Thế kỷ XXI là thế kỷ mang đến nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt
Nam có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi với bên ngoài, tạo đà cho kinh tế Việt
Nam tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế
giới WTO và mở cửa nền kinh tế đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với
sự cạnh tranh gay gắt đến từ các doanh nghiệp nước ngoài, thêm vào đó là sự mở
rộng giao lưu kinh tế, văn hóa,. và xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng đã tạo
điều kiện du nhập các nền văn hóa khác nhau với các phong cách kinh doanh, tiêu
dùng, sinh hoạt,. khác nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm
quan trọng của văn hóa trong hoạt động kinh doanh cũng ngày càng được khẳng
định vững chắc hơn
106 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của văn hóa nước ngoài tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam và hướng tiếp thu các giá trị văn hóa quốc tế kết hợp với các giá trị truyền thống để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng đối thấp. Người Nhật mang nặng tính chất trình
tự và đối với họ, cách điều hành công việc thường quan trọng hơn kết quả.
Nhật Bản quan niệm về kinh doanh rất tiến bộ, với các triết lý kinh doanh nổi
tiếng như: “tinh thần Nhật Bản, kỹ thuật phương Tây”, “kinh doanh là để phục vụ
dân tộc”, “vượt qua lợi nhuận để đạt tới giá trị”. Chính những tư tưởng đổi mới này
đã đưa nước Nhật thoát khỏi tình trạng lạc hậu chung của các quốc gia châu Á, trở
thành cường quốc kinh tế như hiện nay.
Người Nhật coi doanh nghiệp như một gia đình, trong đó lãnh đạo công ty
được coi là đại diện gia trưởng. Vì vậy, công nhân phải có nghĩa vụ trung thành, tôn
kính và duy trì mối quan hệ đó với công ty. Đặc điểm này có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến mọi hoạt động kinh doanh của Nhật. Tất cả mọi thành viên đều coi doanh
nghiệp như gia đình thứ hai của mình, sống vì nó, tự hào vì nó.
Người Nhật luôn đề cao tinh thần trách nhiệm đối với doanh nghiệp: khi bắt
đầu bước chân vào một công ty nào đó, người công nhân luôn được huấn luyện cho
thấm nhuần tinh thần của công ty. Nội dung giáo dục thường nhấn mạnh tinh thần
trách nhiệm với công ty, sau đó là mục đích kinh doanh của công ty không chỉ
nhằm vào lợi nhuận, mà còn vì một lý tưởng nào đó. Chẳng hạn như công ty
Mitsushita, hàng ngày các nhân viên đều cùng nhau đọc lời huấn thị của công ty
“chúng tôi xin thề thực hiện chức trách của người công nhân viên chức. Nỗ lực cải
thiện sinh hoạt xã hội. Cống hiến hết sức mình cho sự phát triển văn hóa thế giới.”
Cách giáo dục này có vẻ máy móc, không phù hợp với phong cách phương Tây
nhưng lại tỏ ra có hiệu quả tại Nhật.
Người lao động được khuyến khích tham gia vào việc quản lý, mà phổ biến
nhất là chế độ quyết định Ringi. Khi công ty có vấn đề nảy sinh ở một phòng ban
nào đó, người lãnh đạo nơi đó sẽ soạn thảo một văn kiện gọi là Ringosho trong đó
phải trình bày rõ vấn đề và ý kiến của mình rồi chuyển tới những người có liên quan
để xin ý kiến của tất cả mọi người. Sau đó ông chủ tịch sẽ là người thông qua và
đóng con dấu của mình rồi chuyển cho người dự thảo ban đầu để thực hiện. Việc ra
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
78
quyết định tập thể theo kiểu này, mặc dù tiến triển chậm xong lại đề cao và phát huy
được tinh thần trách nhiệm của người lao động.
1.3 Tiếp thu giá trị văn hóa Nhật vào hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam
Mặc dù người Nhật đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ về mặt kinh tế, vươn
lên trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới nhưng sẽ là sai lầm nếu coi văn hóa
kinh doanh Nhật chỉ toàn mặt tích cực. Bản thân người Nhật cũng gặp nhiều khó
khăn khi hòa nhập với môi trường bên ngoài. Chế độ làm việc suốt đời, đãi ngộ theo
thâm niên không khuyến khích tính cạnh tranh của người lao động, tỏ ra thiếu tính
năng động và tinh thần kinh doanh. Những số liệu thống kê thời gian gần đây cho
thấy xu hướng trung thành với một doanh nghiệp đang giảm dần trong người lao
động Nhật Bản, nhất là trong giới trẻ. Việc ra quyết định tập thể kiểu ringi nhiều khi
quá chậm chạp, mất nhiều thời gian một cách vô ích. Sự tế nhị, kín đáo quá mức
của người Nhật có thể bị coi là thiếu trung thực... Chính vì vậy, trong thời gian gần
đây, các nhà quản lý Nhật Bản đã phát động cải tiến văn hóa kinh doanh của doanh
nghiệp cho phù hợp, linh hoạt hơn trong việc sử dụng lao động, khuyến khích sáng
tạo cá nhân,... và đặc biệt là cơ chế quản lý chất lượng theo hệ thống Kaizen.
Kaizen trong tiếng Nhật có nghĩa là cải tiến, cải thiện, và đã được nâng lên thành
triết lý kinh doanh của giới doanh nhân Nhật. Triết lý Kaizen cho rằng, lối sống của
con người, dù là đời sống lao động, đời sống xã hội hay gia đình, đều cần được
người Nhật cải thiện liên tục cho phù hợp với tình hình mới. Điều này thể hiện sự
cố gắng của người Nhật trong việc xây dựng và đổi mới văn hóa kinh doanh của
mình. Đây thực sự là điều bổ ích, có thể coi là những kinh nghiệm quý báu cho Việt
Nam khi xây dựng văn hóa kinh doanh.
2. Văn hóa trong kinh doanh của Hoa Kỳ
2.1 Những nét cơ bản về văn hóa Hoa Kỳ
Hoa Kỳ có một nền văn hóa đa dạng. Nước Mỹ là điểm đến của nhiều chủng
tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa. Nước Mỹ đã tiếp nhận và dung hòa các nền
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
79
văn hóa này từ những người nhập cư, làm nên điểm chính của văn hóa hợp chủng
quốc, sự nhào trộn các yếu tố văn hóa khác nhau từ khắp mọi nơi trên thế giới, trở
thành một tập hợp có vận động giữa những yếu tố đó. Do đó, văn hóa Hoa Kỳ luôn
phát triển hết sức đa dạng và sống động.
Chủ nghĩa thực dụng là triết lý kinh doanh tiêu biểu tại Mỹ, có ảnh hưởng
xuyên suốt đến mọi hoạt động văn hóa và lối sống Mỹ. Tiêu chuẩn của chủ nghĩa
thực dụng là sự thành công, mục tiêu là đạt được lợi ích, vì vậy mọi thứ khác, kể cả
sức khỏe, thời gian, tài năng,... đều được quy về tiền bạc hoặc vật chất. Chủ nghĩa
thực dụng coi thường những tư tưởng, lý luận có trước, chỉ coi trọng trải nghiệm
thực tế.
