MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1. Khái quát chung về bán phá giá và thực trạng bán phá giá trên thế giới 3
1.1. Khái quát chung về bán phá giá 3
1.1.1. Khái niệm về bán phá giá 3
1.1.2. Mục tiêu và điều kiện thực hiện việc bán phá giá 3
1.1.2.1. Mục tiêu và nguyên nhân 4
1.1.2.2. Điều kiện thực hiện 9
1.1.3. Xác định một số loại hình bán phá giá 10
1.1.3.1. Bán phá giá độc quyền 10
1.1.3.2. Bán phá giá phi độc quyền 11
1.2. Thực trạng bán phá giá trên thế giới thời gian qua 15
1.2.1. Tổng quan 15
1.2.2. Thực trạng bán phá giá ở các nước phát triển 20
1.2.3. Thực trạng bán phá giá ở các nước đang phát triển 23
Chương 2. Hiệp định về chống bán phá giá của WTO 28
2.1. Khái quát chung về Hiệp định chống bán phá giá của WTO 28
2.1.1. Sự ra đời 28
2.1.2. Uỷ ban chống bán phá giá của WTO 30
2.1.3. Xác định việc bán phá giá 30
2.1.3.1. Nguyên tắc xác định việc bán phá giá 31
2.1.3.2. Tính biên độ phá giá 31
2.1.3.3. Xác định thiệt hại do bán phá giá 33
2.1.4. Các biện pháp chống bán phá giá 34
2.1.4.1. Tiêu chí áp dụng 34
2.1.4.2. Các biện pháp chống bán phá giá 35
2.2. Trình tự và thủ tục chống bán phá giá 37
2.2.1. Giai đoạn từ khi nhận được đơn khiếu nại đến khi bắt đầu điều tra 37
2.2.1.1.Giai đoạn chuẩn bị trước khi bắt đầu điều tra 37
2.2.1.2.Giai đoạn bắt đầu sự điều tra 39
2.2.2. Giai đoạn tiến hành điều tra chống bán phá giá 42
2.2.2.1. Hệ thống thủ tục 42
2.2.2.2. Các quyền bảo vệ của nước nhập khẩu sản phẩm bị bán phá giá 44
2.2.2.3. Các diễn đàn cho phép nhà xuất khẩu tự bảo vệ quyền lợi của mình 45
2.2.3. Giai đoạn kết thúc điều tra 46
2.2.3.1. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 47
2.2.3.2. Truy thu thuế và hoàn thuế 48
2.2.3.3. Rà soát 49
2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước thành viên
WTO 50
2.3.1. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 50
2.3.1.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ 50
2.3.1.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 50
2.3.1.3. Nguyên tắc xác định Giá trị thông thường và Giá xuất khẩu 53
2.3.1.4. Xác định thuế chống bán phá giá 53
2.3.1.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 54
2.3.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của của các nước EU là thành viên WTO 55
2.3.2.1. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước EU là thành viên WTO 55
2.3.2.2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra 56
2.3.2.3. Xác định phá giá và thiệt hại 59
2.3.2.4. Cách tính thuế và truy thu thuế 63
2.3.3. Thực trạng chống bán phá giá của Trung Quốc 66
2.3.3.1. Tình hình chung 66
2.3.3.2. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Trung Quốc 67
2.3.3.3. Xác định Giá trị thông thường và Giá xuất khẩu 68
2.3.3.4. Xác định thuế chống bán phá giá 69
Chương 3. Một số giải pháp chống bán phá giá của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 74
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành chống bán phá giá ở Việt Nam 74
3.1.1. Những yêu cầu đặt ra của quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu 74
3.1.2. Những cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 75
3.1.2.1. Cam kết trong ASEAN 76
3.1.2.2. Cam kết trong APEC 77
3.1.2.3. Cam kết với IMF / World Bank 77
3.1.2.4. Đàm phán gia nhập WTO 78
3.2. Thực trạng chống bán phá giá ở Việt Nam trong thời gian qua 79
3.2.1. Tình hình chung 79
3.2.2. Các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam có thể bị bán phá giá trong những năm gần đây 81
3.2.3. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam 82
3.2.3.1. Các qui định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá 82
3.2.3.2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 83
3.2.3.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 84
3.3. Một số giải pháp chống bán phá giá của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 86
3.3.1. Xây dựng văn bản pháp quy về chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam 86
3.3.2. Phát huy vai trò của Hiệp hội ngành hàng trong các cuộc điều tra chống bán phá giá 89
3.3.3. Thành lập cơ quan chuyên trách của Nhà nước về chống bán phá giá 92
3.3.4. Xây dựng và đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi trong công tác chống bán phá giá để tư vấn cho các doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi cần thiết 94
3.3.5. Đầu tư trang thiết bị, máy móc và các phương tiện kĩ thuật khác phục vụ cho công tác điều tra chống bán phá giá 96
3.3.6. Tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, chống gian lận thương mại 97
3.3.7. Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm áp dụng thành công các biện pháp chống bán phá giá 100
Kết luận 103
Tài liệu tham khảo 104
109 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệp định về chống bán phá giá của WTO và một số giải pháp chống bán phá giá của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhập khẩu dù có được bán phá giá vào thị trường nước ta cũng khó gây ra thiệt hại lớn cho sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế như đã nêu trên, hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá chắc chắn sẽ gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Vì lẽ này cần có biện pháp hạn chế đi đến chấm dứt ngay việc hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá hàng loạt ở Việt Nam trong tình trạng không bị bất cứ một sự kiểm soát nào.
Công tác chống bán phá giá thì vậy nhưng công tác đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của ta ở nước ngoài cũng không mấy lạc quan...
Bảng 11: Thống kê các vụ kiện bán phá giá đối với Việt Nam
STT
Năm
Nước
Mặt hàng
Kết luận cuối cùng của phía nước ngoài
1.
1994
Colombia
Gạo
Không đánh thuế vì dù có bán phá giá ở mức 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành lúa gạo của Colombia.
2.
1998
EU
Mì chính
Đánh thuế chống bán phá giá, mức thuế 16,8%.
3.
1998
EU
Giày dép
Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan.
4.
2000
Ba Lan
Bật lửa
Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 0,09 Euro/chiếc.
5.
2001
Canada
Tỏi
Đánh thuế chống bán phá giá, mức 1,48 dollar Canada/kg.
6.
2002
Canada
Giày không thấm nước
Dừng điều tra.
7.
2002
EU
Bật lửa ga
EU chủ động dừng điều tra.
8.
2002
Mỹ
Cá da trơn
Đánh thuế chống bán phá giá, mức từ 36,84% đến 63,88%.
