Hơn 20 năm thực hiện đổi mới và phát triển, chúng ta không thể không
công nhận rằng sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân đã mang lại cho nền
kinh tế nước ta những bước phát triển đáng ngạc nhiên. Kinh tế tư nhân giờ đây
không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế mà còn trở thàn một lực
lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu.
Đảng và Nhà nước ta đã thấy được vai trò đó của khu vực kinh tế tư nhân
thể hiện trong đường lối và những chính sách đó là bước đầu đã tạo ra điều kiện,
môi trường cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam tuy có bước phát triển trong những
năm đổi mới nhưng vẫn chưa phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế. Để phát
huy được vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiệ n
đại hóa, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa môi trường thể chế cho sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
100 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7192 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định rõ, nhất quán và phù hợp với thực tế nội hàm của “vai trò
chủ đạo” của kinh tế nhà nước. Vai trò chủ đạo nên giải thích và phát triển theo
hướng phát huy tối đa địa vị và lợi thế của doanh nghiệp nhà nước đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời, không làm giảm vai trò hoặc
hạn chế quyền kinh doanh của các thành phần kinh tế khác.
“Vai trò chủ đạo” có thể hiểu bao gồm các nội dung sau:
Một là, chủ đạo không phải là chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng lớn hơn
trong GDP, tính chất chủ đạo thể hiện ở sự tiên phong đi đầu. Tính chủ đạo phải
gắn với năng suất, chất lượng, khả năng thúc đẩy phát triển và chuyển giao công
nghệ.
Hai là, vai trò chủ đạo cũng bao hàm chức năng hỗ trợ và tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
65
Ba là, việc tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực
kể trên hoàn toàn không có nghĩa hạn chế hay ngăn cản sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác, trái lại, cùng hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện để kinh tế
tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh
vực dịch vụ kết cấu hạ tầng, các ngành công nghệ cao, không hạn chế cạnh tranh
của các thành phần kinh tế khác đối với doanh nghiệp nhà nước bằng các biện
pháp hành chính.
Xác định rõ nội hàm của “vai trò chủ đạo” với đặc điểm trên đây có thể
tạo ra tác động tích cực đối với môi trường kinh doanh cho khu vực kinh tế tư
nhân. Môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng sẽ dần được xác lập. Xác định
đúng vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước sẽ góp phần tăng thêm tính
cương quyết, nhất quán trong chỉ đạo và thực hiện cổ phần hóa, bán, khoán và
cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, giảm được nguy cơ sử dụng quyền
lực nhà nước nhằm hạn chế quyền kinh doanh của các thành phần kinh tế khác,
bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Xác định đúng “vai trò
chủ đạo” của doanh nghiệp nhà nước sẽ góp phần tạo ra nhận thức xã hội đúng
đắn về vai trò của các doanh nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thu hút sự ủng hộ mạnh mẽ, thống nhất của dư luận xã hội đối với
các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước, cũng như có thái độ tôn vinh
đúng đắn đối với các doanh nghiệp tư nhân.
2.4.3.2. Về cơ chế chính sách của nhà nước
Các cơ chế, chính sách của nhà nước chưa thực sự giải quyết được các khó
khăn mà các doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải như:
2.4.3.2.1. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực
Cụ thể:
66
Khó khăn trong việc tiếp cận với đất đai
Đất đai là một trong những yếu tố cơ bản, không thể thiếu của quá trình
sản xuất, thế nhưng tình trạng thiếu đất để sử dụng làm mặt bằng sả xuất của khu
vực kinh tế tư nhân hiện nay đang rất cấp bách. Trong khi đó, các doanh nghiệp
nhà nước được ưu đãi về đất đai hơn. Năm 2006 đất giao cho doanh nghiệp nhà
nước là 58,6 triệu m2 đất với 52 dự án còn khu vực tư nhân là 2,4 triệu m2 đất
cho 35 dự án. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đủ
vốn lớn để đầu tư vào đất đai nên phải đi thuê đất của các doanh nghiệp nhà
nước hoặc các tổ chức với giá cao hơn nhiều, 51% số doanh nghiệp sử dụng đất
tự có để tiến hành sản xuất kinh doanh, 49% là thuê của doanh nghiệp nhà nước
hoặc các tổ chức khác và tình trạng này vẫn tiếp tục kéo dài trong những năm
gần đây.
Hiện tượng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có một
số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do thủ tục thuê và chuyển nhượng đất phức tạp, có những quy
định không rõ ràng gây khó khăn cho các nhà đầu tư, làm mất nhiều thời gian,
chi phí.
Thứ hai, do quy hoạch đất không rõ ràng, nhiều nơi diện tích đất không sử
dụng, đất hoang hóa, đất sử dụng sai mục đích còn lớn, trong khi khu vực tư
nhân lại thiếu mặt bằng sản xuất – kinh doanh.
Thứ ba, do quy mô vốn của doanh nghiệp còn nhỏ, không đủ khả năng để
thuê đất ở những địa điểm có lợi thế vì ở những địa điểm đó giá đất cho thuê cao,
làm tăng chi phí đầu vào.
Khó khăn trong thu hút và đào tạo nguồn nhân lực
Khu vực tư nhân hiện nay đang thiếu lao động có trình độ, kỹ năng, tay
nghề chuyên môn thành thạo. Điều này do khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự
67
tạo được lòng tin để xóa bỏ những định kiến trong xã hội. Do vậy, chỉ có những
lao động có trình độ thấp, cần công việc, ít có cơ hội lựa chọn nơi làm việc mới
chấp nhận làm việc trong khu vực này.
Một nguyên nhân nữa là trong khi các doanh nghiệp nhà nước đều được
hưởng các chính sách của nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực miễn phí thì khu
vực tư nhân khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ này.
Hiện tại, nền giáo dục của ta chưa quan tâm nhiều đến việc đào tạo theo
nhu cầu của xã hội. Có những ngành, những lĩnh vực còn thiếu quá nhiều cán bộ,
công nhân có tay nghề, trình độ chuyên môn, trong khi đó có một số ngành đào
tạo tràn lan. Chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, ít thực hành, nội dung
đào tạo chậm, không bắt kịp sự thay đổi trong thực tế cho nên hiệu quả đào tạo
không cao.
Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
Đối với nguồn vốn của ngân hàng:
Hiện tại các doanh nghiệp mới đăng ký thành lập nguồn vốn chủ yếu huy
động từ bản thân chủ doanh nghiệp, người thân, bạn bè… Nguồn vốn huy động
được từ các tổ chức tín dụng là rất khó khăn. Thực tế cho thấy, 69% doanh
nghiệp sử dụng vốn tự tích lũy, 45% doanh nghiệp là vay vốn từ người thân, bạn
bè. Và chỉ có 21% doanh nghiệp vay vốn được từ các ngân hàng thương mại
quốc doanh, 11% vay từ ngân hàng thương mại cổ phần.
Hiện tại khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự tạo được lòng tin nên rất
khó vay vốn từ ngân hàng, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Thêm vào đó,
khu vực tư nhân có quy mô nhỏ nên lượng vốn vay thường ít trong khi đó chi phí
giao dịch, điều tra, giám sát lại cao.
Đối với nguồn từ quỹ hỗ trợ phát triển:
68
Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân đã được tiếp cận nguồn vốn từ quỹ hộ
trợ phát triển. Tuy nhiên, số vốn mà khu vực tư nhân vay được từ quỹ này chỉ
chiếm 8% tổng số vốn cho vay của quỹ. Nguyên nhân là do thủ tục và các điều
kiện cho vay còn quá chặt chẽ, các thủ tục pháp lý về điều kiện cho vay của Quỹ
còn bất bình đẳng giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân làm cho khu vực
kinh tế tư nhân khó vay được vốn từ nguồn vốn ưu đãi của nhà nước.
2.4.3.2.2. Thiếu sự hỗ trợ từ phía nhà nước
Thiếu cơ chế cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
Ngày nay, sự phát triển các ngành dịch vụ đang thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ kinh tế - xã hội, trong đó có dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh có tác dụng làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua
ủy nhiệm những công việc chuyên biết cho các chuyên gia chuyên ngành. Ở các
nước phát triển, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chiếm tỷ lệ ít nhất là 1/3 giá trị đầu
vào của doanh nghiệp. Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh rất đa dạng và thực hiện
những chức năng khác nhau. Chất lượng cung ứng các dịch vụ sẽ tác động lớn
đến khả năng phát triển và cạnh tranh của nền kinh tế khi sử dụng dịch vụ này.
Theo các nghiên cứu của Ngân hàng phát triển châu Á, dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh và dịch vụ nghề nghiệp là bộ phận đầu vào mang tính cạnh tranh nhất, tiếp
theo mới đến truyền thông, giáo dục thương mại và đào tạo. Thực tế cũng cho
thấy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thường phải phụ thuộc nhiều vào
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nhập khẩu nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị
trường thế giới, khi ở trong nước những dịch vụ này không đáp ứng được yêu
cầu chất lượng.
Thiếu cơ chế tạo sự ủng hộ của xã hội đối với kinh tế tư nhân
Nhìn chung, môi trường thể chế chưa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân
phát triển. Môi trường thể chế được hiểu là tổng hợp toàn bộ các nhân tố mang
69
tính chính trị, nhà nước, pháp luật có tác động ảnh hưởng ở mức độ nhất định lên
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, thể chế chính trị giữ vai trò
quan trọng nhất, nó định hướng, chi phối toàn bộ hoạt động trong xã hội, trong
đó có hoạt động kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng
định hướng chính trị nhằm chi phối những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Hiện nay, môi trường kinh doanh còn thiếu lành mạnh, cạnh tranh thiếu
bình đẳng, tồn tại nhiều hoạt động gian lận thương mại cũng như tiêu cực do bộ
máy quản lý yếu kém gây ra đã đẩy khu vực tư nhân vào tình thế bất lợi. Nguyên
nhân do việc xác định vị trí, vai trò quan trọng của khu vực tư nhân mới chỉ
chung chung mà chưa có những chính sách, chiến lược phát triển cụ thể, tạo điều
kiện cho khu vực kinh tế này. Bên cạnh đó, tư tưởng kỳ thị, phân biệt khu vực tư
nhân trong bộ máy quản lý vẫn tồn tại. Hiện nay, chưa có một bộ phận quản lý
nhà nước chính thức đối với hoạt động của các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân để theo dõi, điều chỉnh, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh của họ. Ngoài ra, cơ chế chính sách phát triển kinh tế tư nhân còn thiếu
đồng bộ và chưa nhất quán.
Trên thực tế, hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế trong việc điều
chỉnh nền kinh tế. Tình trạng văn bản pháp luật còn thiếu đồng bộ, không nhất
quán đã làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không tốt, luôn luôn lo sợ sự thay
đổi của cơ chế, chính sách nên không dám đầu tư, phát triển sản xuất – kinh
doanh. Ngoài ra, những quy định còn phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho
các doanh nghiệp trong sản xuất – kinh doanh.
70
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.3. Dự báo xu hƣớng phát triển kinh tế tƣ nhân
Thứ nhất, mục tiêu hoạt động của kinh tế tư nhân vẫn chịu sự chi phối chủ
yếu bởi quy luật tối đa hóa lợi nhuận. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng phát
triển, qua đó các quy luật kinh tế thị trường luôn dẫn dắt kinh tế tư nhân mở rộng
đầu tư ở những nơi có lợi nhuận cao nhất, các lĩnh vực ngành nghề mới có hiệu
suất sinh lợi cao vẫn luôn hấp dẫn kinh tế tư nhân. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trường hiện đại, kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân có vai trò, vị trí và chức
năng đặc thù trong một cơ cấu kinh tế chung, vì thế không thể thay thế nhau,
không có xu thế lấn át hoặc loại trừ nhau. Tuy nhiên, do bản chất của sở hữu,
trong quá trình vận động của kinh tế tư nhân luôn có xu hướng bị chi phối bởi
mục tiêu lợi nhuận. Điều này sẽ có tác động không nhỏ đến các xu hướng phát
triển khác của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, tích tụ và tập trung vốn gia tăng, hình thành các doanh nghiệp
vừa và lớn có sức cạnh tranh cao, kinh tế cá thể giảm. Đây là một xu hướng tất
yếu trong phát triển cạnh tranh của kinh tế tư nhân, cùng với xu hướng sẽ có
nhiều doanh nghiệp và tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa sở hữu, có số vốn hàng
ngàn tỷ đồng, tạo ra những sản phẩm có giá trị chi phối thị trường trong nước,
mở rộng thị phần ở thị trường quốc tế một cách ổn định. Đồng thời, sẽ xuất hiện
ngày càng phổ biến hơn các hiện tượng phá sản, giải thể, chia nhỏ, mua bán,
chuyển nhượng, sáp nhập… các doanh nghiệp, các cổ phần, cổ phiếu doanh
nghiệp, hiện tượng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không đạt được mục đích kinh
doanh cũng trở thành vấn đề được xã hội quan tâm hơn.