Văn hóa Mỹ nhấn mạnh đến tự do cá nhân. Nguyên tắc của đất nước này là đề
cao tự do cá nhân, mỗi con người đều được quyền đi theo con đường riêng của
mình. Điều này bắt nguồn từ lịch sử hình thành nước Mỹ, khi những người châu Âu
đầu tiên đến khai phá châu Mỹ thường là những người nghèo, không thành đạt,
hoặc bị xua đuổi ở quê hương, nhưng họ đã làm nên sản nghiệp trên đất Mỹ. Lòng
dũng cảm, tự tin, thích phiêu lưu, tinh thần dám nghĩ dám làm,... là những đức tính
được coi trọng hàng đầu ở Mỹ.
Văn hóa Mỹ mang nặng tính năng động cao. Người Mỹ luôn hướng tới tương
lai và tin tưởng vào tương lai. Họ tin có thể thay đổi số phận bằng lý trí và sức
mạnh của mình. Chính sức sống và niềm lạc quan đã giúp người Mỹ không ngừng
có những phát kiến mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ để giữ vững địa vị
độc tôn trên trường quốc tế. Đây thực sự là nền văn hóa sống động, không cứng
nhắc, và luôn thay đổi như chính đặc trưng của con người và sự phát triển nền kinh
tế Mỹ.
2.2 Đặc điểm tiêu biểu của văn hóa trong hoạt động kinh doanh của Hoa Kỳ
Khát vọng làm giàu là đặc trưng cơ bản đầu tiên của văn hóa kinh doanh Mỹ.
Người Mỹ luôn coi trọng hoạt động kinh doanh và không giấu diếm khát vọng làm
giàu. Họ cho rằng việc làm giàu không chỉ là cần thiết, vì người giàu đã tạo nên của
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
80
cải vật chất cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho người nghèo, mà còn là ước mơ,
niềm đam mê của con người. Trên thực tế, khát vọng làm giàu đã trở thành niềm
đam mê của cả dân tộc Mỹ. Mọi chính sách pháp luật và thể chế của xã hội Mỹ đều
cổ vũ và khuyến khích các hoạt động kinh doanh và làm giàu của công dân, của các
doanh nghiệp Mỹ.
Văn hóa kinh doanh Mỹ lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá thành
tích. Thiết lập quan hệ cá nhân trong kinh doanh với người Mỹ không thực sự cần
thiết. Điều quan trọng là phải chứng minh được tính hiệu quả trong các giao dịch.
Văn hóa kinh doanh Mỹ mang tính cạnh tranh cao. Đa phần dân Mỹ có xu
hướng hướng ngoại, xông xáo và năng nổ trong các quan hệ cá nhân. Cá tính này,
cộng với sự sùng bái thành công và tính thực dụng đã làm cho người Mỹ có tính
cạnh tranh cao trong mọi công việc, nhất là trong kinh doanh. Chính vì vậy, khi
giao dịch, người Mỹ ưa thích sự thẳng thắn, họ thường bộc lộ thái độ đòi hỏi quyền
lợi một cách công khai. Họ luôn muốn thúc đẩy cuộc thương lượng đi đến kết thúc
nhanh chóng nhất. Rất tự tin và phô trương, thương nhân Mỹ thường tìm cách ép
buộc đối tác chấp nhận điều họ đề nghị.
Văn hóa kinh doanh Mỹ coi trọng thời gian. Sự coi trọng này thể hiện ở hai
khía cạnh: tốc độ làm việc và tính đúng hẹn của người Mỹ. Do sự cạnh tranh gay
gắt trên thị trường Mỹ, người nào nhanh hơn sẽ chiến thắng, nên tốc độ công việc là
hết sức quan trọng để đảm bảo cho thành công. Nhiều người nước ngoài cho rằng,
người Mỹ sống để làm việc, chứ không phải làm việc để sống. Sự quý trọng thời
gian này làm người Mỹ rất coi trọng việc đúng hẹn.
Văn hóa kinh doanh Mỹ có tính năng động cao. Sự cạnh tranh gay gắt, tính coi
trọng thời gian và hiệu quả đã làm cho kinh doanh ở Mỹ trở nên năng động vào bậc
nhất trên thế giới. Đây là đất nước nhạy bén nhất trong việc áp dụng công nghệ mới
vào kinh doanh. Nước Mỹ đứng đầu trong việc nghiên cứu, phát minh ra các công
nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, nhưng ngay khi có
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
81
công nghệ mới hơn xuất hiện, họ sẵn sàng thay thế nó để theo kịp thời đại. Sự năng
động này còn thể hiện cả trong quản lý.
Văn hóa Mỹ không câu nệ nghi thức. Điều dễ nhận thấy đầu tiên trong phong
cách giao tiếp của người Mỹ là sự cởi mở, thân thiện. Người Mỹ coi trọng sự thoải
mái trong giao tiếp. Người Mỹ thường trình bày vấn đề ngắn gọn, không vòng vo.
Họ không ngại từ chối thẳng, nếu như điều đó là cần thiết.
2.3 Tiếp thu giá trị văn hóa Mỹ vào hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam
Mặc dù có được những thành công to lớn trong kinh doanh, nhưng thời gian
gần đây nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng thừa nhận những mặt trái trong văn hóa
kinh doanh của mình. Tính cá nhân cao tuy khuyến khích được nhân tài, làm tăng
tính năng động trong kinh doanh, nhưng lại giảm bớt khả năng hợp tác và nguy cơ
làm tăng chi phí kinh doanh. Người Mỹ nhấn mạnh đến sự bình đẳng nhưng thực
chất, khoảng cách trong thu nhập giữa lãnh đạo và nhân viên trong các công ty của
Mỹ thường lớn nhất trên thế giới và có xu hướng ngày càng gia tăng. Mức thu nhập
quá cao của các cấp quản lý trong khi nền kinh tế Mỹ đang gặp khó khăn đã dẫn đến
sự bất bình đẳng giữa những người lao động ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến tính
đoàn kết trong nội bộ công ty và làm giảm hiệu quả kinh doanh. Tính coi trọng thời
gian cũng giúp người Mỹ tăng tốc độ phát triển, nhưng cũng làm họ bỏ qua nhiều
cơ hội kinh doanh do quá vội vã. Ngoài ra, việc quá coi trọng tiền bạc và của cải vật
chất dẫn đến nhiều vấn đề nảy sinh trong xã hội như sự gia tăng số người bị stress,
khủng hoảng lòng tin, gia tăng tệ nạn xã hội... Vì vậy, nhiều doanh nghiệp Mỹ
chuyển sang học hỏi phương pháp quản lý kinh doanh của Nhật Bản để khắc phục
những khiếm khuyết trong hệ thống triết lý kinh doanh Mỹ.
3. Văn hóa trong kinh doanh của Trung Quốc
3.1 Những nét cơ bản về văn hóa Trung Quốc
Lịch sử Trung Quốc được biết đến từ thời Ngũ Đế, khoảng giữa những năm
2852 đến 2205 trước công nguyên. Tuy nhiên theo truyền thuyết thì người đầu tiên
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
82
thống trị Trung Hoa cổ đại từ thế kỷ XXXIV trước Công nguyên là Phục Hy.
