Đề tài Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế mối quan hệ với công ty cổ phần

MỞ ĐẦU Trong vòng 10 năm (1988-1998) thực hiện đường lối của Đảng, kiên trì phương châm chiến lược: coi trọng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, tranh thủ mọi khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực từ bên ngoài, bao gồm cả vốn, công nghệ, thị trường và trình độ quản lý. Việt nam đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn gần 36 tỷ USD, trong đó có khoảng 13 tỷ USD đã được thực hiện (chiếm gần 90% tổng vốn đăng kỳ) Cùng với các nguồn tài trợ khác, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thực (ODA) và đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI ) thật sự đang là môtj nguồn lực tài chính quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước, góp phần cho mức tăng trưởng GDP trong những năm qua đạt trên 8% giải quyết việc làm cho hơn 27 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn khẳng định nguồn lực trong nước mới là nhân tố quyết định cho quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững. Nguồn lực nội sinh là một khái niệm rất rộng, là tổng hợp toàn bộ các nguồn lực trong nước, không chỉ có ở vốn tài sản cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, lợi thế về địa lý kinh tế, chính trị, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thầy gắn với truyền thống văn hoá của dân tộc. Thời gian qua, bằng một loạt các giải pháp đồng bộ đổi mới, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, cơ chế môi trường sản xuất kinh doanh, nguồn lực của đất nước đã có sự khởi động và bước đầu phát huy tác dụng. Thế nhưng hiệu quả đạt được còn chưa lớn, nhiều tiềm năng còn bị lãng phí. Việc huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư tăng trưởng còn chưa như mong muốn. Ước tính còn có 5-6 tỷ USD vốn nhà rỗi trong dân cư nhưng việc huy động vẫn gặp khó khăn, vì nhân dân còn e ngại, các cơ chế, chính sách còn có trói buộc và nhất là chưa xây dựng được mô hình huy động vốn hợp lý. Một trong các nguồn lực nội sinh nữa còn để lãng phí là nguồn lực lao động, nguồn lực trí tuệ, đặc biệt là của đội ngũ trí thức, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" mà chưa có một giải pháp nào khắc phục hữu hiệu. Những hạn chế này trong việc phát huy nguồn lực nội sinh sẽ là nguyên nhân làm suy giảm dòng chaỷ đầu tư từ nước ngoài vào nước ta, gây khó khăn cho nền kinh tế . Trước những thách thức về khủng hoảng kinh tế khu vực và trên thế giới, việc giải quyết những nhược điểm trên đây trong chính sách vĩ mô về phát huy nội lực nền kinh tế sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Từ thực tế nền kinh tế của một số quốc gia trong khu vực Đông năm á như Thái lan, Indonêxia, Malaisia, Philipin . nhiều nhà kinh tế phải thừa nhận rằng: Thị trường chứng khoán là một trong những tác nhân làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Và do vậy, không chỉ có người dân cảm thấy lo ngại khi đầu tư vào chứng khoán, mà chính các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán cũng không thật sự an tâm. Tuy nhiên, cũng chính thực tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cho thấy, họ đã đạt được những bước tiến đáng kể sau khi xây dựng thành công thị trường chứng khoán. Trong sự chuyển động của nền kinh tế Việt Nam theo xu hướng đổi mới, thông qua các hoạt động đa dạng của nó, thị trường chứng khoán Việt nam sẽ được hình thành và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Nó sẽ không chỉ phát huy được nội lực của nền kinh tế mà còn thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" như lời chủ tịch Hồ chí Minh đã nói. Điều này cho thấy, sự thành lập thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt nam là thực sự quan trọng và rất cần thiết; nó cho thấy rằng, Đảng và chính phủ ta đã có những chủ trương và đường lối hoàn toàn đúng đắn. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và hiểu biết về TTCK là rất cần thiết đối với chúng ta (những nhà kinh tế tương lai). TTCK là một vấn đề rộng lớn và rất phức tạp, vì vậy trong phạm vi đề án này, tôi xin trình bày về "Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế và mối quan hệ với công ty cổ phần" Mong muốn thì nhiều nhưng vì khả năng và trình độ có hạn cho nên ở tập đề án này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Nhưng với trách nhiệm là một nhà kinh tế tương lai trước vận hội mới của đất nước, tôi mong muốn được tiếp tục nghiên cứu để có thêm những tri thức đúng đắn và hoàn thiện hơn nữa, góp phần nhỏ bé của mình trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Rất mong được bạn đọc gần xa góp ý kiến để đề án của tôi được hoàn thiện hơn.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3333 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế mối quan hệ với công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc mua bán cổ phiếu và chứng khoán ở quốc gia khác, hoặc thậm chí có thể mua chỗ giao dịch trong TTCK của nước khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến quá trình quốc tế hoá đó. Những nguyên nhân cơ bản nhất và quan trọng nhất là: Thứ nhất, vào cuối những năm 70, đặc biệt là đầu những năm 80, nền chính trị thế giới có nhiều dấu hiệu sáng sủa. Sự xích lại gần nhau giữa các cường quốc cộng sản và phương tây mở ra một triển vọng kết thúc chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa kéo dài từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Điều đó có nghĩa là một môi trường mới và an toàn cho đầu tư sang các khu vực của thế giới được mở ra. Mặt khác đó cũng là thời điểm mà hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trước đây bắt đầu tiến hành các cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Đây là những nguyên nhân quan trọng của khuynh hướng mở rộng đầu tư ra nước ngoài trên thế giới, thậm chí đầu tư cả vào các nước xã hội chủ nghĩa". Sự mở rộng đầu tư quốc tế như vậy tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện nhu cầu huy động vốn quy mô quốc tế. Một công ty khi đầu tư ra nước ngoài không dại gì chỉ nghĩ đến việc đưa vốn của riêng mình ra nước ngoài. Trái lại huy động vốn tại chỗ và nhiều nơi trên thế giới, nếu có thể, được coi là có hiệu quả nhất. Nói cách khác nhu cầu huy động vốn có tính chất quốc tế nhằm mục đích đầu tư ra nước ngoài là tất yếu. Thứ hai, thêm vào đó, trong giai đoạn này nền công nghệ thế giới đã đạt đến trình độ đỉnh cao. Điều đó cho thấy việc đầu tư bây giờ muốn thực hiện được đòi hỏi phải có một khối lượng vốn rất lớn mới có thể tiến hành được. Để đáp ứng được điều đó, việc huy động vốn trên quy mô thế giới là điều tất yếu. Thứ ba, kể từ cuối thập kỷ 70 cho đến hết thập kỷ 80 nền kinh tế thế giới phát triển rất thuận lợi và tốt đẹp. Đây là thời kỳ nền kinh tế của các nước tư bản phát triển rất thuận lợi với tốc độ cao. Đồng thời đây cũng là giai đoạn nhiều nước gọi là "các nước mới công nghiệp hoá (NICs)" ra đời ở châu Á và châu Mỹ La tinh. Thật vậy thu nhập ở hầu hết các khu vực trên thế giới đều tăng lên. Do đó một lượng tiền nhàn rỗi, và theo đó là nhu cầu tiết kiệm và đầu tư trong các tầng lớp dân cư bắt đầu xuất hiện trên quy moo thế