Nguồn: Vụ pháp chế - Bộ Thương Mại
Gần đây, theo thông tin đăng tải trên các trang chuyên ngành thủy sản nước ngoài cho thấy Liên minh Tôm miền Nam (SSA) và Hiệp hội Tôm Louisiana (LSA) có thể vào 15/12/2003, đệ đơn lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) kiện một số quốc gia lớn xuất khẩu tôm vào nước này. Và Việt Nam cũng cũng khó có thể tránh được việc theo kiện với tư cách là bên bị đơn.
Tóm lại có thể miêu tả tình hình chống bán phá giá của Việt Nam bằng hình ảnh “đánh cá bằng lưới rách”. Một mặt, chúng ta nỗ lực cố gắng rất nhiều trong hoạt động ngoại thương nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu thì phù hợp yêu cầu của đất nước nhưng mặt khác hàng xuất khẩu của ta thì bị điều tra bán phá giá trên “sân” của người còn hàng nhập khẩu thì bị các công ty nước ngoài bán phá giá ở ngay tại “sân” của mình. Nếu cứ để tình trạng này tiếp diễn thì những nỗ lực của chúng ta rồi cũng chẳng khác gì “Dã tràng xe cát biển Đông”. Và việc “vá lưới” chính là việc chúng ta cần hành động để chống lại các cuộc điều tra bán phá giá của nước ngoài và chống lại hành vi bán phá giá ở ngay tại nước mình.
3.2.2. Những mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam có thể bị bán phá giá trong những năm gần đây
Như ta đã biết bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và không bị cấm theo qui định của WTO “Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng” trong cuốn “Kết quả vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa biên”. Bộ Thương mại – NXB Thống kê, Hà nội. 2000, trang 301 – 360.
. Theo thống kê, các mặt hàng bị bán phá giá trên thị trường quốc tế chủ yếu là hàng phi nông sản như: sắt thép, xi măng, hoá chất, hàng điện tử, hàng dệt. Việt Nam chưa ban hành văn bản pháp quy nào về chống bán phá giá do đó chưa tiến hành cuộc điều tra phá giá nào cho nên không có số liệu chính thức về hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Trên thực tế những mặt hàng sau đây có khả năng bị bán phá giá:
i) Xi măng
Các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc là những nước sản xuất
xi măng rất mạnh. Sản lượng xi măng của các nước này tại một thời điểm nào đó có thể bị dư thừa so với nhu cầu trong nước do khủng hoảng kinh tế hoặc bất hợp lý trong khâu lập kế hoạch sản xuất, khi đó rất có khả năng Thái Lan hoặc Trung Quốc sẽ bán phá giá xi măng sang Việt Nam vì Việt Nam là thị trường tương đối lớn trong khu vực và có tốc độ xây dựng phát triển mạnh. Việc bán phá giá xi măng vào thị trường Việt Nam trước hết sẽ có lợi cho người tiêu dùng và ngành xây dựng. Tuy nhiên, đối với ngành công nghiệp xi măng của ta, vốn là một ngành được bảo hộ cao, thì đây là một khó khăn lớn.
ii) Sắt thép
Ở Hoa kỳ, sắt thép là mặt hàng nhập khẩu bị điều tra phá giá nhiều nhất (chiếm một nửa số vụ điều tra phá giá). Từ năm 2001 trở về trước, Việt Nam duy trì giấy phép nhập khẩu đối với thép xây dựng nên chưa quan tâm tới việc sắt thép nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Tuy nhiên có nhiều khả năng một số sắt thép nhập khẩu từ Nga, Hàn Quốc đã bị bán phá giá vào Việt Nam. Ngành thép của các nước như Hoa kỳ, EU, Nhật Bản hiện nay đều đang gặp khó khăn. Khi Việt Nam đã bỏ giấy phép nhập khẩu và các nước có nền công nghiệp thép mạnh như Hàn Quốc, Nhật Bản, các thuộc khối SNG bán phá giá sắt thép vào Việt Nam thì thiệt hại cho ngành sắt thép trong nước ta sẽ rất lớn.
iii) Giấy
Sáu tháng đầu năm 2003, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Giấy Việt nam đã gặp nhiều khó khăn vì có khả năng giấy nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam: giá giấy nhập khẩu là 380 USD/tấn, trong khi giá bột giấy nhập khẩu đã là 400 USD/tấn. Tuy nhiên muốn khẳng định rõ điều này cần phải tiến hành điều tra vì các giá trên có thể chưa được so sánh một cách xác đáng.
3.2.3. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam
3.2.3.1. Các qui định hiện tại ở Việt Nam liên quan đến thuế chống phá giá
Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, ta cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống bán phá giá, tự vệ, hạn ngạch thuế quan.
Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001.
3.2.3.2. Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước
Áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT-GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới,... nhân với thuế nhập khẩu.
Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn, việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất. Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu, tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội. Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hoá khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa Kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật Bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép.
Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy, thuế này chỉ được áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất,... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hoá tương tự của nước xuất khẩu. Do đó các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt.
3.2.3.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn một thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt Nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2010 Việt Nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt Nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hoá lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngành này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tư vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hoá học,... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu,... Trong lĩnh vực thủy sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt Nam có lợi thế so sánh cao như lúa gạo hay nuôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã bán phá giá vào Việt Nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng, nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện.
Tuy nhiên, trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với qui mô sản xuất hàng hoá như công nghiệp hoá dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản,... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế-thương mại quốc tế và khu vực, Việt Nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn. Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt Nam là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hoá, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như qui mô. Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh kinh tế đáng kể sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân, thì sức mạnh kinh tế của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này.
Như vậy bối cảnh thế giới, khu vực và chính tình hình nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự cấp thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức áp dụng như thế nào thì cần phải suy xét thêm vì bối cảnh kinh tế Việt Nam khác với các nước nên không thể dập khuôn áp dụng giống các nước khác. Cho nên, xuất phát từ đặc điểm tình hình kinh tế Việt Nam như đã phân tích trên đây, tôi xin kiến nghị một số giải pháp chống bán phá giá ở Việt Nam như sau:
3.3. Một số giải pháp chống phá giá của Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.3.1. Xây dựng văn bản pháp quy về chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt nam
Như đã trình bày bán phá giá là trường hợp một mặt hàng được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với giá thấp hơn giá bán mặt hàng đó trong điều kiện thương mại thông thường ở thị trường nội địa nước xuất khẩu. Việc bán phá giá sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu có cơ hội tiếp cận với hàng hoá rẻ hơn, nhưng lại có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự của nước nhập khẩu. Mỗi một quốc gia có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu khi hàng hoá này bị bán phá giá và gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Mục đích của việc áp dụng các biện pháp này là nhằm triệt tiêu những ảnh hưởng bất lợi do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra đối với ngành sản xuất trong nước. Thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy các biện pháp chống bán phá giá là một trong những công cụ hiệu quả để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước. Hiệp định chống bán phá giá của WTO thừa nhận các biện pháp chống bán phá giá là một công cụ hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước khi có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu và hành vi đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên để tránh việc lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá, việc áp dụng các biện phá chống bán phá giá cũng cần tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục và trình tự chung được quốc tế thừa nhận, đặc biệt là phù hợp với các quy định của WTO. WTO khuyến nghị các nước thành viên và kể cả các nước chưa là thành viên của WTO ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá với nội dụng phù hợp với quy định của WTO.