Tương truyền Phục Hy là người khởi xướng bộ Kinh dịch, đưa ra thuyết rằng vũ trụ
phụ thuộc vào sự thay đổi của âm và dương. Theo thuyết này, lịch sử luôn quay
vòng: qua thời loạn lạc rồi đến thời thái bình rồi lại cứ tiếp tục như vậy. Thuyết âm
dương ảnh hưởng khá lớn đến hệ tư tưởng của người Trung Hoa.
Nền văn hóa ở các vùng của Trung Quốc rất khác nhau. Cũng giống như các
nước đa sắc tộc khác, Trung Quốc có sự phức tạp về các định kiến sắc tộc, mâu
thuẫn giữa các nhóm sắc tộc với nhau. Giữa các nhóm sắc tộc và các vùng khác
nhau ở Trung Quốc có sự khác biệt lớn về đặc điểm tự nhiên, ngôn ngữ, phong tục
tập quán và văn hóa.
Văn hóa Trung Quốc gắn bó mật thiết với Phật giáo và hai đạo lớn là Nho giáo
và Lão giáo. Phần lớn người Trung Quốc hòa lẫn các tín ngưỡng và các tập tục tôn
giáo của họ làm một. Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống, đặc biệt là
trong vai trò và trách nhiệm gia đình, gắn chặt mối liên hệ với họ hàng, tôn trọng
các bậc tiền bối và thờ phụng tổ tiên.
Người Trung Quốc rất tin vào phong thủy. Quan niệm này dựa trên tư tưởng
rằng con người và thiên nhiên phải tồn tại trong sự hòa hợp với nhau. Có mối quan
hệ gần gũi với thuyết âm dương, phong thủy là một trường phái học thuyết về thiên
nhiên và văn hóa. Người Trung Quốc hỏi ý kiến thầy xem phong thủy trước khi xây
bất kỳ cái gì mới để đảm bảo chắc chắn đó là chỗ đất tốt.
Văn hóa Trung Quốc rất tôn trọng gia đình. Đối với người Trung Quốc, gia
đình của họ, bao gồm cả họ hàng và bạn bè là trung tâm của tất cả. Người Trung
Quốc luôn luôn đề cao con cái họ, chúng là niềm tự hào của cha mẹ và là trung tâm
của sự chú ý. Các quan niệm Nho giáo vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến các mối quan hệ
của các thành viên trong gia đình. Người Trung Quốc chỉ quan tâm đến những
người trong gia đình mình và tổ ấm của mình, tất cả những thứ khác đối với họ đều
không có ý nghĩa. Ví dụ, người Trung Quốc giữ cho nhà cửa của họ sạch sẽ tinh
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
83
tươm trong khi họ không chút nghĩ ngợi khi vứt rác ở trên đường phố hay những
nơi công cộng.
Cũng do ảnh hưởng của Nho giáo, nền văn hóa Trung Quốc đề cao những sự
thành đạt cá nhân bằng con đường học vấn. Người Trung Quốc tin vào định mệnh
và may rủi. Lịch sử phát triển của Trung Hoa là một quá trình biến động đầy bất
trắc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, người Trung Hoa thấu hiểu sự nhỏ bé, vô
nghĩa của kiếp người. Do vậy, họ có xu hướng tin vào định mệnh và may rủi. Tư
tưởng này giúp họ có được sự bình tĩnh, lạc quan để đương đầu với những thất bại
trong cuộc sống.
3.2 Đặc điểm tiêu biểu của văn trong hoạt động kinh doanh của Trung Quốc
Người Trung Quốc rất coi trọng người có chức vị. Cũng như hầu hết các
nước châu Á, những người cao cấp của một tổ chức hay cơ quan sẽ được giới thiệu
đầu tiên. Nếu người đại diện cho một công ty là người cao cấp trong công ty sẽ gây
được ấn tượng rất tốt đối với người Trung Quốc. Danh tiếng của công ty cũng rất
quan trọng vì người Trung Quốc nghĩ rằng trước hết là làm việc với công ty của đối
tác sau đó mới đến làm việc với đối tác như một đại diện của công ty đó.
Các cuộc gặp gỡ thường được mở đầu bằng các câu chuyện bình thường. Điều
quan trọng là nên thiết lập một mối quan hệ làm ăn và một tình bạn suôn sẻ. Tin cậy
và hợp tác là những yếu tố hàng đầu. Bất kể trong tình huống nào, đối tác nước
ngoài cũng nên hết sức kiên nhẫn. Phía đối tác Trung Quốc thường làm một bài giới
thiệu ngắn về lịch sử và các con số thống kê của địa phương cũng như tình hình
chung của công ty. Tránh nói chuyện về tình hình chính trị và nhân quyền đối với
người Trung Quốc. Đây là những vấn đề nhạy cảm và có thể đặt người Trung Quốc
vào tình huống khó xử. Người Trung Quốc thường giữ nghi lễ chính thức trong
những giai đoạn đầu của mối quan hệ. Điều này thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau và
đảm bảo rằng các giao dịch sẽ được tiến hành một cách hài hòa. Nếu bỏ các nghi lễ
chính thức này quá nhanh sẽ làm mất đi sự cân bằng cần thiết để phát triển công
việc giao dịch kinh doanh và tình bạn cá nhân.
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
84
Thông thường người Trung Quốc không thích các bất ngờ. Hãy cung cấp cho
họ các thông tin càng chi tiết càng tốt. Hơn nữa, các cuộc đàm phán hay giao dịch
nên được tiến hành một cách bình thường, không nên rầm rộ và tránh phô trương.
Điều này giúp cho họ loại bỏ các sức ép chính trị có thể có ra khỏi bàn đàm phán.
Trong các quá trình đàm phán, người Trung Quốc thường cố kéo dài các cuộc thảo
luận để dần dần làm mất hết lòng kiên nhẫn của đối tác. Thực ra, người Trung Quốc
đi đến kết luận chậm hơn so với phong cách của người phương Tây. Đạt được sự
nhất trí là rất quan trọng ở Trung Quốc.
Người Trung Quốc thường rất quan tâm đến các chi tiết và thường là các chi
tiết mà đối với những người khác thì không có giá trị gì. Hầu hết các cuộc đàm phán
đều chia ra làm hai giai đoạn: kỹ thuật và thương mại hay các điều khoản kinh
doanh. Người Trung Quốc sẽ dùng các chuyên gia để tập trung vào giai đoạn kỹ
thuật cho đến khi họ đã thỏa mãn về các vấn đề cơ bản như chất lượng và tính hiệu
quả. Thông thường, người có khả năng quyết định cao nhất lại là những người ở cấp
bậc trung, những người làm công việc nghiên cứu.
Người Trung Quốc rất coi trọng thể diện. Họ không thích nói “không” hay
phải làm người chịu đựng những tin xấu. Họ sẽ nói vòng vo bằng cách nói những
câu đại loại như “như thế thật bất tiện”. Tương tự như vậy, đối tác nước ngoài cũng
có thể thấy họ sẵn sàng nói đồng ý trong hầu hết mọi trường hợp. Tuy nhiên, đây có
thể là sự đồng ý suông và đối tác nên cẩn thận đừng có đưa ra các kết luận khả quan
từ những sự đồng ý ấy của họ. Hãy xác định lại những gì họ nói. Không nên làm
phía Trung Quốc rơi vào các tình huống khó xử bằng các câu hỏi trực tiếp hay đưa
ra các đề xuất khiến cho họ cảm thấy bất tiện. Điều quan trọng nhất là phải giữ cho
được thể diện của tất cả các bên.