71
Trong thương mại – dịch vụ, các cửa hàng, trung tâm mua sắm có quy mô
vừa và lớn, được trang bị tốt sẽ chiếm ưu thế, nhất là ở các đô thị. Nhìn chung xu
hướng phát triển kinh tế tư nhân là sự tồn tại của kinh tế hộ gia đình, những
doanh nghiệp siêu nhỏ trong cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ sẽ giảm
dần, các đơn vị kinh tế tư nhân có quy mô lớn gắn với các hoạt động có tính
quốc tế hóa sẽ chiếm ưu thế do tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, sự cạnh tranh và liên kết hợp tác giữa các đơn vị kinh tế tư nhân
với nhau và với các thành phần kinh tế sẽ ngày càng gia tăng. Cạnh tranh và hợp
tác luôn đan xen và tác động lẫn nhau. Tập trung vốn là kết quả của quá trình
liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, xu hướng này
sẽ ngày một gia tăng khi hội nhập kinh tế quốc tế đẫn đến các doanh nghiệp lớn
của nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Nguy cơ phá sản trước một
cuộc cạnh tranh không cân sức là khó tránh khỏi. Vì vậy, con đường liên kết
giữa các đơn vị kinh tế tư nhân với nhau để chống đỡ sự chèn ép của các doanh
nghiệp lớn trong cùng lĩnh vực là xu hướng trong thời gian tới. Sự liên kết giữa
các nhà bán lẻ diễn ra trong thời gian qua là một ví dụ điển hình về sự hợp tác
trong kinh doanh dưới áp lực của hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự liên kết không chỉ diễn ra giữa các đơn vị kinh tế tư nhân với nhau mà
còn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và sự hợp tác diễn
ra trên nhiều mặt sản xuất – kinh doanh. Xu hướng chung của sự hợp tác này là
ngày càng nhiều đơn vị kinh tế tư nhân trở thành công ty con theo mô hình tập
đoàn kinh tế, mà công ty mẹ có thể là đơn vị kinh tế nhà nước hoặc các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ranh giới giữa các thành phần kinh tế
sẽ mờ dần, giảm dần sự khác biệt trong phương thức hoạt động. Như vậy, xu
hướng chuyển từ sở hữu đơn lẻ (doanh nghiệp tư nhân một chủ) sang sở hữu
nhiều chủ ngày càng nhiều.
72
Thứ tư, kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển nhanh, có tỷ trọng ngày càng lớn
và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Khi có môi trường thể
chế phù hợp, được thừa nhận, cổ vũ và hơn hết là được đặt đúng vị trí, kinh tế tư
nhân sẽ có tốc độ phát triển nhanh về số lượng, hiệu quả kinh doanh cao, tận
dụng được các nguồn lực và khả năng huy động vốn ngày càng được cải thiện.
Cho tới nay, Việt Nam mới đạt được tỷ lệ 5 doanh nghiệp/1.000 người dân.
Trong khi đó, con số này của Đài Loan từ năm 1999 đã là 49/1.000 dân, Nhật
Bản là 40/1.000 dân.
Nhân tố chính thúc đẩy tăng nhanh số doanh nghiệp Việt Nam trong
những năm tới là khu vực kinh tế tư nhân. Kể từ khi áp dụng doanh nghiệp 1999,
khu vực tư nhân luôn được duy trì tốc độ tăng trưởng trên 18%/ năm, đóng góp
bình quân hơn 6000 tỷ đồng tiền thuế, chiếm khoảng 14,8% tổng thu ngân sách
nhà nước. Tính đến 31/12/2008, cả nước đã có 330.800 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh, gấp 6 lần tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập trong 10 năm của
giai đoạn 1991 – 1999, với số doanh nghiệp đăng ký mới trung bình hàng năm
tăng 6 lần. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng lớn trong nền kinh tế
là xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này
phản ánh: khu vực tư nhân xứng đáng được xem là động lực chính thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế của nước ta.
Thứ năm, sự chuyển đổi lĩnh vực kinh doanh phù hợp với những biến đổi
của thị trường đồng thời kết hợp kinh doanh theo hướng đa ngành sẽ ngày càng
phổ biến. Dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân sẽ chịu
sự “điều tiết” mạnh mẽ của mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Quá trình di chuyển từ
lĩnh vực kinh doanh này sang lĩnh vực kinh doanh khác để tìm kiếm lợi nhuận
cao hơn sẽ diễn ra ngày càng tăng trong khu vực tư nhân, đặc biệt là trong điều
kiện tự do hóa nền kinh tế. Ở các đơn vị kinh tế tư nhân có quy mô lớn, xu
73
hướng mở rộng kinh doanh theo hướng đa ngành không còn là cá biệt, các tập
đoàn kinh tế tư nhân sẽ hình thành và phát triển trong nhiều lĩnh vực và giữ một
vị trí đáng kể trong nền kinh tế.
Thứ sáu, tính chất quốc tế hóa trong hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày
càng đậm nét hơn. Các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân sẽ ngày càng mang
yếu tố quốc tế đậm nét hơn về định hướng sản xuất – kinh doanh, về thị trường
tiêu thụ cũng như thị trường nguyên vật liệu, về công nghệ và các yếu tố cần
thiết khác cho quá trình tái sản xuất mở rộng của bản thân doanh nghiệp. Các
hoạt động xúc tiến thương mại và những tiêu chuẩn quốc tế được các doanh
nghiệp quan tâm nhiều hơn. Những biến động của thị trường thế giới cùng những
bất ổn của nó sẽ tác động nhanh chóng và không nhỏ đến hoạt động sản xuất –
kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Thứ bảy, vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp ngày càng lớn. Một khi sự
liên kết và hợp tác ngày càng mở rộng, thì vai trò của các Hiệp hội ngành nghề
cũng sẽ quan trọng hơn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt là trong
quá trình hội nhập, thì tiếng nói của các hiệp hội sẽ là đại diện cho doanh nghiệp
trong các cuộc tranh chấp thương mại có tính quốc tế. Vì vậy, xu hướng các
doanh nghiệp khu vực tư nhân tìm đến hiệp hội để có được sự hỗ trợ về nhiều
mặt là ngày càng nhiều trong thời gian tới, điều này càng có ý nghĩa khi hầu hết
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân ở Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, khả năng
tự bảo vệ một cách riêng lẻ là không cao.