Trong thời gian qua, đã có một số ý kiến của doanh nghiệp về việc hàng hoá nước ngoài bán phá giá vào nước ta. Tuy nhiên, do Việt Nam chưa ban hành văn bản pháp quy về chống bán phá giá nên chưa thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào nước ta. Nhưng trong bối cảnh nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay thì cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của ta ngày càng được đơn giản hoá thông qua việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan và cắt giảm thuế quan. Khi đó nếu hàng nhập khẩu vào nước ta bị bán phá giá sẽ gây ra thiệt hại lớn hơn đối với ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Chính vì vậy, việc ban hành văn bản pháp luật về chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam dựa trên Hiệp định chống bán phá giá của WTO là rất cần thiết, thể hiện tính chủ động của Việt Nam trong việc tôn trọng các chuẩn mực quốc tế chung và tạo lập công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp trong nước.
Căn cứ vào thực tiễn ban hành các văn bản pháp quy ở Việt Nam hiện nay thì hình thức Pháp lệnh sẽ thích hợp nhất đối với việc ban hành pháp luật về thuế chống bán phá giá. Theo đó, Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam ra đời sẽ:
Đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng;
Ngăn chặn các công ty nước ngoài dùng biện pháp bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các ngành sản xuất trong nước;
Là công cụ để chống lại tình trạng chính phủ hoặc cơ quan công cộng nước ngoài trợ cấp cho hàng hoá xuất khẩu nước họ, dẫn đến hành động bán phá giá gây thiệt hại cho công nghiệp nội địa nước ta;
Là công cụ để áp dụng biện pháp đối phó tương ứng với quốc gia hoặc khu vực nào áp dụng biện pháp chống bán phá giá mang tính chất kỳ thị áp đặt đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Hiện nay, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam vẫn trong giai đoạn hoàn thiện soạn thảo. Là cơ quan chủ trì soạn thảo Pháp lệnh này, Bộ Thương mại đã nghiên cứu các thông lệ, quy định quốc tế về chống bán phá giá, đặc biệt là của WTO và nghiên cứu các ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành quản lý Nhà nước để xây dựng Pháp lệnh này. Hiện Bộ Thương mại đã công bố Dự thảo 4 của Pháp lệnh để các cơ quan, các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp, các nhà luật gia và những người quan tâm đến Pháp lệnh này đóng góp ý kiến. Theo dự kiến thì đầu năm 2004 thì Pháp lệnh này sẽ được ban hành và có hiệu lực.
Bố cục dự án Pháp lệnh gồm 7 chương, 31 điều, bao gồm:
Chương I: Các quy định chung (từ điều 1 đến điều 7);
Chương II: Điều tra để áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
(từ điều 8 đến điều 19);
Chương III: Các biện pháp chống bán phá giá (từ điều 20 đến điều 23);
Chương IV: Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá
(từ điều 24 đến điều 25);
Chương V: Quản lý nhà nước về các biện pháp chống bán phá giá
(từ điều 26 đến điều 27);
Chương VI: Khiếu nại và xử lý vi phạm (từ điều 28 đến điều 29);
Chương VII: Điều khoản thi hành (từ điều 30 đến điều 31).
Pháp lệnh này về cơ bản là phù hợp với các qui định của WTO về chống bán phá giá và đây sẽ là vũ khí hữu hiệu giúp cho đàm phán với các nước khác, hơn nữa còn là công cụ nhằm đối phó với hàng nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài việc ban hành Pháp lệnh về chống bán phá giá thì cũng cần hoàn thiện các luật khác có liên quan sao cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế như luật về bằng chứng, luật về thống kê thị trường, thống kê thương mại, nguyên tắc xác định thị phần, hệ tiêu chí đánh giá về giá cả, về tính chất thị trường của nền kinh tế..., đặc biệt là về chế độ kế toán, bởi lẽ có một chế độ kế toán phù hợp thì quá trình điều tra sẽ thuận lợi và kết luận sẽ chuẩn xác hơn.
3.3.2. Phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong các cuộc điều tra chống bán phá giá
Trong các cuộc điều tra chống phá giá, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng còn chính phủ chỉ đóng vai trò trọng tài và quyết định theo những chứng cứ, thông tin được trình bày trong các quy định của WTO (đối với các thành viên WTO) hoặc theo các Hiệp định song phương (đối với trường hợp ít nhất một bên trong vụ kiện chưa là thành viên của WTO). Doanh nghiệp sẽ chính là người trình đơn kiện bán phá giá lên cơ quan chuyên trách của Nhà nước khi phát hiện ra việc bán phá giá của hàng nhập khẩu vào trong nước mình. Cũng theo quy định của WTO thì để đơn kiện được chấp nhận thì các nhà sản xuất ủng hộ việc đánh thuế chống bán phá giá phải chiếm trên 50% sản lượng của các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc chống lại kiến nghị và phải chiếm ít nhất 25% sản lượng của ngành sản xuất. Như vậy, để một doanh nghiệp đứng ra kiện bán phá giá thì khó lòng có thể được chấp nhận nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam vừa yếu lại vừa nhỏ. Cho nên thường thì các Hiệp hội ngành hàng sẽ đứng ra thay mặt doanh nghiệp khiếu kiện bán phá giá bởi vì các Hiệp hội này hội đủ số doanh nghiệp cần thiết để đủ quyền tham gia khiếu kiện và chính các Hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu, ... Ví như trong vụ kiện bán phá giá cá tra cá basa vừa rồi thì Hiệp hội các chủ trại cá nheo Hoa Kỳ (CFA- catfish association) đã đứng ra đệ đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, chúng ta cần có giải pháp phát huy vai trò này của các Hiệp hội trong các cuộc điều tra chống phá giá.
Ở Việt Nam đến này đã có trên 30 Hiệp hội ngành hàng trong đó có 12 Hiệp hội bao quát các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Mới hơn một thập kỷ “bươn chải”, các Hiệp hội đã chứng minh vị thế không thể thiếu vắng của mình trong sự sôi động của nền kinh tế thị trường. Hiệp hội đã trở thành mái nhà chung của các nhà sản xuất, xuất khẩu lớn. Hiệp hội Dệt may đã có 451 hội viên, con số đó của Hiệp hội Cà phê ca cao là 110 và Lương thực là 71, Hiệp hội Gỗ là 200. Một số Hiệp hội còn mở chi nhánh, lập câu lạc bộ để trải rộng tầm hoạt động. Các Hiệp hội đã thể hiện được khả năng là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, hội tụ tiếng nói của các hội viên về cơ chế, chuyển tải tới cơ quan Nhà nước các cấp. Hiệp hội cũng tham gia bảo vệ quyền lợi cho hội viên, như Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam hăng hái trong việc giải quyết vụ kiện cá basa, Hiệp hội Da giày cũng có vai trò tương tự khi xảy ra vụ kiện giày và đế giày không thấm nước...
