khiến Ngân hàng Nhà nước quyết định giữ nguyên mức lãi suất cơ bản 8% để theo dõi các diễn biến khác của nền kinh tế trong giai đoạn đầu năm.
Kể từ đó đến nay NHNN tiếp tục giữ ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn (8%/năm), lãi suất tái chiết khấu (6%/năm), lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (7%-8%/năm); Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 8%/năm.
Về nghiệp vụ thị trường mở:
Tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá nhằm bảo đảm khả năng thanh toán, an toàn hệ thống, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và phát tín hiệu giảm lãi suất thị trường ở mức hợp lý; Tiếp tục thực hiện hỗ trợ vốn cho các tổ chức tín dụng qua hình thức cho vay tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ.
Trong tháng 2/2010, do khó khăn thanh khoản hệ thống ngân hàng, thị trường biết đến lượng vốn mỗi ngày Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ qua thị trường mở có từ 12.000 – 15.000 tỷ đồng; nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường 2 phiên/ngày.Trong ngày 3/3 vừa qua, kết quả đấu thầu cũng lên tới 10.005 tỷ đồng qua 2 phiên.Tuy nhiên, kể từ ngày 4/3 đến nay, lượng tiền “bơm” qua thị trường mở đã giảm mạnh và hiện chỉ còn duy trì mỗi ngày 1 phiên. Cụ thể, khối lượng trúng thầu ngày 4/3 chỉ có 3.200 tỷ đồng, đến ngày 10/3 là 2.983 tỷ đồng; đặc biệt trong các ngày 11,12 và 15/3, lượng tiền chỉ còn tương ứng 796,454 và 742 tỷ đồng.
Lãi suất hình thành qua nhưng phiên đầu thầu vừa qua ổn định ở 8%/năm, bằng với lãi suất tái cấp vốn hiện hành, tập trung chủ yếu ở kỳ hạn 14 ngày. Trong những thời điểm căng thẳng về vốn khả dụng, lãi suất hình thành qua đấu thầu có thể cao hơn lãi suât tái cấp vốn. .Kết quả trên cho thấy sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, thanh khoản hệ thống ngân hàng đã dần được cải thiện. Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước trong báo cáo mới đây cũng khẳng định điều này, bên cạnh con số 30.000 tỷ đồng vốn khả dụng dư thừa được công bố.
Về dự trữ bắt buộc:
Nhằm giúp các TCTD tăng khả năng huy động vốn và thanh toán cũng như giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất có thêm nguồn cung từ nguồn vốn vay ngân hàng nhằm thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển, ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7, 14 và 28 ngày, thực hiện theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất, lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày được điều chỉnh giảm từ 7,8% - 7,5% - 7%/năm, kỳ hạn 14 ngày được điều chỉnh giảm từ 8% - 7,5%/năm và 28 ngày là 8%/năm; thực hiện cho vay tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ với các NHTM với kỳ hạn 28 ngày và 90 ngày, lãi suất hoán đổi ngoại tệ kỳ hạn 28 ngày được điều chỉnh giảm từ 8,5% - 8% - 7,5%/năm, lãi suất kỳ hạn 90 ngày được điều chỉnh giảm từ 8,5% - 8%/năm, bảo đảm khả năng thanh toán, an toàn hệ thống, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và phát tín hiệu giảm lãi suất thị trường ở mức hợp lý.
Ngày 29/9, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Cụ thể, đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên 40% tổng dư nợ được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND thấp hơn so với mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 10/2010. Đối với các tổ chức có tỷ trọng dư nợ cho vay nói trên trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 70% trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND được áp bằng 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi (theo Quyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009, với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng, không bao gồm Agribank, là 3%; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 1%). Đối với các tổ chức có tỷ trọng dư nợ cho vay nói trên trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi. Mục đích chính của thông tư trên là nhằm hỗ trợ nguồn vốn cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng (trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) thông qua công cụ điều hành chính sách tiền tệ, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Về chính sách tỷ giá:
Từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp “vượt trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD…
Các tháng đầu năm 2010: Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010
Từ giữa tháng 2/2010 đến nay : tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam so với đôla đã được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh 2 lần về biên độ và tỷ giá công bố.