74
3.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam
hiện nay
3.4.1. Đổi mới nhận thức, hoàn thiện môi trường pháp lý đối với kinh tế tư
nhân
Việc xóa bỏ những định kiến về thành phần kinh tế nói chung và về kinh
tế tư nhân nói riêng phải trở thành khâu đột phá trong nhận thức và cơ sở pháp lý
cho sự phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới. Nhà nước cần có những giải
pháp cụ thể tích cực nhằm rút ngắn khoảng cách từ nhận thức đến thực tiễn đối
với kinh tế tư nhân. Đây cũng chính là giải pháp có tính chiến lược nhằm giải
quyết mâu thuẫn đặt ra giữa đường lối đổi mới của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân trong hội nhập với sự chậm trễ trong việc cụ thể hóa đường lối đổi mới đó.
Quá trình này đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ từ việc ban hành pháp luật
đến tuyên truyền phổ biến pháp luật và tổ chức áp dụng, thực hiện pháp luật. Để
thực hiện tốt vấn đề này, cần phải đặc biệt coi trọng nâng cao trình độ hiểu biết
và thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực
tiếp đối với kinh tế tư nhân.
Môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng và nghiêm minh sẽ tạo môi trường
kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Cho đến
nay, các quy định pháp lý vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, gây cản trở cho kinh tế
tư nhân phát triển. Do đó cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra hành
lang pháp lý thuận lợi, an toàn là một vấn đề cấp thiết nhằm phát triển kinh tế tư
nhân trong quá trình hội nhập. Trong thời gian tới cần phải:
- Tiếp tục rà soát, bãi bỏ những văn bản đã ban hành trái với Luật Doanh
nghiệp, đồng thời có biện pháp ngăn chặn những văn bản mới ban hành
trái với luật này.
75
- Xóa bỏ những văn bản cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt là
những văn bản gây bất bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần
kinh tế khác. Cần đưa ra những quy định mới, phù hợp với thực tiễn nhằm
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
- Ban hành quy chế đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhằm xóa bỏ những
thủ tục rườm rà không cần thiết.
- Các quy định về chế độ báo cáo tài chính của doanh nghiệp, về hệ thống
biểu mẫu tài chính nộp tại cơ quan đăng ký kinh doanh cần được đơn giản
hơn. Quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn về cách đặt tên doanh nghiệp, tên
chi nhánh, một mặt bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, thương hiệu doanh
nghiệp đã có, mặt khác tránh gây nhầm lẫn giữa tên doanh nghiệp với các
tổ chức khác.
Ở nước ta hiện nay đang xây dựng một nhà nước pháp quyền – xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, vai trò của các tổ chức dân sự
cần phải được nâng cao. Nên trao thêm quyền cho người dân và quyền giám sát
cho các Hiệp hội. Đây là yếu tố then chốt để có thể giảm, ngăn chặn được các
loại giấy phép vô lý đang có xu hướng bùng phát trở lại. Nếu phát huy vai trò
của các hiệp hội, Nhà nước hoàn toàn có lợi, vừa bớt chi phí cho nhiều lần
nghiên cứu và bãi bỏ, vừa bớt chi phí làm lại các luật, văn bản quy phạm pháp
luật có tuổi đời ngắn, không phù hợp như hiện nay.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới cho thấy: văn bản quy phạm pháp luật nào
được chuẩn bị tốt, có sự tham gia rộng rãi của công đồng doanh nghiệp thì văn
bản đó sẽ tồn tại lâu, có lợi cho dân, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Văn bản
nào hướng đến việc trao quyền cho doanh nghiệp, chủ thể kinh tế, khai thông các
thủ tục hành chính… thì văn bản đó sẽ có sức sống mạnh mẽ, nhận được sự ủng
hộ to lớn. Luật Doanh nghiệp 1999 là một ví dụ.
76
Bên cạnh môi trường pháp lý, việc cải thiện môi trường tâm lý cũng rất
quan trọng. Cần phải làm cho toàn xã hội có nhận thức thống nhất là: phát triển
kinh tế tư nhân là một tất yếu, ích nước lợi nhà, người lao động và chủ doanh
nghiệp ở khu vực tư nhân cũng đều đáng được trân trọng, biểu dương như những
khu vực kinh tế khác khi họ có nhiều đóng góp cho đất nước qua nộp thuế.
3.4.2. Giải quyết những khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh
đối với kinh tế tư nhân
Vấn đề cơ sở hạ tầng, trước hết là đất đai, luôn là nỗi bức xúc của các nhà
đầu tư tư nhân trong quá trình phát triển. Giải quyết những khó khăn về đất đai
và mặt bằng sản xuất – kinh doanh cần phải xếp vào hàng ưu tiên. Trong thời
gian tới, việc tháo gỡ khó khăn về đất đai cần gắn với các biện pháp:
- Phát triển thị trường bất động sản, hỗ trợ kinh tế tư nhân giải quyết khó
khăn về mặt bằng sản xuất – kinh doanh.
- Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ
tục pháp lý về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp tài sản và
góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhằm tạo điều kiện cho những giao dịch
về đất đai có hiệu quả và đúng pháp luật.
- Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở, nhằm tạo điều kiện cho quản lý Nhà nước về đất đai và khai
thông các quan hệ giao dịch chính thức trên thị trường bất động sản, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân thông qua thị trường tự tìm kiếm
mặt bằng sản xuất – kinh doanh cho mình.
- Có cơ chế thông thoáng về thủ tục quản lý cho các nhà đầu tư tư nhân
trong việc dùng giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng hoặc góp
vốn cổ phần với các đối tác trong và ngoài nước. Đơn giản hóa các thủ tục
77
hành chính trong việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp
với quy hoạch đã được duyệt.