Bên cạnh đó, hoạt động của Hiệp hội còn có nhiều mặt hạn chế. Một số Hiệp hội chưa thực sự đồng lòng trong mọi việc, mọi thời cơ nên chưa mạnh, cá biệt giữa các hội viên còn để xảy ra tình trạng tranh mua tranh bán trên cùng một thị trường, với một khách hàng, gây nhiều bất ổn, tổn hại đến lợi ích chung... Tìm hiểu kỹ có thể thấy nguyên nhân sâu xa của những bất cập trên là chưa có đồng bộ văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động của Hiệp hội phù hợp với bối cảnh mới. Các văn bản trước đây vừa thiếu vừa chồng chéo, không nêu rõ chức phận của Hiệp hội cùng vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan đối với từng loại hình Hiệp hội, nhất là các Hiệp hội ngành hàng có tham gia vào xuất khẩu. Hơn nữa, đa phần các Hiệp hội hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, không có trụ sở riêng; nhân sự thường không chuyên trách và trình độ nghiệp vụ-ngoại ngữ chưa chuyên sâu; kinh phí tuy nhiều nguồn từ ngân sách, hội phí, cung cấp dịch vụ và các khoản tài trợ nhưng chưa đủ và không ổn định; bên cạnh những hội viên nòng cốt cá biệt vẫn còn có những hội viên chưa thật toàn tâm toàn ý trong công tác.
Trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, để Hiệp hội có thể phát huy tích cực và hiệu quả vai trò của mình trong các cuộc điều tra chống bán phá giá thì đòi hỏi Hiệp hội phải hoạt động một cách có tổ chức và chuyên nghiệp hơn. Thực tế trong vụ Hiệp hội các chủ trại cá nheo Hoa Kỳ CFA kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra cá basa vào thị trường Mỹ cho thấy dù CFA không phải là một Hiệp hội ngành hàng lớn ở Mỹ nhưng CFA hoạt động rất chặt chẽ và rất có tổ chức và cuối cùng đã thắng trong vụ kiện này. Muốn các Hiệp hội hoạt động có tổ chức, Nhà nước cần sớm ban hành các quy định pháp luật mới đối với hoạt động của Hiệp hội, theo đó nên quy định nhiệm vụ của các Hiệp hội về đối nội là trung tâm để đề xuất định hướng, quy hoạch, chính sách phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế quốc gia và đối với riêng ngành hàng. Trên cơ sở đó hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường và khách hàng tới từng hội viên; cổ vũ các doanh nghiệp áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh; đầu mối tổ chức liên kết giữa các thành viên trên cơ sở tự nguyện. Mặt khác, Hiệp hội cũng cần tích cực khuyến cáo doanh nghiệp đề cao văn hoá trong kinh doanh, coi trọng chữ tín mà trước hết là tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật. Ra quốc tế, Hiệp hội cần tích cực hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của các hội viên trên thương trường, thay mặt các hội viên tranh tụng; hợp tác với các Hiệp hội tương ứng nước ngoài.
Sức mạnh của Hiệp hội phụ thuộc rất nhiều vào các hội viên do đó Hiệp hội cần phải thu hút nhiều hội viên mới là những doanh nghiệp hoạt động nổi trội. Hiệp hội cũng cần phải có bộ máy đủ mạnh với những người cầm chịch uy tín cùng đội ngũ tác nghiệp giỏi. Đi đôi với chế tài, Hiệp hội cũng cần tổ chức tuyên truyền cho các doanh nghiệp thành viên và có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra. Có như vậy mới bảo đảm các hội viên có thể tự giác cùng tiếng nói, chung hành động trước các đối tác, đoàn kết nhất trí vì lợi ích chung không vì lợi ích trước mắt của đơn vị mình mà đi ngược lại, ảnh hưởng xấu đến toàn cục và mới đảm bảo theo kiện đến cùng.
Quá trình theo kiện là một thời gian dài với không ít khó khăn cho nên
Hiệp hội cũng cần phải chủ động tích cực tìm kiếm bằng chứng xác minh hành vi bán phá giá, xác minh thiệt hại, phối hợp với cơ quan Nhà nước chứ không nên trông chờ ỷ lại vào cơ quan điều tra của Nhà nước, tích cực tham gia vào các cuộc tham vấn, tranh luận với bên bị đơn như vậy mới đảm bảo kết thúc vụ kiện được nhanh chóng bởi vì chính doanh nghiệp là đối tượng trực tiếp bị thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng hoá nước ngoài gây ra. Sau khi đã áp dụng thuế chống bán phá giá thì cũng chính Hiệp hội, các doanh nghiệp cần phải không ngừng điều tra, giám sát chặt chẽ để xem xét liệu có còn hành vi bán phá giá hàng hoá vào nước mình hay không để lại tiếp tục thuế chống bán phá giá.
Nói tóm lại, trong bối cảnh kinh tế như Việt Nam hiện nay thì các Hiệp hội đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong các cuộc điều tra chống bán phá giá và là nhân tố quyết định thành công của các cuộc điều tra.
3.3.3. Thành lập cơ quan chuyên trách của Nhà nước về chống phá giá
Theo thông lệ bất cứ một văn bản pháp luật nào muốn đi được vào thực tiễn đều cần phải có một cơ quan thực thi. Cơ quan này chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc đảm bảo luật được thi hành đúng theo qui định. Pháp lệnh chống bán phá giá cũng vậy.
Như mọi người đều biết, pháp lệnh này đang trong quá trình soạn thảo và dự kiến sẽ được ban hành vào đầu năm 2004, cho nên việc thành lập một cơ quan thực thi pháp lệnh lúc này không phải là sớm mà còn có phần hơi muộn. Hơn nữa, thực tiễn trong vụ kiện bán phá giá cá tra cá basa của Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ đối với các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy do chúng ta không có cơ quan chống phá giá nên các phản ứng của chúng ta trong vụ kiện này có phần kém nhịp nhàng, linh hoạt. Trong vụ kiện này, về phía các doanh nghiệp có VASEP và về phía Nhà nước, Vụ pháp chế tham gia vào vụ kiện mà nếu xem xét kỹ có thể thấy Vụ pháp chế thuộc Bộ Thương mại phần lớn chịu trách nhiệm ban hành, soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến thương mại. Như vậy, chống bán phá giá không phải là lĩnh vực chuyên sâu của Vụ này. Vậy sao có thể “bảo” doanh nghiệp phải làm thế này thế nọ. Cho nên việc thành lập cơ quan chuyên trách Nhà nước về chống bán phá giá là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu là điều tra bán phá giá và điều tra thiệt hại, đảm bảo liên hệ chặt chẽ giữa các bộ ngành liên quan và phối hợp hành động với các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu hay nhập khẩu, hội bảo vệ người tiêu dùng; đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành của nước sở tại trong các cuộc điều tra...
