Đề tài Phân tích môi trường kinh doanh của quốc gia Singapore

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC: KINH DOANH QUỐC TẾ PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA QUỐC GIA SINGAPORE A. Đặt vấn đề: Môi trường kinh doanh của một quốc gia là toàn bộ những nhân tố làm tác động đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong quốc gia đó. Môi trường kinh doanh là một khung cảnh bao trùm lên hoạt động kinh doanh . Nó bao gồm tổng thể các nhân tố mang tính khách quan và chủ quan , vận động và tương tác lẫn nhau , tác động trực tiếp , gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp . Sự tác động đó có thể thuận lợi cho kinh doanh hoặc gây khó khăn trở ngại cho kinh doanh. Chính phủ của các quốc gia luôn xây dựng và cải tạo cho nhà nước mình một môi trường kinh doanh tốt nhất để phát triển kinh tế theo hướng lâu dài, bền vững. Singapore là quốc gia Châu Á có vị trí cao nhất trên bảng tổng sắp hơn 127 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Singapore hiện có thu nhập bình quân gần 53.000 USD, dân số khoảng 4,6 triệu người. Với môi trường kinh doanh và các chính sách khá cạnh tranh về thuế, quốc gia hàng đầu Đông Nam Á này đang là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Hong Kong để trở thành trung tâm tài chính hùng mạnh ở châu Á.Với việc xây dựng được quan hệ hài hòa và khăng khít giữa bộ ba Chính phủ – Doanh nghiệp – Người lao động cùng với môi trường vĩ mô tương đối tốt, Singapore thực sự là nơi thuận lợi để phát triển kinh tế và là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Mục lục A. Đặt vấn đề: 1 B. Giải quyết vấn đề: 2 1. Các yếu tố kinh tế: 2 2. Chính trị - pháp luật: 5 3. Kỹ thuật và công nghệ: 6 4. Yếu tố môi trường, văn hóa, xã hội: 8 5. Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng: 9 6. Môi trường quốc tế: 10 C- Kết thúc vấn đề: 12

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4358 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích môi trường kinh doanh của quốc gia Singapore, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Đặt vấn đề: Môi trường kinh doanh của một quốc gia là toàn bộ những nhân tố làm tác động đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong quốc gia đó. Môi trường kinh doanh là một khung cảnh bao trùm lên hoạt động kinh doanh . Nó bao gồm tổng thể các nhân tố mang tính khách quan và chủ quan , vận động và tương tác lẫn nhau , tác động trực tiếp , gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp . Sự tác động đó có thể thuận lợi cho kinh doanh hoặc gây khó khăn trở ngại cho kinh doanh. Chính phủ của các quốc gia luôn xây dựng và cải tạo cho nhà nước mình một môi trường kinh doanh tốt nhất để phát triển kinh tế theo hướng lâu dài, bền vững. Singapore là quốc gia Châu Á có vị trí cao nhất trên bảng tổng sắp hơn 127 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Singapore hiện có thu nhập bình quân gần 53.000 USD, dân số khoảng 4,6 triệu người. Với môi trường kinh doanh và các chính sách khá cạnh tranh về thuế, quốc gia hàng đầu Đông Nam Á này đang là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Hong Kong để trở thành trung tâm tài chính hùng mạnh ở châu Á.Với việc xây dựng được quan hệ hài hòa và khăng khít giữa bộ ba Chính phủ – Doanh nghiệp – Người lao động cùng với môi trường vĩ mô tương đối tốt, Singapore thực sự là nơi thuận lợi để phát triển kinh tế và là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. B. Giải quyết vấn đề: Nhiều người ngạc nhiên với vẻ đẹp và tốc độ phát triển không ngừng của Singapore. Điều ấn tượng đáng ghi nhận là trước đây Singapore chỉ là một làng chài nhỏ bé với những người dân bản địa sinh sống. Ngày nay Singapore phát triển rất nhanh. Đây là một đất nước mang tầm cỡ thế giới, sầm uất với nhiều tòa nhà cao tầng và công viên cảnh quan. Phong phú với một quần thể văn hóa, ẩm thực, nghệ thuật và kiến trúc đan xen hài hòa, Singapore là một đất nước năng động phong