Đề tài Kinh tế công cái giá của tăng trưởng kinh tế ở những tỉnh nghèo

Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Đặc biệt Việt Nam là nước đang phát triển, đang chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức thì mối quan hệ này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Việc tìm ra một chính sách giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội đang là câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng, Chính phủ và toàn dân. Bởi lẽ, có giải quyết tốt mối quan hệ này mới có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững, xã hội công bằng, tiến bộ là nền tảng vững chắc cho sự cất cánh của nền kinh tế.

docx39 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế công cái giá của tăng trưởng kinh tế ở những tỉnh nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân phối lại. Phân tích : Độ thỏa dụng biên của A MUA Độ thỏa dụng biên của B MUB e f n O m b a O’ Thu nhập của A Thu nhập của B 1.5.2.4 Đánh giá Ưu điểm : Đưa ra một nguyên tắc về phân phối lại là phân phối cho đến khi độ thỏa dụng biên của tất cả các cá nhân trong xã hội bằng nhau. Nếu các giả định của thuyết vị lợi được thõa mãn thì phân phối lại thu nhập cuối cùng sẽ đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối giữa các thành viên. Nhược điểm : Ba giả định được đánh giá là quá chặt chẽ, không có tính khả thi trên thực tế. Nếu các cá nhân được phép có các hàm thỏa dụng biên khác nhau thì không có gì đảm bảo điểm phân phối thu nhập tối ưu lại chính là điểm giữa đoạn OO’. Mặc dù quy luật thỏa dụng biên giảm dần đúng với đa số các hàng hóa nhưng chưa chắc đã đúng với thu nhập. Nếu hàm thỏa dụng biên không bằng nhau thì phân phối lại tại điểm m chưa chắc đã xóa bỏ được sự phân cách giàu nghèo. Khi tiến hành phân phối lại có thể bị thất thoát nguồn lực. 1.5.2.5 Kết luận Phân phối thu nhập tối ưu theo thuyết vị lợi sẽ là phân phối thu nhập có : MUA = MUB. Khi đó, phân phối thu nhập tuyệt đối bình đẳng. 1.5.3 Quan điểm bình quân đồng đều Nội dung Với một lượng thu nhập quốc dân cố định, quan điểm bình quân đồng đều cho rằng phải phân phối lượng thu nhập đó sao cho tổng độ thỏa dụng của mọi người là như nhau. Hàm phúc lợi xã hội: W = U1 = U2 = … = Un Nếu hàm thỏa dụng biên của mọi cá nhân là như nhau thì quan điểm này cũng giống với thuyết vị lợi là đều dẫn đến kết quả phân phối thu nhập hoàn toàn bằng nhau cho tất cả mọi người. Nếu hàm thỏa dụng biên của mọi cá nhân là khác nhau thì hình thái chênh lệch thu nhập giữa hai quan điểm này sẽ khác nhau. Hạn chế : Quan điểm bình quân đồng đều chỉ chấp nhận sự khác biệt về mức thỏa dụng do những nhân tố khách quan tạo ra như qui mô gia đình, tình trạng sức khỏe… chứ không chấp nhận những khác biệt do sở hữu tài sản hay các nhân tố chủ quan khác. Quan điểm này tuy có thể giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa hai người nhưng đồng thời cũng làm giảm thu nhập của cả hai. Bên cạnh đó, quan điểm cũng có thể dẫn đến một thái cực phải hi sinh tính hiệu quả rất nhiều và rất khó chấp nhận trừ khi xã hội sẵn sàng dánh đổi tính hiệu quả lấy sự công bằng với cái giá rất cao. 1.5.4 Thuyết cực đại thấp nhất ( Thuyết Rawls ) 1.5.4.1 Nội dung và hàm phúc lợi xã hội Nội dung PLXH chỉ phụ thuộc vào lợi ích của người nghèo nhất.Vì vậy, muốn PLXH đạt tối đa thì phải cực đại hóa độ thỏa dụng của người nghèo nhất. Hàm PLXH : Thuyết Rawls đặt trọng số bằng 1 đối với người có mức thỏa dụng thấp nhất, còn những người khác có trọng số bằng 0. W = minimum{U1, U2, … , Un} 1.5.4.2 Mô tả Đường bàng quan xã hội theo thuyết Rawls có dạng chữ L, có độ dốc bằng 0 hoặc bằng 1 và đỉnh của chữ L nằm trên đường phân giác góc O. Theo đó, đường bàng quan xã hội cao nhất tiếp xúc với đường khả năng thỏa dụng tại đỉnh chữ L cũng là điểm tối ưu hóa PLXH (điểm E trong hình vẽ). 1.5.4.3 Phân tích Bắt đầu từ việc phân phối lại bằng cách tăng độ thỏa dụng cho người nghèo nhất đến khi địa vị của họ được cải thiện sẽ chuyển sang đối tượng khác mà lúc này có mức địa vị thấp nhất trong xã hội. Vì vậy, phân phối lại thu nhập chỉ dừng lại khi độ thỏa dụng của mọi cá nhân bằng nhau hoặc độ thỏa dụng của người nghèo nhất đạt tối đa. Điều đó có nghĩa là, điều kiện tối đa hóa PLXH theo thuyết cực đại thấp nhất là : W = U1 = U2 = … = Un Nếu như tổng thu nhập quốc dân không đổi thì thuyết Rawls sẽ giống như quan điểm bình quân đồng đều, tức là phân phối thu nhập tuyệt đối bình đẳng nhưng khác ở chỗ phải bắt đầu từ việc nâng cao phúc lợi cho người thấp nhất. 1.5.4.4 Đánh giá Ưu điểm : Khắc phục được một phần nhược điểm của thuyết vị lợi do đặt trọng số 100% vào phúc lợi của người nghèo. Nếu giả thiết của thuyết này được thỏa mãn thì phân phối PLXH cuối cùng sẽ đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối. Hạn chế : Thuyết này dễ dẫn đến chủ nghĩa bình quân làm giảm động lực phấn đấu ở nhóm người nghèo và giảm động cơ làm việc ở nhóm người có năng lực, do đó làm giảm năng suất lao động xã hội. Thuyết này vẫn chấp nhận cách phân phối làm cho lợi ích của người giàu tăng nhiều hơn lợi ích của người nghèo. 