Hơn nữa, theo giới phân tích, nạn thất nghiệp gia tăng trên toàn bộ 17 nước thành viên
Eurozone là bằng chứng cho thấy, các biện pháp khắc khổ với hy vọng giảm bớt nợ công và bội
chi ngân sách không phải là "liều thuốc" thích hợp cho khu vực này vào thời điểm hiện nay, khi
sức tiêu thụ của tư nhân đi xuống, khủng hoảng niềm tin của các nhà đầu tư đẩy các hoạt động
của khu vực sản xuất càng xuống thấp trong năm qua.
Theo giáo sư kinh tế Jacques Sapir, Giá m đốc trường Cao đẳng Khoa học Xã hội
(EHESSP Paris), thất nghiệp đang trở thành một vấn đề cấp bách không kém gì so với cuộc
khủng hoảng nợ công của Eurozone. Trong khi đó, trước mắt các quốc gia Eurozone không có
mấy hy vọng giải quyết được vấn đề này trong nay mai.
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4252 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoảng nợ công Châu Âu ....................................................23
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 1
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO
1.1. Bước tiến trên đường đến Châu Âu hợp nhất
Nhằm mở rộng các tiến trình liên kết, hợp tác giữa các nước thành viên và các dân tộc, EU
đã và đang thực hiện các biện pháp sau:
Tạo ra tiến bộ về kinh tế - xã hội cân đối thông qua một không gian không biên giới bên
trong và thúc đẩy nền kinh tế thị trường cởi mở, tự do cạnh tranh.
Thực hiện chính sách đối ngoại và an ninh chung, dần tiến tới một chính sách quốc phòng
chung. Đến thời điểm chín muồi, chính sách này sẽ dẫn đến một nền quốc phòng chung.
Bảo vệ các quyền về lợi ích của kiều dân các nước thành viên bằng việc cho ra quốc tịch
liên bang.
Nỗ lực thống nhất Châu Âu được thể hiện tại cuộc họp thượng đỉnh các nước thuộc EU ở
Maastricht (tháng 12/1991) với Hiệp Ước được thông qua về thống nhất EU, về việc thành lập
EMU và Liên Minh Chính Trị (EPU) nhằm làm cho Châu Âu thay đổi mạnh vào năm 2000 với
một nền văn minh mới. Ngày 2/10/1997 tại Amsterdam (Hà Lan) ngoại trưởng các nước EU đã
ký chính thức bản Dự thảo hiệp định đã được các nhà lãnh đạo cao cấp EU thông qua tại cuộc
họp lần thứ 57 (tháng 6/1997).
Hiệp Định Amsterdam có các sửa đổi quan trọng, là sự nối tiếp và bổ sung cho Hiệp Ước
Maastricht về thành lập EU cùng các cải tổ sâu sắc hệ thống thể chế của EU để tăng cường hơn
nữa liên kết giữa các nước thành viên, đưa tiến trình liên kết lên một mức mới cao hơn trên mọi
lĩnh vực trong bối cảnh EU sẽ tiếp tục mở rộng số nước thành viên lên tới 25 nước trong những
thập niên đầu thế kỷ 21. EU tập trung thiết lập ba vành đai kinh tế: các nước trong Cộng Đồng
Châu Âu là hạt nhân (15 nước EU hiện tại làm trung tâm), Hiệp Hội Thương Mại Tự Do Châu
Âu (EFTA) là vành đai thứ hai, một số nước Đông Âu là vành đai thứ ba.
Đầu năm 1998, EU đã kết nạp thêm 6 nước thành viên mới: Hungary, Ba Lan, Cộng hòa
Czech, Estonia, Slovenia và Chypres.
Sau 40 năm đàm phán, kể từ khi nguyên thủ của các quốc gia Châu Âu ký Hiệp Ước
Roma năm 1957, cuối cùng Liên Minh Tiền Tệ Châu Âu (EMU) đã chính thức hoạt động vào
ngày 1/1/1999, 11 nước tham gia vào EMU đồng ý chuyển giao các chính sách đồng tiền riêng
rẽ của từng nước cho một tổ chức thống nhất mới là Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu (ECB)
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 2
và đồng Euro được chính thức sử dụng để trao đổi và mua bán hàng hóa, dịch vụ. Từ tháng
1/2000 Hy Lạp là thành viên thứ 12 gia nhập vào khu vực EMU.
1.2. Tiến trình thay thế đồng bản tệ bằng đồng Euro
Từ 1/1/1999, hệ thống tài chính Châu Âu sẽ bắt đầu được thay đổi hoàn toàn. Thời gian
đầu chỉ có giao dịch chính thức mới sử dụng Euro, sau đó các giao dịch thương mại sẽ dần dần
sử dụng đồng Euro. Cũng vào đầu năm 1999, hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia thành viên sẽ
được cố định theo yêu cầu của tình hình chuyển đổi tiền tệ. Tuy nhiên đồng Euro giấy cũng như
đồng Euro kim loại sẽ chưa thay thế hẳn các đồng tiền quốc gia trong sinh hoạt hàng ngày của
mỗi nước cho tới tận năm 2002. Từ ngày 1/1/2002, đồng Euro được chính thức đưa vào lưu
thông. Khoảng 60 tỷ đồng Euro tiền giấy và 37 tỷ đồng kim loại đã được phát hành trên khắp 12
nước thuộc khu vực EMU, thay thế dần các đồng tiền quốc gia. Các ngân hàng đảm nhận vai trò
chính trong tiến trình chuyển đổi.
Về mặt kỹ thuật, Euro được đưa vào sử dụng ngày 1/1/1999, nhưng thực tế cho đến thứ
hai ngày 4/1/2001, các giao dịch bằng đồng Euro không phải bằng tiền mặt mới bắt đầu được
tiến hành. Tất cả các giao dịch bằng tiền mặt vẫn tiếp tục sử dụng bằng đồng tiền riêng của các
quốc gia Châu Âu tới ngày 1/1/2002, khi các đồng tiền Euro giấy và kim loại được lưu hành.
