LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn 10 năm thực hiện chuyển đổi cơ chế kinh tế, đặc biệt từ thập kỷ 90, cùng với đà tăng trưởng kinh tế, Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế: thị trường xuất khẩu được mở rộng, đã có những chuyển biến chuyển tích cực trong cơ cấu hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu có chọn lọc những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng.
Dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ có vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế quốc dân nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng. Ngành đảm bảo hàng hoá tiêu dùng trong nước, thu hút nhiều lao động, đòi hỏi 1 lượng vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít gặp rủi ro, phát huy hiệu quả nhanh, nên rất phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển như nước ta hiện nay.
Nhận thức được sự cần thiết đó cũng như triển vọng phát triển của ngành Dệt may Việt Nam và được sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo em đã chọn đề tài : "Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU" để viết đề án môn học.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU
Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU
Do trình độ nhận thức còn có hạn nên không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cùng các bạn.
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2496 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á là một trong những mục tiêu đang trở nên cấp bách và tạo cho nhiều quốc gia có cơ hội thuận lợi trong quá trình đẩy nhanh sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia, và trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ. Vì vậy, chúng ta không thể lấy kinh nghiệm trao đổi hàng hoá thông thường trong một quốc gia để áp đặt hoàn tòan cho hoạt động trao đổi hàng hoá với nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu được tiến hành có thể bởi tư nhân hoặc doanh nghiệp nhà nước nhằm đáp ứng các mục đích hoặc nhu cầu của họ, mục đích kinh doanh tư nhân chủ yếu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận, còn đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như văn hoá, ngoại giao, chính trị… Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có thể hiện hoặc không hoàn toàn hướng về lợi nhuận.
2 - Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế đất nước thể hiện ở một số điểm sau :
1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
Đất nước ta đang nỗ lực trên con đường công nghiệp hoá,hiện đại hoánhăm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển khó khăn và đòi hỏi một lượng vốn lớn. Vốn là yếu tố chủ yếu không thể thiếu được,là vấn đề sống còn với tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. tiến trình này đòi hỏi phải có nhiều vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ hiện đại ... phục vụ cho phát triển kinh tế.
Nguồn vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều nguồn : Tùe xuất khẩu , đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động du lịch, dịch vụ, xuất khẩu sức lao động ... Trong đó nguồn quan trọng nhất là xuất khẩu hàng hoá . Bởi vì, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vay nợ, viện trợ , tài trợ ... Tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xuất khẩu lao động không ổn định đang có xu hướng giảm dần . Do vậy , nguồn ngoại tệ quan trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu.
Ở nước ta vai trò của xuất khẩu thể hiện qua khía cạnh này ngày cáng tăng lên. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , xuất khẩu của ta còn rất nhỏ bé để phục vụ công nghiệp hoá chúng ta chủ yếu dựa vào nguồn viện trợ từ các nước XHCN anh em. Sau khi chuyển sang cơ chế mới, hoạt động xuất khẩu của nước ta đẫ có những bước tiến vượt bậc. Giai đoạn 1986 - 90 kim nghạch xuất khẩu cả nước đạt 7030 triệu USD, chiếm 75% tổng thu ngoại tệ của đất nước , thu về xuất khẩu đảm bảo 56% nhập khẩu . Giai đoạn 1991 - 97 , kim nghạch xuất khẩu cả nước đạt 32.909 triệu USD, chiếm 82% tổng thu ngoại tệ cả nước và đảm bảo 72% vốn cho nhập khẩu.
2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hoạt động xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chuyển dịchcơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Với chiến lược " sản xuất hướng mạnh vào xuất khẩu" chúng ta phải coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển , thể hiện ở một số khía cạnh sau :
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và các ngành có liên quan phát triển.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước là phương tiện quan trọng để tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhăm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn , ký thuật, công nghệ từ các nước tư bản vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
- Thông qua xuất khẩu, các hàng hoá của ta có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, mẫu mã,chất lượng. Điều đó đòi hỏi chúng ta hải tổ chức lại sản xuất sao cho hình thành đước một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi với thị trường.
3. Góp phần tích cực vào việc giải quyết công ăn việc làm , cải thiện đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu có tác động mặt đến đời sống nhân dân, trong tác động tích cực phải kể đến trước tiên là tạo ra hàng triệu việc làm cho một số lượng lớn lao động với thu nhập đảm bảo có thể ổn định đời sống .
Mặt khác hoạt động xuất khẩu thu về một ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân . Những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất còn kém như ô tô, xe máy v.v... đều qua con đường nhập khẩu đến với nhân dân .
4. Làm cơ sở để thúc đẩy và mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta.
Xuất khẩu là một bộ phận của mối quan hệ đối ngoại của nước ta với các nước khác trên thế giới và là một hoạt động kinh tế quốc tế, hình thành sớm hơn các hoạt động khác như tín dụng ,đầu tư ,vận tải quốc tế v.v... và tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển . Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế quốc tế đó lại tạo tiền đề mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu .
Hoạt động xuất khẩu cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế khác làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế . Chính nhờ thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại khác mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ đối ngoại với gần 200 nước trên thế giới , ký các hiệp định thương mại với hơn 60 nước là thành viên của tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực .
II - CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG,ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1- Các nhân tố kinh tế.
Nhừng điều kiện kinh tế có tác động rất mạnh đến khối lượng buôn bán , đầu tư ... hàng năm . Song sự gia tăng buôn bán , đầu tư có su hướng biến đổi nhanh hơn sự thay đổi của nền kinh tế .
Sự thay đổi về mức giầu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giá trị hàng hoá lưư chuyển quốc tế . Tỷ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu hướng tăng nhanh hơn tỷ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kỳ dài. Điều này có nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà luôn thay đổi qua các thời kỳ.
Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hoá kinh doanh tuỳ thuộc rất lớn vào mức độ can thiệp của Chính phủ. Thông qua các chính sách ,công cụ kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thực hiện ,sự điều tiết khối lượng hàng hoá từ nước ngoài vào và các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chỉ mở rộng kinh doanh ở nước ngoài khi nhu cầu ở nước ngoài vần gia tăng đều đặn trong một thời kỳ dài.