phú và giàu màu sắc ở nhiều phương diện đối lập. Singapore là nơi giao thoa của những nét đẹp tinh túy nhất từ phương Đông và phương Tây. Có được điều này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của cả cộng đồng người dân Singapore, đất nước này còn hội tụ và xây dựng cho mình một hệ thống môi trường kinh doanh hấp dẫn nhất là môi trường vĩ mô. Môi trường vĩ mô là môi trường bên ngoài, nó ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh doanh, là nơi mà doanh nghiệp phải bắt đầu tìm kiếm những cơ hội và những mối đe dọa có thể xuất hiện, nó bao gồm tất cả các nhân tố và lực lượng có ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả thực hiện của Doanh nghiệp. Các yếu tố kinh tế: Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt 10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ 1999, Singapore bắt đầu phục hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm 2000 đạt hơn 9%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2 % do tác động của khủng hoảng kinh tế. Nằm ở khu vực Đông Nam Á với diện tích đất rộng 710 km2, Singapore trở thành một trong những đất nước nhỏ nhất thế giới và là đất nước nhỏ nhất tại khu vực. Vì vậy, Singapore còn được gọi là dấu chấm nhỏ màu đỏ trên bản đồ (The Little Red Dot). Mặc dù có diện tích khiêm tốn, nhưng với nền kinh tế thương mại tự do và lực lượng lao động chất lượng cao, ngày nay Singapore đã thực sự có được một thế đứng rất vững chắc trên thế giới. Là một trong những quốc gia "chèo chống" thành công con thuyền kinh tế vượt qua khủng hoảng, Singapore mang theo mình nhiều bài học xương máu và kinh nghiệm đáng tham khảo và học hỏi trong việc thiết lập chính sách khôn ngoan cũng như mạnh dạn tiến hành những biện pháp tài chính đúng đắn trên cơ sở ngắn hạn và dài hạn. Trong giai đoạn suy thoái nền kinh tế, rất nhiều quốc gia từ đó đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, Singapore trước cú sốc kinh tế đã xây dựng cho mình một cách thức đối phó rất tốt bởi bốn nền móng đã dày công xây dựng từ nhiều năm trước. Đó là (1) nỗ lực duy trì nền móng kinh tế vững chắc, với trọng tâm phát triển ngành ngân hàng; (2) sự tiếp thu một hệ thống hối đoái có hiệu quả (đồng đô la được giám sát dựa vào một rổ tiền tệ theo tỷ trọng thương mại chứ không theo một đơn vị tiền tệ nhất định, vì thế giảm các nguy cơ rủi ro); (3) sự thiết lập hệ thống lương có thể điều chỉnh được; và (4) sự kiểm soát việc cho vay đô la Singapore của các ngân hàng. Singapore đã xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế vững chắc. Điều đó đã hỗ trợ cho Singapore vượt qua những thử thách về kinh tế mỗi khi phải đương đầu. Với tỉ lệ tiết kiệm cao, nguồn vốn dự trữ lớn, lưu lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cao, tỉ lệ nợ gần như không tồn tại, Singapore đã có khả năng "chịu đòn" cũng như đề ra các biện pháp kịp thời và quyết đoán để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ đợt khủng hoảng. Không những vậy, khả năng linh hoạt trong việc điều khiển tỉ lệ hối đoái và tiền lương đã giúp Singapore hồi phục tốt hơn phần lớn các nước trong khu vực. Nỗ lực sự dụng nhiều chiến lược cùng một lúc (kết hợp với chính sách tài chính và tiền tệ), Singapore không những tránh được tình huống xấu nhất của khủng hoảng, mà còn "rải" gánh nặng cải biến lên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Ngoài ra, các nhà chức trách Singapore từ lâu đã được người ta biết tới về phẩm chất kiên định và có uy tín cao. Chính vì thế, những thay đổi trong kế hoạch ngắn hạn không làm thị trường nghi ngờ việc "chung thủy" của Singapore với những mục tiêu dài hạn. Singapore đã cho thấy thành công trong việc tự do hóa tài chính, và chính điều này đã giữ vững vị trí trung tâm của Singapore trong ngành tài chính, ngay cả vào những giờ phút khó khăn. Đây cũng là thế mạnh của nền kinh tế Singapore, đưa đất nước này vượt qua mọi đợt tấn công tiền tệ.   