Trong vòng 6 tháng chuyển tiếp và kết thúc vào 30/6/2002, đồng Euro vẫn được sử dụng song
hành với các đồng tiền riêng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên các đồng tiền riêng chỉ được coi là
một biểu hiện khác của đồng Euro. Kể từ ngày 1/7/2002 các đồng tiền bản tệ của 12 nước thành
viên EMU sẽ kết thúc lịch sử tồn tại của mình, rút ra khỏi lưu thông và nhường chỗ cho đồng
Euro trở thành đồng tiền duy nhất lưu hành hợp pháp.
Tài S n C a Tư Nhân Trên Th Gi i
40
23
25
12
USD
Các đ ng ti n
khác
Euro
Yen
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 3
D Tr Ngo i T Qu c T
60
14
20
6
USD
Các đ ng ti n
khác
Euro
Yen
Ngay từ đầu năm 1999, khách hàng và các doanh nhân có thể mở các tài khoản ngân hàng,
ghi “séc” và vay tiền bằng đồng Euro. Các du lịch có thể mua các séc du lịch bằng đồng Euro.
Cổ phiếu và trái phiếu ghi mệnh giá bằng Euro. EMI là chữ viết tắt của European Economics
and Monetary Union (Liên Minh Kinh Tế và Tiền Tệ Châu Âu), đây là tên chính thức của một
hệ thống mà theo đó các quốc gia thành viên sẽ cùng có chính sách tiền tệ chung. Việc thành lập
liên minh này đã được thảo luận từ hàng thập niên nay. Vào năm 1992, các nước thuộc EU đã
ký Hiệp Ước Maastricht để thành lập đồng tiền chung và thiết lập các tiêu chuẩn mà các quốc
gia cần phải đáp ứng, nếu họ muốn trở thành thành viên EMU.
Để tiến hành hoạt động của EMU, một tổ chức có tên gọi ECB (Ngân Hàng Chung Châu
Âu) có trụ sở ở Franfurt (Đức) ECB sẽ ấn định lãi suất và điều hành các chính sách tiền tệ của
12 quốc gia thành viên. ECB có chức năng gần giống như ngân hàng Dự Trữ Liên Bang Mỹ
(Federal Reserve), tức hình thức ngân hàng trung ương, như:
Phải lựa chọn được chính sách phù hợp cho sự phát triển kinh tế của các nước Châu Âu.
Phải đảm bảo rằng Chính phủ các nước thành viên tuân thủ các chính sách tài chính đã
thỏa thuận, phải giành được sự tin tưởng ở công chúng.
Phải bảo vệ được sự độc lập chính trị đối với các nước thành viên muốn sử dụng chính
sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển kinh tế nước mình. ECB cũng còn phải thực hiện các hoạt
động trao đổi hối đoái, quản lý các quỹ dự trữ chính thức của Châu Âu và thúc đẩy hoạt động
của hệ thống thanh toán được diễn ra suôn sẻ.
Vai trò của đồng Euro
Sự ra đời của đồng Euro mang lại những lợi ích sau:
Giảm chi phí sản xuất và lưu thông (giảm dịch vụ phí chuyển đổi ngoại tệ và phí bảo hiểm
rủi ro ngoại tệ).
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 4
Khả năng đảm bảo tính trong sáng tối đa của giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ vì có thể
dễ dàng so sánh mặt bằng giá cả của các nước thành viên.
Tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các ngân
hàng với nhau.
Khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu qua biên giới, cung cấp những nguồn tín
dụng cho hoạt động thương mại, d ịch vụ qua biên giới.
Ngoài ra sự ra đời của đồng Euro sẽ làm cho hoạt động tài chính và thương mại của thế
giới ít lệ thuộc hơn vào đồng đô la Mỹ. Vì hiện nay gần 50% trị giá xuất nhập khẩu của thế giới
thanh toán qua đồng USD và USD chiếm 40% khối lượng buôn bán ngoại tệ, các đồng tiền
Châu Á chiếm 35% và đồng Yên Nhật chiếm 10%. Năm 1996 tổng vốn đầu tư của tư nhân trên
thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng USD 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật
chiếm 12%. Theo các tài liệu của ngân hàng thanh toán quốc tế, phần vay bằng đô la Mỹ của
các ngân hàng trên thị trường quốc tế chiếm 30% và bằng Yên Nhật chiếm 13%, còn phần tiền
gửi ngoại tệ tương ứng là 43%, 34% và 8%.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, dự trữ ngoại tệ của thế giới ở đồng
EURO liên tục gia tăng: năm 2001 là 13%; 2002 là 16,4%; 2003 là 18,7%; tháng 9/2007 là
26,4%.
Tóm lại, sự ra đời của đồng Euro làm thay đổi cục diện các đồng tiền mạnh trên thế giới.
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐỐI VỚI KINH TẾ CÁC NƯỚC EU
Các người đứng đầu chính phủ các nước EU đã chính thức làm lễ khai sanh đồng Euro
khi long trọng khẳng định có 11 nước tham gia (hiện là 18) đồng tiền này, đồng thời xác định cơ
chế tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia so với đồng Euro.
Các nước tham gia đồng tiền chung này được gọi là những nước thuộc “Euroland” (Khu
vực đồng Euro), lúc đầu gồm 11 nước. Đức, Pháp, Ý, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Áo, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, và Phần Lan. Còn được gọi là nhóm EU11 và hiện nay là EU12. Kể
từ khi khu vực đồng Euro ra đời, bất chấp sự khủng hoảng nền kinh tế thế giới, đặc biệt là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và ở Nga, sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền các
nước thuộc EU ở mức không đáng kể. Khu vực đồng Euro là 1 trung tâm kinh tế của thế giới,
chiếm 19,4% GDP toàn thế giới (trong khi đó của Mỹ là 19,6% và Nhật Bản là 7,7%) và 20%
kim ngạch buôn bán thế giới (so với 16% của Mỹ và 10% của Nhật).
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 5
2.1. Lợi thế
Việc xây dựng thành công khu vực đồng Euro sẽ mang lại cho các nước trong khu vực
nhiều lợi thế:
Việc 11 nước ban đầu tham gia EMU – Liên minh tiền tệ Châu Âu hình thành một thị
trường rộng lớn trên thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ phát triển kinh
tế cao. Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ
hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với Mỹ. Đồng thời
sẽ tăng cường sức mạnh kinh tế quốc tế của khu vực đồng Euro, đảm bảo cho khu vực này ít bị
tác động bởi các biến động tài chính, tiền tệ quốc tế, như cơn bão tài chính năm 1997 ở Châu Á.