giới. Như vậy, bên cạnh nhu cầu huy động vốn, thì đồng thời đã xuất hiện khả năng đáp ứng nhu cầu đó trên thực tế. Thứ tư, thập kỷ 70 và đặc biệt là thập kỷ 80 là thời kỳ phát triển rực rỡ của công nghệ Computer. Với sự xuất hiện của Computer toàn bộ khối lượng giao dịch mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu và chứng khoán khổng lồ trên toàn thế giới có thể tiến hành được. Mặc dù vẫn còn một số trục chặc như đã thấy hồi năm 1987 và 1989, song về cơ bản toàn bộ các giao dịch chứng khoán đã được kiểm soát an toàn dựa trên cơ sở áp dụng Computer trong sử lý giao dịch tại các TTCK. Nói cách khác, về mặt kỹ thuật của sự toàn cầu hoá thị trường chứng khoán đã được đảm bảo. Như vậy, TTCK đã hội đủ các điều kiện cần và đủ cho sự quốc tế hoá của nó. Quốc tế hoá TTCK - đó là một công cụ giúp các nước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Tóm lại, về mặt lịch sử hình thành và phát triển của TTCK, có thể chia làm ba giai đoạn: giai đoạn một là giai đoạn từ thế kỷ 15 và 16 đến cuối thế kỷ 19 trong đó người ta mua bán chủ yếu các thương phiếu và trái phiếu; giai đoạn hai là từ cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của công ty cổ phần, người ta mua bán thêm một loại chứng khoán khi đó chiếm ưu thế là cổ phiếu, đây là giai đoạn bùng nổ có tính cách mạng của TTCK; và giai đoạn thứ ba kể từ cuối thập kỷ 70 tới nay là giai đoạn quốc tế hoá của TTCK. TTCK rõ ràng đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung. Những mặt tiêu cực của nó nếu không được kiểm soát sẽ gây ra những hậu quả không tốt cho nền kinh tế và xã hội. Kiểm soát các hoạt động của TTCK để hạn chế những tiêu cực của nó chính là nhiệm vụ của chính phủ. Xét về điều kiện hình thành TTCK chúng ta thấy những điều kiện tiên quyết cho sự hình thành TTCK là: Thứ nhất, phải có nhu cầu huy động vốn, điều kiện này có thể nói lúc nào cũng sẵn sàng . Thứ hai, thu nhập của dân cư phải đến một mức độ nhất định làm nảy sinh nhu cầu đầu tư trực tiếp của những người tiết kiệm. Thứ ba, xuất hiện loại hàng hoá gọi là chứng khoán, trong đó cổ phiếu đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thứ tư, phải có một hệ thống luật pháp hữu hiệu để kiểm soát hoạt động của TTCK. PHẦN II: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG TTCK Ở NƯỚC TA I/ SỰ CẦN THIẾT THÀNH LẬP THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở NƯỚC TA. 1. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới theo Nghị quyết Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ: tốc độ tăng trưởng tương đối cao, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, các nguồn tiền tệ tích tụ trong mọi tầng lớp dân cư đã được động viên, khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau. Với chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, nhu cầu huy động vốn đầu tư ngày càng tăng và khả năng cung cấp vốn cũng ngày càng lớn mạnh. Trong cơ chế mới, hoạt động giao lưu vốn đã được khai thông và trên thực tế, một thị trường vốn đã hình thành và phát triển ở Việt nam. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trường vốn Việt nam cho tới nay còn chưa được quản lý, kiểm soát một cách đầy đủ, các công cụ của thị trường này chưa được hoàn chỉnh và chưa có sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đặc biệt, một công cụ quan trọng của thị trường vốn là thị trường chứng khoán cho tới nay vẫn chưa được hình thành. 