Tuy nhiên, hiện nay trước sự bất ổn về tài chính của nhiều quốc gia lớn và thị trường liên tục biến động, những nguy cơ đối với kinh tế Singapore đang tăng lên, bất chấp tác động của giá dầu mỏ cao và gián đoạn nguồn cung sau trận động đất hồi tháng 3 vừa qua ở Nhật Bản đã dịu lại. Sự phục hồi của lĩnh vực sản xuất y sinh hay sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ tài chính, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc đảo này. Tuy nhiên, Singapore cũng rất lo ngại về nguy cơ suy thoái kép ở Mỹ, do các kế hoạch củng cố tài chính, thị trường việc làm và các thị trường nhà đất yếu đang tác động xấu đến tâm trạng tiêu dùng và kinh doanh. Việc Mỹ mới đây bị hạ mức đánh giá tín dụng cũng đã gây xáo trộn trên thị trường tài chính và làm gia tăng những bất ổn đối với nền kinh tế. Dự báo tăng trưởng xuất khẩu cả năm 2011 của Singapore từ 8-10% xuống 6-7% và tổng kim ngạch thương mại từ 9-10% xuống 8-10%, do xuất khẩu yếu kém hơn dự báo trong 6 tháng đầu năm nay cộng thêm những rủi ro ở phía trước. Trong 6 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch thương mại của Singapore tăng 9,6%, do thương mại dầu mỏ và phi dầu mỏ tăng lên. Xuất khẩu hàng điện tử của Singapore giảm sút, do nhu cầu yếu đi trong nửa đầu năm nay và nguồn cung hàng hóa bị gián đoạn sau trận động đất sóng thần ở Nhật Bản.   Ngoài những thách thức đến từ kinh tế Mỹ và châu Âu thì sự phục hồi chậm hơn dự báo ở Nhật Bản cũng là những nguy cơ đối với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của Singapore. Để khắc phục tình trạng khó khăn về thương mại, chính phủ Singapore đã sử dụng chính sách thương mại tự do: Khoảng 99% hàng nhập khẩu vào Singapore không phải chịu thuế nhập khẩu hoặc các biện pháp phi thuế quan khác. Đồng thời các quy định để bảo đảm môi trường thuận lợi ấy lại rất chi tiết và nghiêm minh được thực thi bằng một bộ máy chính quyền gọn nhẹ và hiệu quả. Singapore không áp dụng hỗ trợ xuất khẩu bằng cách áp dụng các biện pháp về thương mại và đầu tư, về thuế nhằm tạo ra một môi trường xuất khẩu thuận lợi cho các công ty tại Singapore bất kể công ty nước ngoài hay công ty trong nước. Chính trị - pháp luật: Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó. Bên cạnh cơ sở hạ tầng thương mại vững vàng và môi trường kinh tế thuận lợi, Singapore còn có một nền chính trị - pháp luật ổn định. Chính quyền ổn định và giàu năng lực cũng là nhân tố góp phần giúp Singapore phát triển nhanh chóng. Singapore là một nước Cộng hòa có hệ thống chính trị tập trung vào chế độ dân chủ. Singapore theo chế độ đa đảng. Đảng Hành Động Nhân Dân (PAP) là đảng cầm quyền hiện tại trong Chính phủ, nắm quyền kiểm soát đường lối chính trị từ khi nhà nước tự chủ được thành lập vào năm 1959. Một khuyến khích quan trọng là Pháp lệnh về các Ngành công nghiệp ưu tiên năm 1959. Theo Pháp lệnh này, các Công ty được miễn (hoặc được giảm đáng kể) thuế Công ty (40%) trong một thời kỳ cố định nếu phát triển các sản phẩm mới. Nhờ đó, tỷ trọng sản phẩm của các Công ty được hưởng ưu tiên đã tăng từ 7% năm 1961 lên 69% năm 1996. Ngoài ra, còn có nhiều hình thức khuyến khích thuế khác, trong số đó có: khuyến khích mở rộng kinh tế, cắt giảm thuế công ty cho những công ty được chấp thuận xuống còn 4%. Mức vốn tối thiểu hoặc mức doanh thu tối thiểu để được chấp thuận đã được tăng lên nhanh chóng vào năm 1970, khi Singapore xác định là cần khuyến khích nhiều hơn các công ty có hàm lượng sử dụng vốn cao so với những công ty có hàm lượng sử dụng lao động cao. Singapore có một nền chính trị bình ổn cao, điều đó đã tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh của các doanh nhân trong nước cũng như việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ nước này đưa ra các chính sách thuế rất ưu đãi: Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các thuế tiêu thụ, thuế thu nhập.... Ngoài ra việc ban hành các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp,luật lao động, luật chống độc quyền, chống bán phá giá phù hợp đã tạo tiền đề thuận lợi cho các nhà kinh doanh vận hành nó trong quá trình thực hiện mục tiêu kinh doanh. Kỹ thuật và công nghệ: Cả thế giới vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các công nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Nếu cách đây 30 năm máy vi tính chỉ là một công cụ dùng để tính toán thì ngày nay nó đã có đủ chức năng thay thế một con người làm việc hoàn toàn độc lập. Trước đây chúng ta sử dụng các máy ảnh chụp bằng phim thì hiện nay không còn hãng nào sản xuất phim cho máy ảnh. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông hiện đại đã giúp các khoảng cách về địa lý,phương tiện truyền tải. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Singapore không có các nguồn tài nguyên thiên nhiên và một giới kinh doanh giàu kinh nghiệm và có đủ khả năng (dòng các nhà kinh doanh di cư từ Trung Quốc chủ yếu đã sang Hồng Kông). Thêm nữa, việc các lực lượng quân sự Anh rút đi đã làm mất khoảng 20% đóng góp cho nền kinh tế của Singapore. Singapore đã không có sự lựa chọn chính sách nào ngoài chính sách  công nghiệp hoá và do thiếu hụt các năng lực bản địa nên Singapore đã phải dựa vào các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) để có được vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Chiến lược công nghiệp của Singapore đã được xây dựng dưới sự lãnh đạo đầy năng lực và quyền lực của Thủ tướng Lý Quang Diệu (từ 1959 đến 1990) cũng như Bộ trưởng Kinh tế Goh Keng Swee và một phần dựa vào công trình nghiên cứu của UNDP năm 1960 về tương lai của Singapore, do Albert Winsemius (cố vấn kinh tế cho đến năm 1984) xây dựng. Winsemius đã khuyến nghị thành lập Hội đồng Phát triển Kinh tế (EDB) chịu trách nhiệm về quá trình công nghiệp hoá của Singapore với hình thức là cơ quan một cửa, lựa chọn tất cả các yêu cầu của nhà đầu tư và định hướng vào sửa chữa tàu biển, gia công kim loại, hoá chất, thiết bị và linh kiện. Chính phủ Singapore đẩy mạnh đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu phát triển, xây dựng những nguồn năng lực chủ đạo như các trung tâm kỹ thuật các viện nghiên cứu, các cơ sở thiết kế và các trung tâm nhân lực chuyên môn. Nền kinh tế Singapore phụ thuộc sâu sắc vào nước ngoài trên nhiều phương diện, đặc biệt là nguồn vốn, công nghệ và kỹ thuật cùng với thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên liệu. Singapore đang tích cực thúc đẩy và phát triển của công nghệ sinh học công nghiệp . Hàng trăm triệu đô la đã được đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, quỹ nghiên cứu và phát triển và tuyển dụng các nhà khoa học hàng đầu quốc tế đến Singapore. Các nhà sản xuất ma túy hàng đầu như GlaxoSmithKline (GSK), Pfizer và Merck & Co , đã thành lập các nhà máy tại Singapore.. Dược phẩm chiếm hơn 16% sản lượng sản xuất của đất nước Yếu tố môi trường, văn hóa, xã hội: Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là  đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó. Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã hội, có thể vun đắp cho xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố môi trường văn hóa xã hội thông thường được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần.  Là một xã hội đa sắc tộc, Singapore trở thành một quốc gia đa dạng nhưng vẫn không thiếu sự gắn kết. Khoảng 40 phần trăm dân số là người nước ngoài, đây là tỉ lệ cao thứ sáu trên thế giới. Chính quyền mời gọi người người làm việc ngại quốc, mặc dù điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ giữ một vai trò qun trọng trong nền kinh tế quốc gia. Lao động nước ngoài nước ngoài chiếm đến 80% trong ngành công nghiệp xây dựng và 50% trong công nghiệp dịch vụ. Về tôn giáo, Singapore là một quốc gia đa tôn giáo, theo thống kê khoảng 51% dân số Singapore theo Phật giáo và Đạo giáo, 15% dân số (chủ yếu là người Hoa, người gốc Âu, và người Ân Độ) là tín đồ Đạo Cơ đốc.Hồi giáo chiếm khoảng 14% dân số, chủ yếu tồn tại trong các cộng đồng