ECB có năng lực lớn hơn nhiều so với từng nước EU riêng lẻ trong việc kiềm chế lạm
phát, chủ động ấn định lãi suất, do đó sự ổn định giá cả trong khu vực đồng Euro, tạo điều kiện
thuận lợi trong kinh doanh.
EMU và đồng Euro ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu
Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần
hoàn thiện thị trường chung châu Âu. Sự ra đời của đồng Euro sẽ giúp cho các nước thành viên
tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia cũng như việc các nhà đầu
cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của toàn khối.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB), với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ
sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch
định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu
vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi
nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế.
Hơn nữa, khi đồng Euro được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hóa bày bán trong các nước
thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng Euro nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền
phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia. Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến
khoảng 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện
đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự dao động tỷ giá
của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 6
khác lại lên giá. Cuối cùng sự ổn định của khu vực đồng Euro tạo nên sức thu hút tư bản nước
ngoài đầu tư vào khu vực này.
2.2. Hạn chế
Trên thực tế, các nền kinh tế EU khó có thể tăng trưởng đồng đều. Một biến động nào đó ở
từng nước hoặc trên thế giới sẽ có tác động khác nhau đến động thái của từng nước. Lúc đó một
chính sách tiền tệ chung có thể là quá nới lỏng với nước này, nhưng lại quá khắt khe với một
nước khác.
Lãi suất do ECB đề ra có thể sẽ quá thấp để hạn chế lạm phát ở một số nước đang tăng
trưởng mạnh, nhưng lại quá cao để kích thích tăng trưởng ở các nước kinh tế đang suy giảm.
Như vậy việc thi hành một chính sách tiền tệ chung thích hợp cho tất cả nước thành viên vẫn
còn nhiều hạn chế.
Việc ra đời đồng tiền chung có tác dụng tăng cường sự cạnh tranh khu vực, từ đó sẽ thúc
đẩy sự phát triển phân cực giữa các nước. Cho đến nay, EU vẫn chưa giải quyết được triệt để sự
phân hóa về trình độ phát triển giữa Bắc và Nam của Ý, giữa Đông và Tây Đức, giữa các vùng
ở Pháp vẫn còn rất lớn. Trong một quốc gia đã khó giải quyết, vấn đề phát triển phân cực giữa
các nước lại càng khó hơn. Để có sự thống nhất của 15 thành viên trước đây và 25 thành viên
hôm nay (2006) vốn có các hoàn cảnh, điều kiện và các mối quan hệ khác nhau thực không dễ.
Vấn đề đặt ra đối với việc cải cách sắp tới của EU là các nước phải tìm các biện pháp hữu hiệu
để dung hòa lợi ích của từng quốc gia thành viên, vừa đảm bảo sự phát triển của EU vừa giữ
được bản sắc riêng về kinh tế, chính trị, văn hóa,… Dù sao các thành công của EU đã và sẽ là
các đóng góp lớn đối với sự phát triển của nhân loại.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 7
3. CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU
3.1 Khái niệm nợ công
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng giá
trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ
cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách
luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP)”1.
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay
trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên,
chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính
quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), WB...
3.2 Hiện trạng nợ của châu Âu
Sau khi vấn đề nợ công của Mỹ tạm lắng, tài chính thế giới tiếp tục nhức nhối với khủng
hoảng nợ tại châu Âu và sự mất giá mạnh của đồng Euro.
1
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 8
Nguồn: Guim.co.uk
Đến thời điểm 2010, so với nợ công của Mỹ là 93.6% GDP, Nhật Bản là 197% GDP (cao
nhất thế giới), thì của khối liên minh Châu Âu (EU) là 80.3%, trong đó có những quốc gia mang
nợ khủng như Hy Lạp (125% GDP), Italy (117% GDP) và Ireland (82,6% GDP).
Tình hình các quốc gia đầu tàu của khu vực Eurozone:
Đức: Nền kinh tế lớn nhất Eurozone này đã gần như đình trệ trong quý khi chỉ tăng
trưởng 0,1% khiến cho việc giải quyết khủng hoảng nợ công châu Âu không mấy khả quan.
Tổng nợ công của Đức là 2000 tỷ Euro, chiếm 82%GDP.Pháp : Nền kinh tế lớn thứ 2 của khu
vực Eurozone, nhưng tốc độ tăng trưởng trong quý 2 là 0%. Nợ Pháp dự kiến sẽ đạt mức 85,3%
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 9
GDP năm nay. Đây là con số cao nhất trong số những quốc gia châu Âu có hạng mức tín nhiệm
AAA.Mặc dù Pháp có nhiều tập đoàn nổi tiếng thế giới như LVMH Moët Hennessey Louis
Vuitton, L’Oréal, Renault và Danone, nhưng nền kinh tế lại tăng trưởng chậm so với mức dự
báo. Thất nghiệp đang ở mức khoảng 9%. Ngày 10.8, cổ phiếu của ngân hàng Pháp như Société
Générale, BNP Paribas sụt giảm mạnh do lo ngại Pháp sẽ bị hạ mức t ín nhiệm AAA. Lý do là
các ngân hàng này nắm giữ rất nhiều trái phiếu của Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha và một lượng trái
phiếu khổng lồ của Pháp.
Tăng trưởng kinh tế quý I/2010 tại châu Âu. (Nguồn: BBC)
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 10
3.3 Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
“Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng bị phóng đại bởi một số quỹ
đầu tư có ý đồ xấu trên thị trường vốn quốc tế và các phương tiện truyền thông.
Mục đích của ý đồ này chính là:
Thứ nhất, muốn chống lại đồng EUR, tạo ra một sự bất ổn kinh tế cho toàn bộ nền kinh
tế châu Âu; Hai là muốn xoay chuyển đồng USD theo chiều hướng suy yếu trên thị trường tài
chính quốc tế, nhằm bảo vệ ngôi vị bá chủ tiền tệ thế giới của đồng Mỹ kim.
