Thực chất đây là hoạt động chu y ển một phần quyền lực hành chính dưới
dạng nhiệm vụ và quyền hạn cho cơ quan chính quy ền trong khuôn khổ quyền lực
nhà nước quy định; khi quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích được phân
định đến từng cơ quan thì các đơn vị hành chính có mối quan hệ chặt chẽ với
quy ền tự chủ, tự quản của chính cơ quan đó. Như vậy phân cấp đã có những đóng
góp đáng kể để tăng khả năng hoạt động tăng mối liên hệ hành chính từ trung
ương xuống địa phương. Nhưng nó lại mang tới sự tự chủ, sáng tạo và không gò
bó, bắt buộc hoặc làm theo tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình trong những khuôn khổ quy định trước của Nhà nước; Ngân sách nhà
nước là nguồn thu, chi chính của hoạt động tài chính của đất nước. Nó là nguồn
đảm bảo các khoản chi thường xuy ên và không thường xuyên của Nhà nước. Do
đó, để sử dụng có hiệu quả tránh thất thoát và gian lận trong việc sử dụng ngân
sách Nhà nước cần có những phương pháp quản lý có hiệu quả dễ dàng cho việc
kiểm tra, giám sát và đôn đốc cũng như xử lý khi có sai phạm xảy ra. Cho nên
phân cấp ngân sách là công việc hợp lý, đúng thời điểm và phù hợp với tiến trình
phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2771 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
----------
ĐỀ TÀI:
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
GVHD: PGS, TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG
Lớp : Tài chính doanh nghiệp ngày 1 – K20
Nhóm : 8
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC ........................................................................................................................... 3
1.1 Khái niệm chung về phân cấp Ngân sách Nhà nước ...................................................... 3
1.2 Nguyên tắc phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước ........................................................ 4
1.3 Vai trò và nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước .................................... 5
1.3.1 Vai trò của Phân cấp Ngân sách ...................................................................................... 5
1.3.2 Nội dung phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước ............................................................. 7
Chương II. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM ............................. 8
2.1 Diễn tiến ngân sách nhà nước trong thời gian qua ........................................................ 8
2.1.1 Chi ngân sách nhà nước .................................................................................................. 8
2.1.2 Thu ngân sách nhà nước .................................................................................................. 9
2.2 Tình hình ngân sách năm 2011 ...................................................................................... 11
2.2.1 Bối cảnh kinh tế năm 2011 ............................................................................................ 11
2.2.1 Tình hình thu, chi ngân sách năm 2011 ......................................................................... 12
2.2.3 Đánh giá chung ............................................................................................................. 14
2.3 Cơ hội và thách thức với thực hiện dự toán ngân sách năm 2012 ............................... 15
2.3.1 Cơ hội ........................................................................................................................... 15
2.3.2 Thách thức .................................................................................................................... 15
2.4 Kết luận .......................................................................................................................... 16
Chương III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 17
3.1 Đảm bảo quyền tự chủ tài chính của địa phương ......................................................... 17
3.2 Đảm bảo gắn trách nhiệm của cơ quan được phân cấp với hiệu quả chi
NSNN .................................................................................................................................... 17
3.3 Bảo đảm chất lượng quyết định Dự toán ngân sách nhà nước hàng năm ................... 18
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 21
LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng Ngân
sách Nhà nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả tiền của của Nhà nước; tăng tích luỹ để thực hiện CNH-HĐH đất nước
theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo
luật quan trọng trong hệ thống tài chính- đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 20-3-1996; sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi luật số 06/1998/QH
10 ngày 20-5-1998, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong công tác quản lý, điều
hành NSNN ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động của NSNN.
Sau bốn năm thực hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của luật
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần được quan
tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn từ phía người dân và
các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở phản hồi từ phía người dân và
doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập không chỉ giữa văn bản và thực tế áp
dụng mà cả những bất cập trong công tác chỉ đạo điều hành. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến những bất cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu,
nhiệm vụ chi tiêu cho các cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa
các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm cần
xem xét lại.
Để góp phần hiểu rõ hơn nữa luật NSNN nói chung và chế độ phân cấp
quản lý ngân sách nói riêng, nhóm 8 chọn đề tài: “Phân cấp quản lý NSNN”. Từ
đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ những cái được và chưa được của chế
độ phân cấp quản lý cả về phương diện pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN)
và công tác chỉ đạo điều hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối
đa hiệu quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã
đặt ra.
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm chung về phân cấp Ngân sách Nhà nước:
Quản lý Nhà nước về ngân sách là một trong những nội dung quan trọng
của công tác quản lý Nhà nước, đó là sự tác động, điều chỉnh của nhà nước vào
các quan hệ phát sinh trong việc quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước thông
qua các công cụ pháp luật, chính sách nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết
kiệm nguồn lực tài chính quốc gia. Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách là
việc phân công trách nhiệm gắn với việc quy định và trao thẩm quyền quản lý
ngân sách nhà nước một cách rõ ràng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước.
Quản lý ngân sách nhà nước là một hoạt động quản lý mang tầm quan trọng
rất lớn đối với nền kinh tế Quốc dân. Chính vì vậy, phân cấp quản lý ngân sách
nhà nước nhằm một mục tiêu rõ ràng, cụ thể, đó là: đảm bảo nguồn ngân sách nhà
nước được thu - chi hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất về kinh tế xã hội. Đồng
thời cũng nói lên được quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của từng đối
tượng quản lý ngân sách nhà nước. Đây là đề tài khá mới mẻ trong quá trình quản
lý ngân sách nhà nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ngày càng được đẩy
nhanh và được thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế, sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Qua việc nghiên cứu đề tài này, giúp chúng ta thấy rõ về tổng quan việc thực
hiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, đồng thời cũng thấy được vai trò và
tầm quan trọng của việc phân cấp trong quản lý kinh tế nói chung. Mặt khác,
chúng ta còn thấy được thực trạng của nguồn ngân sách khi được các cấp quản lý
và đưa vào phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, từ đó rút ra những kiến
nghị và bài học để có những giải pháp quản lý nguồn ngân sách hợp lý và hiệu quả
hơn, đồng thời có những giải pháp kịp thời điều chỉnh việc quản lý ngân sách theo
đúng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Phân cấp quản lý nhà nước, theo nghĩa rộng nhất, là hình thức chuyển giao
quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực thi các nhiệm vụ công từ cấp trung ương
xuống các cơ quan địa phương hoặc giao nhiệm vụ này cho khu vực tư nhân thực
hiện.