1.5.4.5 Kết luận Kết quả cuối cùng phân phối tối ưu xã hội sẽ đạt được khi : UA = UB. 1.5.5 Các quan điểm không dựa trên độ thỏa dụng cá nhân Cần quan tâm đến một mức sống tối thiểu mà tất cả mọi cá nhân trong xã hội có quyền được hưởng, được xác định trực tiếp bằng thu nhập mà bằng những hàng hoá tiêu dùng được coi là thiết yếu như thực phẩm, quần áo, học hành, chữa bệnh, nhà ở.... Chi phí cho những khoản tiêu dùng tối thiểu này sẽ được tập hợp lại để tính ra mức thu nhập tối thiểu mà những ai có thu nhập dưới mức tối thiểu sẽ được chính phủ giúp đỡ qua các chương trình trợ cấp và an sinh xã hội. Các lý thuyết phân phối thu nhập có sự đa dạng, thậm chí mâu thuẫn trong nhận thức, lý giải về các vấn đề phân phối thu nhập. Điều này cho thấy phân phối thu nhập là một vấn đề phức tạp, liên đới cả kinh tế - chính trị và xã hội, mặt khác, nó còn phản ánh sự khó khăn trong việc vận dụng lý thuyết phân phối thu nhập để có được các chính sách phân phối thu nhập hợp lý. CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VIỆC TĂNG TRƯỞNG, TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH NGHÈO 2.1 Thực trạng tăng trưởng của các tỉnh nghèo Việt Nam 2.1.1 Thành tựu tăng trưởng của các tỉnh nghèo giai đoạn 2000-2010 Tính từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ năm 1991 đến nay, có thể thấy các nghị quyết của Đảng đều quán xuyến quan điểm: Gắn các vấn đề kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, đặc biệt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo (được Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5-2002), đều thể hiện rất rõ quan điểm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong bài toán phát triển. Do đó, Việt Nam luôn chú trọng định hướng phát triển kinh tế hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Để thực thi chiến lược phát triển toàn diện, bên cạnh việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng phải được sử dụng một cách có hiệu quả. Việc định hướng và triển khai thực thi những chiến lược một cách cụ thể mà chúng ta đã đạt được một số thành tựu nổi bật : Về kinh tế, kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng bình quân 7,2%/năm; GDP bình quân đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể. Bên cạnh đó, tiến bộ và công bằng xã hội càng thể hiện rõ nét hơn những thành quả của tăng trưởng kinh tế.Nhờ đường lối sáng suốt của Đảng ta trong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tiến bộ xã hội, chúng ta đã rất thành công trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo; nhất là các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống còn khoảng 11% (năm 2009). Bên cạnh đó, chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộc nhóm trung bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798). Bảo hiểm y tế được mở rộng đến 52% dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ trách. Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi.Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 20%. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v.. Những thành tựu nêu trên phần nào phản ánh được sự đúng đắn trong đường lối đổi mới của Đảng nói chung và trong Chiến lược xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2010 nói riêng. Tuy vậy, trong quá trình thực thi chính sách, vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cùng nhiều vấn đề xã hội khác đang đặt ra. 2.1.2 Mặt trái của sự tăng trưởng Với quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng cao liên tục của Chính phủ, cùng với chỉ tiêu tín dụng hàng năm hơn 30% trong những năm trở gần đây lại gây tác động tiêu cực khiến thị trường Việt Nam tràn ngập dòng vốn và gây ra nhiều vấn đề đối với đồng nội tệ, đẩy lạm phát lên mức cao, như mức lạm phát ở các thị trường mới nổi khác, làm giảm niềm tin vào tiền đồng do người dân nghi ngờ việc Chính phủ có thể kiểm soát giá cả tăng trong những tháng tới. Bên cạnh đó, Việt Nam lại thâm hụt thương mại lớn.Điều này cũng gây áp lực giảm giá lên tiền đồng.Tiền đồng đã mất khoảng 1/5 giá trị so với USD kể từ giữa năm 2008.Khi tiền đồng yếu đi thì giá hàng hóa nhập khẩu tăng, điều này lại tiếp tục gây lo ngại lạm phát cao. Mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế ngoạn mục nhưng nếu tiến bộ và công bằng xã hội lại không được quan tâm, cải thiện thì sự tăng trưởng đó cũng không có ý nghĩa. Hệ số GINI chia theo thành thị, nông thôn và vùng : (Nguồn : TCTK) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, sự bất bình đẳng ở nước ta vẫn tiếp tục tăng, điều này cũng được thể hiện thông qua hệ số GINI của khu vực thành thị với nông thôn và giữa các vùng. Sự bất bình đẳng này là tương đối cao và có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng nữa nếu như không có một chính sách hay phương hướng hiệu quả nào để giải quyết tình trạng bất bình đẳng này. 2.2 Quan hệ tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay 2.2.1 Thực trạng về mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Đặc biệt Việt Nam là nước đang phát triển, đang chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã một lần nữa khẳng định: "… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường" và đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội  bức xúc". Tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 - 2010 là: "Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng". Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một số điểm cơ bản sau: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế . Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ. Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người. Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội. 2.2.2 Thành tựu Thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam), quá trình đổi mới tư duy của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ba trụ cột chính của đổi mới tư duy: Nhất là tư duy kinh tế, là: Thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách mở cửa, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những tư duy này được phát triển qua các đại hội Đảng tạo nên tính năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, huy động các nguồn lực phát triển kinh tế. Hình thành cơ chế chính sách, huy động các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và người lao động phát triển sản xuất kinh doanh, xem mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận; khẳng định chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo. Kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng bình quân 7,2%/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính phủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể. Về giáo dục và khoa học, công nghệ: Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững. Thực hiện sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa. Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã khẳng định chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm tạo điều kiện cho mọi người với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển, sử dụng tốt năng lực của mình. Về nhận thức: Quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội: từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển sang tinh thần năng động, chủ động và tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm về việc xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh Hơn nữa, nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội nên kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 - 2008, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và là một trong số ít nước có tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2009. Việt Nam sớm khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế và có nhiều triển vọng tiếp tục tăng trưởng kinh tế khá cao trong những năm tiếp theo. Bảng sau đây cho chúng ta thấy điều đó: Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 6,8 6,9 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,18 5,32 Nguồn: Niên giám thống kê Nhìn chung, sau những năm đổi mới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. 2.2.3 Hạn chế Thách thức đặt ra về tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội cho Việt Nam hiện nay là rất to lớn và phức tạp: Thứ nhất, bởi tăng trưởng kinh tế luôn ở mức dưới tiềm năng và thiếu bền vững; chủ yếu dựa trên xuất khẩu và các yếu tố tài nguyên; chất lượng thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam liên tục bị giảm bậc, chỉ số cạnh tranh của môi trường kinh doanh cũng ở thứ hạng thấp. Thứ hai, tỷ lệ nghèo đói so với chuẩn thế giới còn lớn. Những mặt trái của cơ chế thị trường đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp như: phân hóa giàu nghèo gia tăng; sự cách biệt về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền; sự gia tăng các tệ nạn xã hội Thứ ba, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính sách điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển một bộ phận nông dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, chúng ta chưa có các chính sách và giải pháp thực sự hữu hiệu để giải quyết bài toán khó khăn này. Ngược lại, ở nhiều địa phương, chính quyền chủ yếu chỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một số tiền theo kiểu "áp đặt giá mua", trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổ chức cuộc sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm. Nhiều người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu "thuận mua vừa bán" trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quan trọng nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người. Sự phản ứng của xã hội trong thời gian gần đây về tình hình mất đất nông nghiệp, sử dụng lãng phí quỹ đất phi nông nghiệp... cũng là hệ quả của tình hình trên. Thứ tư, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v.. Điển hình nhất là thương mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ trương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh y tế, giáo dục. Ai cũng biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không thể vừa cho lập công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận. Trong khi đó, y tế, giáo dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường. Một khi để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn được khoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phần nâng cao tính chất công bằng xã hội. Thứ năm, môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng ảnh hưởng đến các thế hệ mai sau. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp hiệu quả giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước phát triển giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào thị trường cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế. Sự thất bại của thị trường thậm chí sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và sẽ tạo nên những cuộc khủng hoảng kinh tế. CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 3.1 Vai trò của nhà nước trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Vấn đề tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và an sinh xã hội được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nó thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội khác. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Trên thực tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh ngày càng tốt hơn. Phúc lợi xã hội và an sinh xã hội được chú trọng và từng bước mở rộng. Tuy nhiên, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Văn kiện Đại hội XI tiếp tục phát triển những vấn đề lý luận về tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, an sinh xã hội. Một là, “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” là một nội dung được xác định trong các phương hướng cơ bản cần quán triệt và thực hiện tốt. Hai là, trong các mối quan hệ lớn phải đặc biệt chú trọng nắm vững và thực hiện tốt, có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ba là, văn kiện đã nêu những định hướng lớn về chính sách xã hội, trong đó xác định: Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ và phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách, phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước... 3.2 Các chính sách, giải pháp Nhà nước áp dụng Chương trình 135 Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998, gồm 3 giai đoạn: giai đoạn I (1997-2006), giai đoạn II (2006-2010) và giai đoạn III (2011-2015). Chương trình 135 gồm hợp phần: phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển cơ sở hạ tầng trung tâm cụm xã,… Thành tựu Tổng kết 5 năm triển khai Chương trình cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống 28,8% (năm 2010). Thu nhập bình quân của đầu người đạt 4,2 triệu đồng/người/năm. Tăng tỷ lệ xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản đạt 80,7%, 100% xã có trạm y tế; 100% người dân có nhu cầu được trợ giúp pháp lý miễn phí. Dự án đầu tư của Chính phủ qua chương trình 135-CP gồm dự án đầu tư điện, đường, trường, trạm, chợ, thông tin đã cơ bản đến tận hầu hết các thôn bản.  Vùng sâu heo hút được cấp phát dầu, đèn, muối Iốt và cả thuốc chữa bệnh. Các xã đã có trường học cao tầng ở cả 3 cấp học: Trung học cơ sở, tiểu học và bậc học mầm non.  Lớp học có điện thắp sáng, có bàn ghế, bảng chống loá và đầy đủ các phương tiện đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học. Trụ sở làm việc của hầu hết các xã đã khang trang. Nhiều xã có nhà cao tầng, có nhà văn hoá cộng đồng, có Bưu điện văn hoá.  Đường giao thông hầu hết được đầu tư xây dựng, cơ bản đường qua sông suối đã có cầu cứng, cầu treo hoặc xây đập tràn phục vụ giao thông đi lại thuận tiện. Thông tin được phủ sóng, các trạm truyền hình được lắp đặt tiếp phát sóng phục vụ bà con.  Ngoài việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hàng năm Chính phủ đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để tập huấn nâng cao nhận thức cho bà con. Các chính sách hỗ trợ để khôi phục nghề truyền thống như: Dệt thổ cẩm, đan lát, làm gối đệm bằng bông lau và dạy nghề mới. Trợ cước, trợ giá, cấp máy móc, công cụ và cả giống cây trồng, vật nuôi cho bà con phát triển sản xuất và chăn nuôi. Bên cạnh chương trình 135-CP, còn có các chương trình 134-CP, chương trình hỗ trợ phát triển cộng đồng, chính sách xoá nhà tạm bợ, xoá nhà dột nát, quỹ tình nghĩa, quỹ vì người nghèo... làm cho bộ mặt nông thôn, miền núi khởi sắc.  Thôn, bản đã ngày càng nhiều thêm nhà sàn kê, lợp ngói, đời sống cả vật chất và tinh thần ngày càng phong phú hơn. Bà con đau ốm đã có trạm xá, bệnh viện, nạn sốt rét đã cơ bản dập tắt, các hủ tục lạc hậu như ma chay, cưới hỏi, khài cúng cơ bản được đẩy lùi.  