Ngày 10/2, ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và USD áp dụng cho ngày 11/2/2010 là 18.544 VND/USD, tăng 603 đồng/USD (từ mức 17.941 đồng/USD) .Mục đích của việc điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng là nhằm cân đối hài hòa cung - cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô.
Đến 17/8/2010, NHNN tiếp tục thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 VND lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3% nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu. Sau khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ lên 18.932 VND/USD (ngày 18/8/2010), cung cầu ngoại tệ đã ổn định, tỷ giá trên thị trường tự do giảm và hiện đang ở mức 19.480-19.520 VND/USD. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại ở mức 19.475-19.500 VND/USD.
Mặt khác, để ổn định thị trường ngoại hối, tăng cung ngoại tệ cho các NHTM và hạn chế việc găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, NHNN đã sử dụng công cụ tiền tệ gián tiếp, khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho ngân hàng. Đồng thời với việc nâng tỷ giá danh nghĩa NHNN đã thực hiện hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp, cùng lúc NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực mua lại ngoại tệ của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, NHNN bán ngoại tệ ở mức hợp lý để hỗ trợ ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Ngoài ra, cơ quan này cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn định tỷ giá cũng như ổn định thị trường ngoại hối.
3.3. Kết quả 6 tháng đầu năm 2010:
- Tín dụng ước tăng 11,35%, tổng phương tiện thanh toán ước tăng 11,5%, phù hợp với tình hình thực tế khi nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp, ODA, và nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đang có sự cải thiện, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt mức 6,16%, tạo tiền đề quan trọng để cả năm đạt 6,5% theo mục tiêu Quốc hội đề ra.
- Lạm phát được kiềm chế ở mức 4,78% so với tháng 12-2009, góp phần khả thi đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát từ 7% - 8% trong năm 2010.
- Mặt bằng lãi suất thị trường đã có xu hướng giảm theo chỉ đạo của Chính phủ. Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất huy động giảm 1%/năm; lãi suất cho vay giảm 1%/năm. Hiện nay lãi suất huy động niêm yết phổ biến 11% - 11,2%/năm, lãi suất huy động vốn bình quân 10,6%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ của các NHTM nhà nước 12% - 12,5%/năm, các NHTM cổ phần 13%/năm; đối với các đối tượng khác, lãi suất cho vay 14% - 16%/năm. Lãi suất cho vay bình quân 6 tháng đầu năm nay là 13,4%/năm, xấp xỉ cùng kỳ năm 2007 (13,04%/năm). Trong thời gian tới, các thành viên của Hiệp hội Ngân hàng sẽ tiếp tục thực hiện từng bước lộ trình giảm lãi suất huy động VND về mức 10%/năm theo chủ trương của Chính phủ. Hoạt động của các TCTD về cơ bản an toàn, bảo đảm khả năng thanh khoản, tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức cho phép dưới 3%.
- Thị trường ngoại hối được cải thiện rõ rệt theo xu hướng ổn định về thanh khoản và tỷ giá; từ cuối tháng 3, NHNN không phải bán ngoại tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối và đã mua được ngoại tệ từ các TCTD, tâm lý của các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp và dân cư có biểu hiện tích cực, giảm lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô.