2. Việc phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đã xoá bỏ tình trạng phân phối vốn theo địa chỉ và tạo điều kiện cho các nguồn vốn được tự do luân chuyển giữa người có vốn và người cần vốn. Ở đây, quan hệ cung cầu về vốn được giải quyết thông qua thị trường và theo cơ chế thị trường trên thị trường vốn. Thị trường vốn hoạt động dựa trên cơ sở 3 công cụ là: thị trường ngầm, thị trường tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán. - Thị trường ngầm xuất hiện từ rất lâu đời và ngày nay vẫn tồn tại, phát triển ở hầu hết các nước, đặc biệt ở các nước châu Á và trong cộng đồng người Hoa ở nước ngoài (Hoa Kiều). Ở nước ta , thị trường ngầm phát triển rất mạnh thông qua các hoạt động: chơi hụi, chơi họ, cho vay lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, cơ quan làng xóm. Gần đây, còn xuất hiện tình trạng các cơ quan xí nghiẹp tự đứng ra huy động vốn trong nội bộ cán bộ công nhân viên chức để kinh doanh, đây cũng là một biểu hiện của thị trường ngầm. Thị trường ngầm có ưu điểm là tổ chức đơn giản, chi phí giao dịch thấp, việc cung ứng vốn nhanh, gọn. Nhưng thị trường này lại có đặc điểm là phạm vi hoạt động hẹp, khối lượng vốn được giao dịch nhỏ, không có sự bảo đảm về mặt pháp lý thiếu sự kiểm soát của nhà nước, nên độ rủi ro rất cao, dễ rơi vào tình trạng đổ vỡ do tệ nạn lừa đảo phát sinh. - Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là thành lập các ngân hàng làm trung gian thu hút vốn để cung ứng cho nền kinh tế . Thị trường tín dụng ra đời từ nhiều thế kỷ nay và đã đạt được trình độ công nghệ rất cao. Ở tất cả các nước, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển không ngừng và đảm nhận khoảng 60-70% nhu cầu giao dịch vốn của nền kinh tế . Tuy nhiên, thị trường tín dụng mặc dù có nhiều ưu điểm, vẫn không tránh khỏi hạn chế, như: tính độc quyền về lãi suất (ngân hàng tự định ra lãi suất để vay hoặc cho vay); về điều kiện vay hoặc cho vay; về khối lượng vốn giao dịch. Đồng thời việc giao dịch vốn được thực hiện thông qua người trung gian là hệ thống ngân hàng đã tách rời người có vốn (người đầu tư) và người cần vốn (người sản xuất ), vì ngân hàng huy động vốn của tất cả khách hàng để tự mình quyết định việc cho vay, nên hiệu quả vốn đầu tư hoàn toàn phụ thuộc vào tính toán của Ngân hàng mà không có sự tham gia của nhà đầu tư (người cho Ngân hàng vay). Hơn nữa, việc kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tín dụng còn nhiều hạn chế. - TTCK là thị trường mua, bán các loại chứng khoán - những chứng chỉ đầu tư hoặc ghi nhận nợ với sự đảm bảo đem lại thu nhập trong những thời hạn nhất định. TTCK ra đời là một bước phát triển cao và hoàn thiện của thị trường vốn. Nguyên tăc hoạt động của thị trường này là: khi một người cần vốn, người đó sẽ phát hành ra một loại chứng khoán để bán cho người có vốn, người có vốn sẽ tự do lựa chọn mua loại chứng khoán thích hợp với mình. Đồng thời, nếu sau khi mua thấy cần phải bán đi để lấy tiền mặt hoặc để mua loại chứng khoán khác, thì TTCK cũng cung cấp khả năng để thoả mãn nhu cầu này. Giá cả của chứng khoán hoàn toàn do thị trường quyết định. Chứng khoán có hai loại: Trái phiếu (tức là chứng chỉ ghi nhận nợ có lãi suất cố định cho từng kỳ và có quy định thời hạn thanh toán), thuộc loại này có tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu công ty, công trái quốc gia... Cổ phiếu là chứng chỉ đầu tư. Loại này không có lãi suất cố định, mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu được chia thành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi .v.v.. TTCK chính là thị trường mua bán các loại cổ phiếu và trái phiếu. Do đó, có thể chia thị trường này thành thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu. Nếu căn cứ vào tính