Trong thương lượng, người Trung Quốc tỏ ra rất có tổ chức và đa mưu túc trí.
Họ thường sử dụng một số chiến thuật đàm phán cơ bản như thay đổi người đàm
phán hoặc thay đổi các điều khoản của thương vụ, gây sức ép về thời gian,... Hầu
hết người Trung Quốc coi đàm phán là một tình huống thắng thua. Thái độ này
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
85
hoàn toàn tương phản so với nhiều nước châu Á khác, nơi mà người ta luôn cố gắng
để cho cả hai bên đàm phán đều có lợi chứ không có ai thua cả. Cố gắng ép đối tác
nhượng bộ càng nhiều càng tốt là một đặc điểm đáng chê trách trong các chiến lược
đàm phán của người Trung Quốc.
Hầu hết người Trung Quốc coi mục đích đầu tiên của các bản hợp đồng là
thiết lập được một mối quan hệ làm ăn tốt đẹp. Nhiều bản hợp đồng thường phác
thảo các điều khoản dựa trên các nguyên tắc hơn là dựa trên các quy cách sản phẩm.
Có một quy ước ngầm giữa những người Trung Quốc là các giao dịch làm ăn đều
phải dựa trên các mối quan hệ. Ý đồ ghi chép mọi vấn đề sẽ bị xem như thiếu tin
tưởng trong quan hệ. Khi tranh cãi nảy sinh, người Trung Quốc có xu hướng giải
quyết bằng tình cảm là chính, dùng hình thức đàm phán để tránh đụng chạm đến
pháp luật.
3.3 Tiếp thu giá trị văn hóa Trung Quốc vào hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam
Trung Quốc là một nước có truyền thống văn hóa lâu đời, nhưng do một thời
gian dài đóng cửa với bên ngoài, nên văn hóa kinh doanh cũng có nhiều khác biệt
với trình độ phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đi trước Việt
Nam trong chính sách mở cửa, thời gian gần đây đã đạt được nhiều thành tựu kinh
tế quan trọng, đặc biệt là sự kiện Trung Quốc trở thành thành viên của WTO sớm
hơn Việt Nam. Bên cạnh những cải cách kinh tế, Trung Quốc cũng tiến hành những
biện pháp để xây dựng và đổi mới văn hóa kinh doanh, như việc học hỏi công nghệ,
phương pháp quản lý của nước ngoài, nâng cao trình độ tiếng anh trong dân
chúng,...
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
86
II. PHƢƠNG HƢỚNG TIẾP THU CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA NƢỚC NGOÀI
KẾT HỢP VỚI KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nƣớc về việc xây dựng các giá
trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam
Vai trò của văn hóa ngày càng được Đảng và nhà nước ta đề cao trong các
chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế và xã hội, cũng như trong các chủ trương,
đường lối đối ngoại. Vấn đề tạo dựng và phát triển các giá trị văn hóa trong hoạt
động kinh doanh cũng được chú trọng phát triển. Từ trước đến nay, Đảng và nhà
nước ta luôn quan tâm đến sự giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt,
Đảng và nhà nước đã có những nhận thức đúng đắn, tiến bộ về tầm quan trọng và
tác động của văn hóa thể hiện qua quan điểm coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển kinh tế xã hội. Nghị quyết lần thứ V “Về xây dựng và phát triển
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của ban chấp hành Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa VIII đã nêu rõ: “nền văn hóa chúng ta đang xây dựng là nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát
triển phong phú, tự do, toàn diện của con người. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn
kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong văn
hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải đi đôi chống lỗi thời, lạc
hậu trong phong tục, tập quán, lề thói cũ,...”
Ngoài ra, đề cập đến vai trò của văn hóa trong kinh doanh và chuyển tải yếu tố
văn hóa vào hoạt động kinh doanh, nghị quyết V cũng nêu rõ: “cần xây dựng chính
sách văn hóa trong kinh tế đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động
kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện nhiều hơn cho sự
nghiệp phát triển văn hóa. Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn
bó với các mục tiêu, giải pháp văn hóa chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
87
sản xuất kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn
hóa kinh doanh.”
Đây chính là quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa nói chung và sử dụng
yếu tố văn hóa như là một động lực của hoạt động kinh doanh nói riêng. Đây cũng
là tư tưởng chủ đạo, là kim chỉ nam cho việc tiếp thu những giá trị văn hóa nước
ngoài, kết hợp với các giá trị truyền thống dân tộc, nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, tiến tới xây dựng và phát triển những hệ
thống giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại tương thích với điều kiện kinh doanh
ở Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là trong thời kỳ Việt Nam đang tích cực,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hóa, và việc mở cửa, hội
nhập ngày càng sâu rộng về mọi mặt của đất nước Việt Nam, môi trường kinh
doanh tại Việt Nam ngày càng được nâng cao tính mở và khả năng giao lưu, học hỏi
từ các quốc gia khác. Việc tiếp thu, học hỏi tinh hoa nhân loại, trong đó có những
giá trị văn hóa nước ngoài để từ đó áp dụng thích hợp vào hoạt động kinh doanh là
một tất yếu khách quan để tồn tại và vững mạnh trong cạnh tranh, không riêng gì
với các doanh nghiệp Việt Nam, mà với mọi doanh nghiệp đang tiến hành hoạt
động kinh doanh trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng này.
Tuy nhiên, cần nêu cao và quán triệt quan điểm lấy các giá trị văn hóa truyền thống
làm gốc, làm nội lực chính cho sự phát triển kinh doanh, đồng thời sẵn sàng và
nhanh chóng học hỏi, tiếp thu các giá trị văn hóa nước ngoài, nhằm bổ sung, làm
phong phú và hoàn thiện hơn hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, từ đó vận dụng
linh hoạt để gia tăng năng lực cạnh tranh. Do đó, cần khẳng định và thấm nhuần
quan điểm văn hóa truyền thống Việt Nam phải soi đường cho kinh doanh, tức là
mọi hoạt động kinh doanh của Việt Nam cũng như của Việt Nam với nước ngoài.
Kinh doanh phải trên cơ sở tôn trọng những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam.
Đó là con người Việt Nam có lý tưởng, có mục đích rõ ràng là kinh doanh không
chỉ để làm giàu cho mình, mà còn cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội, cho đất
nước. Nghĩa vụ của doanh nghiệp là kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà còn để
phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, không phải để làm giàu bằng mọi giá. Phải
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
88
làm sao để trong ý thức của mọi doanh nghiệp, ý chí tự chủ, tự tin, lòng yêu nước,
tự hào dân tộc luôn gắn kết với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh doanh của
doanh nghiệp. Và quan trọng hơn cả là phải lấy các giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam làm nền tảng, đồng thời kết hợp, bổ sung các giá trị văn hóa nước ngoài
để tạo nên những lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam.
Gần đây, một số doanh nhân và các nhà quản lý cũng đã có những quan điểm
tương đối đồng nhất về vấn đề này. Trong hội thảo “xây dựng văn hóa doanh
nghiệp” do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Học
viện Hành chính Quốc gia tổ chức ngày 23/5/2003, ông Đào Duy Quát, Phó Trưởng
ban tư tưởng văn hóa TW đã phát biểu: “một thực trạng, một nguy cơ rất nghiêm
trọng của nền kinh tế Việt Nam là sự tụt hậu xa hơn nữa của nền kinh tế nước ta so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguy cơ này chỉ còn tính tháng, tính
năm đối với hàng loạt các doanh nghiệp. Có thể khẳng định sự tụt hậu này bắt
nguồn từ văn hóa của từng công ty, từng chủ doanh nghiệp.”
Quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nước về việc xây dựng và phát triển các
giá trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam là phải làm cho từng doanh
nhân, từng con người Việt Nam nhận thức được ba điểm sau đây:
- Văn hóa chính là nền tảng tinh thần của xã hội, thiếu đi nền tảng tinh thần
tiến bộ, lành mạnh thì xã hội không thể phát triển bền vững.
- Việc chuyển tải các yếu tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh, tạo dựng các
giá trị văn hóa riêng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hình thành và
phát triển văn hóa doanh nghiệp là một yêu cầu cho mục tiêu phát triển kinh doanh
lâu bền, vững mạnh của từng doanh nghiệp Việt Nam. Văn hóa doanh nghiệp là nền
tảng tinh thần cho mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu đi sự lành mạnh, tiến bộ
trong nền tảng tinh thần này thì kinh doanh cũng không thể phát triển bền vững, để
có tiến lên chủ nghĩa xã hội với “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
89
- Phương hướng tiếp thu các giá trị văn hóa nước ngoài, kết hợp với các giá trị
truyền thống nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
phải dựa trên yếu tố văn hóa truyền thống làm nền tảng. Hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam phải mang đậm bản sắc của con người Việt Nam như
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tích cực làm giàu cho mình, cho xã hội và cho đất
nước, đồng thời biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp trong văn hóa dân tộc
như cần cù, biết khắc phục khó khăn để vươn lên, đề cao lòng nhân ái, tính vị tha,...
2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là một nội dung trọng yếu của việc học hỏi
các giá trị văn hóa nước ngoài, kết hợp với các giá trị truyền thống nhằm tạo nên
sức mạnh riêng biệt của từng doanh nghiệp để giành lợi thế trong cạnh tranh. Như
đã phân tích ở trên về đặc trưng của văn hóa, mặc dù hệ thống các giá trị và chuẩn
mực của văn hóa có tính bền vững, nhưng văn hóa có tính chất luôn luôn tiến hóa.
Bản thân văn hóa không phải là một yếu tố bất biến hay không thể chia sẻ. Bất kỳ
một nền văn hóa nào cũng luôn có khả năng giao thoa, tương tác với các nền văn
hóa khác. Nó có thể tiếp thu các giá trị của văn hóa bên ngoài và tác động ngược trở
lại, ảnh hưởng đến hệ thống giá trị của các nền văn hóa khác. Hơn nữa, văn hóa còn
chịu sự tác động mạnh mẽ của đời sống xã hội. Do đó, bất cứ nền văn hóa nào cũng
bao gồm sự tạo dựng của từng dân tộc, từng quốc gia, kết hợp với việc tiếp thu các
giá trị văn hóa từ bên ngoài. Chính sự giao lưu này đã làm giàu thêm cho văn hóa
từng dân tộc, cũng như đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với nội dung văn hóa trong hoạt động kinh doanh, vì văn hóa gắn bó
mật thiết với sự phát triển của kinh doanh nên phản ánh và chịu sự tác động bởi sự
năng động của kinh doanh. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước ta tiến hành chính sách
mở cửa, cơ hội giao lưu văn hóa với các quốc gia, các dân tộc ngày càng tăng lên.
Cơ hội học hỏi những kiến thức, công nghệ, kinh nghiệm trong kinh doanh từ bên
ngoài cũng ngày càng được mở rộng. Hơn nữa, kinh doanh nói chung và việc vận
dụng yếu tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh, cũng như văn hóa doanh nghiệp nói
riêng ở Việt Nam còn nhiều yếu tố lạc hậu, không theo kịp với trình độ phát triển
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
90
chung của thế giới nên việc học hỏi, tiếp thu những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài là
một nhu cầu cấp thiết. Trong quá khứ, Việt Nam đã học hỏi được nhiều từ các cuộc
giao lưu văn hóa với Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, các nước xã hội chủ
nghĩa,... Ngoài ra, văn hóa Việt Nam lại có tính thích ứng và dung hợp cao nên có
khả năng tiếp thu một cách chọn lọc các yếu tố nhập ngoại, nhất là tinh hoa của văn
hóa nhân loại, từ đó tạo nên nguồn nội lực mới làm phong phú thêm nền văn hóa
dân tộc.
Vì vậy, việc tạo dựng và phát triển văn hóa trong hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam cần tiếp thu những giá trị tích cực của yếu tố văn hóa quốc tế trong hoạt
động kinh doanh của thế giới (như nâng cao năng lực kinh doanh, đổi mới công
nghệ...) và tiếp thu một cách tích cực những tinh hoa từ văn hóa trong hoạt động
kinh doanh của nhân loại như tính năng động, hiệu quả của người Mỹ, tinh thần
kinh doanh bền bỉ của người Hoa, tính sáng tạo của người Nhật,...
3. Khai thác các giá trị truyền thống trong doanh nghiệp Việt Nam
Trong quá trình xây dựng và phát triển các giá trị văn hóa trong hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam, nguồn lực quan trọng hàng đầu chính là các giá trị truyền
thống của dân tộc. Một nhiệm vụ hết sức quan trọng cần thực hiện là khai thác các
giá trị đang tiềm ẩn trong mỗi nhà kinh doanh, mỗi người lãnh đạo doanh nghiệp
của Việt Nam, bởi văn hóa của từng nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp chính là
nền tảng của văn hóa doanh nghiệp. Muốn biến văn hóa doanh nghiệp thành sức
mạnh trong cạnh tranh, từng doanh nghiệp trước hết phải phát triển văn hóa doanh
nhân riêng biệt, độc đáo, phù hợp. Phương hướng phát triển văn hóa doanh nhân khi
đó, tất yếu tuân theo hướng tiếp thu các giá trị văn hóa quốc tế, kết hợp với các giá
trị truyền thống và lấy các giá trị truyền thống Việt Nam làm nền tảng, là động lực
cốt yếu củng cố và phát huy lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy, trong hệ
thống các giá trị hình thành văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp, và rộng
hơn cả là nội dung văn hóa trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
Nam, không thể xem nhẹ việc khai thác các giá trị truyền thống, các giá trị tinh thần
dân tộc trong mỗi doanh nghiệp. Mặc dù, trong một thời gian rất dài, quan niệm
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
91
truyền thống không coi trọng kinh doanh, coi thường thương nhân, nhưng trong các
giá trị tinh thần tiếp thu được từ văn hóa dân tộc, chúng ta có thể tìm thấy nhiều giá
trị có ảnh hưởng tích cực đến kinh doanh như tính cần cù, chăm chỉ, vượt khó, đức
tính ham học hỏi, tiết kiệm, tinh thần “lá lành đùm lá rách”... Thực tế đã cho thấy,
nhiều dân tộc châu Á có cùng một mẫu số văn hóa với Việt Nam đã biết khai thác
các giá trị đó và đạt được nhiều thành công trong phát triển kinh tế như Trung
Quốc, Hàn Quốc,... Hơn nữa, trong thời gian gần đây, với việc phát huy những giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc, nhiều doanh nhân Việt Nam đã đạt được
những thành công lớn ở cả trong nước và ngoài nước, làm cho đất nước Việt Nam
ngày càng thịnh vượng hơn, khẳng định khả năng kinh doanh của người Việt, cải
thiện dần quan hệ kinh tế và địa vị quốc gia giữa Việt Nam và các nước phát triển
trên thế giới.