Trong thế giới hiện tại, đồng EUR có ảnh hưởng ngày càng lớn, dần dần gây nên mối đe
dọa trực tiếp cho ngôi vị bá chủ của đồng USD trong lĩnh vực tài chính. Do đó, việc chống lại
đồng EUR, chắc chắn sẽ giúp nâng cao được vị trí mạnh mẽ của đồng Mỹ kim. Nếu đồng EUR
sụp đổ, không chỉ có thể xóa bỏ hoàn toàn mối đe dọa của đồng EUR đối với ngôi vị bá chủ của
đồng USD, mà còn có thể ngăn chặn nền kinh tế châu Âu thách thức nền kinh tế Mỹ. Cho dù
không thể hủy hoại đồng EUR, hình thái theo chiều hướng đi lên phá vỡ đồng EUR sẽ có lợi
chứ không hề có hại cho đồng USD. Cho nên, trong khi hành động chống lại đồng EUR, các
quỹ đầu tư và các phương tiện truyền thông mà họ khống chế đã phóng đại tính nghiêm trọng
của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu trên thị trường vốn quốc tế, nhằm mục đích không chỉ tạo ra
tâm lý khủng hoảng cho thị trường, dọa các nhà đầu tư bán tháo đồng EUR trong tay họ, mà còn
tạo điều kiện môi trường thị trường cần thiết để họ giành được thắng lợi trong các hoạt động
đầu tư trên thị trường vốn quốc tế, hành động này cũng đã gia tăng thêm động lực đẩy đồng
EUR sụt giảm nhanh chóng.
Có thể nói khủng hoảng nợ châu Âu là một âm mưu để "mưu sát" đồng EUR, bởi vì
chúng ta có thể tìm ra bằng chứng từ việc Ngân hàng Goldman Sachs bắt đầu giúp chính phủ
Hy Lạp và ban quản lý tài chính hoạch định mô hình phát hành chứng khoán thế chấp bằng
đồng EUR. Goldman Sachs đã nhử Hy Lạp rơi vào một cái bẫy nợ, trong một thời gian dài đã
che giấu sự thật với các cơ quan quản lý tài chính của Liên minh châu Âu (EU), hình thành nên
cuộc khủng hoảng nợ, từ đó buộc phải cầu cứu viện trợ từ bên ngoài. Đồng thời, các tập đoàn
tài chính của Mỹ đã lợi dụng cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp, một mặt thông qua một nhóm do
mình khống chế, phóng đại tính nghiêm trọng của khủng hoảng nợ tại các nước châu Âu, mặt
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 11
khác đợi đến lúc thích hợp nhờ các cơ quan xếp hạng tín dụng quốc tế đánh tụt xếp hạng tín
dụng nợ của một số nước, gia tăng thêm sự sụp đổ tín dụng nợ của các nước, cố để hình thành
một cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu mới được diễn biến từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu,
thậm chí còn gây ra một sụp đổ của đồng EUR.
Nếu so sánh tình hình khủng hoảng nợ của “5 quốc gia Nam Âu – PIIGS” vào phạm vi
toàn cầu có thể thấy rõ, mức độ của cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu vẫn còn khá nhẹ. Hy Lạp
- quốc gia được đánh giá có mức độ vay nợ nghiêm trọng nhất, nhưng nếu so với Mỹ về mức độ
thâm hụt tài chính thì Hy Lạp vẫn nhẹ hơn rất nhiều. Lượng phát hành trái phiếu Mỹ đã vượt
ngưỡng 13000 tỷ USD, đạt tới hơn 90% GDP của quốc gia này. Còn quy mô trái phiếu chính
phủ Nhật Bản cũng đã lên tới 229%, là quốc gia nguy hiểm nhất trong cuộc khủng hoảng nợ thế
giới, gấp đôi so với số trái phiếu chính phủ Hy Lạp chiếm xấp xỉ 120% GDP. Nhưng Standard
& Poors, Moodys, Fitch – ba cơ quan xếp hạng tín dụng có quyền lực lớn nhất hiện nay lại chưa
bao giờ đưa ra bất kỳ một sự cảnh báo nào ra ngoài thế giới về nợ công và thâm hụt ngân sách
của Mỹ, Nhật Bản. Bởi vì ba cơ quan đánh giá tín dụng này nằm trong tay kiểm soát bởi các
nhóm tài chính lớn của Mỹ.
Một bằng chứng rõ ràng nữa cho vấn đề này chính là việc các chuyên gia kinh tế khẳng
định đồng đôla Mỹ (USD) không những không cáo chung mà đang tiếp tục giữ vị trí quan trọng
trong rổ các ngoại tệ mạnh nhất thế giới, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa
qua. Tình thế hiện nay tạo cho đồng USD vị thế cao trong rổ ngoại tệ mạnh toàn cầu, đặc biệt
trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ trong năm 2011 nhanh gấp 3 lần kinh tế Anh,
Nhật Bản và khu vực đồng euro. Lãi suất ở các nền kinh tế phát triển mới đây đã tăng cao
nhưng không tác động đến đồng USD.
Tuy nhiên, châu Âu suy cho cùng vẫn là một khu vực có chủ nghĩa tư bản lâu đời nhất,
thị trường vốn phát triển, khả năng kiểm soát rủi ro tài chính mạnh hơn Mỹ, trật tự tài chính
càng chuẩn mực hơn, càng không có nhiều sản phẩm tài chính phát sinh có thể gây ra khủng
hoảng tài chính với quy mô lớn như ở Mỹ. Cho nên, rủi ro tài chính của châu Âu hoàn toàn có
thể khống chế được, không thể xuất hiện cuộc khủng hoảng tài chính như cơn bão tài chính ở
Phố Wall. Các nước chủ yếu của châu Âu đã ý thức được tầm quan trọng của việc giải cứu các
nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone đang nằm trong cơn bão nợ. Vì thế, khả
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 12
năng khủng hoảng nợ châu Âu diễn biến thành khủng hoảng tài chính với quy mô lớn là không
lớn”2.
Năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng euro, Hội đồng châu Âu đã họp tại Dublin
để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và Liên minh châu Âu (EU) ký một hiệp ước quy định các
thành viên trong nhóm giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt quá 3% GDP và tổng
nợ chính phủ không vượt quá 60% GDP quốc gia.
Mười một sáng lập viên lúc bấy giờ vẫn ấn định giờ G là ngày 1/1/1999 ra mắt đồng
euro. Nhưng không có quốc gia nào trong khối lúc bấy giờ đáp ứng được tiêu chí trên. Ví dụ lúc
đó Bỉ có tổng nợ quốc gia lên đến 131% GDP.
Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho các thành viên
sáng lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều đó khiến các tham vọng
chính trị va vấp với những thực trạng về nền kinh tế các quốc gia.
Bất chấp tất cả, các quốc gia châu Âu “làm đẹp” sổ sách bằng mọi giá để kịp tiến độ gia
nhập. Lúc đó, con số “sạch đẹp” thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến một số người nghi ngờ.
Thần kỳ hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5% vào năm 1998 và dự
báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ còn 1,9% vào năm 1999. Cả châu Âu đã hoan hô thành tích
này, tung hô Hy Lạp như một câu chuyện thần kỳ khiến một số nước phải ngưỡng mộ. Tây Ban
Nha, Pháp, Bồ Đào Nha cũng cố gắng “đạt thành tích” thâm hụt chỉ 3%.
2
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 13
Quả đúng như người ta nghi ngờ: Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế toán mới, cho
thấy thâm hụt thực sự của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm 2004 một báo cáo khác lại
chỉ ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là 4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập nhằng tiền chi
tiêu mua sắm công với viện trợ chính phủ đến 2 tỉ euro.
Không chỉ thế, Hy Lạp còn cố ý không tính đến một số chi tiêu quân sự cũng như y tế
trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này còn xem một số viện trợ từ châu Âu là khoản
thu vào của chính phủ. Với cách này, Hy Lạp đã “bùa” thâm hụt ngân sách năm 2003 một cách
khó tin. Vào tháng 3/2004, Hy Lạp công bố thâm hụt ngân sách 2,6 tỉ euro tương đương 1,7%,
tức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của EU là 2,7%. Điều đó khiến nhiều người nghi ngờ
và EU gây áp lực khiến Hy Lạp công bố lại.
Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp công bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các trợ cấp thuế
ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau đó, Hy Lạp thừa nhận đã bỏ qua
một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên giá trị thặng dư an sinh xã hội cùng lãi suất thấp đi,
nên con số thực phải là 4,6%. Đến tháng 3.2005, Hy Lạp “thành thật” thông báo thâm hụt của
năm 2003 là 5,2%. Và trong lần “thành thật” cuối cùng vào cuối năm đó, con số tăng lên mức
5,7%. Sau 18 tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6 tỉ lên 8,8 tỉ euro.
Theo ông Jean-Pierre Jouyet, chủ tịch uỷ ban Giám sát thị trường chứng khoán Pháp và
là cựu cố vấn trưởng của chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vấn đề hiện tại của Hy Lạp cũng cho thấy
thể chế tài chính của EU không đủ năng lực và chuyên môn để kềm chế những thành viên
không tuân thủ hiệp ước của khối. Liên minh tiền tệ EUROZONE đã được xem là công cụ cho
liên minh chính trị, nên các “sáng lập viên” chẳng hề quan tâm nhiều đến chuyện trừng phạt
thành viên vi phạm quy chế chung.
Năm 1996, khi thảo luận xem liệu có cần thiết có những công cụ trừng phạt những thành
viên vi phạm hay không, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Helmut Kohl cho
rằng nên dựa vào ý thức, và cuối cùng EU ủng hộ chủ trương này. EU cho rằng các quốc gia sẽ
phải tự điều tiết lấy. Willem Buiter, kinh tế gia trưởng của Citigroup và là thành viên của uỷ ban
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Anh quốc, mô tả hiệp ước 1996 như những con hổ giấy. Còn
ông Jean-Pierre Jouyet nói: “Một hiệp ước mà không có biện pháp trừng phạt thì là vô
nghĩa”.Đâu chỉ Hy Lạp, vào năm 2002 đến 2004, Pháp và Đức vượt chuẩn thâm hụt thì các
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 14
quốc gia EU khác cũng bình chân như vại. Ông Jean-Luc Dehaene, cựu Thủ tướng Bỉ, không
ngại chỉ trích: “Họ có xu hướng đưa ra quyết định chính trị”. Nay, đến khi Hy Lạp kêu van và lo
sợ đồng euro chết yểu thì EU mới vào cuộc3.
Mặt khác, áp dụng kiến thức vĩ mô đã được học, ta có thể nhận xét về nguyên nhân gây
ra khủng hoảng nợ chính phủ chính là ở chỗ hình thức 'trả nợ công' của chính phủ như thế nào
và hậu quả mà nó mang lại. Theo khách quan thì Chính phủ muốn thoát nợ phải áp dụng các
biện pháp sau:
(1) Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu
chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng
thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát
hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với
khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra
còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
3 htt p://dantri.com.vn/c76/s76-382564/khung-hoang-tai-chinh-o-hy-lap-nguyen-nhan-la-benh-thanh-tich.htm
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 15
(2) Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu
quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)... Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có
độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu
chính phủ của họ không cao. Và đây là các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ chính phủ.
(3) Lạm phát
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm
phát vì trong tính toán chi tiêu của Chính phủ, người ta tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi
suất danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh
nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại.
Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất
lớn.
(4) Tài sản đầu tư
Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản
chính phủ. Điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân: khi một cá nhân vay tiền
để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi
giá trị của căn nhà. Tuy nhiên khi tính toán theo phương pháp này lại gặp phải vấn đề những gì
nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ,
kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục...
(5) Các khoản nợ tiềm tàng
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng
như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 16
động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của
người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán4...
Những mốc chính trong khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Dưới đây là những mốc quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009
khi chính phủ mới của Hy Lạp khiến thế giới chấn động với việc tuyên bố nâng gấp đôi ước tính
về thâm hụt ngân sách năm 2009.
5/11/2009 Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7%
GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
22/12/2009 Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi thâm hụt
ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ 3 hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp.
14/1/2010 Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, chính phủ Hy Lạp tuyên bố
muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm 2012.
29/1/2010 Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương
70 tỷ USD trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh
vực công giảm 4%.
11/4/2010 Bộ trưởng Tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu chấp
thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần.
23/4/2010 Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
2/5/2010 Thủ tướng Hy Lạp cho biết chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU
và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm
tới. Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro trong 3 năm. Đây là nước đầu tiên tại
khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý góp 22,4 tỷ euro tương
đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp.