- Mở rộng và từng bước hiện đại hóa hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm
thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu mặt bằng kinh doanh cho các doanh
nghiệp tư nhân trong việc bán buôn, bán lẻ, giới thiệu sản phẩm, ưu tiên
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê với giá cả hợp lý. Đồng thời, dần
xóa bỏ hệ thống chợ lề đường, chợ tạm, qua đó lập lại trật tự văn minh đô
thị.
3.4.3. Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng đối với kinh tế tư
nhân
Một trong những khó khăn hiện nay của kinh tế tư nhân là vốn sản xuất –
kinh doanh, nhất là vốn trung và dài hạn để đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Vì vậy, chính sách hổ trợ
về vốn cho kinh tế tư nhân có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để thúc đẩy kinh tế tư
nhân phát triển đúng hướng và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả. Trên tinh thần
đó, cần xúc tiến đổi mới một số chính sách và giải pháp về vốn để hỗ trợ kinh tế
tư nhân:
Thứ nhất, đổi mới và đẩy mạnh việc phân cấp quản lý tài chính nhà nước
- Đẩy mạnh phân cấp về quản lý kinh tế và ngân sách, tạo sự chủ động thực
sự cho các cơ quan chức năng ở địa phương, về quyền hạn và trách nhiệm
tài chính đối với kinh tế tư nhân ở địa phương. Hàng năm, Chính phủ giao
cho các tỉnh, thành phố kế hoạch tổng chi ngân sách và các nhiệm vụ chi
thường xuyên bắt buộc theo định mức, các đơn vị cấp dưới được chủ động
bố trí kế hoạch và định mức chi phù hợp với thực tiễn của mình. Đồng
thời, mỗi địa phương được tự quyết định một số nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho đầu tư phát triển, trong đó có hỗ trợ phát triển cho kinh tế tư nhân.
78
- Trên cơ sở ngân sách được phân cấp và ổn định trong từng thời kỳ, mỗi
cấp ngân sách địa phương được chủ động điều hành, tạo điều kiện tối đa
cho các đơn vị kinh tế tư nhân tích tụ vốn cho đầu tư phát triển, kích thích
các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức hỗ trợ tài chính phát triển kinh tế
tư nhân
- Chính phủ tạo điều kiện khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng, bằng cách giảm số lượng cổ đông phải có của
công ty cổ phần được tham gia thị trường chứng khoán từ 30 xuống 20 cổ
đông, để các công ty cổ phần tư nhân có cơ hội tham gia kênh huy động
vốn này. Các quy chế về BOT, BT, BTO cần chặt chẽ, rõ ràng nhằm
khuyến khích khu vực tư nhan tham gia, đồng thời tạo điều kiện hơn nữa
để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận trực tiếp cơ hội kinh doanh từ nguồn vốn
ODA.
- Công khai hóa các quy chế và tiêu chí được nhân ưu đãi, khuyến khích
đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục cấp ưu đãi đầu tư, giảm bớt các thủ tục về
đầu tư và xây dựng, đấu thầu, thủ tục cho vay, giải ngân khi vay vốn ở
Quỹ hỗ trợ phát triển.
Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng tài sản, quyền sử dụng
đất để thế chấp khi vay vốn từ các nguồn vốn tín dụng thương mại chính thức.
Một trong những khó khăn lớn của các doanh nghiệp tư nhân khi vay vốn
tín dụng là vấn đề thế chấp tài sản. Bởi vì, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thêm vào đó thủ tục cho vay đối với kinh tế tư nhân
còn nhiều thủ tục rườm rà. Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân
vay vốn cần phải:
79
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định cho phù hợp với thực tiễn như đăng ký
tài sản thế chấp, theo hướng thuận lợi, thông thoáng.
- Rà soát, bổ sung và nhanh chóng ban hành những quy định về đăng ký sở
hữu tài sản, đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở
hữu nhà và sở hữu tài sản khác cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân. Hình thành các trung tâm đăng ký bất động sản để tạo điều
kiện xác lập quyền sở hữu cho các doanh nghiệp, qua đó chống việc lạm
dụng, lừa đảo trong thế chấp (một tài sản đem đi thế chấp nhiều nơi).
- Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng nâng cao hơn nữa quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc cho vay. Đơn giản
hóa thủ tục cho vay, thực sự trao cho các tổ chức tín dụng quyền chủ động
xem xét các vấn đề như: thực tế, khả năng từng đối tượng để quyết định
việc cho vay, việc thế chấp, tín chấp, tỷ lệ cho vay so với tài sản thế chấp,
mức độ cho vay trung và dài hạn…
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân để huy động vốn
từ các nguồn trong dân cư, qua đó mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân, đặc biệt là đối với khu vực nông nghiệp
ngoại thành.
- Nâng cao vai trò của Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ cho
kinh tế tư nhân trong vay vốn ở các tổ chức tín dụng, hỗ trợ khi gặp rủi ro,
bất khả kháng không trả được nợ vay.
Thứ tư, đa dạng hóa và phối hợp sử dụng linh hoạt các nguồn vốn cho phát
triển kinh tế tư nhân.
- Các Ngân hàng Thương mại quốc doanh cần nghiên cứu, xúc tiến và tăng
cường cho các doanh nhiệp kinh tế tư nhân vay thương mại, có thế chấp
hoặc tín chấp, đối với từng dự án, từng doanh nghiệp cụ thể tùy thuộc vào
80
kết quả sản xuất – kinh doanh và tình hình nộp thuế của doanh nghiệp
những năm trước, vào năng lực của Ban Giám đốc doanh nghiệp và vào
tính khả thi của dự án xin vay.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân tiếp cận kện cấp
vốn vay ưu đãi hoặc được nhận bảo lãnh tín dụng từ nguồn vốn ưu đãi
quốc gia và tỉnh, thành phố.
- Trong xu thế hội nhập và phát triển của kinh tế tư nhân, thời gian tới cần
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tiếp cận và
tham gia thị trường chứng khoán. Một mặt, cần tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các doanh nghiệp từng bước thỏa mãn các điều kiện niêm yết trên
các sàn giao dịch chính thức, mặt khác cần tăng cường phát triển hệ thống
thông tin và đào tạo nhân lực về kinh doanh thị trường chứng khoán cho
các doanh nghiệp.