chất huy động vốn, thì TTCK được chia thành: Thị trường phát hành (hay còn gọi là thị trường cấp I), là thị trường mua bán các loại chứng khoán phát hành lần đầu. Chức năng cơ bản nhất của thị trường này là huy động vốn để đầu tư cho nền kinh tế, tức là làm tăng thêm vốn cho nền kinh tế. Thị trường giao dịch (hay còn gọi là thị trường thứ cấp), là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đó. Thị trường này không làm tăng thêm vốn để đầu tư cho nền kinh tế, chức năng cơ bản của nó là tạo sự giao lưu vốn và đánh giá hiệu quả hoạt động của nền kinh tế (nếu nền kinh tế có hiệu quả cao thì giá chứng khoán ở thị trường này sẽ lên cao và ngược lại). Đồng thời, thị trường thứ cấp cũng hậu thuẫn rất mạnh mẽ cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. TTCK là một công cụ rất quan trọng của thị trường vốn, cùng với thị trường tín dụng, TTCK sẽ hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thị trường ngầm, đồng thời khắc phục những khiếm khuyết của thị trường tín dụng. Với sự ra đời của TTCK, người đầu tư sẽ có nhiều khả năng lựa chọn lĩnh vực và hình thức đầu tư hơn. 3. Từ khi thực hiện chủ trương mở rộng quyền độc lập sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu của sự giao lưu vốn và thể hiện rõ nét nhất vào mấy năm gần đây, sau khi nhà nước thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường . Tuy nhiên, thị trường vốn chưa được thông suốt, dẫn đến tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp. Ở đây, có nhiều lý do, nhưng nguyên nhân cơ bản là do: Hình thức giao lưu vốn còn ít, chủ yếu vẫn qua hệ thống ngân hàng và thị trường ngầm. Cơ chế giao lưu vốn còn chịu sức ép nặng nề của các mệnh lệnh hành chính và các chỉ tiêu kế hoạch, làm mất đi nhu cầu giao lưu vốn. Từ thực trạng trên cho thấy, để nguồn vốn ở các thành phần kinh tế có thể giao lưu được thông suốt, cần phải đa dạng hoá các công cụ và phát triển thị trường vốn, trong đó, sự hình thành và phát triển của TTCK là hết sức cần thiết. Về vấn đề này, cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu đánh giá một cách toàn diện thì ở Việt nam, TTCK đã hình thành bước khởi đầu của một thị trường sơ cấp, vì bản thân thị trường này cũng còn nhiều hạn chế. Giá chứng khoán không được xác định theo nguyên tắc thị trường mà vẫn bán theo một giá ghi sẵn, giá cứng nhắc và áp đặt. Tất cả các chứng khoán đều ký danh, không được mua đi bán lại; phần lớn các loại chứng khoán có thời hạn ngắn (dưới 1 năm). Việc phát hành và bán chứng khoán mang tính chất "buông xuôi", không có một tổ chức đứng ra kinh doanh hoặc môi giới và đại lý, không tổ chức đấu thầu thị giá.v.v. Do đó, Việt Nam cần có một TTCK với một cơ cấu hoàn chỉnh, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và cần phải có chính sách và biện pháp để hoàn chỉnh cơ chế hoạt động của thị trường sơ cấp và thiết lập thị trường thứ cấp. Đây là vấn đề quan trọng, vì thị trường thứ cấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường sơ cấp trong việc phát hành các chứng khoán dài hạn. Những khó khăn của Việt nam trong thời gian vừa qua trong việc phát hành chứng khoán dài hạn một phần do chưa có thị trường thứ cấp để người sở hữu có thể bán chứng khoán của mình khi cần thiết. Như vậy việc thiết lập TTCK ở Việt nam là hết sức cần thiết, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các luồng vốn ở trong và ngoài nước được lưu chuyển thông suốt, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế . Hơn nữa, sự hiện diện của thị trường chứng khoán sẽ là dấu hiệu đánh dấu kết quả tốt đẹp của việc thực hiện chủ trương đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, TTCK là một thị trường cao cấp, một giai đoạn phát triển rất cao của thị trường vốn, nên việc chuẩn bị chu đáo cho sự ra đời của TTCK để tránh những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra cho nền kinh tế và cho xã hội là hết sức cần thiết. Vào cuối năm 1995 vừa qua, một ngân hàng thương mại cổ phần tại TP. Hồ Chí Minh đã mở đợt tăng vốn cổ phần đại chúng tức là bán cổ phần rộng rãi ra công chúng. Đây là một sự kiện đáng chú ý. Năm qua, theo quy định của Ngân hàng nhà nước, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô nhỏ, vốn điều lệ thấp muốn tồn tại đều phải tăng vốn điều lệ lên ít nhất 50 tỷ đồng. Trong bối cảnh đó, một số ít ngân hàng thương mại cổ phần đã huy động được vốn mới từ các cổ đông cũ góp thêm và mở rộng ra một số người thân quen. Đa số các ngân hàng thương mại cổ phần còn lại đều đang vất vả giải quyết bài toán tăng vốn điều lệ. Vì thế, đã có một vài ngân hàng thương mại cổ phần phải mời gọi công chúng góp vốn. Có thể xem đây là một tín hiệu cho thấy một TTCK phi chính thức đã bắt đầu tự phát hình thành giữa lúc một TTCK chính thức chưa ra đời. Đợt tăng vốn cổ phần đại chúng này cũng được xem như bước khởi đầu xuất hiện loại hình doanh nghiệp: công ty cổ phần đại chúng (Public company) - một loại công ty khai sinh ra TTCK. Loại công ty cổ phần này có đặc điểm phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng - khác với loại công ty cổ phần nội bộ (Private company) chỉ được phát hành cổ phiếu cho các đối tượng nội bộ là sáng lập viên và công nhân viên chức của công ty. Chính nhờ phát hành cho công chúng nắm giữ cổ phiếu họ mới có nhu cầu mua đi bán lại các cổ phiêú đó, tạo nên một TTCK thứ cấp. Điều này cũng cho thấy, mặc dù nhà nước chưa thiết lập TTCK thứ cấp và chính thức - thường được gọi là sở giao dịch chứng khoán. Nhưng một khi đã ban hành luật công ty sẽ ngày càng có nhiều loại doanh nghiệp là công ty cổ phần nội bộ ra đời. Dần dần, do nhu cầu tăng vốn, các công ty này sẽ tiến lên thành công ty cổ phần đại chúng và dẫn đến TTCK. Đó là diễn biến hình thành và phát triển tự phát một TTCK phi chính thức. Thực tế đó cho thấy Việt Nam đã đến lúc cần một TTCK. Tất nhiên, nói tới TTCK là chủ yếu đề cập đến TTCK thứ cấp. Nếu chỉ có phát hành chứng khoán không thôi, thì không được gọi là TTCK. Vì chỉ khi có hoạt động mua bán chứng khoán đã phát hành thì mới có các đặc trưng riêng, hứng thú và hấp dẫn của TTCK. Trong khi chưa có TTCK như vậy, Nhà nước cũng nên sớm ban hành nghị định về phát triển và giao dịch chứng khoán chứ không nhất thiết phaỉ chờ đợi đến ngày khai trương Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, để điều chỉnh các hoạt động của TTCK phi chính thức, phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. II/ HÀNG HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Chúng ta đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết ban đầu để cho ra đời TTCK. Như chuẩn bị khung pháp lý, đào tạo cán bộ, chuẩn bị cơ sở vật chất v.v... tuy vậy, vấn đề hết sức quan trọng cần quan tâm là chuẩn bị hàng hóa cho thị trường nó, trong đó cổ phiếu là hàng hóa cơ bản quan trọng nhất. 1. Hàng hóa của thị trường chứng khoán Là thị trường, TTCK cũng có những hàng hóa như các thị trường khác. Hàng hóa của TTCK không phải là cái gì khác mà chính là chứng koán. Chứng khoán là những chứng thư chứng nhận của người sở hữu nó có một khoản tài sản tài chính đã đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần như các loại cổ phiếu, các khoản vay của chính phủ, như