Phân cấp ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng và phức tạp nhất
của quản lý tài chính công. Về thực chất, phân cấp ngân sách bao gồm hai loại
thẩm quyền: thẩm quyền quyết định ngân sách và thẩm quyền quản lý ngân sách.
Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp ngân sách thường được đề cập dưới góc độ phân cấp
quản lý ngân sách. Theo đó, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là xác định
phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền nhà nước ở mỗi cấp trong việc
quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước. Phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước thường trùng hợp với phân cấp hành chính nhằm tạo
điều kiện tài chính cho hoạt động của các cấp chính quyền trong bộ máy hành
chính. Do đó, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước luôn gắn liền với chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền.....
Tóm lại: Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành
NSNN.
1.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước:
Phân cấp là một phần của quản trị quốc gia. Quản trị quốc gia hiệu quả là
một quá trình biến các nhu cầu của xã hội thành những lựa chọn, từ đó đưa đến
việc xây dựng và thực hiện chính sách. Nó được tối ưu hóa bằng quá trình ra quyết
định cởi mở, trong sáng và có khả năng tiên liệu (tức là một quá trình minh bạch);
một bộ máy công quyền mang đậm nét chuyên nghiệp. Phân cấp tốt phải đảm bảo
duy trì bốn nguyên tắc cơ bản về quản trị quốc gia:
Một là, nghĩa vụ của các tổ chức và công chức nhà nước phải trả lời và giải
trình cũng như chịu trách nhiệm trước những tác động của hành động ấy đến
người dân. Tức là, phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước.
Phân cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản
lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật
chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của
các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và
quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên
tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý NSNN.
Hai là, ngân sách trung ương phải giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ
sở của nguyên tác này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương
trong quản lý kinh tế và từ tính chất xã hội hóa của nguồn tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện: (i)Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN
được ban hành thống nhất và dựa trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương(ii)
Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền kinh tế
và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn phải
được tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến quá trình
phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm.
Ngân sách trung ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính
công bằng giữa các địa phương.
Ba là, phải phân định rõ nhiệm vụ thu chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ
phần trăm phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân
sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm chỉ xem xét điều chỉnh số
bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân
sách địa phương thu. Khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa
phương chi. Không để tồn tại nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lại hoặc
lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo
điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa
phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng kế
hoạch.
Bốn là, phải đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân
sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp
nhất sự chênh lệch về văn hóa, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.
1.3. Vai trò và nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
1.3.1. Vai trò của Phân cấp Ngân sách:
Phân cấp quản lý là công cụ trong cải cách hành chính nó có vai trò rất
quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy quản lý hành chính. Do đó, việc phân cấp
có những đóng góp sau:
1.3.1.1. Quyền hạn được phân cấp tới từng bộ phận, nhiệm vụ thực hiện cùng
với quyền hạn và trách nhiệm đến từng địa phương, ngành và doanh
nghiệp:
Thực chất đây là hoạt động chuyển một phần quyền lực hành chính dưới
dạng nhiệm vụ và quyền hạn cho cơ quan chính quyền trong khuôn khổ quyền lực
nhà nước quy định; khi quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích được phân
định đến từng cơ quan thì các đơn vị hành chính có mối quan hệ chặt chẽ với
quyền tự chủ, tự quản của chính cơ quan đó. Như vậy phân cấp đã có những đóng
góp đáng kể để tăng khả năng hoạt động tăng mối liên hệ hành chính từ trung
ương xuống địa phương. Nhưng nó lại mang tới sự tự chủ, sáng tạo và không gò
bó, bắt buộc hoặc làm theo tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình trong những khuôn khổ quy định trước của Nhà nước; Ngân sách nhà
nước là nguồn thu, chi chính của hoạt động tài chính của đất nước. Nó là nguồn
đảm bảo các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên của Nhà nước. Do
đó, để sử dụng có hiệu quả tránh thất thoát và gian lận trong việc sử dụng ngân
sách Nhà nước cần có những phương pháp quản lý có hiệu quả dễ dàng cho việc
kiểm tra, giám sát và đôn đốc cũng như xử lý khi có sai phạm xảy ra. Cho nên
phân cấp ngân sách là công việc hợp lý, đúng thời điểm và phù hợp với tiến trình
phát triển của đất nước nói riêng và thế giới nói chung.
1.3.1.2. Yếu tố chủ quan:
Đây là yếu tố mang tính tác động từ môi trường bên trong của hệ thống
hoặc tổ chức để nhằm thực hiện một ước muốn hay mục tiêu nào đó nhất định.
a/ Nhằm giảm bớt sự tập quyền, tăng quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm
cho các cấp, các ngành:
Sự phân cấp mang lại sự tự chủ và sáng tạo cho hành động của cấp dưới
trong khuôn khổ những điều đã được pháp luật quy định. Đã từ lâu cơ chế xin –
cho thể hiện sự tập quyền mọi quyết định đều tập trung ở cấp cao nhất do đó gây
ra những yếu kém không thể tránh khỏi trong quản lý nói chung và quản lý NSNN
nói riêng. Hơn nữa nó gây ra những tiêu cực trong quá trình ra quyết định của cấp
trên. Sự tập trung quyền lực này đã thống trị rất lâu trong cơ chế quản lý nhà nước.
Từ đó gây ra nhiều sự áp đặt và làm cấp dưới luôn trong tình trạng thụ động triệt
tiêu sự sáng tạo và phương pháp thực hiện mục tiêu hay và mới. Trong tình trạng
như vậy không ai muốn mất đi quyền lực và lợi ích của mình, cũng không thể
kham nổi với mật độ công việc ngày càng tăng; quyết định ngày càng nhiều để đáp
ứng sự chính xác và hiệu quả thì phân cấp đã được thực hiện nhằm giảm bớt gánh
nặng trong công tác quản lý và ra quyết định của cấp trên đúng như đã đề cập.
b/ Tăng cường quản lý vĩ mô
Quản lý kinh tế vĩ mô là quản lý tổng hợp mang tính phức tạp, đòi hỏi nhà
quản lý phải có trình độ tổng hợp và tư duy sáng tạo để đáp ứng với những biến
đổi lớn diễn ra trong phạm vi rộng. Nhằm điều chỉnh nó đi đúng mục tiêu đề ra.