Những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã góp phần tích cực tác động phục hồi nhanh nền kinh tế nước ta. Trong 6 tháng đầu năm 2010, kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng, lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính về cơ bản ổn định, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đều diễn biến khả quan: tăng trưởng kinh tế đạt 6,16% cao hơn nhiều so với mức tăng 3,87% của cùng kỳ 2009; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%, tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tăng 26,7%; xuất khẩu tăng 17%; nhập siêu chiếm 19,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, vốn đầu tư phát triển khá nhờ vốn FDI, ODA và đầu tư gián tiếp có sự cải thiện; CPI tăng 4,78% so với cuối năm 2009. Tuy nhiên, nhập siêu và lạm phát vẫn có sức ép tăng khi nền kinh tế hồi phục. Việc giảm lãi suất thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ gặp một số khó khăn do mặt bằng lãi suất hiện nay chịu tác động của cả nhân tố làm tăng và giảm đan xen nhau, lãi suất huy động đang giảm dần phù hợp với điều kiện thực tế của các tổ chức tín dụng
Phần III: Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1.Một số kiến nghị về điều hành CSTT những tháng cuối năm 2010
- Tỷ giá linh hoạt, đảm bảo cân bằng
Với dự báo nửa cuối năm 2010, diễn biến tiền tệ thế giới vẫn phức tạp ( nhất là các đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam), dự báo về cán cân thanh toán của Việt Nam ( nhất là cán cân thương mại vẫn thâm hụt đáng kể) thì NHNN sẽ thực hiện điều hành các CSTT theo khuynh hướng linh hoạt hơn, đảm bảo thị trường không bị đình đốn trong khi vẫn khuyến khích xuất khẩu và không làm tăng quá mức gánh nặng nợ lên các doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ
Điều hành theo khuynh hướng khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu đồng thời buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải cân nhắc việc sử dụng ngoại tệ, qua đó hỗ trợ kiểm soát nhập siêu
NHNN nên điều chỉnh tỷ giá sát với kỳ vọng tỷ giá của thị trường và tiếp tục quy định trần lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, lợi ích của việc nắm giữ USD đã giảm, do vậy, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã phần nào được giải tỏa, thúc đẩy các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ ra thị trường ( hiện nay ngoại tệ trong dân vẫn còn nhiều), qua đó giúp các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với ngoại tệ, tăng cường tính thanh khoản trên thị trường ngoại hối.
Trước những diễn biến mới trên thế giới, trong quá trình hồi phục còn tiềm ẩn nhiều rủi ro điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam phải kịp thời tránh tình trạng bị động gây ra các cú sốc cho nền kinh tế để giải quyết những bất cập trên thị trường, nhằm kích thích nguồn cung ngoại tệ phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện nguồn dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, việc này sẽ tạo áp lực kép lên tình hình lạm phát nếu không có những biện pháp xử lý kịp thời. Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở trong tình trạng nhập siêu, vì thế việc giảm giá của đồng Việt Nam mặc dù tốt cho xuất khẩu nhưng lại ảnh hưởng tớ hoạt động nhập khẩu
- Bảo đảm tính thanh khoản cho các ngân hàng
NHNN tiếp tục kế hoạch hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD: Một mặt, NHNN chỉ đạo các NHTM chỉ sử dụng vốn liên ngân hàng để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo thanh khoản, tiếp tục hỗ trợ vốn cho thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý khi thừa thanh khoản. Mặt khác, NHNN cũng tăng cường hỗ trợ cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở,hạn mức tái cấp vốn…
- Cung ứng tiền hợp lý
NHNN đã phát đi thông điệp và nhấn mạnh rằng năm tới sẽ tập trung điều hành cung ứng tiền mặt một cách chặt chẽ cùng với việc kiềm soát chặt tăng trưởng tín dụng đó là định hướng CSTT phù hợp trong điều kiện chỉ số CPI đang có chiều hướng đi lên.
Hướng dòng vốn cho khu vực sản xuất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức. Khi dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay, hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng đắn, tình trạng bong bóng ( chứng khoán, nhà đất,…vàng) sẽ giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm bớt tình trạng đầu cơ thái quá trong nền kinh tế ( như sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ, các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất,..)