Điểm lại hệ thống giá trị trong văn hóa dân tộc và văn hóa trong hoạt động
kinh doanh Việt Nam, có thể nhận thấy hàng loạt các giá trị có ảnh hưởng tích cực
đến kinh doanh. Nền văn hóa nông nghiệp trong một khu vực thiên nhiên khắc
nghiệt, khí hậu thất thường đã hun đúc cho con người Việt Nam đức tính cần cù,
chịu khó, yêu lao động, có tinh thần tự lực tự cường. Lịch sử lâu dài chống giặc
ngoại xâm đã làm cho người Việt Nam gắn kết với nhau bằng lòng tự hào dân tộc,
tinh thần quốc gia, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn. Quá trình tiếp thu đạo Phật đã
hướng con người đến với các giá trị như lòng nhân ái, trọng tình nghĩa, tiết kiệm,
không xa hoa lãng phí. Nho giáo đã giáo dục cho con người coi trọng tập thể, tôn
trọng tôn ti trật tự, trọng người lớn tuổi, ưa giữ hòa khí. Đây chính là những giá trị
đem lại nhiều thành công trong phát triển kinh tế cho các quốc gia láng giềng như
Trung Quốc, Hàn Quốc,... và hiện đang được phát huy tại Việt Nam.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa truyền thống nêu trên, quá trình giao lưu với
các nền văn hóa Trung Hoa, Pháp, Mỹ, Đông Âu,... cùng với những thử thách qua
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ lâu dài và quyết liệt, đã tạo thêm nhiều giá
trị tinh thần quý báu cho dân tộc Việt Nam như dám nghĩ dám làm, vươn lên khắc
phục khó khăn, thiếu thốn, tôn trọng sự bình đẳng nam nữ, vai trò của kinh doanh
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
92
và doanh nhân trong con mắt xã hội cũng được nâng lên đáng kể. Qua những giao
lưu văn hóa này, kinh nghiệm và kiến thức của doanh nhân Việt Nam cũng được
tăng lên nhiều. Sự cọ sát với thương trường quốc tế đã tôi luyện các nhà lãnh đạo
Việt Nam nói chung, các doanh nhân Việt Nam nói riêng, và giúp họ hạn chế dần
nhược điểm trong giao tiếp với đối tác nước ngoài.
Muốn xây dựng bất cứ một công trình hay một giá trị tinh thần nào, trước hết
cần trông vào chính nội lực của bản thân mình. Thực tế đã chứng tỏ, con người Việt
Nam có một nguồn nội lực vô cùng phong phú. Chỉ cần biết cách động viên, tạo
điều kiện phát triển, nguồn nội lực này sẽ được phát huy, để trở thành động lực cho
sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Vì vậy, khi xây dựng và phát triển
các giá trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, cần khai thác ở mức
tích cực nhất những giá trị tinh thần tiến bộ của doanh nghiệp Việt Nam và các nhà
quản lý trong doanh nghiệp Việt Nam.
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
1. Một số khuyến nghị đối với nhà nƣớc
Nhà nước Việt Nam cần tạo lập một môi trường lành mạnh để phát triển văn
hóa trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, cần tạo lập môi trường
pháp lý về kinh doanh với những quy định trong các văn bản luật và dưới luật
khẳng định tầm quan trọng của kinh doanh trong xã hội, đảm bảo những quyền hạn
và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và doanh nhân, chấm dứt vĩnh viễn tình
trạng nghi ngờ, coi rẻ hoạt động kinh doanh như thời bao cấp. Ngoài ra, nhà nước
cũng cần có những quy định rõ ràng, minh bạch và xây dựng những cơ chế xử lý
nghiêm ngặt các trường hợp kinh doanh thiếu văn hóa, gây tổn hại đến các giá trị
văn hóa dân tộc để khích lệ các doanh nghiệp làm giàu chính đáng và vận hành kinh
doanh vì mục tiêu phát triển con người và xã hội. Thứ hai, cần tạo lập môi trường
pháp lý về văn hóa với những quy định phù hợp, thống nhất, hướng dẫn các doanh
nghiệp, các thương nhân kinh doanh có đạo đức, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
của các khách hàng, của đất nước, của dân tộc. Nhà nước cũng cần thiết lập cơ chế
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
93
cạnh tranh công khai, lành mạnh giữa các doanh nghiệp để đảm bảo tính văn hóa
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập hóa kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng
mạnh mẽ như hiện nay, việc tiến hành hoạt động đẩy mạnh xây dựng, xúc tiến các
chương trình giao lưu kinh tế đi đôi với giao lưu văn hóa của nhà nước là rất cần
thiết. Mỗi sản phẩm kinh doanh đều là kết tinh của trình độ phát triển văn hóa của
mỗi dân tộc. Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích giao lưu kinh tế mở
đường cho giao lưu văn hóa, và giao lưu văn hóa thúc đẩy giao lưu kinh tế. Đồng
thời, nhà nước cũng cần có chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh việc
xuất khẩu những mặt hàng có bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này sẽ làm cho các
doanh nghiệp có nhiều điều kiện hơn để tiếp xúc, học hỏi các giá trị văn hóa quốc
tế, đồng thời phát huy, mở rộng và “xuất khẩu” các giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam ra nước ngoài.
Một xã hội chỉ có thể phát triển bền vững khi mức độ phát triển của văn hóa
tương đồng với sự phát triển về kinh tế. Việt Nam là một nước có truyền thống văn
hóa lâu đời nhưng lại quá ỷ lại vào vốn sẵn có của mình, không quan tâm đến việc
giữ gìn và học hỏi các yếu tố mới trong văn hóa, dẫn đến nhanh chóng bị tụt hậu.
Do đó, việc giáo dục ý thức và khơi dậy lòng tự hào dân tộc về văn hóa nói chung,
vai trò của văn hóa trong kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân
nói riêng cho người Việt Nam cần được chú trọng phát triển. Lịch sử đã chứng
minh, mỗi khi ý thức và lòng tự hào dân tộc được nâng cao, người dân Việt Nam có
thể kết thành các làn sóng sức mạnh và làm nên nhiều kỳ tích. Do đó, cần khai thác
các giá trị dân tộc và biến chúng thành sức mạnh để phát triển kinh tế.
Nhà nước cũng cần khuyến khích các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp
quan tâm xây dựng và phát triển văn hóa trong hoạt động kinh doanh, hướng các
doanh nghiệp tạo dựng các hệ thống giá trị văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh
nghiệp lành mạnh, bền vững, có tính nhân văn cao và tương thích với văn hóa Việt
Nam. Đặc biệt, nhà nước cần nêu cao ý thức xây dựng văn hóa trong hoạt động kinh
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
94
doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phải lấy các giá trị văn hóa truyền
thống làm nền tảng, đồng thời kết hợp tiếp thu, học hỏi các giá trị văn hóa nước
ngoài nhằm mục đích gia tăng năng lực cạnh tranh, phục vụ các lợi ích và mục tiêu
phát triển chung của cộng đồng, của xã hội.
2. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp
Việc quan trọng đầu tiên các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp cần quan
tâm thực hiện là xây dựng và củng cố văn hóa doanh nhân, lấy văn hóa doanh nhân
làm nòng cốt để phát triển văn hóa doanh nghiệp và các hệ thống giá trị văn hóa
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, từ đó có phương hướng tiếp
thu các giá trị văn hóa quốc tế, kết hợp với các giá trị truyền thống dân tộc một cách
hiệu quả, tương thích với các nguồn lực khác trong doanh nghiệp. Hơn nữa, các nhà
lãnh đạo doanh nghiệp cần chú trọng giáo dục, không ngừng củng cố và phát huy
các nội dung của văn hóa trong doanh nghiệp mình. Sự thiếu hiểu biết về văn hóa
nước ngoài thường gây tâm lý bất lợi cho doanh nhân Việt Nam trên bàn đàm phán,
dẫn đến tình trạng bị động, cứng nhắc trong ứng xử, dễ bị thua thiệt trong kinh
doanh. Vì vậy, công tác giáo dục văn hóa trong kinh doanh, cung cấp những kiến
thức về văn hóa nói chung, và văn hóa trong hoạt động kinh doanh nói riêng cho
các doanh nhân Việt Nam hiện nay cần được đặc biệt lưu ý. Người có trình độ
chuyên môn cao, lại hiểu biết truyền thống lịch sử của dân tộc, thấm nhuần các giá
trị văn hóa truyền thống, am tường văn hóa dân tộc khác chắc chắn sẽ có phong
cách giao tiếp ứng xử linh hoạt, phù hợp và những quyết định kinh doanh đúng đắn,
hiệu quả. Điều này sẽ tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong
công việc tìm kiếm và xây dựng các mối quan hệ bạn hàng với đối tác nước ngoài.
Doanh nghiệp cũng cần chú trọng đầu tư, nghiên cứu tác động của yếu tố văn
hóa đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, từ đó xây dựng, điều
chỉnh và phát triển văn hóa trong hoạt động kinh doanh một cách thích hợp. Khoa
học về quản lý kinh doanh gần đây đã đưa ra một trào lưu tri thức mới, lấy yếu tố
con người - nguồn nhân lực làm trung tâm của việc quản lý và vận hành kinh doanh
hiệu quả. Các nhà quản lý ngày nay nhận thức sâu sắc và đúng đắn hơn về kết quả
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
95
của thành công doanh nghiệp chủ yếu không có nguồn gốc từ vốn hay công nghệ
mà phụ thuộc vào những con người trong tổ chức đó. Trong thời đại ngày nay,
doanh nghiệp muốn thành công cần có chính sách quản lý hướng tới con người, coi
con người là trung tâm, chứ không phải chỉ là phương tiện để đạt được lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Để đạt được sự liên kết, đồng tâm nhất trí giữa các thành viên
trong doanh nghiệp, giữa nhân viên và khách hàng, giữa nhân viên và cổ đông cần
xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp vững chắc, có khả năng bảo vệ lợi ích cho
từng cá nhân, chứ không phải chỉ bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp. Do đó, doanh
nghiệp không thể phát triển được nếu thiếu nhân tố con người và nền tảng văn hóa.
Văn hóa không có điểm đầu và điểm cuối, nên việc xây dựng và phát triển văn hóa
trong hoạt động kinh doanh là một sự liên tục, đòi hỏi một quá trình lâu dài và phức
tạp. Doanh nghiệp cần nghiêm túc nhìn nhận lại cơ cấu tổ chức, phong cách quản
lý, điều lệ doanh nghiệp, chính sách nhân sự,... xây dựng chính sách đầu tư cho con
người thích hợp. Để gắn bó các nhân viên lại với nhau và với công ty, doanh nghiệp
cần chú trọng xây dựng triết lý kinh doanh, xây dựng hệ thống giá trị tinh thần cho
các thành viên trong tổ chức.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có chiến lược để phát triển văn hóa trong từng
loại hình hoạt động kinh doanh như trong đàm phán, marketing, tiêu dùng,... Muốn
xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp vững mạnh, mỗi doanh nghiệp cần có sự
đầu tư cho phát triển từng lĩnh vực trong kinh doanh của doanh nghiệp mình, như
đàm phán, marketing, tiêu dùng .Cần ý thức rõ ràng rằng, trong bất cứ lĩnh vực nào,
văn hóa tự nó cũng đã tồn tại. Điều doanh nghiệp cần làm là hiểu rõ văn hóa của
chính mình, để tận dụng được những điểm mạnh, giảm nhẹ điểm yếu, trên cơ sở đó
bổ sung những giá trị học hỏi được từ bên ngoài. Chính vì vậy, điều các doanh
nghiệp cần làm là tìm ra thế mạnh, nhất là từ văn hóa trong phong cách đàm phán,
marketing, tiêu dùng,... như tính linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, cần kiệm và ý thức
được những mặt hạn chế như trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm do ít cọ xát
với bên ngoài, tâm lý sùng ngoại .Trên cơ sở những hiểu biết đó, mỗi doanh nghiệp
sẽ định ra phương hướng, biện pháp để củng cố những điểm mạnh và khắc phục
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
96
điểm yếu, nhằm xây dựng một hệ thống giá trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh
vững mạnh, toàn diện, không chỉ cho doanh nghiệp, mà còn cho cả xã hội.
3. Một số khuyến nghị khác
Ngoài các khuyến nghị trên, một số công tác khác cũng cần được chú trọng
xây dựng để nâng cao vai trò của văn hóa trong các hoạt động kinh doanh cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề thông tin và giáo dục về văn hóa, vai trò của văn
hóa trong kinh doanh, văn hóa doanh nhân và văn hóa doanh nghiệp cần được tăng
cường. Các hội thảo, tọa đàm về tác động của văn hóa tới hoạt động kinh doanh và
vấn đề văn hóa trong kinh doanh của các doanh nghiệp cần được các cơ quan sự
nghiệp chú trọng tổ chức nhiều hơn nữa để cung cấp cho các doanh nghiệp các kiến
thức cần thiết và nhận thức đầy đủ về vấn đề này. Công tác tuyên truyền này cần
được đẩy mạnh, với những nội dung thiết thực, để doanh nghiệp có thể vận dụng
vào công việc của mình.