Phân cấp quản lý ngân sách giúp nhà quản lý, quản lý được rộng hơn, xa
hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn.
Phân cấp giúp nhà lãnh đạo cấp dưới có quyền và quyết định nhanh chóng
trong phạm vi qui định.
1.3.1.3. Nhằm đảm bảo nguồn ngân sách thực hiện có hiệu quả
Nỗ lực phân cấp hành chính nhà nước thường đi ngược với cơ cấu tập trung
quyền lực về trung ương của các tổ chức quyền lực. Các cấp trung ương cần tìm
kiếm những giải pháp hành chính mà vẫn duy trì được quyền lực độ tin cậy của
trách nhiệm nhằm nâng cao năng lực của mình đảm bảo các nhiệm vụ của khu vực
nhà nước để được phân cấp được thực hiện tốt. Khó có thế tách rời quyền lực và
trách nhiệm giữa các đơn vị hành chính ở cấp trung ương.
1.3.2. Nội dung phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước:
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách sẽ giúp cho việc xác định một
cách rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp quản lý Nhà nước về ngân
sách, đảm bảo giải quyết kịp thời các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngân sách.
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách làm tăng quyền chủ động, linh
hoạt, khắc phục sự thụ động, trông chờ và cơ chế xin cho trong hoạt động quản lý
Nhà nước của cấp chính quyền, cơ quan Nhà nước cấp dưới đồng thời tạo điều
kiện để các cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương tập trung vào thực hiện chức
năng điều hành, chỉ đạo, xây dựng và hoạch định các kế hoạch, chính sách, pháp
luật chiến lược quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội đất nước.
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách cũng tạo điều kiện tăng cường
kiểm tra , thanh tra công tác quản lý Nhà nước về ngân sách đối với hệ thống bộ
máy quản lý Nhà nước các cấp, góp phần làm lành mạnh, minh bạch nền tài chính
Quốc gia.
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách đảm bảo cho việc tương thích
giữa thẩm quyền và trách nhiệm, giữa tổ chức bộ máy và việc cung cấp các nguồn
lực và điều kiện hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước, như vậy sẽ góp
phần đảm bảo hiệu lực, từng bước nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách sẽ góp phần quan trọng tạo môi
trường đầu tư sản xuất - kinh doanh, dịch vụ phát triển nền kinh tế trong quá trình
hội nhập kinh tế Quốc tế.
Phân cấp quản lý Nhà nước về ngân sách cũng là phương pháp tốt để Nhà
nước quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài chính Quốc gia.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM
2.1. Diễn tiến ngân sách nhà nước trong thời gian qua:
2.1.1. Chi ngân sách nhà nước:
Trong những năm đầu thập niên 90, diễn biến NSNN khá thất thường. Tổng
chi NSNN chiếm 20,5% GDP năm 1990 đã giảm xuống còn 15,9% năm 1992. Sau
đó tăng đột ngột lên 29,4% năm 1993. Từ năm 1994, tổng chi so với GDP lại giảm
liên tục, từ 29,4% (năm 1993) xuống còn 22.7% GDP (năm 1998), tương ứng với
việc cắt giảm 1/5 tổng chi NSNN. Nhưng xét bình quân giai đoạn 1991-1995 đạt
24,5% GDP và khoảng 24,1% GDP giai đoạn 1996-2001 là tăng mạnh so với mức
bình quân 19,7% giai đoạn 1986-1990.
Giai đoạn 1991 – 2001, chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi trên cả
ba lĩnh vực chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ. Trong đó, chi đầu tư phát
triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm. Mặc dù chi thường xuyên
vẫn chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng 63,5% tổng chi NSNN, nhưng tỷ trọng
chi đầu tư phát triển đã vươn lên đạt mức bình quân khoảng 25%, chi viện trợ và
trả nợ chiếm hơn 11% trong tổng chi NSNN.
Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và dập
dịch SARS, chi công tác chuẩn bị SEA Games 22 và ASEAN Paragames 2, chi bổ
sung khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi 2003 tăng 6,1% so với dự toán
ban đầu và chiếm 27,3% so với GDP, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8%
GDP và chi thường xuyên bằng 15,5% GDP. Cũng trong năm 2003 cải cách tiền
lương khiến tổng quỹ lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ
khoản giảm chi thường xuyên 10%, và một số nguồn khác.
Năm 2005 Quốc hội cũng đã quyết định chi bổ sung cho một số lĩnh vực
sau: chi đầu tư phát triển (tăng thêm 1.495 tỷ đồng, trong đó tăng chi đầu tư xây
dựng cơ bản của ngân sách địa phương tương ứng số tăng thu về sử dụng đất là
800 tỷ đồng); chi thường xuyên (tăng thêm 190 tỷ đồng, gồm y tế tăng 50 tỷ đồng,
giáo dục - đào tạo - dạy nghề tăng 70 tỷ đồng, quốc phòng tăng 40 tỷ đồng, an
ninh tăng 30 tỷ đồng); chi dự phòng NSNN (tăng thêm 1.600 tỷ đồng để xử lý
những biến động bất thường của giá dầu, đồng thời bảo đảm chủ động ngân sách
thực hiện trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và thực hiện những
nhiệm vụ quan trọng phát sinh).
Những khoản chi mang tính bao cấp không thuộc chức năng, nhiệm vụ của
NSNN nhìn chung được cắt giảm đáng kể, giảm bớt gánh nặng chính đáng cho
NSNN trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi bao cấp cho DNNN cũng
giảm đáng kể nhờ có biện pháp cổ phần hóa và kiên quyết cắt giảm chi bao cấp từ
NSNN. Bên cạnh đó, ta thấy được một xu hướng mới đang hình thành. Chi đầu tư
phát triển từ nguồn vốn tập trung của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây
dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực khó hoặc không thu hồi được vốn. Xu
hướng này tích cực, phù hợp với thực tế nước ta, cần được củng cố và tăng cường
trong giai đoạn chuẩn bị bước đầu hội nhập.