Khi Chính phủ kiên quyết giảm thiểu tình trạng đầu cơ quá mức thì chắc chắn tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân hàng nói riêng sẽ giảm. Khi đó thị trường tiền tệ và ngoại hối ( mà cụ thể là lãi suất và tỷ giá) sẽ ổn định
- Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng
Theo định hướng của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP Việt Nam phải đạt 3.000 tỷ VND vốn điều lẹ. Cùng với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt động trong thời gian qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý rủi ro lãi suất). Trên phương diện quản lý ( cả vĩ mô và vi mô), định hướng cho năm 2010, các NHTM này cần chứng tỏ rằng NHTM vốn càng lớn, quy mô càng lớn thì vấn đề về quản trị, quản lý cũng được nâng cao và mạnh tương ứng. Khi các vấn đề về quản lý ở các NHTM (khu vực vi mô) này tốt, chắc chắn CSTT của NHNN ( vĩ mô) sẽ hiệu quả hơn nhiều
- Cải cách luật phù hợp với tình hình mới về tiền tệ và ngân hàng
Các luật ngân hàng rõ ràng cũng đang cần được cải cách phù hợp với tình hình mới khi thị trường tài chính Việt Nam đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn cuối những năm 1990 rất nhiều. Trong đó, có vấn đề đáng quan tâm như: có hay không có “lãi suất cơ bản”; NHTM được kinh doanh/ cho vay chứng khoán, kinh doanh/ cho vay bất động sản hay vàng… đang được xã hội mong đợi một định hướng rõ ràng. Khi định hướng luật rõ ràng, dễ dự đoán, thị trường tiền tệ sẽ ổn định
2. Một số đề xuất hoàn thiện hóa công cụ chính sách tiền tệ
2.1. Lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động bổ sung
Các chỉ tiêu được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động chịu tác động trực tiếp của các công cụ CSTT và phản ánh tức thời những thay đổi của tình trạng CSTT. Một chỉ tiêu được lựa chọn đúng và thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn sẽ là căn cứ chính xác để điều chỉnh chiều hướng cũng như liều lượng tác động của CSTT hàng ngày. Đây là yêu cầu quan trọng nhất cho cơ chế tác động gián tiếp của CSTT. Việc lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động bổ sung dựa vào các căn cứ sau:
Thứ nhất, NHNN không hoàn toàn độc lập trong việc chi phối các kênh cung ứng tiền tệ cơ sở. Nguyên nhân của sự biến động khối tiền MB nằm ở bản chất biến động thường xuyên của số dư tiền gửi NSNN và yêu cầu điều chỉnh tỷ giá mà NHTW không kiểm soát được. Các khoản thu, chi thường xuyên của chính phủ tác động đến quá trình vận hành CSTT hàng ngày và chi phối khả năng kiểm soát khối tiền cơ sở của NHNN. Riêng đối với Việt Nam, sự chi phối quá mạnh của yêu cầu tăng dự trữ ngoại tệ cũng như áp lực của tình trạng nhập siêu hầu như triệt tiêu khả năng kiểm soát chủ động lượng tiền MB của NHNN
Thứ hai, lãi suất liên ngân hàng thời gian qua bắt đầu phản ánh quan hệ cũng cầu của thị trường và biến động tuân thủ các điều kiện khách quan của nó, nhất là sau khi chính sách lãi suất được tự do hóa. Những biến động của lãi suất liên ngân hàng từ năm 2005 đến nay thực chất đã phản ánh khá chính xác cung cầu thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, có thể thấy lượng MB mà NHNN bơm ra hay rút vào là kết quả của việc điều tiết bị động chứ không phải là mục tiêu điều tiết chủ động của NHNN. Thực tế này có thể nhín thấy qua mức biến động của lãi suất trúng thầu nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2006 đến nay
Thứ tư, khả năng điều tiết thị trường liên ngân hàng qua kênh nghiệp vụ thị trường mở của NHNN đã được cải thiện đáng kể .