Ngày 7/6/2002, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu. Song song với xây dựng Pháp lệnh về chống bán phá giá, Việt Nam cũng đang xây dựng pháp lệnh về chống trợ cấp. Đây là những biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước với điều kiện chung là hàng nhập khẩu gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Do đó, cần cân nhắc tới bộ máy duy nhất thực thi cả 3 biện pháp này. Trong bối cảnh Việt Nam đang cải cách hành chính, tinh giản bộ máy các cơ quan quản lý Nhà nước, có lẽ khó có thể thành lập một cơ quan chuyên trách về chống bán phá giá độc lập. Hơn nữa, kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Việt Nam cũng chưa quá lớn nên nếu lập một cơ quan chuyên trách độc lập kiểu này có thể sẽ không hiệu quả. Như vậy, có thể thành lập một bộ phận chuyên trách trực thuộc một Bộ nào đó phụ trách cả 3 biện pháp này (bởi thực tế 3 biện pháp này cũng có nhiều điểm có liên quan tới nhau). Các thành viên của bộ phận này là các cán bộ có chuyên môn sâu về thương mại, luật quốc tế, kế toán...
Thực tế về việc phân công các cơ quan chuyên trách Nhà nước phụ trách công tác chống bán phá giá ở các nước cũng rất khác nhau. Cơ quan này là các bộ phận độc lập như Ủy ban chống bán phá giá của Indonesia, Cơ quan chống bán phá giá của Australia. Hoặc đó là một bộ phận chức năng nằm trong các bộ như Bộ Thương mại Thái Lan (trong các trường hợp trên đây các cơ quan này đảm nhận cả hai nhiệm vụ là điều tra về hành vi bán phá giá và điều tra thiệt hại); hoặc là nhiệm vụ phối hợp của nhiều Bộ như trường hợp của Trung Quốc có sự phối hợp giữa Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại với Ủy ban kinh tế mậu dịch đối ngoại trong đó mỗi bộ đảm nhận một nhiệm vụ là điều tra bán phá giá hay điều tra thiệt hại.
Nếu đi sâu vào từng công việc cụ thể có thể thấy: điều tra phá giá rất phức tạp và tốn kém nguồn lực còn điều tra thiệt hại thì vừa khó về mặt kỹ thuật lại vừa phức tạp về mặt xã hội. Chắc chắn các nhà sản xuất sẽ tìm mọi cách vận động để cơ quan điều tra thiệt hại thổi phồng ít nhiều thiệt hại do hàng nhập khẩu gây ra cho họ. Hơn nữa, trong thực tế ở Việt Nam nạn tham nhũng còn khá phổ biến thì việc điều tra bán phá giá và thiệt hại lại càng phức tạp. Cho nên nếu tách cơ quan điều tra thiệt hại độc lập với cơ quan điều tra bán phá giá thì sẽ đảm bảo khách quan hơn nhưng tổ chức lại cồng kềnh. Như vậy, Việt Nam nên tiếp cận theo hướng chỉ có một cơ quan chung vừa điều tra bán phá giá vừa điều tra thiệt hại. Đồng thời cần có những qui định chặt chẽ và tuyển chọn cán bộ có đạo đức tốt để đảm nhận công việc điều tra bán phá giá và thiệt hại. Về cơ quan thực thi này Việt Nam có thể học tập Thái Lan. Cơ quan này có thể là một Ủy ban do Bộ trưởng Thương mại đứng đầu, các thành viên là các thứ trưởng Bộ Tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải và một số chuyên gia về luật thương mại quốc tế, kế toán, kinh tế.
3.3.4. Xây dựng và đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi trong công tác chống phá giá để tư vấn cho các doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi cần thiết
Công tác chống phá giá là một công tác cực kỳ khó khăn. Quá trình điều tra phát hiện hành vi bán phá giá, rồi điều tra thiệt hại đã khó rồi nhưng việc đưa ra quyết định cuối cùng là có nên đánh thuế chống bán phá giá hay không hay lựa chọn biện pháp nào khác để cân bằng lợi ích của các bên liên quan, giữ được đối tác, bạn hàng... lại càng khó khăn gấp bội. Do đó, công tác này đòi hỏi cần phải có đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, nếu xét đến tình hình ở Việt Nam có thể thấy là chúng ta hầu như chưa biết gì về luật thương mại quốc tế liên quan tới bán phá giá và chống bán phá giá. Hầu hết tất cả các cán bộ Nhà nước chịu trách nhiệm về vấn đề này còn thiếu kiến thức về các khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá và luật quốc tế điều chỉnh hành vi này. Cho đến nay, Việt Nam chưa lần nào điều tra bán phá giá. Kinh nghiệm đối phó với việc hàng nhập khẩu vào nước ta bị bán phá giá còn ít thậm chí là không có gì bởi lẽ từ trước tới nay ta thiếu sự kiểm soát đối với hiện tượng kinh tế này. Hơn thế nữa, giới nghiên cứu khoa học cũng chưa quan tâm đầy đủ về vấn đề chống bán phá giá. Hệ thống đào tạo về luật và thương mại chưa có chương trình và đội ngũ giảng dạy về bán phá giá và chống bán phá giá. Trong bối cảnh như vậy nên chúng ta cũng không có luật sư hay nhà tư vấn nào có kiến thức đầy đủ hay có kinh nghiệm phong phú về bán phá giá và chống bán phá giá cả.
Cho nên, chúng ta cần đẩy mạnh đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên ngành chống bán phá giá. Các cán bộ này có thể được tuyển chọn từ các bộ ngành, trong đội ngũ luật sư, kế toán viên cao cấp được tham gia các khoá đào tạo đặc biệt. Nội dung của các khoá đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những qui định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước và những vấn đề đang nổi lên của thế giới có liên quan chẳng hạn như những vấn đề tại vòng đàm phán Doha của WTO đang diễn ra có liên quan tới vấn đề chống bán phá giá. Đây sẽ là những cán bộ chủ chốt trong công tác chống bán phá giá của chúng ta với sự hiểu biết toàn diện về kinh tế, kế toán kết hợp với kinh nghiệm thực tế về pháp luật và giỏi ngoại ngữ có đủ khả năng tư vấn cho chính phủ và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, công tác chống bán phá giá không phải chỉ là nhiệm vụ của một nhóm chuyên gia mà để áp dụng được loại thuế này cần có sự tham gia phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương và doanh nghiệp. Do đó, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần tổ chức các khoá học ngắn hạn về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo cán bộ các bộ ngành liên quan, cho các doanh nghiệp. Còn về phía các cơ quan nghiên cứu cần triển khai nghiên cứu các đề tài về chống bán phá giá và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá... Tại các cơ quan đào tạo chuyên ngành thương mại như trường đại học Ngoại thương, Luật và Thương mại, Kinh tế Tài chính cần sớm đưa nội dung này vào chương trình giảng dạy sao cho có thể đào tạo một đội ngũ cán bộ kế cận có đủ năng lực để đối phó với biện pháp cản trở thương mại đang ngày càng được áp dụng rộng rãi này.