4 Tạp chí t iền tệ và thị trường Mỹ
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 17
9/5/2010 IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập
tức 5,5 tỷ euro.
10/5/2010 Các nhà hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị
giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh
hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. Gói giải cứu bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc
khu vực đồng tiền chung châu Âu, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu Âu. IMF đóng góp 250 tỷ
euro, tổng số tiền lên tới 750 tỷ euro tương đương khoảng gần 1.000 tỷ USD tính theo tỷ giá ở
thời điểm đó.
18/5/2010 Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được coi như
nguyên nhân dẫn dến khủng hoảng nợ, công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ
chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín
dụng (CDS).
25/5/2010 Nội các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ
euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP từ mức 5,3% của
năm 2009.
27/5/2010 Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm tiết
kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD
28/5/2010 Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+ bởi nợ tiêu
dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao, đó là chưa kể đến nợ công đang ở
mức đáng báo động.
29/5/2010 Hàng ngàn người biểu tình ở Lisbon - Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt
chặt ngân sách của chính phủ.
7/6/2010 Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách và thuế để
hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách của Đức về mức quy định của Liên minh châu Âu
trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2013.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 18
8/6/2010 Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh vực công
không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ. Tỷ lệ lạm phát
của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng của các chuyên gia và lên mức cao nhất
từ tháng 8/1997.
9/6/2010 Kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và Đảng có
chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên cuối cùng, thật khó để các nhà hoạch định chính sách
thống nhất với nhau.
10/6/2010 Thỏa thuận để cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ buộc
phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù không có sự hỗ trợ của nghiệp
đoàn lao động.
3.4 Hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
3.4.1. Đối với khu vực Châu Âu.
Thất nghiệp tăng kỷ lục
Một số nhà phân tích cho rằng, kinh tế châu Âu suy thoái càng làm tình hình thất nghiệp
thêm trầm trọng. Theo Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone
đang đứng ở mức 10,9%, mức cao nhất kể từ khi đồng euro được đưa vào sử dụng năm 1999.
Trong đó, tính đến tháng 4/2012, khoảng 17,4 triệu lao động tại Eurozone ở trong tình trạng thất
nghiệp, là tháng thứ 12 tỷ lệ này tăng liên tiếp.
Một điểm đáng chú ý trong thống kê của Eurostat, là sự khác biệt về tỷ lệ thất nghiệp
giữa các thành viên Eurozone ngày càng lớn. Tại Áo hay Hà Lan, tỷ lệ thất nghiệp chỉ là 4,2%
và 4,9%. Đức đứng hạng ba, với một tỷ lệ được coi là ổn định ở mức 5,7%. Trong khi tỷ lệ này
tại Italy và Pháp lần lượt là 9,3% và 10%.
Tồi tệ hơn là tình trạng thất nghiệp tại Ireland (14,7%), Bồ Đào Nha (15%), Hy Lạp
(21%). Riêng Tây Ban Nha đang là nước có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất tại Eurozone (23,6%), với
hơn một nửa thanh niên trong độ tuổi từ 16-25 bị gạt ra ngoài thị trường lao động.
Các nước châu Âu ven Địa Trung Hải đang đứng trước một bài toán nan giải là cắt giảm
chi tiêu để giải quyết nợ công, trong khi 15-25% dân số trong tuổi lao động thất nghiệp. Đáng
quan ngại hơn là số người không tìm được việc làm ở châu Âu sẽ tiếp tục tăng thêm từ nay tới
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 19
cuối năm. Ngân hàng JP Morgan cho rằng đến cuối năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp tại châu Âu sẽ
tăng lên mức trung bình 11% vì ba lý do. Thứ nhất, khu vực nhà nước không thay thế những
người đến tuổi về hưu hoặc sa thải nhân viên. Thứ hai, thu nhập của các hộ gia đình giảm sút,
tác động đến sức mua của tư nhân. Thứ ba, triển vọng tăng trưởng kinh tế yếu của các nước
Eurozone sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc tạo mới việc làm.
Các nhà quan sát lo ngại rằng, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ gây ra nhiều bất bình trong xã
hội, ảnh hưởng tới chính trị và gây những phản ứng bất lợi cho các thị trường tài chính.
Hơn nữa, theo giới phân tích, nạn thất nghiệp gia tăng trên toàn bộ 17 nước thành viên
Eurozone là bằng chứng cho thấy, các biện pháp khắc khổ với hy vọng giảm bớt nợ công và bội
chi ngân sách không phải là "liều thuốc" thích hợp cho khu vực này vào thời điểm hiện nay, khi
sức tiêu thụ của tư nhân đi xuống, khủng hoảng niềm tin của các nhà đầu tư đẩy các hoạt động
của khu vực sản xuất càng xuống thấp trong năm qua.
Theo giáo sư kinh tế Jacques Sapir, Giám đốc trường Cao đẳng Khoa học Xã hội
(EHESSP Paris), thất nghiệp đang trở thành một vấn đề cấp bách không kém gì so với cuộc
khủng hoảng nợ công của Eurozone. Trong khi đó, trước mắt các quốc gia Eurozone không có
mấy hy vọng giải quyết được vấn đề này trong nay mai.
Khủng hoảng ngân hàng trở thành nỗi lo mới
Khủng hoảng ngân hàng đã nổi lên là nguy cơ mới đối với sự liên kết của khu vực đồng
euro và Liên minh châu Âu (EU). Cộng hòa Síp, một trong những thành viên nhỏ nhất của EU
đã thừa nhận có thể phải tìm kiếm một khoản cứu trợ cho các ngân hàng của họ, cùng với Tây
Ban Nha. Síp đang sa vào khủng hoảng ngân hàng do nền kinh tế và các ngân hàng của họ phụ
thuộc nặng nề vào Hy Lạp.