2- Nhân tố khoa học và công nghệ:
Sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng kỹ thuật trước , cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng và phát triền kinh tế ở từng quốc gia , làm cho nhiều quốc gia có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Chính sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong thế kỷ này đã làm xuất hiện những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ làm thay đổi vị trí của từng quốc gia, từng doanh nghiệp trong hoạt kinh doanh quốc tế . Nhiều sản phẩm như máy tính, hàng điện tử, máy bay ...
Hiện nay , hầu hết những ký thuật công nghệ mới ,hiện đại đều xuất phát từ các quốc gia tiên tiến đã công nghiệp hoá. Vì vậy các doanh nghiệp từ các quốc gia này đang nắm giữ phần mậu dịch và đầu tư lớn hơn trong nhiều lĩnh vực, đây là khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh.
3- Nhân tố chính trị, xã hội và quân sự.
Sự ổn định hay bất ổn về chính trị , xã hội cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính trị, các quan điểm chính trị , xã hội đều tác động trực tiếp đến phạm vi lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh.
Các cuộc xung đột lớn hay nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia và giữa các quốc gia đã dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất. Cụ thể là xung đột quân sự đã làm phá vỡ những quan hệ kinh doanh truyền thống, làm thay đổi hệ thống chuyển hàng sản xuất phục vụ tiêu dùng dân cư sang phục vụ chiến tranh từ đó tạo ra hàng rào vô hình ngăn cản hoạt động kinh doanh quốc tế.
4- Sự hình thành các liên minh, liên kết về kinh tế - chính trị và quân sự.
Việc hình thành các khối liên kết kinh tế chính trị, quân sự đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán giữa các quốc gia thanh viên , làm giảm tỷ lệ mậu dịch với các quốc gia ngoài thành viên . Để khắc phục hạn chế này, các quốc gia thành viên trong khối thường tiến hành ký kết với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, toả ước để từng bước nới lỏng hàng rào vô hình, tạo điều kiện cho hoạt động KDQT phát triển .
Bên cạnh các hiệp định song phương và đa phương , giữa các quốc gia đã và đang được ký kết, các tổ chức KTQT đặc biết là ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu á (ADB) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với KDQT . Chính các tổ chức này đã cung cấp vốn cho các chương trình xã hội và phát triển kinh tế hạ tầng cơ sở như nhà ở v.v...
III- SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG EU NÓI RIÊNG.
1 - Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu hàng Dệt may:
Xuất phát từ ưu thế của ngành dệt may:
Khi nền kinh tế Việt nam đang trên đà phát triển nhờ có chiến lược : Hướng vào xuất khẩu , chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới và có giá trị thặng dư cao. Đặc biệt ngành Dệt may xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt nam. Giải quyết việc làm cho người lao động , cung cấp hàng hoá trong nước, tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế và là ngành nghề có lợi nhuận cao.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt nam đã có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trongnền kinh tế và trên hương trường quốc tế, đồng thời làngành sản xuất và xuất khẩu quan trọng chiếm tỉ trọng cao trong tổngkim ngạch xuất khẩu của nước ta.
Hàng Dệt may là một nhóm hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta. Với vị trí hiện nay của ngành hàng này đối với nền kinh tế quốc dân cũng như đối với hoạt độnh kinh doanh quốc tế . Sự tăng cường xuất khẩu hàng Dệt may là rất cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của hoạt động xuất khẩu trong nước. Điều đó được thể hiện qua những vấn đề sau:
1- Vị trí của ngành Dệt may trong nền kinh tế quốc dân và trong hoạt động xuất khẩu của cả nước.
Ngành Dệt - may là 1 ngành công nghiệp nhẹ giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế đất nước. Ngành góp phần quan trọng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của nhân dân giải quyết 1 khối lượng lớn công ăn việc làm, đồng thời có nhiều khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế. Hiện nay ngành dệt may là ngành sảnxuất hàng xuất khẩu quan trọng, chiếm tỉ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
2- Xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động trong đó có ngành Dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
Ngành dệt may là ngành đòi hỏi 1 lượng vốn đầu tư tương đối ít ( so với các ngành công nghiệp khác) , phát huy hiệu quả tương đối nhanh, giải quyết lao động xã hội, phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển. Nhiều nước công nghiệp phát triển ngày nay đã đi lên từ ngành dệt may. Các nước NICS cũng là một điển hình của việc phát triển ngành hàng này.
3- Lợi thế của ngành Dệt may nước ta :
Lợi thế đáng kể nhất của ngành Dệt may nước ta là giá nhân công rẻ, trình độ tay ngề của người lao động lại ở vào mức khá so với các nước khác. Điều này rất quan trọng vì nước ta hiện nay có một lực lượng lao động nhà rỗi khá lớn ( nhất là lao động nữ ) rất phù hợp với ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động này.
Thêm vào đó, trong sản xuất hàng dệt may, chúng ta đảm bảo cung ứng được một phần nguyên phụ liệu do sản xuất trong nước, không phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu.
Mặt khác, đây là ngành sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu cho từng công đoạn lớn. Trong điều kiện thiếu vốn như nước ta hiện nay, có thể coi đây là một lợi thế của ngành.
4-Thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhưng chủ yếu là phần kim ngạch may gia công xuất khẩu ( hàng năm chiếm trên 80% so với kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành) nên lợi nhuận thực tế thu được từ xuất khẩu không cao trong khi tiềm năng để phát triển ngành này ở nước ta còn to lớn. Đây là một lý do quan trọng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may trong thời gian tới.
Chất lượng hàng hoá và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may việt nam trên thị trường thế giới còn thấp. Điều đó cho thấy cần có các biện pháp đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và uy tính của khách hàng dệt may trên thị trường.
2 - Thị trường EU một thị trường với tiềm năng:
+ EU là thị trường thống nhất và rộng lớn:
Từ 1968 EU đã là 1 thị trường thồng nhất về hải quan, có định mức thuế hải quan chung cho tất cả các nước thành viên . Năm 1992 đã có hiệp ước về sự thống nhất chính trị, kinh tế tiền tệ, xã hội giữa các nước thành viên EU . cho đến nay EU đã là 1 thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia và 367 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu thông hàng hoá và vốn giữa các thành viên. Các số liệu thống kê cho biết nhập khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển vào EU đang gia tăng và có nhiều hàng nhập là hàng chế tạo nói chung và hàng dệt may nói riêng. 6 tháng đầu năm 2000 theo số liệu E/L cung cấp của phòng quản lý xuất nhập khẩu, ta giao trên 6.000.000 chiếc ( so với cùng kỳnăm 1999 là 5.300.000 chiếc ) tăng khoảng 13%. So với hạn ngạch chính thức năm 2000 là 15.766.000 chiếc đạt 38,1%.
+ EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới. Kinh tế của Liên minh Châu âu không chỉ lớn về qui mô (năm1999 GDP đạt 8,774 tỉ USD chiếm 20% GDP toàn cầu, Mỹ chiếm 20,4% , Nhật chiếm 2,2%) vững mạnh về cơ cấu, tăng trưởng ổn định, lắm giữ đồng tiền mạnh EURO có khả năng chuyển đổi trên toàn thế giới . EU không chỉ có nguồn nhân lực trình độ cao và lành nghề còn có thị trường nội địa với sức mua lón ( hơn 386 triệu người tiêu dùng, năm 1999 GDP bình quân đầu người đạt 23,354 USD , vào loại cao nhất thế giới ).
Từ đó ta thấy, quan hệ thương mại Việt nam - EU được mở rộng, Việt nam có điều kiện đẩy mạnh XNK, trao đổi hàng hoá với nước ngoài, đặt biệt là hàng Dệt may và với thị trường tiềm năng EU hàng Dệt may có nhiều cơ hội phát triển cao hơn cả về số lượng và chất lượng.
+ EU có nền ngoại thương phát triển lớn thứ 2 trên thế giới sau Mỹ,hàng năm EU nhập một khối lượng lớn hàng hoá từ khắp thế giới, trong đó hàng Dệt may chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có với nội dung nổi bật các ngành như : điện tử , tin học, tự động hoá, vật liệu mới , công nghệ sinh học. Cuộc cách mạng này làm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở hầu hết các nước trong EU diễn ra nhanh hơn theo hướng chuyển mạnh sang các ngành có hàm lượng trí tụê và dịch vụ, còn các tỷ trọng nông nghiệp và khai thác khoáng giảm dần và đặc biệt là các ngành cần nhiều nhân công đang có xu hướng chuyển dịch ra khỏi Châu âu.
Tình hình ngành công nghiệp Dệt may ở Châu âu: năm 1999 , sản xuất hàng Dệt may đã giảm 5% về giá trị thực tế so với năm 1998 ( năm 1998 giảm 1,5% so với năm 1997 ), đây là mức giảm lớn nhất kể từ năm 1993, giảm mạnh nhất là tại Đức ( giảm 8% ) sản xuất tại Italia và Pháp cũng giảm sút. Tại tất cả các nước sản xuất chính, tình hình ngành Dệt may đều sấu đi đáng kể. Theo dự báo, trong năm 2000 sản xuất hàng Dệt may tại EU sẽ giảm khoảng 1%. Ngay trong điều kiện cạnh tranh tăng lên trên thị trường thế giới, việc tiếp tục chuyển cơ sở sản xuất Dệt may sang các nước khác đối với EU được coi là cần thiết. Việc di chuyển này chủ yếu liên quan đến ngành may mặc- nơi có chi phí cho lao động khá cao và ngành dệt - nơi có dung lượng vốn cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu này được đẩy mạnh đáng kể tại Đức, pháp và Italia . Nắm bắt được qui trình đó, ngành Dệt may Việt nam không bỏ lỡ thời cơ đẩy mạnh và tăng tốc xuất khẩu hàng Dệt may sang thị trường EU
Chương II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG EU
I – TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM NÓI CHUNG:
Ngành dệt may nước ta phát triển đã lâu nhưng chỉtừ thập niên 90 trở lại đây nó mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kih tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong 5 nămqua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đạt trên 1 tỷ USD/ năm và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam.
1- Về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may.
Từ năm 1991 đến nay , kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991 tổng giá trị xuất khẩu hàng Dệt may chỉ đạt 158 triệu USD , đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD , tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5 % tức khoảng 160 triệu USD / năm. Bên cạnh đó tỷ trọng hàng đệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng, từ 7,6 % năm 1991 lên 15 % năm 1998 . Đến nay hàng dệt may đứng thứ nhất trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu hàng Dệt may của Việt nam trong 10 năm qua được thể hiện trong bảng sau:
Nguồn ở báo Kinh tế và Phát triển số 33
Hai năm gần đây tốc độ tăng trưởng hàng Dệt may xuất khẩu đã chững lại. Điều này đòi hỏi cần phải có sự phân tích và điều chỉnh hợp lý trong thời gian tới để ngành Dệt may đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù hàng dệt may Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trọng yếu, nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc cũng đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ là 5,9 tỷ USD và Thái Lan là 4,2 tỷ USD.
2- Về cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may:
So ngành may thì công nghiệp dệt của Việt nam còn rất hạn chế. Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại đồng bộ và tốn kém . Do vậy , ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn phải nhập ngoại, như vậy, kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Hiện có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài.
Về sản phẩm : Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80 % kim ngạnh xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã kiến không ít doanh nghiệp may mặc nước ta lúng túng, bị động trong hoạt động SXKD. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo veston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu câù sản xuất. các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo Jacket , áo váy , sơ mi đơn giản . Đến nay những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch, nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện.
Về thị trường : Duới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nhiều nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản ... phá giá tiền tệ làm giá xuất khẩu hàng Việt Nam đắt tương đối trên thị trường thế giới, kiến sự cạnh tranh vốn còn yêú của Việt Nam lại giảm xuống . Hơn nữa cơn lốc khủng hoảng làm cho sức mua của dân chúng giảm đáng kể, kết quả là thị trường tiêu thụ của nước ta gặp nhiều khó khăn .