3.3.5. Đầu tư trang thiết bị, máy móc và các phương tiện kĩ thuật khác phục vụ cho công tác điều tra chống bán phá giá
Trong công tác điều tra chống bán phá giá, các trang thiết bị đó là những phương tiện hỗ trợ cho các chuyên gia, cán bộ tiến hàng công tác này được hiệu quả hơn. Tính hiệu quả thể hiện ở chỗ nó tiết kiệm thời gian, công sức con người. Ở đây, sự tiết kiệm thời gian là vô cùng có ý nghĩa vì như ta đã biết khoảng thời gian cho phép tiến hành điều tra có phải là vô hạn mà được ấn định trong một thời gian nhất định. Và nói chung sức ép về thời gian ở đây là rất lớn. Chẳng hạn, theo qui định của WTO, thời gian đi đến quyết định cuối cùng chỉ là 6 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra mà khối lượng công việc trong thời gian ngắn ngủi đó lại rất lớn gồm cả điều tra bán phá giá và điều tra thiệt hại. Trong khi đó, nếu chúng ta không tuân thủ thì sẽ lại mất quyền điều tra và theo đó mất quyền áp dụng thuế chống bán phá giá.
Nói thì nghe có vẻ rất dễ nhưng thực tế để trang bị được đầy đủ những máy móc, thiết bị phục vụ cho công tác này thì không dễ chút nào. Theo đó, văn phòng làm việc cần phải được trang bị hệ thống máy tính được nối mạng và có chương trình bảo mật đặc biệt. Máy tính sẽ giúp cho việc lưu trữ thông tin thu thập được rất hiệu quả, chương trình bảo mật đảm bảo việc giữ kín những thông tin bí mật được các bên cung cấp nhưng không cho phép “rò rỉ” ra bên ngoài (như luật đã quy định). Các cán bộ được trang bị máy tính xách tay để tiện cho công tác điều tra. Việc ứng dụng Internet cho phép các chuyên gia chống bán phá giá có thể thu thập thông tin tại chỗ (Desk research) từ các nguồn như các bộ ngành liên quan, đặc biệt từ các cơ quan Tham tán thương mại ở nước ngoài (có thể cách xa Việt Nam tới nửa vòng trái đất). Đó là những thông tin về chi phí sản xuất ở nước nhập khẩu và các chi phí khác để xác định giá xuất khẩu và giá trị thông thường. Hơn nữa, hiện nay Internet còn có một ứng dụng rất hay nữa là phương thức one-call connection cho phép gọi điện thoại qua mạng giá cước rất rẻ, ta cũng nên trang bị cho cơ quan làm việc này. Các thiết bị văn phòng khác như điện thoại, máy photocopy, fax, máy in, máy hủy tài liệu... cũng nằm trong những trang thiết bị tối thiểu cần có. Tùy từng vụ kiện cụ thể lại đòi hỏi những phương tiện khác nữa thì cũng nên đảm bảo cho tốt.
3.3.6. Tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh ngăn chặn tệ nạn buôn lậu, chống gian lận thương mại
Theo đánh giá của Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan và các cơ quan chức năng khác, tình hình buôn lậu ở nước ta trong năm qua không giảm, mà có chiều hướng gia tăng trên một số lĩnh vực, diễn biến ngày càng phức tạp. Buôn lậu đang làm cho thuế xuất nhập khẩu thất thu lớn, tạo cơ hội cho hàng thừa ế, hàng kém phẩm chất, hàng hết thời hạn sử dụng ở nước ngoài tràn vào bán phá giá ở thị trường Việt Nam, gây tổn thất lớn cho các nhà sản xuất ở trong nước vì cuộc cạnh tranh trên thị trường bất bình đẳng.
Hàng buôn lậu vào nước ta gồm hàng trăm chủng loại, nhưng thường tập trung nhiều nhất vào những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Nổi bật như: thuốc lá các loại hơn 200 triệu bao/năm, xe đạp Trung Quốc và Nhật Bản (xe đã qua sử dụng) là 300.000 cái/năm, hàng điện tử và điện lạnh của Trung Quốc và Nhật Bản (hàng cũ) khoảng 100.000 cái/năm, vải các loại khoảng 20 triệu mét, giá trị hơn 500 tỷ đòng, quần áo may sẵn chủ yếu đã qua sử dụng nhập lậu vào mỗi năm hàng trăm tấn, hàng vạn máy diezen, máy làm đất từ 6 đến 20 sức ngựa và hàng nghìn xe vận chuyển cỡ nhỏ của các tỉnh phía nam Trung Quốc sản xuất. Hàng “bãi rác” của Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã được nhập lậu vào nước ta. Nhiều mặt hàng tiêu dùng như quạt điện, nồi cơm điện, thuốc chữa bệnh, đồng hồ đeo tay, phụ tùng xe gắn máy 2 bánh, hàng mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em, kẹo bánh và các nhu yếu phẩm khác đã nhập lậu vào nước ta với khối lượng đáng kể, bày bán công khai ở khắp mọi nơi...
Hàng nhập lậu vào nước ta hiện nay chủ yếu qua đường biên giới các tỉnh phía Bắc, biên giới các tỉnh Tây Nam, qua đường biển từ Quảng Ninh đến Minh Hải, Kiên Giang. Bằng đủ các loại phương tiện: thuê cửu vạn cõng vác hàng qua biên giới, thuê thuyền nhỏ phần tán hàng trước khi tàu vào cảng; nhiều tàu viễn dương ngang nhiên buôn lậu với số hàng lớn... Gần đây gian lận thương mại trong xuất khẩu phát triển nhanh và nghiêm trọng nhằm mục đích trốn lậu thuế xuất nhập khẩu. Bằng các thủ đoạn như: khai báo không đúng số lượng chủng loại hàng hoá nhập khẩu; khai báo giá hàng nhập khẩu thấp hơn nhiều so với giá thực tế để giảm mức thuế phải nộp; khai báo không đúng nơi xuất xứ hàng hoá nhập khẩu...