Đảm bảo một hệ thống NHTM lành mạnh
NHTM Việt Nam thực sự đang trong tình trạng “ mở” với hầu hết các rủi ro, đặc biệt là rủi ro thị trường. Điều này xuất phát từ thực trạng chênh lệch kỳ hạn bảng cân đối, từ tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng lớn, từ cơ cấu dư nợ tín dụng chứa đựng các khoản mục đầu tư rủi ro và khó thu hồi, công cụ cạnh tranh chủ yếu là lãi suất… Với đặc điểm này, hệ thống NHTM khó có thể phản ứng tích cực với những điều chỉnh của chính sách tiền tệ đặc biệt là chính sách tiền tệ thắt chặt. Tình trạng thanh khoản đẩy mặt bằng lãi suất ngân hàng lên cao quá mức ( tiêu biểu như năm 2008) đã buộc NHNN phải điều chỉnh lại liều lượng điều tiết tiền tệ và ảnh hưởng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát. Thực trạng hiện nay của hệ thống NHTM là hậu quả của quá trình buông lỏng hoạt động thanh gia giám sát ngân hàng trong nhiều năm qua của cả NHNN cũng như hoạt động kiểm soát, kiểm soát nội bộ các NHTM trong khi cơ chế giám sát thường xuyên của thị trường chưa hình thành. Để đảm bảo một hệ thống NHTM hoạt động lành mạnh, có khả năng chuyển tải các tác động của NHNN tới nền kinh tế, những vấn đề cần tập trung trước mắt:
Thứ nhất, giám sát chặt chẽ và yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn đã quy định: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn mở rộng tin dụng, quy trình tín dụng cà thẩm định tín dụng, giới hạn cho vay đầu tư chứng khoán và bất động sản. Kiểm soát chặt yêu cầu mở thêm chi nhánh.
Thứ hai, rà soát lại các ngân hàng mới thành lập theo các tiêu chí đảm bảo an toàn, và những tiêu chuẩn về nguồn nhân lực, màng lưới, năng lực áp dụng công nghệ và đa dạng hóa dịch vụ. Trên thực tế, các NH mới thành lập khả năng huy động vốn khó khăn trong khi lợi nhuận phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng mở rộng tín dụng chính là một trong các lý do đẩy các NH này phải vay vốn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao cho nhu cầu tín dụng ( vào thời điểm quý I/2008 có NH sử dụng tới 80% nguồn vốn liên NH để cho vay). Tình trạng này góp phần làm căng thẳng thêm sự mất cân đối cung cầu vốn của hệ thống và ảnh hưởng tới liều lượng cũng như hiệu lực điều tiết của CSTT
2.3. Xác định công bố tỷ giá thực
Tỷ giá thực phản ánh sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Khi tỷ giá danh nghĩa thay đổi không nhất thiết tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Các nước luôn xác định và công bố tỷ giá thực để biết sự tác động của tỷ giá đến xuất nhập khẩu ròng, đến tổng cầu và tăng trưởng kinh tế
Thực tế ở Việt Nam cũng cho thấy xuất khẩu ròng phần nào chịu ảnh hưởng của tỷ giá thực chứ không phải tỷ giá danh nghĩa.
2.4.Nới lỏng biên độ dao động tiến tới xóa bỏ biên độ đối với tỷ giá giao ngay
Cơ chế tỷ giá mà Việt Nam đang áp dụng là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết không công bố trước tỷ giá. Bản chất của cơ chế này là tỷ giá được hình thành trên thị trường ngoại hối và NHNN can thiệp vào thị trường để điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết chứ không cần quy định biên độ dao động. Song trước mắt, có thể quy định một biên độ nhất định nhưng không quá hẹp.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc chúng ta thấy, cơ chế tỷ giá của Việt Nam hiện nay là cơ chế tỷ giá mà Hàn Quốc áp dụng từ năm 1990 khi Hàn Quốc chuyển sang cơ chế tỷ giá bình quân thị trường. Thời kỳ đầu Hàn Quốc cũng quy định một biên độ hẹp là ±0,4%, sau đó biên độ này được mở rộng dần và đến năm 2000, biên độ này đã được xóa bỏ, tỷ giá đồng Won được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu ngoại tệ
Cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý là cơ chế tỷ giá khá linh hoạt. Các nước áp dụng cơ chế tỷ giá này càng nhiều với biên độ dao động rộng hoặc không quy định biên độ, Mỹ đã thực hiện thả nổi tự do từ năm 1973.