Lợi tức trái phiếu chính phủ giảm sút tại Đức, Anh và Mỹ cho thấy vấn đề nghiêm trọng
trong hệ thống ngân hàng của các nước Địa Trung Hải thuộc khu vực đồng euro. Lợi tức trái
phiếu chính phủ Đức kỳ hạn 10 năm ngày 4/6 giảm xuống còn 1,2%, cho thấy vốn đang rời khỏi
khu vực Địa Trung Hải để chuyển sang trái phiếu của các nền kinh tế mạnh nhất. Tương tự, lợi
tức trái phiếu chính phủ Mỹ tụt xuống 1,5% là đáng báo động.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 20
Nhà chiến lược Marshall Auerback của công ty Pinetree Capital tại Toronto nhận xét lợi
tức trái phiếu chính phủ Mỹ chưa bao giờ giảm xuống dưới 2% trong các năm 1919-1941, tức là
thời kỳ xảy ra Đại suy thoái và bắt đầu Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Mới đây, chính phủ Tây Ban Nha tiết lộ trong quý 1/2012, khoản vốn trị giá 97 tỷ euro
đã bị rút khỏi nước này, tương đương với 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Tây Ban
Nha. Điều nguy hiểm là việc rút vốn dường như không dừng lại trong quý 2 bởi vì Tây Ban Nha
cần tìm kiếm khoản tiền lên tới 19 tỷ euro để cứu trợ Ngân hàng Bankia và nền kinh tế sa sút
của nước này. Lợi tức trái phiếu chính phủ của Tây Ban Nha đã tăng lên mức 6,5%, gần mức
nguy hiểm đã châm ngòi cho các khoản cứu trợ Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha.
Tuy nhiên, ngay cả khi EU có thể thống nhất về kế hoạch hội nhập tài chính khu vực
trong vòng 5-10 năm tới, vốn đang bị đè nặng bởi các cuộc tranh luận về việc điều chỉnh hiệp
ước của EU, thì chưa chắc những thay đổi đó đã đủ sức để khôi phục lòng tin của các nhà đầu
tư, bởi lẽ dẫu sao đó chỉ là những giải pháp dài hạn để trị tận gốc căn bệnh nợ công. Còn trong
ngắn hạn, thị trường vẫn đổ dồn sự chú ý vào những diễn biến mới nhất tại Hy Lạp và Tây Ban
Nha hiện nay./.
3.4.2 Đối với Việt Nam.
Xuất khẩu giảm
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới
chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến
tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm
cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam do đó cuộc
khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp
sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng
cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và
tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ
ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%).
Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung
hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 21
Lãi suất thấp ở các nước, trong khi cao ở Việt Nam sẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ước các
nước phát triển vẫn huy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và
chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các
nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%.
Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các
doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-
17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.
Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỷ
suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân
của các ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng
vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với
các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc
gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại
các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được
hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ
công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do
cuộc khủng hoảng nợ.
Giá vàng bùng nổ
Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ
cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng
mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với
đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua
bạch kim và bạc.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 22
Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất
có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài
sản vàng và các tài sản khác. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi
một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với
việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư
gián tiếp càng trở nên hạn chế.
Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên
Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với
các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ
trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ
tăng trưởng GDP sụt giảm.
Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức
tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và
Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián
tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
Biến động tỷ giá hối đoái sẽ rất khó lường
Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD
và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các
đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương
đối so với USD.
Sang tháng 6, tỷ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu
tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng,
cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro
hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 23
3.5 Biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Để đối phó với cuộc khủng hoảng nợ công, liên minh Châu Âu đã đưa ra các giải pháp
ngắn hạn và dài hạn như sau:
Ngắn hạn:
Quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu (EFSF): Ngày 9/5/2010, 27 nước Châu Âu đã đồng ý
thành lập quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu, một công cụ tài chính hợp pháp được tài trợ tài chính
bởi các thành viên liên minh Châu Âu nhằm giúp đảm bảo ổn định tài chính tại Châu Âu.
Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu (EFSM): Ngày 5/1/2011, Liên minh Châu Âu
thành lập Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu, đây là một quỹ khẩn cấp lấy vốn từ các thị trường
tài chính và ngân sách của Liên minh Châu Âu dưới sự đảm bảo bởi Ủy ban Châu Âu.
Hiệp ước Brussels: Ngày 26/10/2011, lãnh đạo 17 nước đã họp tại Brussels và đồng ý
xóa 50% nợ cho Hy Lạp bằng quỹ cứu trợ do Quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu thực hiện.
Sự can thiệp của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB): ECB đã thực hiện một số
những biện pháp nhằm hạn chế tính bất ổn và nâng cao tính thanh khoản của thị trường tài
chính. ECB mua lại các khoản nợ của chính phủ và tư nhân, lên tới 200 tỷ EUR và công bố kế
hoạch phân phối các hoạt động tái cấp vốn dài hạn.
Cải tổ và tái cơ cấu đối với hệ thống tài chính ngân hàng, quản lý nhà nước, tái cấu trúc
nền kinh tế, khu vực đầu tư công,…
Dài hạn:
Liên minh Tài khóa Châu Âu (European Fiscal Union): Thiết lập một Liên minh Tài
khóa trong khu vực Eurozone, với những cơ chế kiểm soát tài khóa chặt chẽ và trừng phạt
nghiêm các thành viên trong Hiệp ước của Liên minh Châu Âu.
Cơ chế Bình ổn Châu Âu (European Stablity Mechanism): Là một chương trình quỹ
cứu trợ dài hạn tiếp theo quỹ Bình ổn Tài chính Châu Âu và Cơ chế Bình ổn tài chính Châu Âu.
ESM được triển khai vào tháng 7/2012, song hành với EFSF cho đến khi quỹ cứu trợ ngắn hạn
này hết hiệu lực vào giữa năm 2013. Nhiệm vụ của ESM là hỗ trợ tài chính cho các thành viên
Eurozone vào thời điểm khó khăn nhằm duy trì sự ổn định tài chính trong khu vực. Các nước
thành viên Eurozone đang gặp khó khăn về tài chính có thể vay tiền từ ESM để đối phó với
cuộc khủng hoảng nợ công nhưng đổi lại các nước này phải tiến hành cải cách tài chính và tái
cơ cấu nền kinh tế.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 24
Quỹ tiền tệ Châu Âu (European Monetary Fund): Thành lập ngày 20/10/2011, là
sáng kiến chuyển đổi từ Quỹ Bình ổn tài chính Châu Âu. Quỹ này có thể cung cấp cho các
chính phủ Trái phiếu Châu Âu có lãi suất cố định ớ mức thấp hơn một chút so với mức tăng
trưởng kinh tế trung hạn.