Thành phần tham gia buôn lậu trốn thuế ở nước ta thật đa dạng, phong phú và muôn hình, muôn vẻ khác nhau. Xuất phát từ lợi ích cục bộ, địa phương, nhiều công ty Nhà nước có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu, trực tiếp tham gia buôn lậu, hoặc tạo điều kiện cho bọn buôn lậu sử dụng làm “bình phong” nép bóng. Thậm chí một số người xấu, thoái hoá biến chất trong các lực lượng chống buôn lậu bị bọn buôn lậu trong nước và nước ngoài móc nối, đã lũng đoạn và vô hiệu hoá hoạt động của cơ quan này.
Các tổ chức doanh nghiệp và cá nhân kinh tế ngoài quốc doanh là những đối tượng tham gia buôn lậu, trốn thuế nhiều nhất và với số lượng ngày càng tăng. Số vụ buôn bán hàng ngoại nhập và trốn thuế đã bị phát hiện và xử lý thuộc thành phần này chiếm tới 80% trong tổng số vụ do các lực lượng chống buôn lậu đã phát hiện được.
Một số công ty liên doanh với nước ngoài hoặc công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài vi phạm quy định về tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ trong nước theo giấy phép đầu tư. Nhập vật tư, nguyên liệu, thiết bị để xây dựng xí nghiệp được miễn thuế nhập khẩu, nhưng đã đem bán ra thị trường, hoặc nhập nguyên liệu để sản xuất nhưng thực tế đã nhập sản phẩm vào bán tại thị trường nước ta cũng đã làm thất thu thuế nhập khẩu, góp phần vào tình trạng bán phá
giá, gây rối thị trường, làm cho doanh nghiệp trong nước chịu nhiều thua thiệt.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, gần đây ngân sách Nhà nước mỗi năm thất thu từ 3.000-3.200 tỷ đồng do không kiểm soát được tình trạng buôn lậu. Trong các loại hàng nhập lậu, rượu ngoại trốn thuế nhập khẩu cao nhất 1.000-1.200 tỷ đồng, sau đó là thiết bị điện dân dụng 500 tỷ đồng, sản phẩm may mặc 300 tỷ, xe đạp địa hình 100 tỷ, mỹ phẩm 130 tỷ, bia 150 tỷ...
Tình trạng buôn lậu đã và đang gây ra những hậu quả nguy hại về nhiều mặt kinh tế và xã hội, cản trở quá trình phát triển lành mạnh của nền kinh tế nước ta. Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho các cấp chính quyền và các ngành trong cả nước phải tạp trung lực lượng để chống lại các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là các hoạt động buôn lậu có tổ chức, coi đó là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên và lâu dài. Tổng cục Hải quan, Bộ Nội vụ, Bộ Thương mại và Bộ Tài chính đang phối hợp triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để cùng với các địa phương và các ngành hữu quan khác trong cả nước đồng thời cùng thực hiện các phương án đấu tranh chống buôn lậu có hiệu quả, xử lý nghiêm các vụ buôn lậu, gian lận thương mại để răn đe và giáo dục chung.
Để làm tốt hơn nữa công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại, kiến nghị một số biện pháp chính sau:
Thứ nhất: Các cơ quan Nhà nước cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với hàng nhập lậu. Những hàng tiêu dùng sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng về chất lượng và số lượng thì cần có biện pháp thích hợp để hạn chế số lượng nhập nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.
Thứ hai:Ban hành quy chế buôn bán biên giới, xác định rõ đối tượng mặt hàng được phép buôn bán ở biên giới.
Thứ ba: Thực hiện kiên quyết quy định về chế độ hoá đơn chứng từ và sổ sách kế toán. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng ngoại nhập (trước hết là rượu, xe đạp, hàng điện máy, thuốc tây) nếu không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp sẽ bị tịch thu. Tất cả các loại hàng hoá mua bán qua biên giới phải theo quy định của Hải quan. Nghiêm cấm các ngành, địa phương tổ chức thu thuế các hàng hoá không làm thủ tục thu thuế tại Hải quan để hợp thức hoá hàng lậu.
Thứ tư: Việc thanh toán đối với hàng hoá buôn bán phải thông qua các ngân hàng thương mại được ngân hàng Nhà nước giao trách nhiệm phụ trách việc buôn bán qua biên giới.
Thứ năm: Ngành y tế và thương mại phối hợp chặt chẽ trong việc khảo sát, kiểm tra cấp giấy phép chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho các loại thực phẩm nhập khẩu. Mọi loại thuốc chữa bệnh nhập khẩu phải có kiểm nghiệm lại, xác định thời hạn sử dụng trước khi lưu hành. Thuốc phi mậu dịch buộc phải hủy nếu không rõ nguồn gốc chất lượng.
Cuối cùng là củng cố lại các tổ chức chống buôn lậu trên từng địa bàn, quyết định cơ chế phối hợp giữa các lực lượng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
3.3.7. Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế nhằm áp dụng thành công các biện pháp chống bán phá giá
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế ngày càng tác động mạnh mẽ thông qua quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, nhiều quốc gia (trong đó đa phần là các nước công nghiệp phát triển) vẫn tiếp tục dùng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan như những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ lợi ích riêng của họ và để trả đũa trong thương mại quốc tế. Những hành động này đã và đang gây nên các tranh chấp thương mại, có khi phát triển thành cuộc chiến tranh thương mại.
Thực tế cho thấy, vài năm gần đây, người ta chứng kiến ngày càng nhiều vụ tranh chấp thương mại giữa các nước. Khi các tranh chấp xảy ra, trước hết hai bên đều lấy thủ tục dàn xếp tranh chấp của WTO làm phương tiện giải quyết. Sau khi không đạt được thoả thuận, hai bên sẽ tiến hành “trả đũa” lẫn nhau. Có thể kể ra hàng loạt các vụ trả đũa gần đây như: vào năm 1995, EU cấm nhập thịt bò xử lý hóc môn của Mỹ và ngay sau đó Mỹ đã kiện EU lên WTO và vào ngày 17/5/1999 Mỹ đã trả đũa bằng cách đánh thuế nhập khẩu 116,8 triệu USD đối với các loại thực phẩm của EU như giăm bông Đan Mạch, Sôcôla của Đức, mù tạt Dijon của Pháp. Hay một ví dụ khác như cuộc “chiến tranh chuối” giữa EU với Mỹ và Ecuađo suốt nhiều năm qua. Có thời kỳ cuộc chiến này là điểm nóng, là nguyên nhân gây ra những biện pháp trả đũa lẫn nhau rất gay gắt trong thương mại giữa hai khối kinh tế hùng mạnh nhất thế giới này...