2.1.2. Thu ngân sách nhà nước:
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp phần củng cố và tăng cường tiềm
lực tài chính nhà nước. Thu ngân sách không những đã bảo đảm đủ nguồn thu cho
chi tiêu thường xuyên của Chính phủ mà còn để dành ra một phần tích luỹ cho đầu
tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tăng 7,7 lần từ năm 1991
đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu
NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt khoảng 95% trong tổng số thu. Về
quy mô, thu NSNN so với tổng GDP tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh
cao 23,3% năm 1995. Bình quân thu ngân sách giai đoạn này là 20,5% GDP. Giai
đoạn 1996 – 2000, mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là huy động 20% – 21% GDP vào
NSNN thông qua thuế và phí. Nhưng thực tế thực hiện năm 1997 đạt 19,4%, năm
1998 đạt 17,7%, năm 1999 đạt 17% và năm 2000 đạt 19,4%. Và như vậy là chưa
năm nào đạt mục tiêu đề ra.
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều hướng
tích cực hơn, thu từ nguồn trong nước đã tăng từ 50,7% lên 52,6% so với tổng thu
trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động XNK đã giảm từ 47,4% xuống
còn 45,9% năm 2003. Ngoài ra do thực hiện pháp lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ
140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã
làm giảm chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự
kiến đạt 166.900 tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và
tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ
trọng lớn.
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng, tổng dự
toán chi NSNN là 229.750 tỷ đồng, bội chi NSNN là 40.750 tỷ đồng (chiếm 5%
GDP). Nếu so với thời kỳ trước đây thì thu ngân sách đã có những tiến bộ lớn.
Tuy nhiên, nếu so với tốc độ tăng trưởng thì việc tăng thu ngân sách còn chậm,
đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp tăng
19,2% thì nguồn thu ngân sách chỉ tăng 12%. Dự toán thu nội địa (không kể dầu
thô) năm 2005 tăng 13,6%, trong đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu
từ khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng 30,1%, từ khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh tăng 20,5%, dự toán thu phí, lệ phí tăng 4,1% để hạ chi phí đầu vào
của nền kinh tế, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu. Điều đặc biệt, năm 2005 Quốc
hội đã nhất trí tăng dự toán thu nội địa từ thu tiền sử dụng đất thêm 800 tỷ đồng
(để tăng dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản hạ tầng của địa phương), tăng dự toán
thu ngân sách trung ương từ dầu thô 2.500 tỷ đồng (do giá dầu thô thế giới hiện ở
mức cao và dự báo trong năm 2005 sẽ vẫn ở mức cao). Tổng hợp chung, dự toán
thu NSNN năm 2005 tăng thêm 3.300 tỷ đồng.
Theo quyết toán 2007, 2008 và dự toán 2009, 2010 Ngân sách Việt Nam
trong tình trạng bội chi. Bội chi ngân sách Việt Nam được bù đắp bởi nguồn vay
trong nước và vay ngoài nước. Dưới đây là một số chỉ tiêu thu, chi và bội chi
NSNN từ năm 2007 đến 2010:
Đơn vị:
Tỷ đồng
Chỉ tiêu QT 2007 QT 2008 ƯTH 2009 DT 2010
1. Tổng thu và viện trợ 336.273 434.761 442.340 461.500
2. Thu kết chuyển 94.784 113.768 26.455 1.000
3. Tổng chi ngân sách (không
bao gồm chi trả nợ gốc)
425.133 549.784 544.575 536.870
4. Bội chi ngân sách theo thông
lệ quốc tế (4=1+2-3)
Bội chi so với GDP (%)
-20.094
1,76%
-26.746
1,81%
-75.780
4,51%
-74.370
3,85%
5. Nguồn bù đắp bội chi theo
thông lệ quốc tế
20.094 26.746 75.780 74.370
- Vay trong nước 13.315 11.710 58.518 63.100
- Vay ngoài nước 6.779 15.037 17.262 11.270
6. Bội chi ngân sách theo phân
loại của Việt Nam
Bội chi so với GDP (%)
-64.567
5,65%
-67.676
4,58%
-115.900
6,9%
-119.700
6,2%
Trong năm 2011, với những biện pháp thắt chặt tài khóa và tiền tệ theo Nghị quyết
11/NQ-CP, việc điều hành ngân sách nhà nước đứng trước những thách thức
không nhỏ. Bài nghiên cứu này trình bày một số nét khái quát về tình hình thu, chi
ngân sách năm 2011 và những bài học nhằm vượt qua những thách thức của giai
đoạn tới.
2.2. Tình hình ngân sách năm 2011:
2.2.1. Bối cảnh kinh tế năm 2011:
Việt Nam bước vào năm 2011 với những kết quả khả quan của năm 2010.
Tuy nhiên, những biến động của tình hình kinh tế trong và ngoài nước đã không
diễn ra như dự kiến. Khủng hoảng xã hội ở Bắc Phi và Trung Đông đã tác động
mạnh tới giá dầu mỏ thế giới - mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến giá cả nhiều loại
sản phẩm và dịch vụ trong nền kinh tế như điện, vận tải. Các gói kích cầu trên toàn
thế giới đã bộc lộ mặt trái, khiến nhiều nước phải đối mặt với việc lạm phát gia
tăng. Khủng hoảng nợ công châu Âu đặc biệt ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha cũng tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu.
Trong nội tại nền kinh tế Việt Nam, những vấn đề như hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư thấp, lạm phát cao, năng suất lao động kém, thâm hụt thương mại ngày
càng cao… vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Ngay từ đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu
dùng theo tháng liên tục tăng vượt mức 1,5%/ tháng và đạt đỉnh điểm vào tháng
4/2011 với mức tăng lên đến 3,32%.