3.4.4. Hoàn thiện chính sách thuế đối với kinh tế tư nhân
Ở nước ta hiện nay, qua nhiều lần điều chỉnh và cải cách, nhưng nhìn
chung chính sách thuế của Việt Nam vẫn chưa có tác dụng tích cực thúc đẩy sản
xuất và khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân. Thậm chí còn có loại thuế kìm hãm hoạt động sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, cải cách về chính sách thuế là vấn đề cấp bách, đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới,
hiện nay trong thời gian tới cần phải:
Thứ nhất, sửa đổi và hoàn thiện chính sách thuế, tăng cường thông tin,
tuyên truyền chính sách thuế cho doanh nghiệp.
- Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp, chủ thể
81
kinh tế và những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Đối với thuế giá trị gia tăng, cần sửa đổi theo hướng đơn giản về phương
pháp tính thuế, giảm bớt số thuế suất, thu hẹp đối tượng không chịu thuế,
phòng tránh lạm dụng trong công tác quản lý thuế.
- Bỏ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung để khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân làm ăn có lãi và tăng cường tích lũy mở rộng đầu tư sản
xuất – kinh doanh. Đồng thời nghiên cứu miễn thuế cho các doanh nghiệp
khi dùng phần thu nhập vào việc đóng góp xây dựng các quỹ xã hội, giúp
đỡ các tổ chức xã hội từ thiện.
- Một số khoản chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế cần được
xem lại cho phù hợp với điều kiện thực tế, trên cơ sở tạo điều kiện cho
doanh nghiệp sản – kinh doanh (hiện nay, tài sản cố định có tham gia vào
sản xuất – kinh doanh nhưng ko có hóa đơn hợp pháp thì không được tính
khấu hao), chi phí tiếp khách, khuyến mại, quảng cáo… cần mở rộng cho
tính vào chi phí với tỷ lệ cao hơn hiện nay, nhằm giúp cho các doanh
nghiệp tư nhân có thêm cơ hội tăng quảng bá sản phẩm, tránh những thua
thiệt so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về thuế cho các
doanh nghiệp, các chủ thê kinh tế trên phương tiện thông tin đại chúng;
lập bộ phận hỗ trợ, tuyên truyền về thuế ở các địa phương, trực tiếp đối
thoại với đối tượng nộp thuế nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng
mắc về công tác thuế.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý đối tượng nộp thuế.
82
Thực hiện phân cấp quản lý theo hướng ủy nhiệm thu cho các phường, xã
đối với các hộ kinh doanh nhỏ nhằm nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong việc quản lý đối tượng nộp thuế. Thực hiện tốt việc phân cấp,
ngành thuế sẽ giảm được đầu mối để tập trung thời gian vào quản lý và kiểm tra
các cơ sở kinh doanh lớn.
Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý thuế
Chính sách thuế dù có tốt đến mức nào, nếu không chú ý nâng cao trình độ
chuyên môn, đạo đức của các ban quản lý thuế, đặc biệt là bộ phân trực tiếp quản
lý thuế đối với các doanh nghiệp thì chính sách thuế không thể hoàn thành vai
trò của nó, vì vậy cần phải:
- Bố trí, sắp xếp lại cán bộ nhằm quản lý sâu sát và gắn trách nhiệm với
công việc được giao. Thực hiện luân chuyển địa bàn quản lý giữa các
nhóm và cán bộ, tiến tới xóa bỏ cán bộ chuyên quản.
- Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn và
tiêu chuẩn đạo đức cho đội ngũ cán bộ thuế, nhằm giúp cho cán bộ quản lý
thuế các doanh nghiệp nắm vững chế độ, chính sách, biết cách giải thích
và thuyết phục đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành nộp thuế.
3.4.5. Tăng cường công tác hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại đối với
kinh tế tư nhân
Nhìn chung chất lượng những thông tin thu thập được của kinh tế tư nhân
là chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập, đặc biệt là những thông tin
về thị trường. Bản thân từng doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn trong việc giải
quyết vấn đề này. Để giúp cho kinh tế tư nhân nâng cao chất lượng nguồn thông
tin và xúc tiến thương mại một cách hiệu quả, chúng ta cần thực hiện một số giải
pháp sau:
83
Thứ nhất, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận thông tin và đẩy mạnh
cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp và hình
thức đa dạng. Có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông
tin trong quá trình thu thập thông tin thị trường bằng biện pháp giảm cước truy
cập Internet, cước điện thoại, xây dựng thị trường bưu chính viễn thông mang
tính cạnh tranh, thực hiện chương trình chính phủ điện tử một cách có hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường hỗ trợ, giúp đõ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp
từ phía chính quyền các cấp. Để hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng hiệu
quả hơn, bên cạnh việc các doanh nghiệp phải ngày càng hoàn thiện mình, rất
cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trên các mặt sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo môi trường thông thoáng cho hoạt
động xúc tiến thương mại, tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động
xúc tiến thương mại giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tăng cường công tác phổ biến pháp luật và đẩy mạnh hoạt động giám sát,
kiểm tra, thanh tra các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tránh tình
trạng chồng chéo trong quản lý hoặc buông lỏng quản lý hoạt động xúc
tiến thương mại.
- Phối hợp hoạt động giữa các tổ chức xúc tiến thương mại ở các địa
phương cũng như trong cả nước nhằm phát huy tối đa sự hỗ trợ cho doanh
nghiệp, trên cở sở các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ như:
các Viện nghiên cứu, Trung tâm tư vấn, Sở thương mại, các cơ sở kinh
doanh dịch vụ của các thành phần kinh tế, các Hiệp hội ngành nghề trên
địa bàn.
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi các chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoạt động
xúc tiến thương mại theo hướng đơn giản hóa.
84
3.4.6. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế
Để khu vực kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ngoài
những nỗ lực bản thân của từng doanh nghiệp thì vai trò của Chính phủ là hết
sức quan trọng. Nhà nước, với những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, sẽ tác động
vào tiến trình hội nhập một cách nhanh chóng mà không phải doanh nghiệp nào
cũng thực hiện được. Vì vậy, những chính sách và cam kết của chính phủ có tính
đa phương hoặc song phương sẽ có tác động trực tiếp đối với doanh nghiệp trong
quá trình hội nhập.
Thứ nhất, xây dựng chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư ra nước
ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế suy cho cùng là quá trình mỗi quốc gia ngày càng
tạo điều kiện tự do hóa và hỗ trợ thuận lợi nhất cho những hoạt động của các
dòng vốn, hàng hóa, dịch vụ và lao động qua biên giới nước mình theo hai chiều:
chiều vào và chiều ra. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đánh giá sự chủ động hội nhập
của một quốc gia chính là chiều ra, thể hiện ở xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài.