Hiện nay , phần lớn hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường có hạn ngạch , như EU , Thổ Nhĩ Kỳ , Canada ... Trong đó EU là thị trị trường trọng điểm . Với 360 triệu dân có mức tiêu dùng vải cao hàng đầu thế giới (17 kg/người/năm), đây là một thị trường tốt để Việt Nam khai thác. Tuy vậy , đòi hỏi lớn không thế đáp ứng ngay là yêu cầu về chất lượng , mẫu mã sản phẩm dệt may của người dân EU rất cao . Trong tổng số 63 tỷ USD quần áo nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ có khoảng 9 tỷ USD quần áo tiêu dùng bình thường số còn lại khoảng 87 % là sủ dụng theo mốt. Vì vậy , giá trị hàm lượng chất xám trong sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành lên nó . Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa 2 loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch khá cao. Đây là một thiệt thòi không nhỏ do ngành tạo mốt Việt Nam còn non trẻ. Trong thời gian tới, nhờ một số thay đỏi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU - Việt Nam giai đoạn 1998 - 2000 ký ngày 17/11/1997, ngành may mặc của nước ta sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ sang EU. Theo hiệp định này, từ năm 1998, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn (17 % so với trước kia là 12 %).Hơn nữa , Việt nam còn được hưởng qui chế tối huệ quốc và qui chế ưu đãi phổ cập của EU. Như vậy, một số mặt hàng của Việt nam sễ được hưởng thuế quan nhập khẩu 0%, làm khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nước ta nói chung, trong đó có hàng dệt may. C Bên gạnh trị trường xuất khẩu có hạn nghạch, Việt Nam còn thâm nhập đươc một số thị thị trường không hạn ngạch như Nhật Bản, Mỹ…
Hình thức xuất khẩu : Các nhà xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam đến nay vẫn phải thông qua nước thứ 3 như Đài loan và Đức… Để vào thị trường nước ngoài.Đó làthiệt thòi và trởngạilớn cho Việt nam Cho tới nay tỷ lệ hàng xuất khẩu trựctiếp là ít phần lớnlà qua trung gian 70% .
3- Về khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu:
Đối thủ cạnh tranh ở từng thị trường:
Ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu chuyển sang các thị trường như: EU, Mỹ, Nhật, Đông á và một số nước khác . Chung ta vào thị trường nhưngười đến trợ trễ , quầy sạp an bài, mốiláichưa từng quen,hàng họ chưa có ấn tựng đậm nét. Từđó cho thấy khảnăngcạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt Nam còn nhiều khó khăn. Được thể hiện trong bảng sau về đối thủ cạnh tranh ở các thị trường.
Bảng : Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may chính của 1 số nước Đông á
Đơn vị ( % trong tổng số )
Năm
Mỹ
EU
Nhật
Đông á
Các nước khác
Tổng số
Việt nam
1996
2,2
43,3
42,2
8,8
3,5
100
1985
28,2
12,6
12,3
36,8
10,1
100
Trung
1990
11,3
10,9
18,6
49,2
14,6
100
Quốc
1996
12,7
10,7
32,9
30,5
13,3
100
1985
57,7
12,7
0,5
10,0
19,0
100
Inđonexia
1990
38,1
35,6
6,5
6,4
13,5
100
1996
34,1
32,0
8,4
5,2
20,4
100
Thai lan
1985
41,1
27,3
1,2
5,3
26,9
100
1990
19,3
34,1
7,9
5,9
32,7
100
1996
44,1
29,9
16,9
4,5
4,7
100
Nguồn: Phòng Thươngmại và công nghiệp Việt Nam
Nhìn vàg bảng trên ta thấy tỷ lệ phần trăm trong tổng số hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường là rất thấp cho đến năm 1996 hầu như mới đang bước đầu thâm nhập thị trường còn các đối thủ của chúng ta như : Trung quốc, Indonêxia, thái lan, và hầu hết trên các thị thị trường chính : mỹ, EU, Nhật . Ta đều phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh, lợi thế so sánh nghiêng về các đối thủ Trung quốc , Thái lan, Indonêxia…
Từng thị trường Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do môi trường kinh tế hội nhập đem lại. Do ngành dệt may Việt Nam có tốc độ tăng trưởng thấp chất lượng chưa cao nên sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế bị ảnh hưởng mạnh đòi hỏi Việt Nam cần phải sẵn sàng chuyển sang sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao hơn đồng thời mở rộng các loại sản phẩm phong phú, mở rộng thị trường …
Đánh giá điểm mạnh yếu của từng đối thủ.
Trung quốc là đối thủ mới phất lên nhưng ngành dệt may của Trung qốc tăng trưởng rất nhanh, và hiện nay đang là đối thủ lớn nhất của ta. Từ những năm trước năm 1985 xuất khẩu vào Mỹ 28,2 % trong tổng số và vào Nhật, EU hơn 12,5 %. Trungquốc có nguồn nhân công dồi dào , cơ sở máy móc hiện đại, quan trong hơn là sản phẩm của trung quốc đã chiếm được uy tín từ người tiêu dùng tự cung tự cấp. Trung quốclà đối thủ mạnh, gây cản trở nhiều cho dệt may Việt Nam Trong cả hiện tại và tương lai.
Thái lan với lợi thế không kém gì trung quốc và indonêxia máy móc hiện đại , thị trường đã quen khác hàng đã tỏ chỉ có giá lao động cao trong hiện tại và tăng cao trong tương lai.
Indonêxia xâm nhập vào các thị trường sớm hơn ta rất nhiều, có khoa học công nghệ máy móc trang bị hiện đại và các thị trường EU, Nhật, Mỹ gần như đãlà thị trường truyền thống. Bên cạnh đó Indonêxia có những khó khăn về nguyên vật liệu phụ, phụ liệu.
Kết quả cạnh tranh của dệt may Việt nam: Việt nam nằm ở khu vực vị trí địa lý thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế nói chung và buôn bán hàng dệt may nói riêng. Có hơn 1300 km bờ biển và nhiều cảng nước sâu, nằm trong tổng thể quy hoạch đường bộ , đường sắt xuyên á của ADB giúp các Doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phi vận chuyển hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Việt nam có nguồn lao động dồi dao, cần mẫn, sáng tạo phù hợp vớinghành dệt may, giá nhân công rẻ là nhân tốhấp đẫn thu hút được nhiều hợp đồng gia công maymặccũng như tiếp nhận sự chuyểndịchngành dệt may từ các nước phát triển . Tuy vậy, giá laođộng rẻ chỉ là lợi thế nhất thời , không ổn định trong khi khoa học kỹ thuật phát triển cao thì nhân công rẻ không còn là yếu tố hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài nữa.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm , mưa nhiều là lợi thế để phát triển nghề trồng bông, trồng đay. Nhờ vậy ngành dệt may nước ta có ưu thế lớn về nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào rẻ và ổn định. Điều này góp phần không nhỏ vào lỗ lực giảm giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn yêu cầu về công nghệ không quá hiện đại và có tỷ lệ xuất khẩu lớn được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của Việt nam. Chính phủ Việt nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi hỗ trợ ngành công nghiệp mới này như miễn thuế 0% để được hoàn thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu , Nhà nước cũng thực hiện cho vay ưu đãi đối với một số doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, mặc dù có nhiều lợi thế song do hạn chế về kỹ thuật, thông tin thi trường, tay nghề nên cho đến nay các doanh nghiệp dệt may việt nam vẫn chưa có trỗ đứng ổn định trên thị trương théegiới. Về cơ bản hàng dệt may xuất khẩu của ta mới chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao. Kết quả năm 2000 vừa qua, ngành dệt may Việt nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu 1,815 tỷ USD đứng thứ 2 sau dầu khí, phấn đấu năm 2001 trở đi đạt từ 2,25 tỷ USD.
II - THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG EU
1- Về kim nghạch xuất khẩu :
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Eu
Đơn vị : Triệu USD
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Thị trường EU
250
285.50
350.44
420.52
450.55
563.68
Nguồn : Tổng cục Hải quan.
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn ngạch chủ yếu của Việt Nam là các nước thuộc khối EU . EU được coi là thị trường xuất khẩu trọng điểm của nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại và trong đó chỉ khoảng 10 – 15 % là tiêu dùng còn lại 85 – 90% là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, Việt nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang 1 số nước EU như Đức , Pháp ... Nhưng do thay đổi về chính trị thế giới nên quan hệ buôn bán đã bị hạn chế . Từ năm 1991, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã có những bước tiến mới, đặc biệt phát triển mạnh từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ ngay 1/1/1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 23% trong thời kỳ 1993 – 1997 .Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta với con số khiêm tốn 250 triệu USD năm 1993, đã lên tới 2499 triệu USD năm 1999, tốc độ tăng trungbình mỗinăm là 27,5%/năm của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Và đến năm 1999 – 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh vớimức tăng trưởng bình quân 13%/năm. Bên cạnh đó tỷ trọng hàng dệt may tổng kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng từ 7,6% năm 1991 lên tới 13,7% năm 1994 và15,5% năm 1998, khiến cho kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may của nước ta đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Theo hiệp định mới Việt Nam còn được tự do chuyển đổi quata giữa các mặt hàng 1 cách rộng rãi và dễdàng hơn , đồng thời EU cũng dành cho Việt Nam qui chế tối huệ quốc (MFN) nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU được hưoửng thuế quan với mức 0% theo chế độ ưu đãi phổ cập.
2. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ làm các mã hàng nóng như áo Jacket hai hoặc ba lớp, áo váy sơmi… Đặc biệt đối với mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu chiếc tăng gần 5 triệu chiếc ( hay 72%) so với năm 1993 chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệtmay sang EU. Bộ Thương mại vừa ra thôngbáo cấp giấy phép xuất khẩu vào EU (E/L) cho 13 mặt hàng dệt may xuất khẩu . Theo đó gồm : cat9,cat10 cat13, cat14, cat18, cat20, cat21,cat 28, cat39, cat68 , cat 118, cat 161.Gat 21 áo Jacket luôn là mặt hàng chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào thị trường EU, thường chiếm 50% kinm ngạch, 6 tháng đầu năm 2000 theo số liệu E/L đã cungcấp , Việt Nam giao trên 6 triệu chiếc tăng trưởng khoảng 13%.
Những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch được cấp. Thực tế cho thấy, cònnhiều chủngloại mặt hàng có hạnngạch nhưnghiệnnay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản xuất , đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trangthiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, mà các doanh nghiệp của Việt Nam chưa đáp ứng được.
3 – Về cơ cấu hình thức xuất khẩu :
Hiện nay các Doanh ngiệp Việt nam mới chỉ tận dụng được 40 % năng lực của mình tại thị trường EU, 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào EU được thực hiện thông qua các nhà trung gian như Hồng Kông, Đài loan, Hàn quốc và Đức. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sản xuất. Đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ thuật cao , công nhân lành nghề có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được.Vấn đề đặt ra làm sao chúng ta có thể tếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường EU, giámự phụ thuộc và không thông qua các nhà đặt hàng trung gian,gây nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam .
4 – Về cơ cấu thị trường xuất khẩu :
Liên minh Châu âu có 1 thị trường thôg nhất, hàng hoá , vốn, dịch vụ và con người có thể giao dịch tự dỏtong 15 nước thành viên. Số lượng người tiêu dùng lên tới 375 triệu người, hàng dệtmay Việt Nam xuất khẩu sang EU với khối lượnglớn tiêu bểu: Các nước trongkhối EUnhập khẩu hàng dệt may lớnnhất của Việt Nam là Đức ( 40 – 42 % ) ,đén Pháp (13 – 15 %) , Hà lan ( 10 – 13 % ) … Ngoài ra Việt Nam còn mở rộng quan hệ buôn bán với các nước EU khác gồm Phần lan, thuỵ điển, Đan mạch,Anh, Italia…Tỉ trọng nhập khẩu của các nước này đang tăng lên.
5 – Về cạnh tranh vào thị trường EU:
Liên minh châu âu EU có một thị trường hấp dẫn, là một thị trường thống nhất, hàng hoá ,vốn và dịch vụ và con người có thể giao dịch tự do trong 15 nước thành viên số lượng người tiêu dùng lên tới 375 triệu người, tăng trưởng GDP cao hơn Mỹ, Nhật, Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ… Nên không riêng gì Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển tăng cuờng tạo ra lợi thế cạnh tranh nghiêng về mình trên thị trường EU.
Các số liệu thống kê cho biết nhập khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển vào EU đang ra tăng,và có chiều hướng nhập nhiều hàng chế tạo.như trung quốc, các thị trường mới nổi ở châu á và Mỹ la tinh.
Ngoài một số rào cản chính khiến nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển khó có thể vào được thị trường EU : thị trường đa dạng- tuy là một thị trường thống nhất về mặt kỹ thuật song thị trường này thực tế là nhóm các thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đặc điểm riêng mà các nhà xuất khẩu không chú ý tới.Mỗi nước trong EU sẽ tạo ra các cơ hội khác nhau và yêu câù của họ cũng khác. Hơn nữa thị trường EU có đặc tính cạnh tranh mạnh mẽ, bắt buộc các công ty phải tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn các đối thủ khác, có nghĩa là chất lượng sản phẩm phải liên tục được cải thiện, mẫu mã, kiểu dáng, phải được đổi mới nhanh hơn trước…
Khắc khe trong việc đặt ra các tiêu chuẩn quốc tế ký mã hiệu, nhãn mác, chứng chỉ.
Vì vậy, tuy kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch của toàn ngành nhưng chủ yếu là mặt hàng đơn giản, đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bỏ không những hạn ngạch đòi hởi kỹ thuật cao,tay nghề cao. Như vậy, xuất khẩu vào thị trường EU thật không rễ và ngày càng khó khăn.
III - ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG EU:
1 - Những ưu điểm:
Công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã đem lại cho ngành Dệt may nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng Dệt may sang EU nói riêng những phương hướng và động lực phát triển mới
Các đại hội VI , VII ,VIII của Đảng đã xác định chiến lược " sản xuất hướng về xuất khẩu " , " sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là những mục tiêu quan trọng trong các chiến lược đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kính tế hướng về xuất khẩu " chính là cơ sở và điều kiện tiền đề cho các chính sách thương mại và đầu tư có lợi cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và ngành dệt may nói riêng.
Qua phân tích về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU,cho thấy kết quả đạt được nhờ nỗ lực nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may có thể được đánh giá trên các khía cạnh sau:
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký ngày 15- 12 –1992, có hiệu lực từ ngày 1-1 1993. Theo tinh thần hiệp định này, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu vào EU 21938 tấn hàng dệt may với 106 nhóm hàng (cat).
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế Việt Nam – EU được ký kết trong đó quy định hai bên cho nhau hưởng đãi ngộ tối huệ quốc. Hiệp định này nâng giá trị xuất khẩu theo hạnngạch vào thị trường EU lên khoảng 25%. Và đến tháng 11 – 1997 hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam EU được ký kết tại Brusseles thay thế cho hiệp định cũ và có hiệu lực từ ngày 1- 1- 1998 đến năm 2000. Đã mở ra một thuận lợi lớn cho ngành dệt may trong những năm tới. Ngày 10- 10 – 2000 tại trụ sở liên minh châu âu ký tiếp hiệp định về việc EU tăng bình quân 26 % hạn ngạch hàng may mặc cho Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU sớm hơn thời hạn 1 năm.
Kết quả thực hiện hạn ngạch của năm 2000 riêng thị trường EU đạt 700 triệu USD tăng 16% và chiếm 36,8 %. Nỗ lực trong sản xuất sản phẩm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước, làm giầu cho doanh nghiệp, ổn định và nâng cao đời sống người lao động.
2 - Tồn tại:
Bên cạnh những mặt tích cực với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU , vẫn còn những tồn tại cần nhanh chóng khắc phục để đem lại ưu điểm đối với hoạt động này.
Mặt hàng xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới dành được số mặt hàng ít (cat 9,10,12,13,14,20,21,39,118,18,28,68 và 161…)
Một số mặt hàng dệt may bị hạn chế xuất khẩu vào EU vì những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch đươc cấp.
Trong hình thức xuất khẩu, phần lớn là qua trung gian (70%) và phần kim ngạch may ra công xuất khẩu (hàng năm chiếm trên 80% so với kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành ) nên lợi nhuận thực tế thu được từ xuất khẩu không cao so với kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu EU là một thị trường thống nhất giữa các nước trong khu vực nên rất phức tạp về thị hiếu tiêu dùng càng phức tạp hơn khi thị trường càng mở rộng gây khó khăn cho bên xuất khẩu.
Bên cạnh sự cạnh tranh của các đối thủ mạnh như : Trung quốc, Thái lan… thị trường EU đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm cao đòi hỏi phải có máy móc hiện đại, công nhân lành nghề và có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được …
Những tồn tại trên, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần có nhiêu biện pháp khắc phục để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU có kim ngạch xuất khẩu cao hơn trong những năm tới.
3 – Nguyên nhân của tồn tại :
Nguyên nhân chủ quan :
+ Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt mới huy động được gần 40% công xuất thiết bị nhưng hầu hết công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu, đặc biệt là thiết bị dệt và nhuộm. Ngành chưa chủ động tiếp cận được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới (xuất khẩu sản phẩm qua đối tác trung gian ) . Công tác đầu tư nghiên gcứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được quan tâm đúng mức để phát triển phục vụ cho ngành may chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh .
+ Hệ thống quản lý chất lượng của ngành dệt may chưa được quan tâm chú ý . Nhiều doanh nghiệp chưa cs giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm tính đến cuối năm 1999 , toàn ngành mới có tám doanh nghiệp đă đăng ký quản ký chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó bốn dơn vị được cấp chứng chỉ .
+ Hầu hết các nguyên liệu phụ liệu phục vụ cho sản xuất của ngành dệt may hiện nay đều phải nhập khẩu 70% giá trị sản phẩm dệt nằm ở nguyên liệu bông sơ , hoá chất , thuốc nhuộm . Nguồn nguyên liệu từ trong nước chất lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu cho ngành dệt .
+ Chất lượng nguồn nhân lực của ngành dệt may còn nhiều bất cập , lực lượng lao động ngành dệt may khá đông ( trên 90 vạn người ) nhưng số lượng công nhân kỹ thuật trình độ bậc cao , giỏi còn ít . Đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong tiếp cận với phong cách quản lý hiện đại , đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu , nghiên cứu tiếp thị thị trường
+ Vốn cho đầu tư phát triển của ngành dệt may còn thiếu , đặc biệt ở các doanh nghiệp nhà nước . Hiện tượng đầu tư dàn trải , manh mún theo hướng tự cân đối , khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm cho ngành dệt may ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu trong sản xuất
+ Chính sách đầu tư phát triển ngành dệt may chưa hợp lý : như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ 7-10 năm , ngành may từ 5-7 năm . Thực tế ở Việt Nam , đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 – 15 năm, ngành may từ 10 – 12 năm mới thu hồiđược hết vốn . Các thủ tục triển khai đầu tư xây dựg thường kéo dài nhưng chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành dệt may .
Chương III
CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
I - PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM
Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam năm tới là đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ thoả mãn nhu câù tiêu dùng trong nước, tái sản xuất mở rộng từng bước xây dựng ngành dệt may Việt Nam thành một ngành xuất khẩu chủ lực chiếm lĩnh thị trường Châu âu nói riêng và thị trường thế giới nói chung góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, thực hiện triệt để CNH – HĐH đất nước.
1 – Thị trường trong EU.
Trong những năm tới thị trường EU vẫn là thị trường quan trọng nhất đối với sự phát triển xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam nói riêng và sự phát triển kinh tế nói chung , theo hướng hiện đại hoá , đa dạng hoá thị trường .
Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhận thành công sự chuyển dịch kinh tế từ các nước phát triển hơn, ngành dệt may phải được trang bị lại theo hướng hiện đại. Có như vậy ngành dệt may phải lỗ lực cố gắng để củngcố vị trí của mình trên thị trường này.
Tuy hiên, phải tìm hiểu kỹ thị hiếu khách hàng và sở thích người tiêu dùng của thị trường này để tạo ra những mẫu mã mới, khác lạ thì mới mong có thể xâm nhập được thị trường .
Trong những năm qua, mặc dù cgúng ta thâm nhập được vào thị trường EU nhưng thị phần còn nhỏ. Do vậy ngành dệt may phải nỗ lực cố gắng để củng cố vị trí của mình trên thị trường
Trong những năm tới thị trường EU vẫn là thị trường quan trọng nhất đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam .Mục tiêu phát triển đến năm 2010 của tổng công ty dệt may là:
- toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân 13% tới năm 2005 và 14% năm 2010. kim ngạch XK đạt 2000 triệu USD ( vào năm 2000 ) ,3tỷ USD vào năm 2005 và 4 tỷ vào năm 2010.
- Nâng cao trình độ công nghệ, đạt được sự tiến bộ như các nước trong khu vực và đến năm 2010 tương đương với Hồng Kông ,Thai lan hiện nay.
-Tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng 100/USD/người/tháng.
2 - Đa dạng hoá mặt hàng:
Với 1 thị trường thống nhất gồm 15 quốc gia có đời sống cao, mức tiêu thụ hàng dệt may lớn, nhưng đồng thời cũng là thị trường có nhu cầu tiêu dùng quần áo để bảo vệ thân thể chỉ chiếm10 – 15% , còn 85 – 90% là theo mốt nên chất xám chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản phẩm .
Hiện nay, nhu cầu về hàng may của khác hàng ở thị trường EU tăng, không đơn thuần chỉ đòi hỏi về số lượng mà cả về chất lượng, đa dạng hơn về mẫu mã. Để đáp ứng nhu cầu đó, thâm nhập và đứng vững trên thị trường là vấn đề quyết định phải đa dạng hoá sản phẩm , từ hàng dệt may bình thường đến các sản phẩm cao cấp, từ đó cung nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm , trên cơ sở năng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất cũng như xuất khẩu .
3 – Hình thức xuất khẩu :
Trên thế giới hiện nay đang có xu thế đa phương hoá quan hệ, đa dạng háo đối tác, và với Việt Nam cũng đang nằm trong xu thế đó nhằm tạo mối quan hệ kinh tế rộng lớn. Từ đó dễ dàng lắm bắt được những lợi thế so sánh của tứng quốc gia , khu vực để từng bước tiến hành kinh doanh quốc tế nói chung và các hình thức xuất nhập khẩu nói riêng ch phù hợp.Từ đó hạn chế các hình thức xuất khẩu qua nhiều khâu trung gian và làm giảm giá thành sản phẩm do các dịch vụ gây ra.
Ngành may phấn đấu chủ động tiếp cận trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường thế giới, nâng cao khả năng xuất khẩu trực tiếp.
4 – Phẩm cấp của sản phẩm :
Các mặt hàng xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao, nên ta cần nhanh chóngđưa vào áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 9002 tại các doanh nghiệp dệt may để giảm giá thành và nâng cao chất lượng, tiết kiệm vật tư nguyên liệu tăng năng xuất lao động và tăng vị thế cạnh tranh của sản phẩm .
Bảng chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu :
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
2005
2010
1 – sản xuất – vải
Triệu mét
1330
2000
- sản phẩm dệt kim
Triệu sản phẩm
150
210
- sản phẩm may qui chuẩn
Triệu sản phẩm
780
1200
2 – Giá trị xuất khẩu
Triệu USD
3000
4000
- Hàng dệt
Triệu USD
800
1000
- Hàng may
Triệu USD
2200
13000
II - CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
1 – Mỏ rộng thị trường :
Thị trường tiêu thụ sản phẩm là 1 trong những nhân tố cơ bản của chu trình của 1 sản phẩm hiệu quả kinh doanh trên thị trường quốc tế. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang EU , thì mở rộng thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu được nhiều sản phẩm , thu đựơc nhiều lợi nhuận góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước. Thông qua 1 số biện pháp sau :
Cần phải hỗ trợcác doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu để tìm hiểu thị trường và phải đưa ra các biện pháp thâm nhập thị trường để mở rộng xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam.Đồng thời chính phủ nên xem xét cho bộ thương mại phối hợp với bộ công nghiệp cho ra đời “trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may” nói riêng, trung tâm này có chức năng nghiên cứu thị trường , phân phối sản phẩm , thực hiện môi giới, cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin về thị trường .
Xây dựng hoàn thiện ghiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm dệt may xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thée mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường .
2 – Thu hút vốn đầu tư và quản lý vốn:
Thực trạng rõ nét đối với ngành dệt may hiện nay là qui mô còn nhỏ và lạc hậu về công nghệ lại không đồng bộ . Do vậy cần đầu tư cả chiều sâu lẫn chiều rộng , nâng trình độ công nghệ, phát triển sản xuất đồng bộ nhằm đạt mục tiêu xuất khẩu .
Thực hiện cổ phần hoá và đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá là giải pháp cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tu trong nước. Dó là hình thức huy động vốn từ nội bộ, chính từ những nhà quản lý và người lao động của doanh nghiệp để đầu tư cho 1 số hạg mục dây truyễn sản xuất . Bên gạnh đó cần phải thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài thông qua hnhf thức liên doanh, nhằm tận dụng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng có sẵn, đầu tư chiều sâu và đồng bộ hoá dây truyễn sản xuất hiện có của các doanh nghiệp Việt Nam .
Khai thác và huy động mọi nguồn vốnđể tập trung đầu tư, tạo lập sự cân đối của toàn ngànhđặc biệt là khâukéo sợi với dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với doanh nghiệp may xuất khẩu . Tăng cường đầu tư ch hoạt động nghiên cứu thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may nghiên cứu thời trang, quảng cáo sản phẩm mới, để hàng dệt may Việt Nam nhanh tróng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong thị trường EU.
3 – Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam :
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế là rất cao. Nó được thể hiện qua mức độ ưu chuộng của người tiêu dùng về chất lượng cũng như về giá cả…
Bắt đầu tư nguyên liệu đầu vào, muốn tự túc cần có vốn lớn. Hiện nay, các đối tác đầu tư nước ngoài kiếm nhiều lợi nhuận từ hình thức này, họ không muốn đầu tư và chuyển giao công nghệ sản xuất chế biến nguyên phụ liệu.Vì vậy nhà nước cần phải đầu tư một số khu công nghệp liên doanh về nghành doanh nghiệp để hỗ trợ, và đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm nhàmáy kéo sợi, nhàmáy dệt nhuộm… Bên cạnh đó phải xây dựng, cải tiến bộ máy tổchức mạnh, đào tạo độ ngũ cán bộ có trình độ , kiến thức và tay nghề cao, sử dụng tốt những đòn bẩy kinh tế . Cán bộ kỹ thuật và quản lý đó là yếu tố quan trọng quyết định khả năng đẩy mạnh xuất khẩu dệt may Việt Nam .
Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tiê chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISG 9002 nhằam nhanh trongs nâng cao chất lượng của hàng dệt may Việt Nam .
4 – Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu :
Quản lý xuất nhập khẩu là 1 biện pháp hữu hiệu để khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu . Đối với hàng dệt may cũng vậy nhưng cho đếnnay, hiệu quả của biện pháp này chưa cao. Để hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may ta cần nhấn mạnh 1 số ý như sau:
Cần phải giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp những sản phẩm hoàn thiện. Muốn vậy sản phẩm ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may. Tạo lập mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và ngành may. Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước và xây dựng chiến lược đồng bộ về phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt như công trình phát triển cây bông , dâu, tơ tằm…
Cần đơn giản hoá các thủ tục nhập nguyên liệu, mẫu hàng, …
Khuyến khích các doanh nghiệp dệt may mở văn phòng đại diện đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứ thị trường xuất khẩu dệt may .Phát huy vai trò tích cực của công tác cơ quan thương vụ, tham tán thương mại ở các đại xứ quán Việt Nam tại các nước trong việctìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành dệt may nước ta trong thời gian tới.
Ngành dệt may với khả năng đem lại hàng tỷ USD và hơn nửa triệu chỗ lam việc nên cũng xứng đáng được huưởng 1 chính sách thuế ưu đãi và phù hợp hơn.
KẾT LUẬN
Ngành dệt may là ngành công nghiệp nhẹ có vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của nước ta. Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu của ngành đã đạt được những thànhtựu rất to lớn giá trị xuất khẩu tăng dần qua các năm và vượt qua con số 1 tỷ USD từ năm 1996. Và đến năm 2000 đã đạt gần 2tỷ. Hiện nay, ngành đang đứng thứ 2 trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và có nhiều triển vọng vươn lên vị trí dẫn đầu trong 1 vài năm tới.
Đạt được những thành tựu đó, bên cạnh sự lỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp dệt may trong nước, phải kể đến tác của xu hướng chuyển dịch kinh tế của các nước phát triển, trong đó các nước trongkhối liên minh Cgâu âu là 1 thị trường tiềm năng cần thiết nhằm đẩy mạnhhoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này.
Để những mục tiêu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt kết quả tốt, trên cơ sở những tiềm lực sẵn có , Em có 1 số suy nghĩ như mở rộng thị trường , hoàn thiện cơ chế quảnlý xuất khẩu , thu hút vốn đầu tư và nângcao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí :
1 – Khả năng cạnh tranh của ngành dệt trong bối cảnh tự do hoá
thương mại - Nguyễn Thanh Hà
Nghiên cứu kinh tế số 270 – tháng 11 /2000
2 – XK hàng dệt may Việt nam sang Châu âu. Thực trạnh và triển vọng - Trần Lê Giang
Nghiên cứu Châu Âu số 5 năm 1999
3 – Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may
Việt nam - Kinh tế và phát triển số 41 năm 2000
4 – Hàng dệt may XKViệt nam thực trạng và giải pháp
Kinh tế và phát triển số 33 năm 1999
5 – Một số kiến nghị về XNK hiện nay.
- Nguyễn Thị Hường
Kinh tế và dự báo số 8 năm 1997
6 - Đẩy mạnh XK vào thị trường EU
Thương Mại số 20 năm 2000
7 – Qui định về quản lý và sử dụng hạn ngạch hàng dệt may XK vào EU
Thương mại số 2+3 năm 1998
8 - Đẩy mạnh XK hàng dệt may sang EU
- Lê văn Đạo
Thời báo kinh tế số 86 tháng 7/2000
9 – Vai trò của liên minh châu âu đối với sự phát triển thương mại Việt nam - Hoàng Xuân Hoà
Nghiên cứu Châu Âu số 2 năm 2000
10 – Ngành dệt may XK Việt nam với các thách thức mới
TS. Nguyễn Thu Thuỷ
Những vấn đề Kinh tế thế giới số 3 năm2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.doc