Đồng thời, ngày 10/5/2010, EU và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ chống khủng hoảng” trị
giá 750 tỷ EUR (1000 tỷ USD). Theo đó, các nước Châu Âu đưa ra 440 tỷ EUR khoản vay mới
và bơm thêm 60 tỷ EUR cho chương trình vay đang thực hiện. IMF cũng đóng góp 250 tỷ EUR
cho gói cứu trợ.
Bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp từ EU và IMF, các quốc gia châu Âu còn phải thực hiện
hàng loạt những chính sách thắt chặt ngân sách nhằm cố gắng giảm thâm hụt ngân sách xuống
chỉ còn ở mức 3% GDP và tổng nợ công ở mức 60% GDP như giới hạn đã được Hiệp ước ổn
định và phát triển đặt ra.
Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với sự gia tăng mức
nợ công của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ai-len, I-ta-li-a, Hy Lạp và Tây Ban Nha). Hy Lạp là
quốc gia đầu tiên bước vào cuộc khủng hoảng, với mức thâm hụt ngân sách đạt tới 13,6% GDP.
Nợ công của Hy Lạp cũng lên tới 236 tỷ euro, bằng khoảng 115% GDP của Hy Lạp vào năm
2009. Mặc dù là một nước nhỏ, song với tư cách là thành viên của EU, nếu việc vỡ nợ ở Hy Lạp
xảy ra sẽ gây ảnh hưởng không chỉ trong toàn khu vực EU mà thậm chí cả thế giới. Vì vậy,
ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực Eurozone và IMF đã thông qua khoản cứu trợ khẩn
cấp 110 tỷ EUR, tương đương 136 tỷ USD trong vòng 3 năm cho Hy Lạp nhằm giúp nước này
thoát khỏi bờ vực nợ công, với điều kiện bắt buộc nước này phải thực hiện các kế hoạch “thắt
lưng buộc bụng” ngân sách.
Cụ thể, tại Hy Lạp, vào tháng 2 năm 2010, chính phủ quyết định không tăng lương công
chức, cắt giảm 10% phụ cấp, cắt lương làm thêm giờ,… Một tháng sau đó, tiền phụ cấp giảm
tiếp 12%, lương công chức cũng giảm 7%, thuế giá trị gia tăng tăng từ 19% lên 21%, cùng hàng
loạt các loại thuế mới được đặt thêm. Hai tháng sau đó, chính phủ lại đưa ra chính sách giảm
lương hưu, tăng tuổi về hưu, thuế giá trị gia tăng tiếp tục tăng lên đến 23%. Giữa năm 2011,
lương hưu lại tiếp tục bị cắt giảm, các đối tương có thu nhập cao bị đánh thuế mạnh hơn, gia
tăng thuế bất động sản cùng các tài sản có giá trị khác. Sang đầu năm 2012, chính phủ lại tiếp
tục cắt giảm tiền lương tối thiểu, sửa đổi luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 25
nhiều hơn và sa thải được nhiều công nhân hơn, các chi tiêu cơ bản cho y tế, quốc phòng bị cắt
giảm.
Tháng 11/ 2010, Ireland chính thức trở thành nước thứ hai rơi vào khủng hoảng nợ công
với mức thâm hụt ngân sách lúc này lên tới 32% GDP. Năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là nước
thứ ba rơi vào cuốc khủng hoảng khi mức thâm hụt ngân sách lên đến 8,5% GDP, nợ công vượt
quá 90% GDP. Vì thế, tháng 11/ 2010, gói cứu trợ 85 tỷ EUR đã được thông qua cho Ireland và
78 tỷ EUR cũng được thông qua cho Bồ Đào Nha vào tháng 5/ 2011.
Tương tự như Hy Lạp, Ireland cũng phải tiến hành các biện pháp “thắt lưng buộc bụng”
khá khắc nghiệt (cắt giảm chi tiêu, tăng thuế và bán một số tài sản của nhà nước) để nhận được
gói cứu trợ 85 tỷ EUR (117 tỷ USD). Bên cạnh đó, Ireland còn phải tái thiết lại hệ thống ngân
hàng.
Để đổi lấy gói cứu trợ giá 78 tỷ euro (khoảng 101 tỷ USD), Bồ Đào Nha buộc phải thực
hiện các cuộc cải cách sâu rộng, trong đó có việc cắt giảm hàng nghìn việc làm trong ngành
dịch vụ công, giảm 5% tiền lương của công chức và quan chức nhà nước, trong đó có cả các bộ
trưởng, tăng thuế giá trị gia tăng lên 21%.
Các quốc gia khác như: Tây Ban Nha, Ý cũng đều phải thực hiện những chính sách
tương tự nhằm cố gắng cắt giảm chi tiêu công và gia tăng nguồn thu ngân sách của mình.
Ngoài ra, tại hội nghị thượng đỉnh lần 19 của Liên minh châu Âu (EU) diễn ra trong các
ngày 28-29/6/ 2012, các lãnh đạo EU cũng đã đồng thuận cho phép sử dụng quỹ cứu trợ trực
tiếp giải cứu các ngân hàng đang gặp khó khăn mà không làm tăng thêm gánh nợ cho các chính
phủ. Các lãnh đạo EU cũng tán thành việc để quỹ cứu trợ khu vực mua lại nợ chính phủ trên thị
trường nhằm tránh chi phí vay tăng.
Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Nhóm 1 Trang 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Hữu Hạnh, 2006, Quản trị tài chánh quốc tế trong thị trường toàn cầu, NXB Lao
động Xã hội.
2. Võ Thanh Thu, 2008, Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống Kê.
3. Khủng hoảng nợ công Châu Âu – Bài giảng của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
4. Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu và tác động kinh tế thế giới –
5. Toàn cảnh khủng hoảng nợ châu Âu: Nguyên nhân và giải pháp – CFOViet.com
6. Đồng Euro và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu – Ths. Đinh Công Hoàng, trường Đại
học Tổng hợp Coventry – Vương quốc Anh.
7. Khủng hoảng nợ công tại một số nền kinh tế trên thế giới – Vũ Minh Long, Trung tâm
nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR)
8. Cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay ở Châu Âu – Luanvan.net.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dong_euro_va_cuoc_khung_hoang_no_cong_chau_au_nhom_1_6251.pdf