Trước những bất ổn của nền kinh tế và nguy cơ lạm phát cao, ngày
24/02/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP (Nghị quyết 11) về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo an sinh xã hội. Chính sáchtiền tệ và tài khóa chặt chẽ là những giải pháp quan
trọng được thực hiện nhằm đáp ứng mục tiêu của Nghị quyết 11. Hàng loạt các
biện pháp về chính sách tiền tệ được thực hiện như: giữ tốc độ tăng trưởng tín
dụng dưới 20% năm 2011, tổng phương tiện thanh toán tăng 15-16%, hạn chế tín
dụng phi sản xuất, tăng lãi suất tái chiết khấu… Chính phủ cũng yêu cầu các Bộ,
địa phương thực hiện tăng thu, giảm chi, thực hiện tiết kiệm 10% chi thường
xuyên, cắt giảm và điều chỉnh các khoản chi đầu tư. Nghị quyết 11/CP cũng đề ra
các biện pháp khuyến khích xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu trong năm 2011 ở
mức 16 % tổng kim ngạch xuất khẩu.
Kết quả bước đầu của việc thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ là tốc độ
tăng giá tính theo tháng đã giảm dần kể từ tháng 4/2011. Thâm hụt thương mại từ
mức 1,41 tỷ USD vào tháng 3/2011 đã giảm xuống, tính đến hết tháng 11/2011
cũng chỉ là 8,9 tỷ USD (bằng 10,2% kim ngạch xuất khẩu). Dự báo, thâm hụt
thương mại của cả năm cũng sẽ xấp xỉ con số này. Tổng kim ngạch cả nhập và
xuất khẩu đều tăng khá mạnh so với năm 2010 (ước tính giá trị kim ngạch xuất
khẩu 2011 sẽ tăng khoảng 28%, nhập khẩu tăng 22% so với năm 2010). Đây là
thuận lợi cho thu NSNN từ hoạt động ngoại thương.
Tuy nhiên, các giải pháp thắt chặt tài chính và tiền tệ cũng có hiệu ứng phụ.
Đó là tổng cung suy giảm biểu hiện qua số liệu về tốc độ tăng GDP năm 2011 thấp
hơn so với năm 2010 và cả năm 2008. Ước tính, GDP 9 tháng đầu năm nay tăng
5,57%, thấp hơn 0,78 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2010. Song, có thể thấy
một xu hướng khả quan hơn khi GDP theo quý đang tăng dần: Quý I tăng 5,43%,
quý II tăng 5,67%, quý III tăng 6,11%. Dự báo, GDP quý IV/2011 có thể đạt mức
6,5% và GDP cả năm có thể đạt 6%. Mức tăng này cho thấy dù gặp bất ổn nhưng
kinh tế Việt Nam không bị rơi vào tình trạng suy thoái như giai đoạn cuối năm
2008 đầu năm 2009.
Thị trường tiền tệ và tỷ giá năm 2011 cũng có những điểm đáng chú ý là lãi
suất huy động và cho vay đồng Việt Nam trong những tháng đầu năm liên tục ở
mức cao (có nhiều tuần lãi suất huy động của một số ngân hàng lên đến 18-
20%/năm cho các khoản tiền gửi lớn). Tuy nhiên, lãi suất từ tháng 09/2011 bắt đầu
có xu hướng hạ dần (dù vẫn ở mức cao) do chỉ số CPI đã tăng chậm lại sau hàng
loạt biện pháp mạnh của Ngân hàng Nhà nước.
Thị trường ngoại tệ sau những biến động lớn đầu năm 2011 đã ổn định
trong nhiều tháng trước khi có xu hướng tăng nhẹ từ cuối tháng 10 (tỷ giá mua và
bán ở các NHTM đã vượt ngưỡng 21.000 đồng/ USD).
Lãi suất cho vay cao đồng thời với chính sách tiền tệ thắt chặt đã có tác
động tiêu cực tới tình hình sản xuất kinh doanh năm 2011. Đây là yếu tố ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thực hiện dự toán thu ngân sách năm 2011.
2.2.2. Tình hình thu, chi ngân sách năm 2011:
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhằm thực hiện tốt dự toán
NSNN năm 2011 cũng như các nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã ban hành Kế
hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 11 (Quyết định số 527/QĐ-BTC ngày
01/03/2011). VIệc đề ra các giải pháp kịp thời đã góp phần không nhỏ vào việc
thực hiện tốt nhiệm vụ thu chi NSNN năm 2011.
2.2.2.1. Thu ngân sách:
Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN năm 2011 ước đạt
674.500 tỷ đồng, đạt 113,4% dự toán, tăng xấp xỉ 21% so với cùng kỳ năm 2010,
trong đó:
− Thu nội địa ước 390.000 tỷ đồng, đạt 102% dự toán năm, tăng 16,6% so
cùng kỳ 2010 (trong đó: tính đến hết tháng 11/2011, thu từ kinh tế quốc
doanh đạt 89,1% dự toán, tăng 12,1% so cùng kỳ; thu khu vực công thương
nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 98,7% dự toán, tăng 23,7% so cùng
kỳ; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 94,0% dự toán, tăng
15,3% so với cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân đạt 119,7% dự toán, tăng
45,4% so cùng kỳ; các khoản thu từ nhà và đất đạt 135,9% dự toán, tăng
7,8% so với cùng kỳ...).Cần lưu ý rằng theo yêu cầu hỗ trợ các gia đình và
doanh nghiệp vượt qua bất ổn của năm 2011, đã có hàng loạt các chính sách
miễn giảm, gia hạn thời gian nộp thuế của một số sắc thuế như thuế Thu
nhập các nhân, thuế TNDN ( giảm 30 % số thuế phải nộp năm 2011 đối với
DNNVV, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực ưu tiên…).
− Thu từ dầu thô cả năm 2011 ước 100.000 tỷ đồng, đạt 144,3% dự toán, tăng
35,9% so với cùng kỳ;
− Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thu NSNN từ xuất nhập khẩu ước
186.833 tỷ đồng, đạt 99% dự toán năm, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm
2010) bất chấp chính sách hạn chế nhập khẩu và giảm, miễn thuế đối với
nhập khẩu xăng dầu những tháng đầu năm. Thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động từ tăng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa, thay đổi tỷ giá đồng Việt Nam và các giải pháp
mạnh nhằm chống thất thu thuế của Bộ Tài chính.
Thu NSNN cả năm 2011 ước tính có thể tăng 23,4% so với năm 2010, đây
là con số cao thứ nhì trong 5 năm gần đây (chỉ thấp hơn mức 27,2% của năm
2008). Tuy nhiên, cũng phải lưu ý là nếu tính đến tỷ lệ lạm phát cao của năm 2011
thì kết quả này không thật sự nổi trội so với các năm gần đây.