Ở đây, chúng ta không đi sâu bình luận bên nào đúng bên nào sai mà qua các ví dụ nêu trên chúng ta cần thấy một điều rằng nguy cơ bị trả đũa trong thương mại là rất lớn, đặc biệt là đối với những nước nghèo vốn “thấp cổ bé họng”. Trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá cũng vậy. Nếu tranh chấp bán phá giá diễn ra giữa hai nước: một bên là nước phát triển và bên kia là nước đang phát triển và nếu nước đang phát triển bị áp dụng thuế chống bán phá giá thì chẳng có vấn đề gì xảy ra cả nhưng nếu đó lại là nước phát triển bị áp dụng thuế chống bán phá giá thì chắc chắn nước đang phát triển kia sẽ không tránh khỏi bị một đòn “trả đũa”. Như vậy, nếu xảy ra trả đũa trong trong một vụ tranh chấp bán phá giá thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ trở thành vô hiệu vì bản thân một số hàng hoá nào đó của nước tiến hành đánh thuế phá giá ấy cũng sẽ phải chịu mức thuế chống bán phá giá tương đương thậm chí cao hơn.
Trở lại vấn đề chống bán phá giá ở Việt Nam có thế thấy rằng việc đưa ra một mức thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu chưa phải là đã xong xuôi mọi việc. Vấn đề đặt ra là cần phải đảm bảo rằng việc áp dụng loại thuế ấy sẽ thành công một cách mỹ mãn. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam còn là một nước nhỏ, nghèo và đang phát triển thì để tránh những biện pháp trả đũa của bên kia đối với hoạt động chống bán phá giá của ta thì không còn cách nào khác là phải nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đây là một giải pháp tổng hợp, theo đó chúng ta cần nâng cao hơn nữa vị thế chính trị, kinh tế, văn hoá,... của nước ta. Chúng ta cần đẩy mạnh tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn nữa; có chính sách ngoại giao khôn khéo để có thể chung sống được với cả những nước có thể chế chính trị đối ngược với ta, với phương châm “hoà nhập nhưng không hoà tan” giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; thông qua các hiệp hội, tổ chức quốc tế tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung nóng bỏng của thế giới và khu vực. Có như vậy mới giành được sự kính trọng và nể phục của bè bạn quốc tế.
Nhưng như thế thôi chưa đủ, người ta thường bảo “mạnh vì gạo, bạo vì tiền” mà cho nên muốn có “tiếng nói” trong cộng đồng quốc tế thì cái quan trọng hơn cả là tiềm lực kinh tế. Đó chính là sức mạnh kinh tế mà sức mạnh ấy được thể hiện rõ ràng thông qua sự giàu có, thịnh vượng, sức cạnh tranh của quốc gia... Trong bối cảnh Việt Nam như hiện nay, để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia nói chung và sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ nói riêng thì cần tiến hành ngay những biện pháp như cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trong của khu vực Nhà nước (Doanh nghiệp Nhà nước); đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng một số Tổng công ty mạnh theo hướng tập đoàn kinh tế...; tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh; thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định; phát triển nguồn nhân lực... Và bước đi “khôn ngoan” trước mắt là cần chủ động đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO. Là thành viên WTO thì uy tín của Việt Nam cũng tăng lên bởi vì phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn của tổ chức này mới được trở thành thành viên của nó. Hơn nữa chỉ khi nào là thành viên của tổ chức này thì Việt Nam mới tránh được sự phân biệt đối xử trong thương mại, bao gồm cả việc giải quyết tranh chấp về bán phá giá và khi đó chúng ta mới có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp khá công bằng của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
KẾT LUẬN
Trong thương mại quốc tế hiện nay, bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và không bị cấm theo các quy định của WTO. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của các nước thành viên, WTO đã thông qua Hiệp định chống bán phá giá của WTO. Hiệp định này đưa ra định nghĩa cụ thể khi nào hàng nhập khẩu bị coi là bán phá giá dựa trên hai tiêu chí là giá xuất khẩu thấp hơn giá bán trong nước hoặc thấp hơn chi phí sản xuất. Hiệp định cũng qui định chặt chẽ về điều tra thiệt hại của ngành sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Mỗi thành viên của WTO chỉ có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước. Nhìn chung, qui định của các nước về chống bán phá giá đều dựa trên Hiệp định về chống bán phá giá của WTO.
Việt Nam đang trên đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thể hiện qua việc tham gia ASEAN, AFTA và APEC và sắp tới là WTO. Tháo gỡ mọi rào cản của thương mại quốc tế là mục tiêu của WTO. Chúng ta phải am hiểu những quy tắc cạnh tranh trong kinh doanh để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh theo hướng thúc đẩy hội nhập và phát triển kinh tế một cách năng động. Bảo hộ mậu dịch không phải là một chính sách tốt cho quá trình kinh tế theo xu thế hội nhập. Tuy nhiên, Nhà nước và các doanh nghiệp cần phát hiện và tìm cách xử lý kịp thời các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có vấn đề bán phá giá hàng hoá nhập khẩu của các hãng nước ngoài.
Cho nên, việc ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến chống bán phá giá hàng hoá; sự am hiểu của các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề bán phá giá; việc hình thành một cơ quan chuyên trách theo dõi, thực thi vấn đề này cùng với việc tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại; đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO... là những giải pháp hữu hiệu cho chống bán phá giá hiện nay ở Việt Nam cần được nhanh chóng thực thi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
I. Tiếng Việt
PGS.TS. Nguyễn Thị Mơ - Hoàng Ngọc Thiết - Giáo trình pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại - NXB Giáo dục 1997.
Bộ Thương Mại - Những điều cần biết về Tổ chức Thương mại Thế giới.
PGS.TS. Võ Thanh Thu - Kinh tế đối ngoại - NXB Thống kê.
Đoàn Văn Trường - Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu - NXB Thống kê.
II. Tiếng Anh
Raj Krishna - Antidumping in law and practice- the Policy Research Dissemination Center - World Bank.
Yves Renouf, Legal affairs officer, Rules Division, WTO - Exporters Rights and Obligations under the WTO Anti-Dumping Agreement.
B. Báo chí
Tạp chí Kinh tế Đối ngoại. Số 2 - 2002, Số 4 - 2003.
Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới. Số 3 - 2003.
Tạp chí Kinh tế và Dự báo. Số 1, 7 - 2003.
Tạp chí Thương mại. Số 3, 4, 5, 10, 12, 20 - 2003.
Tạp chí Ngoại Thương. Số 21 - 2002.
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế. Số 298, 301- 2003.
C. Internet
Loạt bài theo dõi vụ kiện tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa trên Vn Express – FPT.
D. Các tài liệu khác
Báo cáo của Ủy ban Chống bán phá giá - Ban Thư ký WTO, cập nhật hàng tháng.
Điều lệ Chống bán phá giá và Chống trợ cấp của nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa.
Hiệp định Chống bán phá giá của WTO.
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ.
Luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu.