Qua kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun phân bón lá đến sinh trưởng và năng suất của hoa lily chúng tôi bước đầu rút ra một số kết luận như sau:
- Trong cùng một điều kiện đất đai, giống, các biện pháp kỹ thuật canh tác nhưng tất cả các công thức có phun phân bón lá đều ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất của hoa Lily.
- Về khả năng sinh trưởng các công thức phun phân bón lá đều có số lá, chiều cao cây cao, chiều dài lá, chiều rộng lá lớn hơn so với công thức đối chứng.
- Phun phân bón lá không những ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng của Lily mà còn ảnh hưởng tốt tới năng suất và chất lượng hoa. Phân bón lá Rong biển cho năng suất thực thu tăng so với đối chứng 7,3% , Agriconik tăng 7,0%, Arrow tăng 6,6%.
- Phun phân bón lá Rong biển cho Lily có năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất (309.628.000 đồng/ha).
- Khi phun phân bón lá làm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh cho hoa lily, đặc biệt là công thức sử dụng Rong biển.
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7010 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của hoa lily sorbonne, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trang trại với hơn 2 triệu người trồng hoa, chủ yếu là hoa cẩm chướng, hoa lily, hoa hồng. Mỗi năm nước này xuất khẩu sang châu Âu 65 triệu USD trong đó riêng hoa lily chiếm 35%.
Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan rất tiên tiến, trình độ canh tác còn cao hơn Hàn Quốc, chỉ kém Nhật Bản; năm 2001 nước này đã có 490 ha trồng lily, trong đó xuất khẩu lily cắt cành đạt 7,4 triệu USD. Hà Lan là nước có công nghệ tạo giống và trồng lily tiên tiến nhất hiện nay. Mỗi năm Hà Lan tạo ra từ 15-20 giống mới, sản xuất 1.315 triệu củ giống lily, cung cấp cho 35 nước khác nhau trên toàn thế giới. Ngoài các nước kể trên còn nhiều nước trồng lily lớn khác như: Italia, Mỹ, Đức, Mêhicô, Côlômbia, Israen...[7]
1.3. Tình hình sản xuất hoa lily ở Việt Nam
Lily là loại hoa quí hiếm ở Việt Nam, hiện nay mới được trồng ở một số tỉnh thành phố có nghề trồng hoa phát triển như Đà Lạt, Tp.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng… So với các chủng loại hoa khác thì chủng loại hoa này chiếm tỷ lệ rất nhỏ cả về diện tích và số lượng. Đà Lạt là nơi hiện đang có diện tích trồng lily nhiều nhất so với các địa phương khác trên cả nước (chiếm khoảng 8% trong tổng diện tích trồng hoa), còn ở Hà Nội, Hải Phòng chỉ mới trồng mang tính chất thử nghiệm. Tình hình phát triển hoa lily ở Đà Lạt khá thuận lợi, một phần do thiên nhiên ưu đãi cho sự phát triển của các giống hoa nói chung và cho hoa lily nói riêng, một phần do kỹ thuật trồng lily của Đà Lạt tương đối cao nên hoa sinh trưởng phát triển khá tốt.
Hiện nay, lily là một trong những loại hoa đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho một số công ty hoa ở Đà Lạt. Hoa lily cắt cành mới phát triển gần đây nhưng do có dáng đẹp, mùi thơm quý phái, màu sắc hấp dẫn, quanh năm có hoa, được rất nhiều người ưa chuộng do vậy nhu cầu tiêu dùng sẽ ngày càng cao. Hiện nay, ở Việt Nam lily được xếp vào loại hoa cao cấp, thường đắt gấp 10-15 lần so với các loại hoa cúc, hoa hồng, cẩm chướng, hồng môn, chỉ sau phong lan, địa lan. Vì bán được giá cao nên việc trồng lily đang thu hút lớn các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, chính vì thế nghề này rất có triển vọng phát triển. Thông thường hoa lily cắt cành được phân làm 3 loại. Loại thứ nhất từ 4 hoa trở lên có giá từ 25 - 30.000 đồng/cành; loại 2 có 3 hoa giá từ 20 - 25.000 đồng/cành và loại thứ 3 gồm 2 hoa giá từ 15 - 20.000 đồng/cành. Hoa trồng chậu có giá 100-150.000 đồng/chậu (3 cây/ chậu).
Thời gian gần đây, Phân viện sinh học Đà Lạt lại có bước đột phá khi nghiên cứu sản xuất thành công củ giống hoa lily, có thể cung ứng cho thị trường với giá từ 3.000 – 5.000 đồng (tùy theo loại và màu sắc), chỉ bằng 1/3 hoặc 1/2 giá nhập ngoại.[2]
Tiềm năng đất đai, khí hậu của Đà Lạt rất lý tưởng cho sự phát triển của hoa Lily mà ít nơi nào có được. Thời gian tới, nếu đầu tư sản xuất củ giống chất lượng cao, giá rẻ với qui mô hàng hóa ngay tại địa phương thì Đà Lạt có triển vọng trở thành trung tâm lớn sản xuất và xuất khẩu hoa lily.
1.4. Tình hình nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam và Bình Định
1.4.1. Ở Việt Nam
Theo Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất và bảo quản một số giống hoa công nghệ cao có triển vọng xuất khẩu tại Vĩnh Phúc”, có nhiều giống hoa tham gia thí nghiệm, trong đó có 3 giống lily (Tiber, Sibera và Acapulco là giống đối chứng). Các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng: che chắn, sử dụng nhà lưới để sản xuất hoa có tác dụng làm cho cây sinh trưởng, phát triển tốt hạn chế tác động điều kiện thời tiết bên ngoài, hạn chế gió, làm cho hoa đỡ dập nát, hạn chế nắng gắt, hạn chế một số côn trùng gây hại, có thể trồng hoa trái vụ. Biện pháp tưới nước, sử dụng biện pháp tưới nước nhỏ giọt có tác dụng tránh được kết váng mặt đất, giảm sự bốc hơi nước qua bề mặt, do đó giảm được lượng muối kim loại trong đất bốc lên bề mặt đất, phân được trộn cùng một lúc, tập trung xung quanh vùng rễ, giảm tổn thất, tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm ô nhiễm môi trường.
Thời gian sinh trưởng của lily từ 83 – 91 ngày. Về chất lượng hoa: hoa lily chiều dài cành từ 81 – 89cm, đối chứng 93cm; đường kính cổ nụ hoa 6,3 – 6,6cm. Năng suất các giống hoa lily, với mật độ 9.000 củ/sào cho thu hoạch từ 8.550 – 8.820 cành hoa/sào (360m2). Thời gian bảo quản: Trong điều kiện bảo quản lạnh ẩm, lily 25 - 28 ngày, trong điều kiện bảo quản lạnh khô: lily 15 - 20 ngày.
Hiệu quả kinh tế, hoa lily chỉ sau khi trồng 3 tháng 1 sào có thể cho thu hoạch 138,5 – 142,9 triệu đồng, đầu tư 86,5 triệu đồng. Tuy nhiên, đầu tư trồng hoa lily quá lớn, giống hoa phải nhập ngoại.
Kết quả đề tài "Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất hoa Lily tại thành phố Thái Nguyên" (Mã số: B2006 TN03-12) do Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên thực hiện đã cho thấy:
- Xử lý lạnh củ giống hoa lily ở nhiệt độ 120C trong thời gian 2 ngày trước khi trồng là thích hợp nhất làm củ nẩy mầm 100% và số nụ, số hoa /cây đạt cao nhất là 4,07hoa/cây. - Nghiên cứu chế độ chiếu sáng: che 50% ánh sáng khi trồng hoa lily vụ đông đã làm cho cây sinh trưởng tốt như: tăng chiều cao cây, tăng số nụ/cây, tăng số hoa/cây đạt cao nhất là 5,1 hoa/cây, đồng thời cho độ bền hoa cắt cắm cao hơn so với đối chứng từ 1-2 ngày. Thu lợi nhuận tăng 26,24 triệu đồng /sào so với đối chứng. - Sử dụng chế phẩm Atonik trong sản xuất hoa lily đã làm tỷ lệ hoa hữu hiệu đạt cao nhất là 97,65%, tăng tỷ lệ hoa loại 1 và thu lãi cao nhất 157,39 triệu đồng/sào. - Dùng phân bón lá Yogen N0.2 tuy có số hoa/cây không cao bằng dùng Vạn Niên Hồng nhưng có số hoa hữu hiệu và hoa loại 1cao nhất (93,36%) thu lãi cao nhất đạt 160,04 triệu đồng/sào tăng hơn đối chứng 22,16 triệu đồng/sào. - Nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh quy trình trồng hoa lily tại Thành phố Thái Nguyên đã thực hiện tại các mô hình sản xuất thử và đạt hiệu quả kinh tế cao.[4]
Theo TS. Nguyễn Thị Lý, hai năm gần đây trên cơ sở hợp tác và liên kết với đơn vị bạn, các cán bộ khoa học của Viện Di truyền Nông nghiệp đã khảo sát, đánh giá và bước đầu tuyển chọn các giống hoa thu thập được, đối với lily có hai giống là LL4 và LL8.
1.4.2. Ở Bình Định
Tại Bình Định việc sản xuất hoa còn đơn giản, chủ yếu là các loại hoa vùng nhiệt đới như: huệ, mai, cúc đại đoá, layơn, thược dược...trong đó mới chỉ có hoa huệ là tương đối đạt sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ (có xuất ra một số tỉnh nhưng quy mô, số lượng còn khiêm tốn); các loài hoa còn lại sản xuất và tiêu thụ phụ thuộc lớn vào điều kiện thời tiết, mùa vụ.
Nhìn chung, những nghiên cứu hoa rau ở Bình Định còn quá ít; quy trình kỹ thuật trồng hoa còn nghèo nàn; chưa thu thập và tuyển chọn những giống hoa có chất lượng cao cho thị trường đặc biệt là hoa ôn đới; chưa ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nên năng suất và chất lượng không đáp ứng yêu cầu tiêu dùng; vì thế nghề trồng hoa chưa phải là thế mạnh cho ngành nông nghiệp tỉnh, rất ít hộ nông dân sản xuất nghề này, mặc dù đây là ngành cho thu nhập cao hơn nhiều so với cây lương thực và cây thực phẩm.
Tại Bình Định, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoa lily ngoài đề tài nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ “Nghiên cứu, thăm dò khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số loại cây rau, hoa ôn đới trên đất đỏ bazan xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thạnh”
1.5. Đặc điểm sinh học
1.5.1. Đặc điểm thực vật học
Lily là cây thân thảo lâu năm. Phần dưới mặt đất gồm thân vảy, rễ. Phần trên mặt đất gồm lá, thân, mầm hạt (một số không có mầm hạt).
1.5.1.1. Thân vảy
Thân vảy là phần phình to của thân tạo thành. Trên đĩa thân vảy có vài chục vảy hợp lại vảy có hình cầu dẹt, hình trứng, hình trứng dài,....Thân vảy không có vỏ bao bọc. Màu sắc thân vảy thay đổi tùy theo loài và các giống khác nhau: màu trắng, màu vàng, màu đỏ cam, màu đỏ tím…,kích thước của thân vảy cũng tuỳ thuộc vào các loài giống khác nhau. Loại nhỏ chu vi 6cm, nặng 7-8 gam, loại to chu vi 24-25cm, nặng trên 100 gam, loại đặc biệt chu vi 34-35cm, nặng 350 gam. Độ lớn của thân vảy tương quan chặt chẽ với số nụ hoa. Ví dụ, giống lily thơm chu vi thân vảy là 12-14cm có 2-4 nụ, chu vi thân vảy là 14-16cm có trên 4 nụ. Các giống lai phương Đông và lai châu Á số nụ cũng tỷ lệ thuận với chu vi thân vảy... Vảy có hình elip, hình kim xoè ra, có đốt hoặc không có đốt. Mầm vảy to ở ngoài, nhỏ ở trong, là nơi dự trữ nước và dinh dưỡng của thân vảy, trong đó nước chiếm 70%, tinh bột chiếm 23%, một lượng nhỏ protêin, chất khoáng, chất béo. Độ lớn của thân vảy thường được đo bằng chu vi và trọng lượng của nó. Vảy nhiều và mập thì chất lượng giống tốt. Củ giống để trồng hoa thương phẩm nhất thiết phải là thân vảy đã được bồi dục, thường năm đầu chưa ra hoa, sang năm thứ 2 củ có chu vi từ 9cm trở lên mới ra hoa.[7]
1.5.1.2. Rễ
Rễ lily gồm 2 phần rễ thân và rễ gốc. Rễ thân còn gọi là rễ trên, do phần thân mọc dưới đất sinh ra, có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh dưỡng, tuổi thọ của rễ này là một năm. Rễ gốc gọi là rễ dưới, sinh ra từ gốc thân vảy, có nhiều nhánh, sinh trưởng khỏe, là cơ quan chủ yếu hút nước và dinh dưỡng của lily, tuổi thọ của rễ này là 2 năm.[7]
1.5.1.3. Lá
Lá lily mọc rải rác thành vòng thưa, hình kim, xòe hoặc hình thuôn, hình dải, đầu lá hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn. Lá to hay nhỏ tùy thuộc vào giống, điều kiện trồng trọt và thời gian xử lý. Trên lá có từ 1-7 gân, gân giữa rõ ràng hơn, lá mềm có màu xanh bóng.[7]
1.5.1.4. Củ con và mầm hạt
Đại bộ phận của lily có nhiều củ con ở gần thân rễ, chu vi mỗi củ từ 0,5-3 cm, số lượng củ con tùy thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt. Một số giống địa phương và các giống lai tạo ở nách lá có mầm hạt hình cầu hoặc hình trứng, khi chín có màu tím, tối, chu vi mầm hạt từ 0,5-1,5 cm.[7]
1.5.1.5. Hoa
Hoa lily mọc đơn lẻ, hoặc xếp đặt trên trục hoa, bao hoa hình lá, nhỏ. Hoa chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên. Hình dáng hoa là căn cứ chủ yếu để phân loại lily. Đối với các giống thuộc loại hình loa kèn, 1/3 phía trước cong ngược lên; loại hình phễu 1/3 phía trước cong ngược ra; loại hình cái cốc, phía trước hơi cong; loại hình cầu cánh hoa 6 cái, hai vòng nối nhau do 3 vòng đài và 3 cánh tạo thành, màu sắc như nhau nhưng đài hoa hẹp hơn, cánh đều, gốc có tuyến mật. Rất nhiều giống lily ở gốc cánh có chấm màu tím, hồng...Nhị đủ 6 cái, giữa có cuống màu xanh nhạt. Trục hoa nhỏ, dài, đấu trục phình to, có 3 khía. Màu sắc hoa lily rất phong phú: trắng, phấn hồng, đỏ, vàng, vàng cam, đỏ tím, tạp sắc… Màu sắc lốm đốm có đen, đỏ thắm, đỏ tím, đen nâu... Phấn hoa có màu vàng hoặc đỏ cam, đỏ nâu, nâu tím… Các giống hoa lily phương Đông thường có hương thơm và đây là đặc điểm nâng cao giá trị của hoa.[7]
1.5.1.6. Quả
Quả hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có 3 ngăn. Hạt hình dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu, hoặc 3 góc, vuông dài. Độ lớn của hạt, trọng lượng hạt, số lượng hạt tùy theo giống ví dụ: giống L.coniolor hạt nhỏ, đường kính khoảng 5mm, mỗi gam có 700-800 hạt, giống L.henrgi, giống L.auratum hạt to, đường kính 12mm, mỗi gam có 170-180 hạt. Trong điều kiện khô, lạnh, hạt lily có thể bảo quản được 3 năm.[7]
1.6. Đặc điểm sinh trưởng, phát dục
1.6.1. Đặc điểm sinh trưởng thân
Sự sinh trưởng phát dục của lily có thể chia ra các giai đoạn: phát triển trục thân, ra nụ, nở hoa, kết hạt, chết khô. Thân vảy vùi trong đất sau khoảng 2 tuần sẽ nảy mầm. Tuy nhiên trong trường hợp xử lý lạnh không đầy đủ hoặc gặp trời lạnh thời gian nảy mầm có thể kéo dài tới 5 tuần. Từ khi trồng tới khi ra nụ mất khoảng 6-9 tuần (tùy theo giống và điều kiện thời tiết). Từ khi ra nụ đến lúc nở hoa kéo dài 4-7 tuần. Các giống khác nhau có mức độ chênh lệch nhau khá lớn về thời gian, sinh trưởng của cây. Nhóm giống châu Á từ khi trồng đến khi ra hoa khoảng 12 tuần nhưng cũng có một số giống như Kinka, Lotus chỉ cần 11 tuần, Adelina, Yellow blage, cần đến 16- 17 tuần, cá biệt có giống chỉ cần 9 tuần như Dame Blanche, ngược lại giống Cassa Blanca cần đến 20 tuần. Trục thân của lily là do trục mầm dinh dưỡng co ngắn lại tạo ra. Trục thân chia ra trục thân sơ cấp và trục thân thứ cấp. Đầu trục sơ cấp chính và mầm dinh dưỡng co ngắn, trục thứ cấp nằm giữa mầm dinh dưỡng co ngắn và vảy có từ 1 đến 3 các lá trung tâm phát dục ra củ con đời sau. Có một số mầm lá, là vảy mới, quyết định đến sự hình thành củ con. Sau khi phá ngủ trục sơ cấp, ở trên mầm nách trục thân là vùng vươn dài thứ nhất, mầm đỉnh co ngắn, vươn lên mặt đất, lá trên bắt đầu mở ra, khi cây ra nụ thì số lá đã được cố định. Chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống, điều kiện và thời gian xử lý lạnh củ giống, thường số mầm lá đã được cố định trước khi trồng. Vì vậy, chiều cao cây vẫn chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt. Trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu, đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Ở phạm vi nhiệt độ từ 20-300C nếu cứ tăng thêm 20C cây có thể thấp đi 2cm. Nắm được đặc tính này người ta có thể xử lý giờ chiếu sáng trước khi ra nụ khoảng 4-5 tuần để điều chỉnh chiều cao của cây rất có hiệu quả.[7]
1.6.2. Đặc điểm phát dục
1.6.2.1. Sự phân hóa hoa
Trong điều kiện tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, lily thường được trồng vào tháng 9 tháng 10 và bắt đầu phân hóa hoa vào tháng 11, 12. Quá trình phân hoá hoa được hoàn thành trong khoảng 40-60 ngày. Các giống lai châu Á đa số thuộc loại này. Khi bắt đầu nảy mầm cũng là lúc cây bắt đầu phân hóa mầm hoa. Nguyên nhân là do mầm co ngắn trong vảy rất mẫn cảm với nhiệt độ thấp. Củ lily xử lý lạnh 50 C từ 4-6 tuần, sau khi trồng 10-14 ngày đỉnh sinh trưởng mầm rút ngắn, đã bắt đầu hình thành mầm hoa nguyên thuỷ. Mỗi mầm hoa nguyên thủy này lại kèm theo 1-2 mầm khác. Khi củ đã qua xử lý lạnh thì trước khi trồng, củ có thể mọc mầm và phân hóa hoa, vì vậy nếu không trồng kịp thời sẽ bất lợi cho phát dục mầm hoa. Do đó trước khi mọc mầm hoa hoặc khi mầm ngắn hơn 1 cm phải trồng ngay. Tuy nhiên, một số giống thuộc loại hoa phương Đông và lily thơm lại thuộc loại sau khi nảy mầm 1 tháng mới bắt đầu phân hóa hoa, đó cũng là nguyên nhân các giống này có thời gian sinh trưởng dài. Trong điều kiện tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, có một số ít giống có thời gian phân hóa hoa bắt đầu vào tháng 8-9, đến tháng 10-11 thì hoàn thành, cũng có giống thời gian phân hóa hoa rất dài, bắt đầu từ tháng 9-10, đến tháng 1-2 năm sau mới xong. Hai loại chính ở các dòng lai châu Á có sức hình thành mầm hoa mạnh, vì vậy khả năng phát triển của củ nhỏ hơn các giống khác.[7]
1.6.2.2. Sự ra hoa
Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trước khi trồng (chất lượng củ giống, điều kiện xử lý), nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trước khi trồng (chất lượng giống, điều kiện xử lý), nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng, nếu sau khi trồng nhiệt độ trong nhà vườn vượt quá 300C thì hoa sẽ mù, tức là tất cả các mầm hoa đều khô đi. Nhiệt độ 25 – 30 0C sẽ làm thối nụ, tỷ lệ ra hoa chỉ đạt 21- 43%; ở 15 – 200C tỷ lệ ra hoa đạt tới > 80%. Nhị đực và nhị cái của lily cùng chín một lúc. Thời gian quả chín tuỳ thuộc vào giống. Giống ra hoa sớm thì cần khoảng 60 ngày, giống ra hoa trung bình cần 80-90 ngày, giống ra hoa muộn cần ít nhất tới 150 ngày. Ánh sáng mạnh tạo ra sự bại dục của nụ, đồng thời còn gây ra cháy lá, việc xử lý che nắng sẽ giảm thối nụ. Ngược lại ánh sáng yếu (đặc biệt là mùa Đông) cũng làm thối nụ và ảnh hưởng đến chất lượng hoa. Quả chín sau khi hoa nở được khoảng hai tháng. Khi quả có màu vàng, sẽ nứt ra, hạt có cánh vì vậy ở điều kiện tự nhiên có thể truyền đi theo gió. Sau khi thu hoạch quả, thân lá khô héo, lúc này ta có thể thu hoạch củ để làm giống.
1.6.2.3. Sự ngủ nghỉ của củ và biện pháp phá ngủ
Kỹ thuật quan trọng trong việc trồng lily là phải phá ngủ củ. Nếu trồng củ chưa qua ngủ sẽ dẫn đến tỷ lệ nảy mầm thấp và thường xuất hiện hiện tượng hoa mù. Các giống thuộc dòng lai châu Á có thời gian ngủ nghỉ kéo dài từ 3-6 tháng. Dùng nhiệt độ thấp để phá ngủ là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Nhìn chung các giống bảo quản lạnh 50C sau 4 - 6 tuần là phá được ngủ nghỉ. Nhưng cũng có một số giống như Connecticut cần 6 đến 8 tuần; giống Yellow Blage cần đến 8 tuần. Một số giống thuộc dòng lai phương Đông cần xử lý lâu hơn như StarGager, Casa-Blanca (ít nhất phải trên 10 tuần). Cùng một giống, việc xử lý lạnh càng lâu thì thời gian từ trồng đến ra hoa càng ngắn. Từ đặc điểm này ta có thể xác định được thời gian ra hoa, đồng thời là xác định được thời gian trồng thích hợp.[7]
1.7. Yêu cầu ngoại cảnh
1.7.1. Nhiệt độ
Nói chung lily là cây chịu rét khá, chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ thích hợp ban ngày là 20-250C, ban đêm là 120C. Các giống lai phương Đông thời kỳ đầu thích hợp với nhiệt độ ban ngày 25-280C, ban đêm 18-200C. Dưới 120C cây sinh trưởng kém, hoa dễ bị mù, thời gian đầu nhiệt độ thấp có lợi cho ra rễ và sự phân hoá hoa. Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lily, quan trọng nhất ảnh hưởng đến nảy mầm của hạt, sự phát dục của thân và sự sinh trưởng của lá. Nhiệt độ ảnh hưởng tương đối lớn tới nảy mầm của hạt. Xử lý củ giống nhóm lily thơm ở nhiệt độ 450C trong 5 tuần, có thể kích thích lá vươn dài, đốt dài ra và nâng cao khả năng sinh trưởng của cây nhưng làm cho thân nhỏ hơn, giảm số lá và nụ. Từ khi củ nảy mầm khỏi mặt đất đến khi ra hoa thì tốc độ ra lá, độ dài của thân tương quan thuận với nhiệt độ không khí. Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của rễ, nếu nhiệt độ đất từ 17-210C có lợi cho sinh trưởng của rễ, gốc, nhưng nếu nhiệt độ xuống thấp từ 12- 130C hoặc cao hơn (27-280C) thì rễ làm chậm lại sự phát triển của thân lá. Từ khi xuất hiện nụ đến khi ra hoa nhiệt độ chênh lệch ngày/đêm ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng của thân. Nếu chênh lệch từ 00C đến 160C thì độ cao của cây dao động từ 14,2 đến 27cm. Nhiệt độ còn là nhân tố quan trọng điều tiết sự phân hóa hoa và sự ra hoa. Roh (1974) khi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự ra hoa của lily đã nhận thấy nếu những giống được xử lý liên tục ở 12,80C sẽ rút ngắn sự ra hoa. Nhiệt độ và ánh sáng còn ảnh hưởng đến sự phát triển của củ, nhiệt độ thấp, thời gian chiếu sáng trong ngày dài củ sẽ to hơn. Vì vậy vào mùa đông mỗi ngày cần tăng thêm 4 giờ chiếu sáng, nâng chế độ chiếu sáng lên từ 16-24 giờ/ngày, có tác dụng làm cho cây thấp đi rõ rệt, đồng thời tăng tỷ lệ ra hoa. Củ giống dòng tạp giao phương Đông như CasaBalanca, StarGager, từ cuối tháng giêng mỗi ngày chiếu sáng thêm một số giờ và chiếu liên tục trong 6 tuần, thì tốc độ ra hoa tăng rõ rệt. Chiếu sáng bổ sung ở nhiệt độ thích hợp (16- 180C) có thể rút ngắn được thời gian ra hoa của tất cả các giống.[6]
1.7.2. Ánh sáng
Lily là cây ưa cường độ ánh sáng ở mức trung bình, vì vậy nếu trồng vụ Hè Thu cần phải che bớt ánh sáng, tạo ra cường độ ánh sáng thích hợp (từ 12000-15000 lux), nhất là ở thời kỳ cây cao 20-30cm. Lily là cây dài ngày, chiếu sáng ngày dài hay ngắn không những ảnh hưởng đến phân hoá hoa, mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của hoa. Boonteps (1973) phát hiện trong quá trình hoạt hoá, mỗi ngày tăng thêm 8 giờ chiếu sáng có thể hoa ra sớm 5 tuần. Xử lý ngày dài sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và số lượng hoa.[6]
1.7.3. Nước
Đất quá khô hoặc quá nhiều nước đều ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục của lily. Thời kỳ đầu cây cần nhiều nước, thời kỳ ra hoa nhu cầu nước giảm bớt vì nước nhiều củ dễ bị thối, rụng nụ. Lily thích không khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất là 80-85%. Nếu ẩm độ biến động lớn dễ dẫn đến thối củ. Cần chú ý là củ lily rất mọng nước nên ngay sau khi trồng phải tiến hành tưới thật đẫm để không xảy ra hiện tượng đất rút nước từ trong củ làm củ héo và sau này sinh trưởng kém.[6]
1.7.4. Không khí
Lily là cây khá mẫn cảm với khí etylen, tuy nhiên độ mẫn cảm của các giống rất khác nhau: giống châu Á mẫn cảm hơn đối với khí etylen so với các dòng giống khác.
1.7.5. Đất
Lily có thể trồng ở mọi loại đất, nhưng đất nhiều mùn, đất thịt nhẹ là tốt nhất. Lily là loại cây có rễ ăn nông vì vậy đất thoát nước rất quan trọng. Lily rất mẫn cảm với muối, đất nhiều muối cây không hút được nước, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phân hoá hoa và ra hoa. Nói chung hàm lượng muối không được vượt quá 15mg/cm2, chất ôxy hoá không cao quá 1,5mmol/l. Đất quá chua cây hút ion sắt, nhôm, magiê nhiều gây hại cho cây; đất kiềm quá, lượng hút sắt, magiê, lân không đủ sẽ dẫn đến thiếu các sắc tố. Các giống thuộc giống lai châu Á và lily thơm yêu cầu độ pH thích hợp từ 6-7, giống thuộc nhóm phương Đông lại yêu cầu thấp hơn pH từ 5,5-6,5.[6]
1.7.6. Dinh dưỡng
Lily yêu cầu mức độ phân bón cao nhất trong 3 tuần đầu kể từ sau khi trồng. Tuy nhiên, lúc này rễ non dễ bị ngộ độc muối. Muối trong đất do 3 nguồn là phân bón, nước tưới và hàm lượng dinh dưỡng của cây trồng vụ trước. Vì vậy để tránh tác hại của muối trong đất, trước khi trồng 6 tuần cần phân tích đất để biết hàm lượng muối. Lily cũng mẫn cảm với hợp chất chứa Clo, yêu cầu lượng Clo trong đất không vượt quá 15mmol/lít, nếu không sẽ hại rễ. Lily cũng mẫn cảm với Flo, nếu hàm lượng Flo trong không khí cao dễ gây cháy lá. Vì vậy không được bón phân có chứa Flo như muối Flophotphat, mà phải bón loại phân có hàm lượng Flo thấp. Đất thiếu canxi, lily dễ bị vàng lá, lá phát triển không gọn.[6]
1.8. Cơ chế và nguyên tắc sử dụng của phân bón lá
1.8.1. Cơ chế tác dụng của phân bón lá:
Cấu trúc của lá gồm có lớp cutin, những tế khổng và chất sáp bên ngoài che phủ, lớp bì mô có nhiều chất mộc, bán mộc, pectin, được phối hợp với lực căng trên mặt lá. Do đó, trong phân bón lá, người ta phải dùng chất có nhũ dầu, chất detergent hoặc chất ướt để giúp chất phân lỏng dính vào lá. Một cách đơn giản, sự hấp thu phân vào lá là do sự chênh lệch nồng độ dung dịch giữa chất phân ở bên ngoài lá và dung dịch ở bên trong lớp cutin của bì mô lá, nhờ đó chất phân được thẩm thấu vào bên trong lá.
1.8.2. Cách sử dụng phân bón lá
Nếu có điều kiện, sự phân tích đất đai và lá cây để xác định tình trạng dinh dưỡng của đất và cây trước khi áp dụng phân lá là điều cần thiết. Sau đó cần chú trọng đến các yếu tố sau đây:
- Loại hoa màu
- Chọn đúng loại phân và nồng độ chính xác.
- Phun phân bón lá đúng lúc cho từng giai đoạn sinh trưởng của cây .
- Phun phân bón lá đúng chỗ và đồng đều.
- Môi trường và khí hậu thuận lợi xịt phân bón lá: có ánh sáng, không gió, không mưa, nhiệt độ trung bình và ẩm độ đất thiếu (khí hậu khô) để sự hấp thụ phân vào lá và chuyển vị trong cây được hữu hiệu.
Phân bón lá, theo lý thuyết, là loại phân lý tưởng trong ngành nông nghiệp vì độ hiệu quả cao nhất, nhưng đòi hỏi người dùng phải có sự hiểu biết tối thiểu để thu được lợi tức kinh tế cao. Cần nên nhớ rằng phân bón lá chỉ có thể làm thỏa mãn một phần các chất dinh dưỡng (N, P, K và Ca) của cây mà thôi và không thể thay thế hoàn toàn nhu cầu về các chất này được. Vì vậy, phân bón lá chỉ có thể làm quân bình chất dinh dưỡng của cây, chữa trị được vài vấn đề về bệnh sinh lý của cây, chống chịu thời tiết bất thường như hạn hán, giúp cây đơm bông kết trái, hạt mỹ mãn hoặc sớm muộn theo ý muốn, giúp cho hệ thống rễ cây hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều hơn, và cải thiện năng suất cùng chất lượng.
PHẦN II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Hoa lily: giống Sorbonne
2.1.2. Phân bón lá:
2.1.2.1. Agriconik
Thành phần: N: 0,1%, P2O5: 0,2% , K2O: 0,04%, Mg: 5%, Zn: 0,2%, Cu:0,04%, Fe: 5%, Mn: 0,2%, B: 0,02%
2.1.2.2. Arrow
Thành phần: N: 33%, P2O5 : 11%, K2O: 11%, Fe: 0,33%, Cu: 0,07%, B:0,02%, Zn: 0,07%, Mn: 0,05%, Mo: 0,0005%
2.1.2.3. Rong biển
Thành phần: N: 1,5%, P2O5 : 3%, K2O: 20%, S: 1,5%, Mg: 0,45%, B: 125ppm, Fe: 200 ppm, Mn: 10ppm, Cu: 30 ppm, Zn: 65 ppm, Alanin: 0,32%, Agrinin: 0,04%, Cystin: 0,01%, Serin: 0,08%, Glyxin: 0,29%, Histidin: 0,08%, Valin: 0,28%, Iso leucin: 0,26%, Leucin: 0,41%, Lycin: 0,16%, Prolin: 0,28%, Methyonin: 0,11%, Phenylalanin: 0,25%, Tyrocin: 0,17%, Tryptrophan: 0,07%, Glutamic acid: 0,93%, Aspartic acid: 0,62%, Maniton: 0,11%, Laminarin: 0,08%, Alginic acid: 0,8%, Xytokinin: 600 ppm, Auxin: 37 ppm, Gibberellin: 21ppm.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của lily trên địa bàn Bình Định.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển, năng suất của hoa lily nhằm xác định loại phân bón lá thích hợp mang lại năng suất và chất lượng cao cho hoa lily.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá đối với hoa lily trồng ở Bình Định.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD) với 3 lần nhắc lại, mật độ 48 cây/m2.
Các công thức thí nghiệm như sau:
Công thức I : Phun nước lã (đối chứng)
Công thức II : Phun Agriconik
Công thức III : Phun Arrow
Công thức IV : Phun Rong biển
2.3.2. Sơ đồ ruộng thí nghiệm
Ia
Ib
IIIa
IVc
IIb
IIa
IVb
IIIc
Ic
IIc
IIIb
IVa
2.3.3. Cách pha nồng độ:
Theo hướng dẫn ở bao bì
+ Agriconik: 10ml pha cho bình xịt 8 lít.
+ Arrow: 10g pha cho bình xịt 8 lít.
+ Rong biển: 10g pha cho bình xịt 16 lít.
2.4. Biện pháp kỹ thuật trồng hoa lily trong chậu
- Chọn đất nền: Chất nền phải tơi xốp và có khả năng giữ nước tốt. Thường sử dụng hỗn hợp: đất vườn+than bùn+phân hoai mục theo tỉ lệ 1:1:1 trộn đều.
- Chọn giống và củ giống: Thường dùng củ được bảo quản lạnh dài ngày. Các giống lai châu Á bảo quản 1 năm, lai phương Đông 7 tháng. Cần chọn củ to mập, không có sâu bệnh, chu vi củ từ 14cm trở lên và củ chưa nảy mầm.
- Cách trồng: Chậu để trồng có thể làm bằng chất dẻo hoặc chậu sứ có quy cách tùy theo mục đích kinh doanh. Thông thường kích cỡ chậu có đường kính 25cm, chiều cao 30cm, đáy đục lỗ để nước thoát dễ dàng nhưng đường kính đáy lỗ không quá 3cm. Cũng có thể dùng chậu gỗ hoặc chậu nhựa nhưng phải chắc và không được to quá để dễ di chuyển. Khi trồng, dưới lớp củ phải cho lớp đất dày tối thiểu 5cm và một lớp giá thể cho rễ mọc, dày tối thiểu là 8cm, mỗi chậu có thể trồng 3-12 củ. Trồng xong tưới nước ngay, đợi cho nước thấm hết rồi mới chuyển vào phòng ra rễ.
- Xử lý ra rễ: Các chậu được xếp sát nhau để tận dụng diện tích. Nhiệt độ phòng ra rễ khống chế từ 12-130C. Ở nhiệt độ này thường sau 2-3 tuần mầm có thể mọc ra dài 8-10cm, lúc này có thể chuyển cây trồng vào nhà ấm. Phòng ra rễ cần khống chế nhiệt độ theo đúng chế độ bảo ôn, thông gió tốt và cần có người quản lý.
- Điều chỉnh nhiệt độ: Khi trời nóng, nhiệt độ bên ngoài trên 200C cần chuyển chậu vào trong nhà lưới và hạ thấp nhiệt trong nhà, cách làm là: Che nắng, quạt gió và hơi lạnh vào nhà, phun hơi nước hạ nhiệt (cứ cách 30 phút đến 60 phút phun 5-10 lần).
- Bón phân: Nói chung để cho củ không bị thối không nên bón quá nhiều phân lót vào chậu mà nguồn phân bón của cây chủ yếu dựa vào bón thúc.
* Nguyên tắc bón phân: Thời kỳ đầu bón đạm là chính, thời kỳ sau bón hỗn hợp N.P.K, khi có nụ bổ sung lân và kali.
* Cách bón: thời kỳ đầu hòa vào nước tưới, về sau phun lên lá là chính, lượng bón, số lần bón giống trồng ngoài đất.
- Tưới nước: trồng trong chậu, khi tưới nước dễ lọt qua, gây tổn thất lớn về nước nên phải thường xuyên bổ sung nước cho cây kết hợp giữa tưới và phun. Phun nước còn làm tăng được độ ẩm không khí, mỗi tuần tưới 2 lần và kết hợp với bón phân.
2.5. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
* Quy mô nghiên cứu: 24 m2 bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Thời gian sinh trưởng phát triển của lily: theo dõi từ khi trồng cho đến khi thu hoạch theo từng ô thí nghiệm.
- Tăng trưởng chiều cao lily: đo từ mặt đất đến mút ngọn lá cao nhất bằng thước kẽ li. Mỗi ô đo ngẫu nhiên 5 cây và tính trung bình chiều cao cây sau khi trồng: 20, 35, 50 ngày.
- Tăng trưởng số lá trên cây: đếm số lá cùng ngày với đo chiều cao cây và chọn các cây được đo chiều cao để đếm số lá. Mỗi ô đếm số lá 5 cây và tính trung bình.
- Tăng trưởng chiều dài lá: đo những lá có chiều dài lớn nhất.
- Tăng trưởng chiều rộng lá: đo những lá có chiều rộng lớn nhất.
- Tăng trưởng chiều dài cánh hoa: dùng thước kẽ li đo phần dài nhất của cánh hoa.
- Tăng trưởng chiều rộng cánh hoa: dùng thước kẽ li đo phần rộng nhất của cánh hoa.
- Tăng trưởng chiều dài cành hoa: dùng thước kẽ li để đo.
- Tăng trưởng số hoa: đếm số hoa cho từng lần lặp.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
Năng suất lý thuyết (cành/ha) = Tỉ lệ sống x mật độ trồng x 10.000m2 x 0,7
Năng suất thực thu (cành/ha) = Năng suất thực/ô x 10.000m2 x 0,7
* Phương pháp theo dõi sâu, bệnh hại:
+ Điều tra định kỳ theo phương pháp 5 điểm chéo góc với quy mô/điểm điều tra cụ thể: từ giai đoạn hồi xanh đến chuẩn bị trải lá (giao tán): điều tra 20 cây/điểm. Thời kỳ giao tán đến hoàn chỉnh số lá (bắt đầu xuất hiện sản phẩm sử dụng: củ, quả, hoa, lá ...): điều tra 10 cây/điểm. Thời kỳ chuẩn bị thu hoạch (từ 15-20 ngày trước khi thu hoạch): điều tra 20 cây/điểm.
+ Đối với rệp, được đánh giá theo thang điểm 4 cấp:
Cấp 0: Trên các lá không có rệp.
Cấp 1: Trên các lá có rệp nhưng chưa hình thành quần tụ (còn phân bố rải rác).
Cấp 3: trên lá rệp xuất hiện từ 1-5 quần tụ.
Cấp 5: trên là rệp hình thành 1-5 quần tụ.
+ Đối với bệnh hại các loại được đánh giá như sau:
Số cây bị bệnh
Tỷ lệ cây bệnh = --------------------------- x 100%
Tổng số cây điều tra
* Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng phần mềm IRRISTAT và EXCEL.
PHẦN III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng hoa lily sorbonne
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ở các công thức nhằm tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp cho cây.
Lily là nột cây ngày dài, chiếu sáng ngày dài hay ngắn không những ảnh hưởng đến phân hóa mầm hoa mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của hoa. Trong thí nghiệm chỉ tiến hành theo dõi từ trồng đến thu hoạch. Thời gian sinh trưởng của cây hoa lily phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống, tuy nhiên thời gian sinh trưởng cũng chịu ảnh hưởng của mùa vụ, thời tiết, điều kiện canh tác và các loại phân bón lá khác nhau thì khả năng sinh trưởng cũng khác nhau.
Bảng 1: Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng hoa Lily sorbonne
GĐ ST
Công thức
Từ khi trồng đến (ngày)
Nảy mầm
Ra nụ
Nở hoa
CT I (Đ/c)
10
51,93
87,93
CT II
10
49,13
81,67
CT III
10
50,07
84,00
CT IV
10
48,20
79,07
LSD
-
3,71
6,30
CV%
-
4,0
4,0
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: trong cùng một điều kiện như nhau, các loại phân bón lá khác nhau thì thời gian sinh trưởng của các công thức cũng khác nhau.
Giai đoạn từ trồng đến nảy mầm: giữa các công thức chưa có sự sai khác do thí nghiệm được bố trí trong một điều kiện thời tiết, biện pháp canh tác như nhau, mặt khác trục thân mới trồi lên khỏi mặt đất nên bộ lá chưa hoàn thiện để tiến hành phun phân bón lá.
Giai đoạn từ trồng đến ra nụ: thời gian ra nụ biến động 48,20-51,93 ngày, trong đó công thức Rong biển cho ngày ra nụ ngắn nhất 48,20 ngày, giảm so với đối chứng 3,73 ngày. Thời gian ra nụ của công thức IV thấp hơn so với đối chứng chắc chắn ở độ tin cậy 95%, các công thức còn lại không có sự sai khác về mặt thống kê. Ở giai đoạn này bộ rễ đã phát triển mạnh, khối lượng rễ nhiều, diện tích lá lớn nên hấp thụ đầy đủ các nguyên tố vi lượng từ phân bón lá.
Giai đoạn từ trồng đến nở hoa: Thời gian ra hoa dao động trung bình 79,07-87,93 ngày, công thức IV cho thời gian nở hoa nhanh nhất 79,07 ngày giảm so với đối chứng 8,86 ngày. Khi xử lý ở mức độ tin cây 95% thì công thức Rong biển có thời gian nở hoa ngắn hơn so với đối chứng. Các công thức còn lại không có ý nghĩa về mặt thống kê . Sự phân hóa hoa và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện trước khi trồng (chất lượng củ giống và điều kiện xử lý), nhưng tốc độ phát dục của nụ và hoa lại chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng.
3.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến số lá trên cây hoa lily sorbonne
Lá là cơ quan làm nhiệm vụ quang hợp thực hiện chức năng tổng hợp chất hữu cơ thông qua năng lượng ánh sáng mặt trời và tăng tích lũy chất khô, cung cấp hoạt động sống của cây. Lá còn là bộ phận chủ yếu của quá trình thoát hơi nước, xúc tiến các quá trình sinh lý sinh hóa xảy ra trong cây. Tốc độ ra lá biểu hiện khả năng quang hợp, tốc độ ra lá càng nhanh biểu hiện khả năng sinh trưởng của cây càng mạnh, sự thay đổi về số lá của các công thức phân bón lá có ảnh hưởng đến khả năng quang hợp, tích lũy chất khô và năng suất.
Bảng 2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến số lá trên cây hoa lily sorbonne
Chỉ tiêu
Công thức
Số lá xanh trên cây tại thời điểm sau trồng (lá)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
16,33
39,07
50,53
CT II
18,27
42,20
52,47
CT III
17,13
40,67
51,33
CT IV
20,07
43,13
54,27
LSD0,05
3,24
4,68
5,20
CV%
9,6
6,0
5,3
Đối với cây hoa lily khi cây ra nụ thì số lá đã được cố định, số lá chịu ảnh hưởng của chất lượng củ giống và điều kiện và thời gian xử lý lạnh, thường thì số mầm lá đã được cố định trước khi trồng. Sự phát triển của số lá và diện tích lá, khả năng tích lũy chất dinh dưỡng của mỗi lá có liên quan đến năng suất sau này.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy:
Sau khi trồng 20 ngày: Số lá trên cây khi phun phân bón lá thì có sự biến động giữa các công thức thí nghiệm với đối chứng là lớn. Dao động trung bình giữa các công thức trong khoảng 16,33-20,07 lá/cây. Trong đó công thức Rong biển có số lá cao hơn so với đối chứng chắc chắn ở độ tin cậy 95%, tăng so với đối chứng 3,74 lá. Các công thức khác II, III không có sự sai khác có ý nghĩa.
Sau khi trồng 35 ngày: Số lá xanh đã tăng đáng kể so với 20 ngày. Ở giai đoạn này cây sinh trưởng, phát triển mạnh, có sự phân hóa mầm hoa. Số lá dao động trung bình trong khoảng 39,07-43,13 lá/cây. Các công thức thí nghiệm có số lá không tăng so với đối chứng.
Sau khi trồng 50 ngày: Số lá trên cây tăng nhanh vì cây bước vào giai đoạn ra nụ, nở hoa, nhờ có phân bón lá cung cấp đầy đủ các loại phân vi lượng nên thúc đẩy cây ra lá nhanh. Ở giai đoạn này, số lá trên các công thức nhiều, cây đã vươn cao che phủ kín mặt đất. Số lá dao động 50,53-54,27 lá/cây, trong đó số công thức Rong biển cho số lá cao nhất (54,27 lá). Tuy nhiên các công thức II, III, IV không có ý nghĩa về mặt thống kê.
3.3. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều cao cây hoa lily sorbonne
Chiều cao cây là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất, đồng thời nó phản ánh khả năng tổng hợp và tích lũy chất hữu cơ trong cây. Cây sinh trưởng tốt sẽ có chiều cao thích hợp, cân đối từng thời kỳ. Cũng như các chỉ tiêu khác, chiều cao cây biểu hiện sức sống, sự gia tăng tế bào. Chiều cao tăng nhanh chứng tỏ lượng tế bào tăng nhanh, là cơ sở tăng năng suất sau này. Phát triển chiều cao cây nhằm tạo ưu thế cho quá trình quang hợp. Chiều cao cây là một đặc tính di truyền, tuy nhiên nó cũng tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh và các biện pháp kỹ thuật tác động trong quá trình sinh trưởng. Cây sinh trưởng trong điều kiện đủ nước và dinh dưỡng, chiều cao cây tăng lên dẫn đến các yếu tố khác tăng theo và sẽ đạt năng suất cao hơn, phẩm chất tốt. Đối với hoa lily chiều cao cây quyết định bởi số lá và chiều dài đốt, trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lạnh lâu, đều có tác dụng kéo dài đốt thân.
Bảng 3. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều cao cây hoa lily sorbonne
Chỉ tiêu
Công thức
Chiều cao cây tại thời điểm sau trồng (cm)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
13,63
32,73
52,51
CT II
13,83
33,70
55,71
CT III
14,43
38,18
58,49
CT IV
15,57
41,07
64,65
LSD0,05
2,04
5,49
10,46
CV%
7,6
8,0
9,6
Kết quả ở bảng 3 cho thấy:
Sau 20 ngày: Chiều cao cây dao động trong khoảng 13,63-15,57cm/cây, công thức IV cho chiều cao cây cao nhất (15,57cm). Các công thức phun phân bón không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê..
Sau 35 ngày: Chiều cao cây dao động trong khoảng 52,51-64,65cm/cây, trong đo công thức IV cho chiều cao cây lớn nhất (64,65cm). Các công thức phun phân bón lá không có sự sai khác có ý nghĩa so với đối chứng.
Sau 50 ngày: Đây là giai đoạn chiều cao cây đạt mức độ ổn định, thời điểm này các công thức đã có sự sai khác đáng kể. Chiều cao cây dao động 52,51-64,65 cm, công thức Rong biển có chiều cao cây cao hơn đối chứng chắc chắn ở độ tin cậy 95%, tăng so với đối chứng 12,14cm. Các công thức còn lại sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Tóm lại: Khi phun phân bón lá thì chiều cao cây tăng so với đối chứng. Phân bón lá có tác dụng bổ sung một số nguyên tố vi lượng mà cây cần mặc dù một lượng rất nhỏ. Kết quả thí nghiệm cho thấy công thức Rong biển có tác dụng làm cây cao hơn đáng kể so với đối chứng.
3.4. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều dài lá của hoa lily Sorbonne
Đối với cây trồng nói chung, lá là nơi diễn ra các quá trình sinh lý sinh hóa, quá trình hô hấp, quang hợp,…Trong đó, quá trình quang hợp diễn ra ở lá có ý nghĩa quyết định đến năng suất vì trên 95% hợp chất hữu cơ có mặt trong sản phẩm thu hoạch có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ quang hợp, 5% năng suất còn lại nhờ quá trình dinh dưỡng khoáng.
Bảng 4. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều dài lá của hoa lily sorbonne
Chỉ tiêu
Công thức
Chiều dài lá tại thời điểm sau trồng (cm)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
6,86
9,31
12,18
CT II
7,02
9,50
12,34
CT III
7,26
10,41
12,72
CT IV
7,30
10,56
13,07
LSD0,05
0,63
1,49
1,07
CV%
4,7
8,0
4,5
Kết quả ở bảng 4 cho thấy:
Sau trồng 20 ngày: Chiều dài lá tại thời điểm này sự sai khác giữa các công thức không đáng kể về mặt thống kê. Chiều dài lá dao động trung bình từ 6,86-7,30cm/cây, công thức IV có chiều dài lá lớn nhất (7,30cm).
Sau 35 ngày: Chiều dài lá dao động trung bình từ 9,31-10,56cm. Các công thức không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Sau 50 ngày: Trồng chiều dài lá dao động trung bình từ 12,18-13,07cm/cây, công thức Rong biển có chiều dài lá lớn nhất (13,07cm). Chiều dài lá của các công thức phun phân bón lá không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Tóm lại: Khi phun phân bón lá không làm tăng chiều dài lá ở hoa lily sorbonne, có thể nói chiều dài lá được quy định bởi đặc tính di truyền của giống không bị ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh.
3.5. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều rộng lá của hoa lily sorbonne
Chiều rộng lá là chỉ tiêu quyết định đến diện tích lá, trọng lượng lá. Diện tích lá càng lớn thì khả năng nhận năng lượng ánh sáng mặt trời càng nhiều giúp cho quang hợp diễn ra mạnh. Từ đó tích lũy được nhiều chất hữu cơ.
Bảng 5. Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều rộng lá của hoa Lily sorbonne
Chỉ tiêu
Công thức
Chiều rộng lá tại thời điểm sau trồng (cm)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
1,82
2,19
3,19
CT II
1,85
2,31
3,35
CT III
1,85
2,23
3,27
CT IV
1,89
2,53
3,47
LSD0,05
0,22
0,39
0,44
CV%
6,4
9,1
7,1
Kết quả ở bảng 5 cho thấy:
Sau 20 ngày trồng: Chiều rộng lá dao động trung bình từ 1,82-1,89cm/cây. Trong đó, công thức IV có chiều rộng lá lớn nhất (1,89cm). Chiều rộng lá của các công thức phun phân bón lá không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Sau 35 ngày trồng: Chiều rộng lá dao động trung bình từ 2,19-2,53cm/cây, công thức Rong biển có chiều rộng lá lớn nhất (2,53cm). Công thức II, III, IV không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Sau 50 ngày trồng: Chiều rộng lá dao động trong khoảng 3,19-3,47cm/cây, trong đó công thức IV có chiều rộng lá lớn nhất (3,47cm). Chiều rộng lá của các công thức phun phân bón lá không có sự sai khác có ý nghĩa so với đối chứng.
Tóm lại: Chiều rộng lá của các công thức II, III, IV khi xử lý ở độ tin cậy 95% thì không có sự sai khác so với đối chứng, như vậy khi phun phân bón lá không làm ảnh hưởng đến chiều rộng lá của hoa lily.
3.6. Ảnh hưởng của phân bón lá đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
Để so sánh các chỉ tiêu sinh trưởng của bộ phận trên mặt đất nhằm tìm ra được loại phân bón lá thích hợp, thông qua sự tăng trưởng của chúng đạt trị số cuối cùng có liên quan đến năng suất, chúng tôi tổng hợp một số chỉ tiêu sinh trưởng vào giai đoạn thu hoạch như ở bảng 6.
* Số hoa: Đây là một trong những chỉ tiêu quyết định đến năng suất kinh tế. Số hoa dao động trung bình trong khoảng 6,27-7,33 hoa. Công thức Rong biển và Agriconik cho số hoa cao hơn so với đối chứng chắc chắn ở độ tin cậy 95%, trong đó công thức IV cho số hoa lớn nhất 7,33 hoa tăng so với đối chứng 1,36 hoa, tiếp đến là công thức Agriconik 7,27 hoa tăng so với đối chứng 1,00 hoa. Công thức Arrow cho số hoa không cao hơn đối chứng về mặt thống kê. Như vậy khi sử dụng phân bón lá cho hoa lily sorbonne đã làm tăng số hoa trên cây đặc biệt là công thức IV.
* Chiều dài cánh hoa: Đây là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thương phẩm của hoa. Chiều dài cánh hoa dao động trung bình trong khoảng 15,75-16,40cm, trong đó công thức Rong biển có chiều dài cánh hoa lớn nhất (16,40cm). Chiều dài cánh hoa ở các công thức phun phân bón lá không có ý nghĩa về mặt thống kê.
* Chiều rộng cánh hoa: Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá hoa loại 1. Chiều rộng cánh hoa dao động trong khoảng 6,19-6,65cm, công thức IV có chiều rộng cánh hoa lớn nhất (6,65cm). Chiều rộng cánh hoa ở các công thức II, III, IV không sai khác so với đối đối chứng.
* Chiều dài cành hoa: Trong vụ Đông Xuân khi phun phân bón lá Rong biển thì chiều dài cành hoa cao hơn so với đối chứng chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Chiều dài cành hoa dao động trung bình trong khoảng 76,53-84,34cm/cây, công thức IV có chiều dài cánh hoa lớn nhất 84,34cm tăng so với đối chứng 7,81cm. Các công thức còn lại tăng không có ý nghĩa so với đối chứng.
Bảng 6. Ảnh hưởng của phân bón lá đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
Công thức
Số hoa
(hoa)
Chiều dài cánh hoa
(cm)
Chiều rộng cánh hoa (cm)
Chiều dài cành hoa
(cm)
NSLT
(cành/ha)
NSTT (cành/ha)
CT I (Đ/c)
6,27
15,75
6,19
76,53
301.280
301.000
CT II
7,27
16,29
6,52
81,11
327.040
322.000
CT III
6,93
16,19
6,37
81,21
321.440
320.833
CT IV
7,33
16,40
6,65
84,34
329.280
323.167
LSD0,05
0,85
1,94
0,64
6,82
27.573,60
21.520,80
CV%
6,5
6,4
5,3
4,5
4,6
3,6
Năng suất là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các quá trình sinh trưởng phát triển, các hoạt động sống diễn ra trong cây thu được trên một đơn vị diện tích hay một đơn vị cá thể, đồng thời năng suất cũng là mục tiêu cuối cùng mà người nông dân hướng tới. Đối với hoa lily, năng suất do yếu tố số cây/m2, số hoa/cây cấu thành.
Năng suất lý thuyết (NSLT): Dao động trung bình trong khoảng 301.280-329.280 cành/ha, trong đó công thức IV có năng suất lớn nhất 329.280 cành tăng so với đối chứng 28.000 cành. Công thức Rong biển cho năng suất lý thuyết cao hơn đối chứng chắc chắn ở độ tin cây 95%. Công thức Agriconik, Arrow không có ý nghĩa về mặt thống kê.
* Năng suất thực thu (NSTT): Dao động trong khoảng 301.000-323.167 cành/ha, trong đó công thức Rong biển có năng suất thực thu lớn nhất 323.167 cành/ha tăng so với đối chứng 22.167 cành, công thức IV có năng suất thực thu tăng so với đối chứng chắc chắn ở độ tin cây 95%. Công thức Agriconik, công thức Arrow không tăng so với đối chứng.
3.7. Mức độ gây hại của một số loài sâu, bệnh chính trên hoa lily sorbonne
3.7.1. Bệnh khô lá (Botrytis ulilica)
Sau trồng 20 ngày bệnh không xuất hiện do cây còn nhỏ, bộ lá chưa phát triển hoàn thiện đến 35, 50 ngày bệnh có xuất hiện ở các công thức nhưng không đáng kể, đặc biệt ở công thức Rong biển khả năng chống chịu bệnh cao hơn so với các công thức khác
Bảng 7: Mức độ gây hại bệnh khô lá (Botrytis ulilica) khi sử dụng phân bón lá
Công thức
Mức độ gây hại tại thời điểm sau trồng (% số cây)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
0
3
3,3
CT II
0
2,1
2
CT III
0
2,6
2,2
CT IV
0
1,8
2
3.7.2. Bệnh thối rễ, củ (Fusarium, Rhizoctonia)
Bệnh xuất hiện phổ biến ở hoa lily. Có triệu chứng: đầu tiên bệnh làm chết lá gần gốc, sau phát triển lên trên làm cho các lá phía trên bị chết héo xanh, sau đó chuyển sang màu vàng rồi chết. Nhìn vào bảng cho thấy công thức Rong biển tăng cường khả năng chống chịu bệnh tốt hơn so với các công thức khác.
Bảng 8: Mức độ gây hại của bệnh thối rễ, củ (Fusarium, Rhizoctonia) sử dụng phân bón lá
Công thức
Mức độ gây hại tại thời điểm sau trồng (% số cây)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
2
2,3
5,3
CT II
0
2,0
3,2
CT III
0
2,2
4,0
CT IV
0
1,5
2,6
3.7.3. Rệp bông
Chủ yếu gây hại thân, cành, lá, đặc biệt là lá. Rệp hút dịch lá làm cho cây khô héo, hoa biến dạng, đồng thời rệp bông là môi giới truyền bệnh Virus. Nhìn vào bảng cho thấy công thức Rong biển có mức độ gây hại của rệp bông thấp hơn so với các công thức khác.
Bảng 9: Mức độ gây hại của rệp bông khỉ sử dụng phân bón lá
Công thức
Mức độ gây hại tại thời điểm sau trồng (cấp)
20 ngày
35 ngày
50 ngày
CT I (Đ/c)
0
3
3
CT II
0
1
1
CT III
0
1
3
CT IV
0
0
1
3.8. Hiệu quả kinh tế khi phun phân bón lá cho hoa Lily sorbonne
Hiệu quả kinh tế là điều cuối cùng mà nhà sản xuất mong đợi. Trong sản xuất nông nghiệp cũng vậy, người nông dân làm việc vất vả để mong sao thu được vụ mùa bội thu, bán được nhiều sản phẩm với giá cao. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế lại phụ thuộc nhiều yếu tố bao gồm vấn đề đầu tư thâm canh, sử dụng nhân công lao động, giá cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm… Một loại cây trồng có năng suất cao chưa hẳn đã có hiệu quả kinh tế cao.
Vì vậy hiệu quả kinh tế luôn là điều kiện hàng đầu để người nông dân xem xét có nên ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất hay không? Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề này.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế của việc phun phân bón lá cho hoa lily sorbonne chúng tôi sử dụng chỉ số VCR (Value Cost Ratio) là chỉ số dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của việc phun phân bón lá cho hoa lily. Đây là chỉ số giữa giá trị nông sản tăng thêm và giá trị chi phí tăng lên do việc phun phân bón lá.
Theo các nhà kinh tế với VCR = 1 thì việc đầu tư thua lỗ, VCR = 2 thì hòa vốn, VCR > 2 thì đầu tư có lãi và VCR > 3 thì mới thuyết phục người nông dân.
Sau đây chúng tôi tính hiệu quả kinh tế khi phun phân bón lá cho hoa lily vụ Đông-Xuân năm 2009-2010 tại xã Phước An, huyện Tuy Phước.
Trong đó giá bán hoa lily ở vụ Đông –Xuân năm 2009-2010: 20.000đ/cành
Công phun thuốc phân bón lá : 10 công/ha Í 60.000đồng/ha = 600.000đồng/ha
Tiền thuốc phân bón lá:
Tiền thuốc
Số lượng (gói)
Đơn giá (đồng)
Thành tiền (đồng)
CT II (Agriconik)
40
2.000
80.000
CT III (Arrow)
40
2.000
80.000
CT IV (Rong biển)
30
3.500
105.000
Tăng thu = Giá bán x Năng suất tăng
Tăng chi = Tiền thuốc + Tiền công phun
Lãi = Tăng thu – Tăng chi
VCR = Giá trị nông sản tăng thêm (lãi)/chi phí tăng thêm (tăng chi)*100
Bảng 10: Hiệu quả kinh tế khi phun phân bón lá cho hoa lily sorbonne
Công thức
NSTT (cành/ha)
Tăng thu
(1.000đ)
Tăng chi
(1.000đ)
Lãi
(1.000đ)
Tỉ suất lãi
(VCR)
Tổng
So Đ/c
CT I (Đ/c)
301.000
-
-
-
-
-
CT II
322.000
21.000,00
294.000
680
293.320
43.135,29
CT III
320.833
19.833,33
277.666
680
293.321
40.733,33
CT IV
323.167
22.166,67
310.333
705
309.628
43.918,91
Kết quả ở bảng các công thức thí nghiệm trồng theo một quy trình kỹ thuật giống, thời vụ, phân bón các biện pháp chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh nhưng với các công thức phân bón lá khác nhau thì cho năng suất khác nhau nên tăng chi, tăng thu và lãi ròng cũng khác nhau. Như vậy, khi phun phân bón lá thì cho năng suất thực thu cao hơn so với đối chứng lần lượt công thức Rong biển tăng 7,4%, công thức Agriconik tăng 7,0%, Arrow tăng 6,6%. Công thức IV có lãi tăng so với đối chứng cao nhất 309,628 triệu đồng, công thức II tăng 293,321 triệu đồng, công thức III tăng 293,320 triệu đồng.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun phân bón lá đến sinh trưởng và năng suất của hoa lily chúng tôi bước đầu rút ra một số kết luận như sau:
- Trong cùng một điều kiện đất đai, giống, các biện pháp kỹ thuật canh tác nhưng tất cả các công thức có phun phân bón lá đều ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất của hoa Lily.
- Về khả năng sinh trưởng các công thức phun phân bón lá đều có số lá, chiều cao cây cao, chiều dài lá, chiều rộng lá lớn hơn so với công thức đối chứng.
- Phun phân bón lá không những ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng của Lily mà còn ảnh hưởng tốt tới năng suất và chất lượng hoa. Phân bón lá Rong biển cho năng suất thực thu tăng so với đối chứng 7,3% , Agriconik tăng 7,0%, Arrow tăng 6,6%.
- Phun phân bón lá Rong biển cho Lily có năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất (309.628.000 đồng/ha).
- Khi phun phân bón lá làm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh cho hoa lily, đặc biệt là công thức sử dụng Rong biển.
2. Đề nghị
- Cần tiếp tục nghiên cứu thêm một số vụ trên các loại đất khác nhau để có kết luận chính xác hơn về tác dụng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất hoa lily sorbonne.
- Cần tiến hành thí nghiệm phun trên các giống lily khác để khẳng định hiệu quả của các loại phân bón lá.
- Thí nghiệm của chúng tôi chỉ tiến hành ở quy mô nhỏ, vì vậy cần tiến hành tiếp tục thử nghiệm trên diện tích lớn hơn để xác định khả năng ứng dụng của đề tài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Đức (2002), Mô hình thí nghiệm trong nông nghiệp, NXB Nông nghiệp.
Lê Văn Luy và Cs (2007), Báo cáo kết quả tuyển chọn và xây dựng quy trình kỹ thuật trồng một số loài hoa tại vùng Duyên hải Nam Trung bộ.
Vũ Triệu Mân, Lê Lương Tề (1998), Giáo trình bệnh cây nông nghiệp, NXB Nông nghiệp.
Hoàng Minh Tâm và Cs (2009), Báo cáo tổng kết nghiên cứu, thăm dò khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số cây trồng mới (Rau và hoa ôn đới) trên vùng đất bazan tại xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.
Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó (2006), Phân vi lượng với cây trồng, NXB Lao động.
Nguyễn Minh Trí (2009), Bí quyết trồng, chăm sóc hoa và cây cảnh hiệu quả (tập 1, 2), NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ.
Đào Thanh Vân, Đặng Thị Tố Nga (2007), Giáo trình cây hoa, NXB Nông Nghiệp Hà Nội.
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (2009), Báo cáo tổng kết rau, hoa Bình Định.
Phan Hoài Vỹ (2006), Đề cương bài giảng Thực vật học 2, Đại học Quy Nhơn.
Sở Khoa học và Công nghệ Bình Định (2006), Đặc điểm khí hậu thủy văn tỉnh Bình Định, Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mô hình nuôi ga sao ở trường đại học quy nhơn.doc