người Mã Lai, người Ấn Độ theo Hồi giáo, và người Hồi (người Hoa theo Hồi giáo). Có khỏang 15% dân số Singapore tuyên bố họ không có tôn giáo, cá tôn giáo khác không đáng kể. Hiện tại, dân số Singapore khoảng 5 triệu người. Tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính. Ngoài ra còn có tiếng mẹ đẻ của từng nhóm dân tộc chủ chốt tại Singapore. Một trong những điểm nổi bật của Singapore là sự tổng hòa của nhiều nền văn hóa khác nhau. Cùng tạo nên một xã hội và chung sống hòa bình bên nhau là bốn chủng tộc chính – Người Hoa (chiếm đa số), người Mã Lai, người Ấn Độ và người lai Á Âu. Mỗi cộng đồng mang đến một bộ mặt khác nhau cho cuộc sống tại Singapore, trên các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, ẩm thực và ngôn ngữ. Singapore thiếu nguồn nhân lực khá trầm trọng, mặc dù người tham gia hoạt động kinh tế và người làm công ăn lương rất cao so với toàn bộ dân cư(tỷ lệ ½). Nguyên nhân chính đưa đến tình trạng này là sự phát triển nhanh chóng của ngành chế tạo sử dụng nhiều lao động và sự bùng nổ của ngành xây dựng cơ bản. Dân số Singapore ít lại tăng chậm dẫn tới nguy cơ thiếu hụt lao động, gây ảnh hưởng không nhỏ tới các ngành sản xuất cần đến sự có mặt của con người. Không phải ngành sản xuất nào cũng chỉ cấn đến hàm lượng công nghệ mà không cần tới bàn tay của con người. Con người điều khiển máy móc, trang thiết bị, vì con người tạo ra chúng. Nếu một đất nước trong tương lai lại thiếu lao động một cách trầm trọng thì các ngành sản xuất của nước đó sẽ kém phát triển. Chính vì vậy lực lượng lao động là rất quan trọng đối với mỗi nước. Do vậy tình trạng thiếu hụt lao động của Singapore trong tương lai ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển thương mại của Singapore. Singapore là một trong những nước có lao động cao (mức lương cao) trên thế giới, đứng thứ 2 ở Châu Á sau Nhật Bản, nhưng năng suất lao động chưa cao so với Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. Điều này sẽ làm Singapore phải cạnh tranh gay gắt trong việc bán sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế vì giá thành sản phẩm cao hơn so với các nước trong vùng, đặc biệt là Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng: Cộng hòa Singapore nằm ở nam cực bán đảo Malacca, điểm trọng yếu chiến lược trên con đường giao lưu buôn bán bằng đường biển giữa Đông và Tây. Nằm trong vùng khí hậu xích đạo(cách xích đạo khoảng 120 km về phía Bắc), nhiệt độ trung bình ở Singapore ban ngày là 310 C, ban đêm là 240 C, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2000 mm. Tuy vậy, Singapore luôn thiếu nước ngọt vì nhu cầu tiêu thụ nước ở đây là rất cao. Địa hình Singapore là bình nguyên xen kẽ gò, đống và đầm lầy. Đất đai kém màu mỡ, tài nguyên nghèo nàn ngoài nguồn cá biển và muối. Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Do diện tích quá nhỏ hẹp cùng với sự bùng nổ nhu cầu xây dựng, các xí nghiệp công nghiệp, các cơ sở kinh tế hạ tầng và các trung tâm thương mại tổng hợp trong những năm 60-80, nên Singapore thiếu đất để mở rộng thêm các hoạt động công nghiệp và dịch vụ trong tương lai. Tuy chính phủ có nhiều nỗ lực trong việc lấn biển, san lấp các gò, đống, đầm lầy và xây dựng nhiều nhà cao tầng nhưng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu về đất đai để xây dựng những công trình mới. Chính vì nguồn cung nguyên liệu thiếu nên Singapore còn phụ thuộc sâu sắc vào thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm quốc tế, trước hết là thị trường các nước tư bản phát triển, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản. Sự phụ thuộc sâu sắc vào nước ngoài về nguồn vốn đầu tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm nhất là lại chỉ tập trung ở một số nước, có thể gây hậu quả bất lợi cho nền kinh tế Singapore, nếu như nền kinh tế của các nước đó bị khủng hoảng, hoặc quan hệ giữa Singapore và các nước đó xấu đi. Môi trường quốc tế: Hiện nay Singapore là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh trong xuất nhập khẩu của doanh nghiệp được xếp ở thức bậc cao là nhờ chính phủ Singapore thực hiện chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư rất sớm (1966 – 1973). Mà then chốt là chính phủ thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu như dồn mọi nỗ lực vào việc tiếp cận và phát triển thị trường nước ngoài, hỗ trợ các nhà xuất khẩu, xúc tiến xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Quan điểm về xây dựng chính sách cạnh tranh của Singapore là đặt các doanh nghiệp tại Singapore (không phân biệt trong nước, ngoài nước, sở hữu) trong môi trường cạnh tranh quốc gia bình đẳng, theo kiểu chọn lọc tự nhiên. Nhà nước không bảo hộ, nhưng nhà nước ưu tiên đầu tư cho doanh nghiệp ở các ngành quan trọng phát triển bằng cổ phần lớn của nhà nước, khi các doanh nghiệp này đủ mạnh trong cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế thì nhà nước bán cổ phiếu cho dân. Singapore là thị trường hoàn toàn tự do và chính phủ còn dành ưu đãi cho các công ty nước ngoài có vốn đầu tư từ $200 triệu trở lên được hưởng mức thuế doanh thu 10% (mức chung 25,5%) trong 10 năm; hoặc công ty đạt doanh số xuất khẩu 200 triệu SGD/năm – International Trader (cho một số mặt hàng khuyến khích, chủ yếu là nông sản) được hưởng mức thuế doanh thu 10% trong năm đó. Singapore không sử dụng hàng rào phi thuế quan, không trợ giá xuất nhập khẩu. Thủ tục xuất nhập khẩu đơn giản, nhanh chóng thực hiện qua mạng diện tử Tradenet. Singapore tham gia nhiều cam kết WTO, ASEAN, APEC… và nhiều cam kết song phương khác nhằm tự do hóa nền kinh tế, tăng năng lực cạnh tranh toàn cầu của hàng hóa, dịch vụ và của cả nền kinh tế. Chính sách thương mại của Singapore là phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện cho sự phát triển thương mại của đất nước. Nhờ thực hiện tự do hóa thương mại, cùng với những ưu đãi cụ thể mà hàng năm Singapore đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư rất lớn từ nước ngoài, đặc biệt là từ các công ty, tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ. Bên cạnh đó, chính phủ Singapore không sử dụng hàng rào phi thuế quan, không trợ cấp giá xuất nhập khẩu, thủ tục xuất nhập khẩu thì đơn giản, nhanh chóng, đấy chính là những điều kiện hữu hiệu nhất để thúc đẩy quá trình phát triển giao lưu thương mại giữa các công ty, các ngành trong nước với quốc tế, nó tạo nên sự bình đẳng giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài, và dĩ nhiên là các công ty nước ngoài rất thích đầu tư vào thị trường Singapore. Ngoài ra, Singapore còn tham gia vào nhiều tổ chức thương mại trên thế giới như WTO, ASEAN, APEC,… cùng với nhiều cam kết hợp tác song phương, đấy cũng là lý do khiến nền thương mại Singapore phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như vậy. C- Kết thúc vấn đề: Qua nghiên cứu về môi trường kinh doanh của Singapore, chúng ta nhận thấy rất rõ rằng đây là một quốc gia không giàu về tài nguyên nhưng tuyệt đối không nghèo về kinh tế. Một nhà ngoại giao Singapore đã nói trên một tờ báo rằng: “chúng tôi phải cho thế giới biết đến tới sự tồn tại của chúng tôi trên bản đồ thế giới chứ không phải là một chấm mờ nhạt khó tìm”. Lời khẳng định đó của nhà ngoại giao Singapore quả thực đã được chứng minh bằng những kết quả mà đất nước này đã đạt được về thương mại và những ngành khác có liên quan. Hàng loạt những chính sách về mậu dịch tư do hóa mà chính phủ Singapore đưa ra và áp dụng đã làm đất nước này trở thành một cường quốc thương mại vững mạnh trên thế giới. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh. Mục lục Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Quản trị chiến lược của Ths Lê Thị Bích Ngọc – Học viện Bưu chính Viễn Thông. Giáo trình Quản trị Kinh doanh quốc tế của PGS.TS Nguyễn Thị Như Liêm - Trường Đại học kinh tế Đà Nẵng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích môi trường kinh doanh của quốc gia Singapore.doc
Luận văn liên quan