Ngoài ra, cũng cần đưa các nội dung về văn hóa, văn hóa trong kinh doanh,
văn hóa doanh nghiệp,... vào chương trình giảng dạy của các trường đại học. Trong
nội dung giảng dạy của các trường đại học Việt Nam, trừ một vài trường đại học
như Đại học Thương mại, Đại học Kinh tế quốc dân, các vấn đề về văn hóa doanh
nghiệp, văn hóa kinh doanh,... chưa thực sự được coi trọng. Trong khi đó các vấn đề
này từ lâu đã trở thành một nội dung giảng dạy bắt buộc tại các trường đại học ở các
nước phát triển như Anh, Mỹ,... Một thực tế khác là nhiều doanh nghiệp đã tiến
hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp, trong khi đội ngũ sinh viên ra trường có hiểu
biết rất ít về văn hóa trong các hoạt động kinh doanh thì sẽ tiếp thu và thấu hiểu các
giá trị văn hóa của doanh nghiệp chậm hơn, có cái nhìn thiếu toàn diện và sâu sắc
về ý nghĩa của việc củng cố và phát huy hệ thống giá trị văn hóa trong hoạt động
kinh doanh tại doanh nghiệp họ đang công tác. Việc đưa văn hóa doanh nghiệp và
các nội dung liên quan vào chương trình giảng dạy chính thức góp phần cung cấp
các kiến thức nền tảng cho thế hệ làm kinh tế sau này. Như vậy, lớp doanh nhân
trong tương lai sẽ ý thức nhiều hơn về vấn đề này và chú trọng xây dựng và phát
triển các hệ thống giá trị văn hóa trong hoạt động kinh doanh của Việt Nam sau này.
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
97
Trong điều kiện hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn chưa ý thức rõ
ràng về vấn đề văn hóa trong kinh doanh, thì việc phổ biến các tài liệu về văn hóa,
ảnh hưởng của văn hóa đến kinh doanh, phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt
động kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp,.... cho các doanh nghiệp là hết sức cần
thiết. Các cơ quan xúc tiến thương mại như phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam có thể phối hợp với các cơ quan thương vụ ở nước ngoài để xuất bản các
cuốn sách giới thiệu về vai trò của văn hóa trong kinh doanh, văn hóa doanh
nghiệp,... các chỉ dẫn về văn hóa trong hoạt động kinh doanh của nước ngoài và
kinh nghiệm phát triển văn hóa trong kinh doanh của các quốc gia trên thế giới.
Trên thế giới, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp đã trở thành một
công cụ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự thành công của các
doanh nghiệp là một minh chứng rõ ràng cho vấn đề này. Tuy nhiên ở Việt Nam, số
doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề này còn rất ít ỏi. Trong thời gian gần đây, với sự
tuyên truyền rộng rãi của các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều doanh nghiệp
đã bắt đầu quan tâm xây dựng văn hóa doanh nghiệp nhưng không biết bắt đầu từ
đâu và làm như thế nào. Một số trung tâm tư vấn tư nhân nắm bắt được nhu cầu
này, đã quảng cáo tư vấn xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tuy nhiên chương trình
và nội dung không thống nhất, và việc tư vấn cũng chưa có nhiều kết quả đáng ghi
nhận.
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
98
KẾT LUẬN
Thế kỷ XXI là thế kỷ mang đến nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt
Nam có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi với bên ngoài, tạo đà cho kinh tế Việt
Nam tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế
giới WTO và mở cửa nền kinh tế đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với
sự cạnh tranh gay gắt đến từ các doanh nghiệp nước ngoài, thêm vào đó là sự mở
rộng giao lưu kinh tế, văn hóa,... và xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng đã tạo
điều kiện du nhập các nền văn hóa khác nhau với các phong cách kinh doanh, tiêu
dùng, sinh hoạt,... khác nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tầm
quan trọng của văn hóa trong hoạt động kinh doanh cũng ngày càng được khẳng
định vững chắc hơn. Phát triển kinh tế bền vững chỉ có thể đạt được trên nền tảng
một xã hội có văn hóa. Chính vì vậy, thành công trên thương trường ngày nay cần
có sự hiểu biết về văn hóa truyền thống quốc gia mình, văn hóa quốc gia đối tác, và
các khác biệt về văn hóa, vận dụng linh hoạt các giá trị văn hóa tích cực vào hoạt
động kinh doanh để hình thành năng lực cạnh tranh riêng cho doanh nghiệp mình.
Cũng như vậy, muốn đứng vững trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường, nhà kinh doanh không thể chỉ tự trang bị bằng kiến thức, công nghệ,... mà
còn cả một nền tảng văn hóa vững chắc cho chính bản thân nhà lãnh đạo và cho
doanh nghiệp. Đã đến lúc nhà nước Việt Nam và các cơ quan chức năng cần phải
quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn nữa để nâng cao ý thức văn hóa và kiểm soát
trật tự trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức đa dạng. Vai trò của văn hóa và vấn đề văn
hóa trong kinh doanh, cũng như văn hóa doanh nghiệp tương đối phức tạp. Do gặp
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
99
nhiều hạn chế trong quá trình nghiên cứu, khóa luận này còn có nhiều thiếu sót.
Trong thời gian tới, với sự giúp đỡ về mặt kiến thức cũng như phương pháp của các
giảng viên Đại học Ngoại thương, cũng như có nhiều điều kiện thuận lợi hơn về mặt
nghiên cứu, em hi vọng có được bước phát triển mới về nhận thức để hoàn thiện
thêm khóa luận này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Trọng và Hoàng Phương Thảo, Quản trị chiêu thị, nhà xuất bản Thống kê
1996.
2. Phillip Kotler, Thấu hiểu tiếp thị từ A đến Z, nhà xuất bản Trẻ - 2005
3. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết, Giáo trình pháp luật trong hoạt động
kinh tế đối ngoại, nhà xuất bản Giáo dục - 2005.
4. Sanjyot P. Dunung, Kinh doanh ở Châu Á, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia -
1998.
5. Nguyễn Hiến Lê, Kinh dịch, đạo của người quân tử, nhà xuất bản Văn học -
1994.
6. Matt Haig, Sự thật về 100 thất bại thương hiệu lớn nhất của mọi thời đại, nhà
xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - 2005.
7. Donald Hendon, Sự thật về những thất bại trong tiếp thị sản phẩm, nhà xuất bản
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - 2005.
8. Fons Trompenaars và Charles Hampden-Turner, Chinh phục các làn sóng văn
hóa, nhà xuất bản Tri thức - 2006.
9. Adam M. Brandenburger và Barry J. Nalebuff, Lý thuyết trò chơi trong kinh
doanh, nhà xuất bản Tri thức - 2007.
Khãa luËn tèt nghiÖp NguyÔn Kú Minh - A3 - K43 - KT§N
100
10. Alvin Toffler, Đợt sóng thứ ba, nhà xuất bản Khoa học Xã hội - 2007.
11. Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng, nhà xuất bản Trẻ - 2006.
12. Nguyễn Hoàng Ánh, Ảnh hưởng của văn hóa đến thương mại quốc tế trên thế
giới và ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế.
13. Nguyễn Hoàng Ánh, Ảnh hưởng của văn hóa đến hoạt động kinh doanh quốc tế
và vai trò của văn hóa kinh doanh tại Việt Nam luận án tiến sỹ khoa học kinh tế
14. Đỗ Hữu Vinh, Marketing xuất nhập khẩu, nhà xuất bản Tài chính - 2006.
15. Dana Healy, Nguyễn Thị Thanh Bình, Các khía cạnh văn hóa Việt Nam, nhà
xuất bản Thế giới - 2006.
16. Lê Văn Chưởng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
thành phố Hồ Chí Minh - 1999.
17. Đỗ Minh Cương, Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - 2001.
18. Dương Thị Liễu, Bài giảng Văn hóa kinh doanh, nhà xuất bản Đại học Kinh tế
quốc dân - 2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3985_7831.pdf