2.5. Hoàn thiện, phát triển thị trường ngoại hối trước hết là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Với giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá trong thời gian tới, tỷ giá do NHNN công bố được xác định trên thị trường ngoại hối mà cụ thể là trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Do vậy giải pháp cần thực hiện là hoàn thiện, phát triển thị trường ngoại hối trước hết là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở Việt Nam cần phải thực hiện một số giải pháp:
Mở rộng số thành viên tham gia thường xuyên vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: hiện nay số thành viên tham gia tích cực vào thị trường còn hạn chế. Nhiều NHTM là thành viên nhưng thường xuyên đứng ngoài cuộc, không tham gia vào thị trường, do đó tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường
Phối hợp một cách có hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường nội tệ liên ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở để NHNN thực hiện các can thiệp vô hiệu hóa khi cần thiết, bơm hoặc rút tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực đối với lạm phát khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng.
KẾT LUẬN
N
hư vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trưởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM… và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau
Tài liệu tham khảo
TS Tô Kim Ngọc, Giáo Trình Tiền Tệ Ngân hàng
TS Tô Kim Ngọc- TS Lê Tuấn Nghĩa, Điều hành Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
www.mof.gov.vn
www.sbv.gov.vn
www.thanhnien.com.vn
www.imf.com
…………..
Phụ lục số 1
Hệ thống mục tiêu trung gian ở các nước thị trường mới nổi
Tên nước
Chỉ tiêu chính
Chỉ tiêu bổ sung
1/ Ấn Độ
2/ Indonexia
3/Hàn Quốc
4/ Singapore
5/ Brazil
6/ Thái Lan
7/Mexico
M3
M1,M2, tín dụng
M3
Biên độ tỷ giá
MB, M1, M4
M2
MB
Lãi suất, tỷ giá, tín dụng
Lãi suất
M2,MTC
Lãi suất
Lãi suất, M1, M2, tín dụng
Tỷ giá, lạm phát dự kiến
Phụ lục số 2
Hệ thống mục tiêu hoạt động ở các nước thị trường mới nổi
Tên nước
Chỉ tiêu chính
Chỉ tiêu bổ sung
1/ Ấn Độ
2/ Indonexia
3/ Hàn Quốc
4/ Singapore
5/ Brazil
6/ Thái Lan
7/ Mexico
Dự trữ ngân hàng
Tiền mặt và dự trữ ngân hàng
Dự trữ ngân hàng và lãi suất cho vay qua đêm
Tỷ giá
Lãi suất repo qua đêm
MB
Tổng dự trữ NH
Lãi suất ngân hàng, lãi suất repo 3-14 ngày
Lãi suất liên ngân hàng
Tỷ giá
Lãi suất liên ngân hàng
Lãi suất liên ngân hàng,lãi suất qua đêm, lãi suất repo 1 tháng, tỷ giá
Phụ lục 3 :
Công cụ chính sách tiền tệ của NHTW Nhật Bản
Cung ứng vốn
Các công cụ
Thời hạn Tối đa
Thời hạn Thực tế
Tài sản thích hợp được mua/bán
Mua hẳn TPCP
-
-
TPCP ( 2,4,5,6,10,20 năm )
Mua hẳn TPKB/ TP tài chính
-
-
TPKB/ TP tài chính
Mua tín phiếu NHTW: Tại trụ sở chính và chi nhánh)
1 năm
1 năm
1-6 tháng
2-8 tháng
Tín phiếu được bảo đảm bằng tài sản thích hợp
Mua kèm thỏa thuận mua lại thương phiếu
3 tháng
1-2 tháng
Thương phiếu phù hợp
Mua kèm thỏa thuận mua lại CK của CP
1 năm
1-2 tháng
TPCP/TPKB/TP tài chính
Thu hút vốn
Bán hẳn TPKB/ TP tài chính
-
-
TPKB/TP tài chính do BOJ nắm giữ
Bán tín phiếu NHTW
3 tháng
1-2 tuần
Tín phiếu do BOJ phát hành
Bán CK của CP kèm theo thỏa thuận mua lại
6 tháng
1-2 tuần
TPCP/ TPKB?TP tài chính do BOJ nắm giữ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước từ năm 2007 đến nay.doc