2.2.2.2. Chi ngân sách:
Tổng chi NSNN (kể cả trả nợ và chuyển nguồn cho năm 2012) lũy kế cả
năm 2011 ước đạt 796.000 tỷ đồng, trong đó chi NSNN không bao gồm trả nợ
khoảng 732.000 tỷ đồng, bằng 101% dự toán năm. So với dữ liệu tương ứng của
cùng kỳ năm 2010, con số thực hiện năm 2011 đã tăng 19%, thấp hơn đôi chút so
với tốc độ tăng thu tương ứng. Điều này phản ánh thực tế là khi lạm phát cao thì
thu ngân sách cao hơn nhưng chi ngân sách cũng tăng lên rất mạnh. Tuy nhiên
việc tốc độ tăng chi chỉ xấp xỉ lạm phát cho thấy cố gắng rất lớn trong điều hành
chính sách tài khóa 2011 của Chính phủ vì nhiều năm gần đây tốc độ tăng chi
thường cao hơn nhiều tốc độ lạm phát.
Ước tính cả năm tổng chi cho đầu tư phát triển đạt 175.000 tỷ, chỉ tăng 2,34
% so với cùng kỳ 2010. Đây là một con số rất đáng khích lệ trong bối cảnh lạm
phát cao. Bên cạnh việc đảm bảo cấp phát, thanh toán vốn đầu tư theo dự toán
năm, công tác thanh toán vốn cho các dự án từ nguồn trái phiếu Chính phủ cũng
được chú trọng.
Chi trả nợ, viện trợ luỹ kế 11 tháng đạt 93.410 tỷ đồng, bằng 108,6% dự
toán, tăng 18,6% so cùng kỳ năm 2010, đảm bảo thanh toán đầy đủ và đúng hạn
các khoản nợ đã cam kết.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh (bao gồm chi
cải cách tiền lương) luỹ kế 11 tháng đạt 442.890 tỷ đồng, bằng 94,4% dự toán,
tăng 26,3% so cùng kỳ năm 2010; các nhiệm vụ chi NSNN được đảm bảo thực
hiện phù hợp với tiến độ thực hiện và dự toán năm được giao. Ước tính cả năm
2011 chi thường xuyên đạt 535.100 tỷ, tăng 21 % so với dự toán năm và tăng 23
% so với cùng kỳ năm 2010. Điều này một phần do lạm phát làm tăng chi tiêu và
một phần để thực hiện tăng lương và các chính sách an sinh xã hội của Chính phủ
năm 2011.
So sánh 5 năm gần đây cho thấy việc tuân thủ dự toán chi cân đối NSNN
năm 2011 là khá tốt. Chi NSNN tuân thủ khá tốt dự toán Ngân sách 2011 đã được
phê chuẩn với mức vượt thấp nhất trong 5 năm gần đây. Điều này phản ánh việc
ban hành Nghị quyết 11 về cắt giảm chi NSNN đã có tác dụng nhất định đến chi
tiêu ngân sách năm 2011.
Số liệu so sánh 5 năm gần đây cho thấy năm 2011 có tỷ lệ bội chi thực tế so
với dự toán thấp nhất, ước khoảng 4,9% GDP trong khi dự toán bội chi NSNN
năm 2011 mà Quốc hội cho phép là 5,3%GDP. Việc thực hiện chặt chẽ và giám
sát hiệu quả hơn các quy định về chi tiêu NSNN là những lý do giải thích cho việc
giảm bội chi ngân sách.
2.2.3. Đánh giá chung:
Từ tình hình thu chi NSNN năm 2011 có thể rút ra một số nhận định như sau:
− Một là, sự chỉ đạo điều hành kịp thời của Chính phủ trước những biến động
của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện dự toán
NSNN. Việc Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động nhằm thực
hiện Nghị quyết 11 là nguyên nhân quan trọng giải thích cho sự thành công
của năm tài khóa 2011.
− Hai là, trong bối cảnh kinh tế khó khăn thì việc tăng cường kiểm tra, giám
sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ
đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng
và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới cần đặc biệt được quan tâm.
− Ba là, cần có những hướng dẫn cụ thể chi tiết để các bộ, cơ quan, địa
phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi nhằm tiết kiệm thường
xuyên.
− Bốn là, cần chủ động và tích cực trong việc phối hợp các bộ, ngành rà soát
toàn bộ các dự án đầu tư, kiến nghị kịp thời Thủ tướng Chính phủ các biện
pháp xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các
dự án đầu tư ra nước ngoài.
2.3. Cơ hội và thách thức với thực hiện dự toán ngân sách năm 2012:
Theo dự toán NSNN năm 2012 đã được Quốchội phê chuẩn thì số thu ngân
sách được dự báo là 762.900 tỷ đồng (kể cả 22.400 tỷ chuyển nguồn từ năm
2011), số chi là 903.100 tỷ đồng và bội chi dự kiến là 140.200 tỷ đồng - tương
đương 4,8% GDP. Trong bối cảnh kinh tế năm 2012, việc thực hiện dự toán này
có một số cơ hội nhưng cũng đứng trước những thách thức không nhỏ.
2.3.1. Cơ hội:
− Thứ nhất, một số sắc thuế mới có hiệu lực như thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế bảo vệ môi trường sẽ làm tăng nguồn thu cho NSNN.
− Thứ hai, việc tiếp tục thực hiện các giải pháp theo Chương trình hành động
của Bộ Tài chính nhằm thực hiện Nghị quyết 11/CP trong đó tập trung vào
việc chống thất thu thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế sẽ tạo điều kiện
cho việc tăng thu NSNN. Hơn nữa, các giải pháp thực hành tiết kiệm chi
thường xuyên trong kế hoạch này và thực hiện chỉ thị 1792/ CT-TTg của
Chính phủ về việc tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và trái phiếu
chính phủ giai đoạn 2012-2015 sẽ là cơ sở cho việc thực hiện tốt dự toán
chi NSNN năm 2012.
− Thứ ba, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hoạt động của cả nền
kinh tế được kỳ vọng là sẽ từng bước hồi phục khi lạm phát được kiểm soát
và lãi suất cho vay giảm đi sẽ góp phần vào việc tăng nguồn thu cho
NSNN.