Con em đến tuổi được đến trường, nhiều hộ nhờ nắm bắt nhanh, tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ đã trở nên giàu có, tỷ lệ hộ đói cơ bản đã không còn, tỷ lệ hộ nghèo đang giảm mạnh. Hạn chế Trong quá trình triển khai các chương trình ở một số địa phương vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Sự phối hợp của các bộ, ngành chưa chặt chẽ, tham mưu, thẩm định phê duyệt nhiệm vụ, kế hoạch định canh, định cư chưa sát với thực tế, điều kiện hoàn cảnh của địa phương; công tác điều tra, rà soát tổng hợp đối tượng thụ hưởng chính sách còn chậm, thiếu chính xác, như các tỉnh: Bình Phước, Đăk Nông, Quảng Trị... Các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An, Gia Lai... đưa đối tượng là những người dân đã sinh sống ổn định, nhưng do thiếu đất sản xuất, thiếu nước, sống phân tán... vào đối tượng thụ hưởng của chương trình. Hiệu quả của các dự án đều chưa tương xứng với nguồn vốn do Nhà nước đầu tư. Hầu hết các dự án mới chỉ tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng tiến độ thực hiện lại đạt thấp từ 45-50% khối lượng công việc. Dự án ổn định và phát triển nông, lâm nghiệp gắn với tiêu thụ sản phẩm và dự án đào tạo cán bộ cơ sở là một trong nhiệm vụ then chốt trong việc thực hiện chương trình, nhưng 2 dự án này chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc phân cấp quản lý đầu tư đa số vẫn còn là cấp huyện làm chủ đầu tư, chưa dám mạnh dạn phân cấp cho các xã, số xã làm chủ đầu tư không những không tăng mà còn giảm theo thời gian. Nếu như năm 2001 có 8/28 xã làm chủ đầu tư các công trình thì đến năm 2011 chỉ xuống 4/28 xã. Việc thực hiện các phương châm, mục tiêu của Chính phủ quy định trong các dự án chương trình như: "dân chủ công khai"; "dân biết dân làm dân kiểm tra"; "xã có công trình dân có việc làm" cũng còn nhiều khiếm khuyết. Đối với việc việc nghiệm thu bàn giao và quản lý sử dụng và bảo dưỡng các công trình, các Ban quản lý dự án chưa hướng dẫn cách thức sử dụng, quy trình vận hành, quản lý, bảo trì để địa phương và nông dân quản lý sử dụng. Vì thế, một số công trình đầu mối về thủy lợi, hệ thống cửa của các công trình dân dụng, hệ thống máy bơm nước sạch không được nông dân bảo vệ. Một số công trình chợ, trạm khuyến nông, lâm, nhà văn hóa ở các trung tâm cụm xã đặc biệt khó khăn làm xong không được bố trí sử dụng gây lãng phí… Nghị quyết 30a Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo được ban hành và triển khai thực hiện đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được dư luận xã hội đồng tình và đánh giá cao. Thành tựu Bước đầu thực hiện Nghị quyết 30a, tỷ lệ hộ nghèo trung bình của 62 huyện nghèo đã giảm bình quân khoảng 4% trong năm 2009 và giảm binh quân 6% trong năm 2010 đã đạt mục tiêu giảm hộ nghèo xuống mức dưới 40% như Nghị quyết đã đề ra. Thu nhập bình quân đầu người của các huyện tăng từ 2,5 lần, từ 2,5 triệu đông/người/năm (năm 2006) lên 6.0 triệu đồng/người/năm vào năm 2010. Đối với Chính sách hỗ trợ thông qua khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng và giao đất để trổng rừng sản xuất. Tính đến hết năm 2010 các huyện đã giao khoán bảo vệ rừng với tổng số diện tích là gần 981 nghìn ha với tổng số tiền hỗ trợ là gần 125 tỷ đồng, một số tỉnh đã tổ chức tốt chính sách nâng mức hỗ trợ giao khoán, chăm sóc bảo vệ rừng như: Yên Bái với 189 nghìn ha, Lai Châu với 169 nghìn ha…Các tỉnh đã tổ chức tốt việc hôc trợ trồng rừng sản xuất như Thanh Hóa, Hà Giang. Đến nay đã có 13.000 hộ được hưởng chính sách hỗ trợ trồng rừng và hơn 36.000 hộ nhận khoán chăm sóc bảo vệ rừng. Tuy nhiên vẫn còn một số huyện chưa triển khai thực hiện chính sách đối với người dân như: Vân Canh (Bình Định), Tu Mỏ Rông (Kon Tum). Thực hiện quy hoạch sản xuất nông lâm, ngư nghiệp: đã có 34 huyện và 307 xã đã và đang triển khai thực hiện xây dựng quy hoạch phát triển xản xuất nông lâm, ngư nghiệp như các huyện thuộc Sơn La Quảng Trị, Bình Định Yên Bái… Về hỗ trợ lương thực cho hộ nghèo nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng trong thời gian chưa tự túc được lương thực: các địa phương đã hỗ trợ 5.167 tấn lương thực cho 11.077 hộ nghèo nhận khoán chăm sóc, bảo về rừng với tổng số kinh phí là 73 tỷ đồng. Về chính sách tạo đất sản xuất cho hộ nghèo: Các địa phương đã tổ chức khai hoang 1.600 ha đất, phục hóa 1.400 ha và tạo 1.100 ha ruộng bậc thang, giao cho các hộ gia đình với kinh phí 35 tỷ đồng. Một số tỉnh đã triển khai tốt việc tạo đất sản xuất cho hộ nghèo là Ninh Thuận, Nghệ An, Sơn La. Về chính sách hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi: các huyện đã hỗ trợ hơn 306 tỷ đồng hỗ trợ cho chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi chiếm gần 40% tổng kinh phí sự nghiệp hỗ trợ từ ngân sách trung ương, trong đó hỗ trợ giống cây trồng, phân bón chiếm hơn 48% , hỗ trợ cho mua giống chăn nuôi chiếm 36% làm chuồng trại12%, còn lại là hỗ trợ phát triển thủy sản phòng chống dịch bệnh… Về tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư: 09/20 tỉnh đã bố trí cán bộ khuyến nông cơ sở từ cấp huyện, xã đến thôn, bản, các tỉnh cũng đã bố trí kinh phí triển khai thực hiện các mô hình khuyến nông, lâm với tổng kinh phí là 37,8 tỷ đồng trong đó2/3 là hỗ trợ cho các hoạt động khuyến nông và 1/3 là hỗ trợ cán bộ. Ngoài ra kết quả của các chính sách về xuất khẩu lao động, chính sách tín dụng, chính sách đào tạo dạy nghề, nâng cao dân trí…cũng được triển khai và đạt những kết quả nhất định. Hạn chế Văn bản hướng dẫn của một số Bộ ngành về thực hiện Nghị quyết 30a ban hành chậm, thiếu đồng bộ một số văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, cụ thể nên địa phương khó thực hiện; một số chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, người nghèo; địa phương cơ sở triển khai vì không có kinh phí quản lý để chỉ đạo thực hiện như: hỗ trợ sản xuất đối với hộ nghèo, hỗ trợ khai hoang tạo đất sản xuất. Một số chính sách chưa được cụ thể hóa như chính sách y tế, giáo dục đối với huyện nghèo. Vấn đề giao khoán chăm sóc khoanh nuôi bảo về rừng ở một số nơi chưa thực hiện được do rừng được giao cho lâm trường hoặc các tư nhân đấu thầu trước đây, vì vậy vẫn còn tình trạng người dân sống trong khu vực rừng nhưng chưa gắn bó với rừng. Chương trình 5 triệu ha rừng kết thúc khiến các địa phương khó khăn tìm nguồn kinh phí. Một số địa phương chưa chủ động liên hệ đề xuất nhu cầu hỗ trợ với các doanh nghiệp nên chưa nhận được sự giúp đỡ từ các doanh nghiệp (mặc dù doanh nghiệp đã đề nghị địa phương để xuất nhu cầu và đối tượng để hỗ trợ) nên khả năng huy động nguồn lực thực hiện còn hạn chế. Việc quán triệt tuyên truyền và nhận thức về Nghị quyết 30a chưa thống nhất ở các cấp, chưa sâu rộng nên việc tổ chức chỉ đạo thực hiện ở một số địa phương chưa thực sự quyết liệt, nguồn vốn đã bố trí chưa đạt yêu cầu đề ra trong Nghị quyết, quan điểm trao phân cấp, trao quyền cho cấp huyện chưa được thực hiện nghiêm túc ở một số tỉnh, vẫn còn tình trạng áp đặt từ trên xuống, làm thay huyện. Một sô mục tiêu quan trọng của Nghị quyết đề ra nhưng không được bố trí vốn như hỗ trợ sản xuất, việc bố trí đầu tư chưa xuất phát từ nhu cầu của người dân, cở sở, một số công trình đầu tư sai so với danh mục quy định trong Nghị quyết. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ xã, thôn còn yếu, thiếu về kỹ năng trong việc triển khai các chính sách trên địa bàn. Các địa phương thiếu nguồn cán bộ đủ trình độ, năng lực và tâm huyết để tăng cường cho xã, việc triển khai chính sách thu hút đội ngũ tri thức trẻ tình nguyện còn chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu tăng cường cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật về xã để hỗ trợ tổ chức thực hiện chương trình. Hậu quả thiên tai bão lũ đặc biệt nghiêm trọng xảy ra trong thời gian vừa qua đã gây thiệt hại rất lớn tới các công trình phúc lợi, đường giao thông, nhà ở hoa màu và đất canh tác…Đây là những thách thức rất lớn đặt ra với một số địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết 30a. CHƯƠNG 4 : KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN 4.1 Quan điểm và định hướng giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội 4.1.1 Một số quan điểm về tăng trưởng và công bằng xã hội Phát triển xã hội là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai nhân tố chính. Để tạo ra kết quả là sự phát triển, thì tăng trưởng kinh tế cần được coi là động lực vật chất, còn công bằng xã hội được xác định như là một yếu tố tinh thần có nghĩa đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, vừa là điều kiện, vừa là tiền đề để thực hiện công bằng xã hội. Một nền kinh tế tăng trưởng thấp thì khó có điều kiện để thực hiện sự công bằng xã hội như ở nền kinh tế phát triển cao hơn. Một nước nghèo thì các điều kiện vật chất thường có hạn chế nên phải coi tăng trưởng kinh tế là điều kiện, là cơ sở để giải quyết công bằng xã hội. Tuy nhiên, không nhất thiết phải là nước giàu có vấn đề công bằng xã hội mới được đặt ra. Có thể thấy rằng, ngay khi điều kiện của một nền kinh tế tuy còn khó khăn song người ta vẫn có thể đặt ra và giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Chính sách kinh tế gắn liền với chính sách xã hội chính là một động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nếu trong tư duy chính trị, người ta luôn coi công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển thì mô hình xã hội chắc chắn sẽ phải được thiết kế theo một phương án công bằng nào đó để xã hội có khả năng đạt được sự phát triển bền vững. Có thể khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện, phát triển và đảm bảo công bằng xã hội. Thực tế cho thấy, kinh tế có tăng trưởng thì mới có thể xóa bỏ được những biểu hiện bất bình đẳng và bất công xã hội đã từng tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử các dân tộc (chẳng hạn vấn đề bóc lột giai cấp, bất bình đẳng nam nữ, bất bình đẳng dân tộc, sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng dân cư…) và phát triển công bằng xã hội lên một trình độ mới cao hơn. Tất nhiên, trong điều kiện kinh tế thiếu thốn vẫn có thể và phải thực hiện công bằng xã hội ở một mức độ nhất định, nhưng công bằng trong điều kiện như vậy chỉ nặng về phía bình quân là công bằng ở trình độ thấp, chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của trật tự cũ. Trong Đại hội IX của Đảng không nhắc  lại những quan điểm của Đại hội VIII, nhưng nhấn  mạnh: “ Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”, và “ các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ cức xã hội”. Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau. 4.1.2 Kiến nghị giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là khát vọng của tất cả các quốc gia và trong mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực tiễn đã có những ý kiến cho rằng có sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối với các quốc gia là thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hay đặt tiến bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng trưởng kinh tế hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội? Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng trưởng này cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được. Một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng phải là một chính sách đạt được những yêu cầu sau đây: Một là, bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho xã hội (bằng các chính sách phân phối thu nhập cho mọi đối tượng, đào tạo, giáo dục, bảo vệ sức khỏe, bảo hộ và bảo hiểm lao động... nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế hiện nay và chuẩn bị một đội ngũ lao động cho những bước phát triển cho tương lai của đất nước. Hai là, bảo đảm cơ sở và những điều kiện cơ bản cho đời sống vật chất và tinh thần (bao gồm cả văn hoá, khoa học, nghệ thuật...) đạt tới trình độ ngày càng cao cho thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước. Ba là, hướng dẫn tiêu dùng lành mạnh, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ tinh hoa truyền thống của dân tộc, làm cho mọi ngươi vừa biết làm giàu hợp pháp, đồng thời biết hưởng thụ thành quả lao động chính đáng của thành mình  làm ra. Trên cơ sở đó hình thành một lối sống Việt Nam vừa hiện đại, hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, vừa bảo vệ và phát triển những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tạo nên một xã hội lành mạnh, văn minh, ổn định, làm môi trường ưu việt cho sự tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết mối quanh hệ tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay cần có những giải pháp sau 1. Nhà nước tạo môi trường cho phát triển sản xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm.   Giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội, là yếu tố  quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Muốn vậy phải thực hiệu đồng bộ các biên pháp: khuyến khích các thành phần kinh tế, mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất dịch vụ; khôi phục và phát triển các làng nghề; đẩy mạnh phong trào lập nghề của thanh niên; đẩy mạnh xuất khẩu lao động… nhằm tạo tạo ra nhiều việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp của thành thị và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng trong nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời phải đào tạo  nghề, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an ninh xã hội; sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp. Để tạo điều kiện cho người nghèo có thể tự mình hoặc cùng nhau hiệp tác sản xuất tạo ra sản phẩm cho gia đình và xã hội, Nhà nước cần hỗ trợ, giúp đỡ trên các mặt: - Nhà nước hỗ trợ người nghèo vay vốn sản xuất với lãi suất ưu đãi. Thông qua các ngân hàng quỹ hỗ trợ người nghèo, dựa vào các hình thức tín chấp của các đoàn thể xã hội, nhà nước cho người nghèo vay vốn phát triển sản xuất. - Thông qua các hình thức chuyển giao công nghệ để phổ biến kinh nghiệm, hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ kinh phí cho đào tạo nghề, giúp người nghèo có khả năng tự tổ chức, quản lý sản xuất. - Hướng, cung cấp thông tin về thị trường, hỗ trợ người sản xuất nhỏ có điều kiện hiểu biết thị trường cho nước và quốc tế. - Tạo môi trường pháp lý thuận lợi và hệ thống chính sách khuyến khích sản xuất trong nước  để các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, các hộ kinh tế cá thể có điều kiện phát triển. Tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động (bình quân trên 1,5 triệu lao động / năm và đến năm 2010 hạ tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên khoảng 80-85%, nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. 2. Về chính sách tiền lương và thu nhập: Tiền lương và thu nhập phải thể hiện được sự công bằng trong phân phối thêp kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Cần cải cách cơ bản chế độ tiền lương theo hướng tiền tệ hoá đầy đủ; điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng trưởng thu nhập trong xã hội; hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng bất hợp lý về trợ cấp của người nghỉ hưu, thương binh, bệnh binh và những người có hoàn cảnh khó khăn. Các doanh nghiệp được tự chủ trong công việc trả lương và tiền lương trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. 3. Thực hiện chương tình xoá đói giảm nghèo. Thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương nhằm xoá nhanh các hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng phục vụ người nghèo sản xuất kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm, mở rộng nghề phụ nhằm tăng thu nhập cho các hộ nông dân . Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. 4. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội. Nhà nước làm nòng cốt và vận động toàn dân tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa. . . đối với những người có công với nước, các gia đình chính sách. 5. Đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo và khuyến khích cán bộ khoa học đến công tác tại các vùng nông thôn, miền núi. Cần đầu tư nhiều hơn cho các xã đặc biệt khó khăn. Có chính sách thiết thực khuyến khích cán bộ khoa học, kỹ thuật đến công tác tại vùng sâu, vùng xa. Trong đó cần tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề ở các vùng nông thôn, miền núi. Nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn, tay nghề cho đội ngũ lao động là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Đối với người nghèo, yêu cầu giáo dục- đào tạo lại càng quan trọng và cấp bách. Bởi vì, những người nghèo vừa thiếu vốn sản xuất, lại thiếu cả kiến thức  văn hoá và tay nghề sản xuất. Nếu chỉ cho vay vốn mà không chăm lo đến nâng cao tri thức và tay nghề chuyên môn cho họ thì trước sau họ cũng bị phá sản và trở lại cảnh nghèo khó. Để phát triển giáo dục ở các vùng nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa, phải có chính sách khuyến khích, hỗ trợ người nghèo đi học. Đồng thời phải đầu tư xây dựng trường lớp và có chính sách ưu đãi cho đội ngũ giáo viên đến dạy học ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi hẻo lánh và hải đảo cần có chế độ ưu đãi đặc biệt. 6. Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho đội ngũ lao động và cộng đồng dân cư. Con người không chỉ cần có tri thức, kỹ năng lao động mà còn cần có sức khoẻ cường tráng. Chăm sóc sức khoẻ cho người lao động và cộgn đồng dân cư nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và cũng là trách nhiệm của mọi người. Cần củng cố và hoàn tiện mạng lưới y tế, đăc biệt là ở cơ sở, bảo đảm các loại thuốc chữa bệnh thiết yếu đến mọi địa bàn dân cư thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ việc khám chữa bệnh cho người nghèo, chăm sóc sức khoẻ đối trẻ em, người già, những người khuyết tật, cô đơn, mất sức lao động. Xã hội nào cũng có một bộ phân dân cư bị tật nguyền bẩm sinh, do di chứng của một số căn bệnh hoặc do hậu quả chiến tranh, tai nạn rủi ro… làm mất khả năng lao động. Nhà nước phải có chính sách bảo trợ cho những đối tượng này, đồng thời cần có các chính sách thích hợp huy động sự đóng góp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp, các tổ cức chính trị - xã hội và các cá nhân trong cộng đồng để cùng với Nhà nước chăm sóc người khuyết tất, cô đơn, mất sức lao động, giúp họ ổn định và cải thiện đời sống, tạo điều kiện cho họ vượt qua sự mặt cảm về bản thân, hoà nhập cộng đồng; sử dụng phần sức lực của mình vào các hoat động kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng. 7. Thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Vấn đề dân số có tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội . . . thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình là chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số, bảo đẩm sự phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, phải giải quyết  tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực. Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,2%  năm 2005 và khoảng 1,1% vào năm 2010; sớm ổn định quy mô dân số khoảng 88-89 triệu nguời vào năm 2010. 8. Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Không có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, sẽ không có sản xuất hàng hoá. Vì vậy, nhà nước phải từng bước xây dựng mới, nâng cấp ha tầng kỹ thuật nông thôn, vùng sâu, vùng cao. hệ thống hạ tầng kỹ thuật, nhất là đường giao thông , không chỉ có vai trò quan trọng  trong phát triển kinh tế - xã hội, mà còn góp phần quan trọng vào bảo đảm an ninh quốc phòng. 4.2 Kết luận Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Đặc biệt Việt Nam là nước đang phát triển, đang chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức thì mối quan hệ này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Việc tìm ra một chính sách giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội đang là câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng, Chính phủ và toàn dân. Bởi lẽ, có giải quyết tốt mối quan hệ này mới có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững, xã hội công bằng, tiến bộ là nền tảng vững chắc cho sự cất cánh của nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng cao song song với một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ là động lực thúc đẩy con người phát triển toàn diện, đất nước thái bình, ấm no. Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc phát triển kinh tế luôn phải đi đôi với thực hiện công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Nguồn tài liệu tham khảo Ths. Nguyễn Thị Thu Trang (2012), Giáo trình Kinh tế công Giáo trình Kinh tế phát triển, ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam Tạp chí cộng sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbat_binh_dang_giua_thanh_thi_va_nong_thon_viet_nam_6082.docx
Luận văn liên quan