Ở Việt Nam, hiện nay vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp trong đó có các
doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đầu tư kinh doanh ở nước ngoài vẫn còn
chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc xác định đúng các lĩnh vực, nội
dung, yêu cần hỗ trợ từ phía Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết cần tập trung vào các giải
pháp sau:
- Xây dựng hành lang pháp lý trong nước và quốc tế nhằm mở đường và
định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn và thuận
lợi. Cụ thể là các thỏa thuận có tính quốc tế giữa Việt Nam và các nước về
vấn đề đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động qua biên giới, các
hiệp định kinh tế, thương mại song phương.
85
- Không ngừng củng cố, tằng cường năng lực các cơ cấu tổ chức hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, cần có những bộ phận cơ cấu
mang tính liên ngành và chuyên ngành với đội ngũ cán bộ có chức năng
chuyên trách, đủ trình độ và trách nhiệm cao, để đề xuất những văn bản
pháp quy liên quan trực tiếp đến các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các
đại sứ quán, lãnh sự quán, phòng thường vụ Việt Nam ở nước ngoài phải
tích cực hỗ trợ các hoạt động này.
Các Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam cần có những chi nhánh
văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng đồng
doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, cần cho ra đời các Công ty đầu tư
tài chính quốc tế thích hợp, có chức năng huy động vốn đầu tư trong và ngoài
nước để thực hiện đầu tư tài chính quốc tế, nhằm đa dạng hóa các công cụ đầu tư
ra nước ngoài của doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các Hiệp hội doanh nghiệp Việt
Nam ở những nước có doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, chủ động tham gia và tích
cực hoạt động trong các tổ chức Hiệp hội ngành hàng khu vực và quốc tế.
- Mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Dịch vụ hàng đầu cần sự hỗ
trợ là cung cấp thông tin bao gồm thông tin thị trường, thông tin đối tác,
thông tin về môi trường đầu tư (các quy định về pháp lý, thủ tục xuất –
nhập khẩu, các yêu cầu và giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm,
các đặc điểm văn hóa, thị hiếu tiêu dùng…).
Thứ hai, thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xúc tiến thương mại.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và nỗ lực đẩy mạnh
xuất khẩu, tìm kiếm, mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nói riêng, các
doanh nghiệp của tư nhân cần phải nắm được những vấn đề cơ bản của xúc tiến
86
thương mại quốc tế. Hoạt động xúc tiến thương mại nói chung là công việc còn
khá mới mẻ ở Việt Nam, kinh nghiệm hoạt động còn ít. Vì vậy, cần chủ động
hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại lớn trên thế giới như ITC, nhóm đặc
trách về xúc tiến thương mại của APEC, tổ chúc xúc tiến thương mại của Nhật
Bản (JETRO), của Đài Loan (CETRA)… nhằm học tập những kinh nghiệm.
Thứ ba, tăng cường hỗ trợ bảo hộ sở hữu công nghiệp trên thị trường thế
giới. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thiết lập quyền sở hữu công nghiệp
của mình trên thị trường nội địa và bước ra thương trường thế giới với mức độ
cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, cần phải chú ý một số giải pháp:
- Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập quyền
sở hữu công nghiệp. Trong các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giải pháp
hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nhấn
mạnh, vì quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản của doanh nghiệp.
Vì vậy, bản thân doanh nghiệp phải chủ động thực hiện mọi biện pháp để
bảo vệ quyền của mình. Nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp
lý thích hợp để các chủ thể kinh tế bảo vệ được quyền của mình. Giải pháp
hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không
phải là giải pháp có hiệu quả. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng
ký xác lâp quyền sở hữu công nghiệp, có một cách tiếp cận có hiệu quả
đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó chỉ
là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất
lớn khi mua sản phẩm của Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng. Như
vậy, nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập quyền sở hữu
công nghiệp ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu. Giải pháp
87
này đặc biệt phù hợp với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là chỉ dẫn địa
lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa.
- Hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ
hàng hóa. Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản
truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà
phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh…). Nhiều đặc sản được người tiêu
dùng ưa chuộng đã bị làm giả ở mức độ khác nhau (như nhãn hiệu mắm
Phú Quốc của Việt Nam đã bị đăng ký quyền sở hữu công nghiệp trước
bởi một doanh nghiệp ở Thái Lan). Vì vậy các doanh nghiệp phải nhận
thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản
phẩm.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có
đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả
năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng
minh các điều kiện bảo hộ lại rất tốn kém, trong khi cộng đồng doanh nghiệp
chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy,
họ cần được hổ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần
thiết phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của địa phương.
3.4.7. Phát huy nội lực của kinh tế tư nhân
Bên cạnh những giải pháp từ phía nhà nước, bản thân kinh tế tư nhân cũng
phải tự nỗ lực đổi mới và hoàn thiện mình cho phù hợp với phát triển và hội
nhập. Trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp phải ra sức nâng cao năng lực
cạnh tranh, tức là đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Vì vậy,
các giải pháp từ phía doanh nghiệp cần phải gắn với thị trường, phải không
ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, xây dựng thương
88
hiệu, chiến lược kinh doanh phù hợp… Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh từ phía kinh tế tư nhân là:
Thứ nhất, xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược kinh doanh hợp lý là một trong những
vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp. Điều này đặt ra cho doanh nghiệp
nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược của mình, bao gồm chiến lược sản phẩm,
chiến lược phát triển thị trường, chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tiên cần phải quan tâm đến việc đánh giá năng lực sản phẩm, đó là cơ
sở để đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh của từng
sản phẩm trong điều kiện cạnh tranh quốc tế, khi Việt Nam đã là thành viên của
WTO. Bước tiếp theo là đầu tư nghiên cứu thị trường, bao gồm lượng cầu, thị
hiếu, mẫu mã, quy cách, quy định về tiêu thụ hàng hóa ở các vùng, các nước
khác nhau. Trên cơ sở đó, định hướng lại chiến lược sản phẩm, đồng thời cần kết
hợp giữa tính đặc thù của sản phẩm với tính phổ thông, lựa chọn giữa xu hướng
chuyên biệt hóa và đa dạng hóa sản phẩm trong từng giai đoạn. Kế tiếp là tìm
các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đổi mới công nghệ, nâng
cao chất lượng nguyên liệu.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao trình độ thiết bị, công nghệ. Cơ sở để nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm chính là thiết bị công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn về vốn
nên cần tính toán sử dụng công nghệ nào, thiết bị gì cho phù hợp. Muốn vậy,
doanh nghiệp cần phải nắm bắt những thông tin về công nghệ, tiếp cận thị trường
khoa học – công nghệ, đẩy mạnh liên kết hợp tác về khoa học – công nghệ.
Doanh nghiệp cần chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ
vào sản xuất, có chương trình khuyến khích các hoạt động cải tiến, hợp lý hóa
sản xuất, sáng chế và thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học có liên quan.
89
Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Trong những năm
qua, khu vực tư nhân nhìn chung chưa chú trọng đến nguồn nhân lực, bao gồm
đội ngũ lao động và quản lý doanh nghiệp, mặc dù đây được coi là yếu tồ quyết
định tới thành công của doanh nghiệp. Để nâng cao trình độ nguồn nhân lực,
biện pháp chủ yếu vẫn là tăng cường đào tạo và đào tạo lại dưới nhiều hình thức
khác nhau như theo học các chương trình chính khóa, đào tạo vừa học vừa làm,
huấn luyện trực tiếp tại doanh nghiệp, tổ chức các chương trình giao lưu, học tập
với các chuyên gia hay giữa nhân viên trong doanh nghiệp…
Thứ tư, xây dựng chiến lược về sở hữu công nghiệp trong bối cảnh Việt
Nam đã là thành viên của WTO. Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo
hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ sở hữu công nghiệp
thường phải gắn chặt cới chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có
chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược sở hữu công nghiệp của
doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau. Xác định các đối tượng sở
hữu công nghiệp chủ yếu của doanh nghiệp. Xác định cách thức tạo dựng
(nguồn) của khối tài sản sở hữu công nghiệp. Xác định lành thổ cần bảo hội đối
với từng đối tượng sở hữu công nghiệp và cuối cùng là xác định bộ máy quản lý
quyền sở hữu công nghiệp trong doanh nghiệp.
Thứ năm, nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức doanh nghiệp phù hợp đặc
biệt là theo yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp thuộc
kinh tế tư nhân và ở các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện điểm xuất phát
còn thấp, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đủ khả năng
chống chọi lại với những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế. Vì vậy,
muốn nâng cao khả năng cạnh tranh phải tăng cường các mối liên kết kinh tế. Để
90
liên kết tốt cần phải tập hợp lại trong một tổ chức kinh doanh mạnh, ví dụ như
các tập đoàn kinh tế, hoặc trong một Hiệp hội ngành hàng hay Hiệp hội theo
vùng lãnh thổ để phối hợp hoạt động.
Để mở rộng các mối liên kết kinh tế, các doanh nghiệp khu vực tư nhân
cần phải chủ động tham gia hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế khác. Kinh nghiệm cho thấy
giữa các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể có mối quan
hệ cộng sinh chứ không phải chỉ có cạnh tranh để tiêu diệt nhau. Doanh nghiệp
nhỏ có thể làm thầu phụ cho doanh nghiệp lớn, còn doanh nghiệp lớn có thể giúp
doanh nghiệp nhỏ trong hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ
vốn để mở rộng kinh doanh và đổi mới trang thiết bị, cung cấp thông tin về thị
trường và tiến bộ kỹ thuật, đào tạo nhân sự có trình độ cao. Việc liên kết giữa
các doanh nghiệp sẽ nâng cao sức cạnh trạnh của tất cả các doanh nghiệp và
cũng làm gia tăng cơ hội tồn tại và thành công cho mỗi doanh nghiệp.
Thứ bảy, chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân.
Nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong thời gian qua vẫn chưa ý
thức được tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Sức cạnh
tranh của một doanh nghiệp có thể được nâng cao khi doanh nghiệp đó tạo được
một môi trường văn hóa tích cực, lành mạnh đặc biệt là trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Văn hóa doanh nghiệp luôn gắn với thương hiệu và uy tín doanh nghiệp,
xây dựng văn hóa doanh nghiệp là xây dựng doanh nghiệp như một gia đình thứ
hai của mỗi thành viên, phải có tinh thần đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau
bằng tinh thần cộng tác và tinh thần đồng đội, vì vậy những nhận thức về quan
hệ cá nhân giữa chủ và thợ rất cần được chú ý.
91
KẾT LUẬN
Hơn 20 năm thực hiện đổi mới và phát triển, chúng ta không thể không
công nhận rằng sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân đã mang lại cho nền
kinh tế nước ta những bước phát triển đáng ngạc nhiên. Kinh tế tư nhân giờ đây
không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế mà còn trở thàn một lực
lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu.
Đảng và Nhà nước ta đã thấy được vai trò đó của khu vực kinh tế tư nhân
thể hiện trong đường lối và những chính sách đó là bước đầu đã tạo ra điều kiện,
môi trường cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam tuy có bước phát triển trong những
năm đổi mới nhưng vẫn chưa phát triển đúng mức và còn nhiều hạn chế. Để phát
huy được vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa môi trường thể chế cho sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI. VII, VIII, IX) về phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội.
3. TS Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Kornai Janos (2002), Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, NXB Văn
hóa thông tin.
5. GS. TS. Lê Hữu Nghĩa – TS. Đinh Văn Ân (2004), Phát triển kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội.
6. TS Nguyễn Hữu Phong (2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
7. TS Hoàng An Quốc (2007), Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một
số nền kinh tế Đông Á và những bài học với Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
8. Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới
– thực trạng và những vấn đề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam –
thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
10. Vũ Quốc Tuấn (2006), Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
93
11. GS. TS. Nguyễn Thanh Tuyền (2006), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
12. Viện thông tin khoa học xã hội (2003), Kinh tế tư nhân trong giai đoạn
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. GS. TS. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
2. WEBSITE
1. Tổng cục Thống Kê:
2. Tạp chí Cộng sản:
3. Thông tin pháp luật dân sự:
4. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương:
5. Diễn đàn doanh nghiệp:
6. Báo điện tử Vietnamnet:
7. Báo điện tử vnexpress:
8. Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam:
9. Tin Kinh tế:
10. Báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
11. Doanh nhân 360:
12. Diễn đàn Cao học Kinh tế Việt Nam:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5249_5591.pdf