2.3.2. Thách thức:
Bên cạnh những cơ hội, thực hiện dự toán ngân sách 2012 cũng sẽ đối mặt với
những thách thức không nhỏ.
− Thứ nhất, rủi ro của các yếu tố bên ngoài có thể tác động xấu đến tăng
trưởng, làm giảm nguồn thu NSNN.
− Kinh tế Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc khá lớn vào tình hình biến động
của kinh tế thế giới. Theo dự báo của IMF (tháng 9/2011) thì kinh tế thế
giới chỉ tăng 4% năm 2012 (mức dự báo hồi tháng 6/2011 là 4,3%). Rủi ro
suy giảm kinh tế thế giới có thể tác động xấu đến kinh tế Việt Nam.
− Thứ hai, nguồn thu giảm do chính sách miễn giảm thuế của Chính phủ.
Bộ Tài chính đang trình Quốc hội miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp năm
2012. Chính sách này nếu được thực hiện cũng sẽ làm giảm nguồn thu NSNN.
Thu thuế xuất nhập khẩu cũng có thể giảm đi khi Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế
suất theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và tác động của chính
sách kiềm chế nhập siêu.
Việc thực hiện tái cơ cấu hệ thống DNNN và hệthống các NHTM sẽ đòi hỏi
chi phí không nhỏ. Về ngắn hạn, các chính sách này có thể làm giảm nguồn thu
đồng thời làm tăng chi NSNN, do vậy, sẽ ảnh hưởng đến dự toán về bội chi
NSNN. Hơn nữa, nguồn thu từ dầu thô sẽ khó tăng khi dự báo giá dầu năm 2012
sẽ ít biến động, thậm chí có thể giảm nếu kinh tế thế giới rơi vào suy thoái.
− Thứ ba, chi tiêu NSNN không dễ dàng cắt giảm.
Việc cắt giảm chi tiêu từ NSNN cũng không dễ do: (i) lạm phát làm tăng giá
các sản phẩm (trong đó có các sản phẩm dịch vụ phục vụ cho hoạt động của Nhà
nước); (ii) do lợi ích của các bên trong sử dụng ngân sách; (iii) do phải tiếp tục
hoàn thiện các dự án dang dở từ nhiều năm trước.
− Thứ tư, vấn đề dự báo thu chi ngân sách dựa trên số danh nghĩa.
Việc dự báo thu ngân sách năm sau trong lập dự toán thường được xem xét
trên cơ sở số thu năm hiện hành. Như đã đề cập ở trên, số thu NSNN năm 2011
tăng mạnh do có phần không nhỏ từ lạm phát cao và thay đổi tỷ giá. Do vậy, dự
toán số thu cao của năm 2012 dựa trên kết quả thu thực tế năm 2011 sẽ có những
rủi ro nhất định.
2.4. Kết luận:
Mặc dù bối cảnh kinh tế năm 2011 có nhiều bất ổn song bức tranh ngân
sách về tổng quan có thể coi là thành công. Thu NSNN vẫn tăng và ước đạt trên
20% dự toán ngân sách năm 2011. Chi NSNN đã từng bước được thắt chặt dù nhu
cầu chi tiêu phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội vẫn rất lớn. Bội chi
NSNN có nhiều khả năng sẽ thấp hơn 5% GDP và thấp hơn nhiều mức dự toán
5,3% cho năm 2011. Đây là cố gắng rất lớn của Chính phủ trong việc thực hiện
chính sách tài khóa năm 2011. Trong giai đoạn tới, chúng ta cần tiếp tục thực hiện
nghiêm túc các giải pháp mà Nghị quyết 11 của Chính phủ và Kế hoạch hành động
của Bộ Tài chính đề ra. Hy vọng rằng sự theo dõi chặt chẽ tình hình kinh tế, chỉ
đạo kịp thời hiệu quả của Bộ Tài chính sẽ góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của
NSNN năm 2012.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Đảm bảo quyền tự chủ tài chính của địa phương:
Hiện nay, quyền tự chủ của địa phương gắn với việc phân định lợi ích các
khoản thu 100% NSĐP được hưởng và khoản thu điều tiết cũng như khoản cân đối
bổ sung của NSTW cho NSĐP.
Trên thực tế, việc qui định khoản chi bổ sung cho NSĐP dễ làm phát sinh
tình trạng bội chi của NSTW. Bởi vậy, phân cấp nguồn thu với tỉ lệ điều tiết cố
định sẽ giảm bớt gánh nặng cho NSTW buộc các địa phương phải tự cân đối
nhiệm vụ thu, chi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương đồng thời phát
huy quyền chủ động trong khai thác nguồn thu của địa phương.
Ngoài ra, trên cơ sở kết quả giám sát chi NSNN cần thiết phải điều chỉnh hợp
lý các nhiệm vụ chi theo hướng tăng nhiệm vụ chi và bổ sung cân đối cho địa
phương thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Bên cạnh đó, cần cho phép địa phương điều chỉnh định mức phân bổ cho sát với
quản lý tài chính ở các địa phương và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
trong việc kiểm soát chi NSNN trong phạm vi địa phương đảm bảo cho việc sử
dụng có hiệu quả NSNN.
3.2. Đảm bảo gắn trách nhiệm của cơ quan được phân cấp với hiệu quả chi
NSNN:
Hiệu quả của chi tiêu NSNN là một khái niệm mang tính chuẩn tắc mà mọi
quốc gia cần phải hướng tới và có thể được hiểu một cách khá thống nhất, đó là
cùng một lượng vốn đầu vào có thể tạo ra được một lượng đầu ra tối ưu.
Tính hiệu quả chi NSNN phải thể hiện ở Dự toán NSNN phải phản ánh
trung thực nhu cầu chi tiêu và bảo đảm việc chi tiêu đó mang lại hiệu quả trên thực
tế. Đối với các dự án đầu tư nhằm mục đích phát triển kinh tế khu vực, không phải
dự án nào cũng đạt hiệu quả kinh tế, tuy nhiên, cũng cần đặt ra tiêu chí để hạn chế
việc các cơ quan có thẩm quyền lạm dụng quyền quyết định đầu tư làm thất thoát
vốn NSNN. Còn đối với hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực phi lợi nhuận là lĩnh
vực giáo dục, y tế và an sinh xã hội, thì hiệu quả chi NSNN chỉ có thể đánh giá
được thông qua sự thay đổi về chất lượng của dịch vụ công và sự thay đổi của dịch
vụ y tế, giáo dục được cung cấp. Việc phân bổ nguồn thu để thực hiện các hoạt
động này cần phải dựa trên kết quả điều tra xã hội học và thẩm định phương án
đầu tư cũng như đánh giá chất lượng dịch vụ cung cấp sau đầu tư để làm căn cứ
khắc phục những thiếu sót trong quyết định đầu tư gây thất thoát cho NSNN.
Ngoài ra, để xác định trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền
trong quyết định và sử dụng NSNN, cần qui định thẩm quyền quyết định chi
NSNN cho đầu tư phát triển trong Luật NSNN làm cơ sở đề cao trách nhiệm trong
quản lý và giám sát chi NSNN.
Trên thực tế, đầu tư công tính bình quân trên đầu người giữa các địa
phương là khác nhau. Theo đánh giá chi ngân sách theo GDP theo tỉnh thì có một
sự ưu tiên khá rõ cho các tỉnh nghèo trong phân bổ chi NSNN: các tỉnh nghèo
nhận được phần chi ngân sách lớn hơn khá nhiều so với các tỉnh khác trong khi
tỉnh nghèo đóng góp cho NSNN thấp. Việc ưu tiên chi NSNN cho các tỉnh nghèo
để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, giảm bớt sự khoảng cách phát triển
giữa các địa phương là cần thiết, tuy nhiên, cần thường xuyên đánh giá hiệu quả
đầu tư của NSNN cho mục đích này, công khai hóa các chương trình, nguồn ngân
sách thực hiện trước khi quyết định triển khai để gắn hiệu quả sử dụng NSNN với
mục tiêu của chương trình, đảm bảo quyền giám sát của cơ quan và người dân nói
chung cũng như nghĩa vụ điều chỉnh phân cấp khoản thu chi hàng năm nhằm đảm
bảo hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án.
3.3. Bảo đảm chất lượng quyết định Dự toán ngân sách nhà nước hàng
năm:
Kết quả của phân cấp quản lý NSNN được ghi nhận trong Dự toán NSNN
do Quốc hội thông qua hàng năm và còn kết quả chấp hành Dự toán NSNN chính
là tiền đề để điều chỉnh phân cấp quản lý NSNN.
Do thẩm quyền quyết định NSNN tập trung cho Quốc hội nên chất lượng
kỳ họp của Quốc hội quyết định quan trọng đến Dự toán NSNN phù hợp với các
nguyên tắc cũng như các qui định về phân cấp quản lý NSNN.
Hiện nay, Quốc hội trong 1 năm chỉ họp 2 lần, Đại biểu Quốc hội đa số
hoạt động kiêm nhiệm, nên khó có thể xem xét các vấn đề một cách thực chất, Uỷ
ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong thẩm tra,
thảo luận và giám sát các vấn đề trước khi trình lên Quốc hội.
Thông thường, Quốc hội thảo luận và biểu quyết từng phần hoặc toàn bộ
nhiệm vụ tài chính, giải pháp tăng thu, tăng chi, phương án thu phí, lệ phí, định
mức phân bổ. Nhiều vấn đề mang tính chủ trương, qui hoạch, kế hoạch, xem xét
hiệu quả, xem xét vấn đề nợ đọng được đưa ra, tuy nhiên, các giải trình ngay còn
thiếu tính hợp lý và căn cứ khoa học, bởi vậy, những vấn đề được Đại biểu Quốc
hội đưa ra cần được cơ quan chức năng rà soát, kiểm tra và báo cáo kết quả thực
hiện trong các kỳ họp của Quốc hội, việc thẩm tra chính xác mới có ý nghĩa trong
thông qua Dự toán NSNN sát với thực tế, điều chỉnh phân cấp quản lý NSNN và
tránh thất thoát lãng phí tài sản của nhân dân. Ngoài ra, giám sát chấp hành NSNN
trên thực tế cũng như thực hiện quyền cắt giảm đầu tư cho các chương trình, dự án
không có hiệu quả của Quốc hội là giải pháp tốt nhất cho việc thực thi có hiệu quả
quyền đại diện của nhân dân cũng như nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội trong
giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Nhìn chung Luật NSNN cần được sửa đổi theo hướng tăng quyền tự chủ về
tài chính cho NSĐP, qui định những nguyên tắc cơ bản chi đầu tư phát triển và cơ
chế điều chỉnh phân cấp chi thường xuyên để đảm bảo sử dụng có hiệu quả hỗ trợ
của NSTW và nguồn thu tạo lập ở các địa phương.
Việc tăng quyền chủ động cho các địa phương có điều kiện phát triển ổn
định thông qua xác lập tỉ lệ điều tiết cố định theo Luật NSNN sẽ góp phần tạo ra
sự ổn định về tài chính cho NSĐP. Đây cũng là tiền đề quan trọng để giảm bớt sự
lệ thuộc của các địa phương vào NSTW và tăng cường giám sát chi NSNN tại các
địa phương.
Để các qui định về phân cấp quản lý NSNN trở thành căn cứ để xác định
quyền và lợi ích của các cấp chính quyền và người dân nói chung, bên cạnh chi
tiết hóa đối tượng phân cấp thì xác định thẩm quyền quyết định và trách nhiệm cụ
thể của cơ quan, tổ chức và người đứng đầu trong Luật NSNN là căn cứ phòng
ngừa vi phạm và nâng cao hiệu quả và trách nhiệm đối với sử dụng NSNN.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính – Báo cáo Tình hình thu chi, ngân sách 11 tháng 2011;
2. Bộ Tài chính – Dự toán NSNN (nhiều năm);
3. Bộ Tài chính – Quyết toán NSNN (nhiều năm);
4. Chính phủ - Nghị quyết 11-CP ngày 24/02/2011 Về những giải pháp chủ yếu
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội;
5. IMF (2011) – Slowing Growth, Rising Risks – World Economic Outlook Report,
Sep. 2011;
6. Nguyễn Đức Thành và cộng sự (2011) – “Báo cáo kinh tế thường niên 2011-
Nền kinh tế giữa ngã ba đường” - VEPR- Đại học Quốc gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_6269.pdf