các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị; các khoản vay của các doanh nghiệp như trái phiếu doanh nghiệp; các khoản vay của các chủ công trình, như trái phiếu công trình, cũng như các chứng thư khác thuộc công cụ của TTCK, như chứng chỉ đầu tư, trái quyền, quyền tiên mại (right), hợp đồng tương lai v.v.. Hàng hóa của TTCK ngày càng phát triển và phong phú lên theo sự phát triển và tính chất thị trường của nền kinh tế. Bởi vậy, chủng loại hàng hóa của TTCK trong nền kinh tế phát triển rất đa dạng. Trong dự thảo pháp lệnh TTCK, chứng khoán được định nghĩa như sau: Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán (dưới dạng giấy tờ hoặc ghi trên hệ thống điện tử) xác nhận quyền của người nắm giữ chứng khoán đối với tài sản, vốn, bất động sản, lợi nhuận, thu nhập của người phát hành chứng khoán. Nhưng chúng ta nên phân biệt ở đây3 khái niệm cơ bản là: Cổ phiếu, trái phiếu và tín phiếu. Cổ phiếu là chứng chỉ chứng nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu tại công ty cổ phần. Dự thảo Pháp lệnh chứng khoán và TTCK định nghĩa: “Cổ phiếu là một loại chứng khoán xác nhận một số quyền của người sở hữu cổ phiếu đối với công ty cổ phần: gồm quyền sở hữu đối với tài sản của công ty cổ phần, quyền được biểu quyết, quyền nhận cổ tức, quyền ưu tiên cổ phiếu đợt mới”. Khi bạn mua cổ phiếu bạn sẽ trở thành cổ đông. Thông thường cổ đông được tham gia quyết định những việc quan trọng của công ty cổ phần, như bầu ban lãnh đạo công ty, quyết định những phương hướng kinh doanh cơ bản của công ty... Bạn càng có nhiều cổ phiếu thì vai trò của bạn trong công ty càng lớn. Hàng năm doanh nghiệp cổ phần dành ra một phần tiền lãi để chia cho các cổ phần (dividen - cổ tức). Như vậy, mua cổ phần hàng năm bạn sẽ nhận được lãi cổ phần hay lãi cổ tức. Mức lãi đưa ra để chia cho cổ phần phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và quyết định của đại hội cổ đông về tỷ giá tiền lãi đưa ra để chia. Cổ phiếu về nhiều loại: + Cổ phiếu thường + Cổ phiếu ưu đãi + Cổ phiếu ưu đãi dự phần + Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại + Cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi Hiện nay chúng ta có hơn 190 công ty cổ phần, trong đó có khoảng 51 ngân hàng cổ phần (31 ngân hàng cổ phần đô thị và 20 ngân hàng cổ phần nông thôn). Tuy nhiên, rất ít công ty cổ phần đại chúng (công ty cổ phần đại chứng được hiểu là công ty bán ít nhất 20% số cổ phiếu” cho các cổ đông bé nắm giữ dưới 1% cổ phiếu). Theo phòng tổng hợp. Vụ các định chế tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì 100% cổ phiếu của 51 ngân hàng cổ phần trên đều ghi danh và chưa được mua bán như hàng hóa trên TTCK trong vài năm tới. Trái phiếu là chứng chỉ tiền vay, nhưng vay dài hạn, thông thường trên 1 năm. Mua trái phiếu bạn sẽ nhận được một khoản lãi. Khi bạn mua trái phiếu kho bạc chẳng hạn, khi đó kho bạc chứng nhận đã vay bạn một khoản tiền và hứa trả cả gốc và lãi vào một thời điểm nào đó trong tương lai và người ta gọi là thời gian đáo hạn. Trái phiếu kho bạc hiện nay có các loại: thời hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm. Như vậy, nếu mua trái phiếu, đến thời hạn đáo hạn sẽ nhận được cả gốc và lãi. Cũng có trường hợp trái phiếu quy định trả lãi nhiều kỳ trong khoảng thời gian đáo hạn (còn gọi là trái phiếu cupôn), giả sử trả lãi 6 tháng, hay 1 năm 1 lần. Đối với loại trái phiếu này, lại sẽ được nhập vào vốn tại thời điểm trả lãi. Trong dự thảo pháp lệnh chứng khoán và TTCK: “Trái phiếu là một loại chứng khoán do Chính phủ hay pháp nhân phát hành xác nhận quyền chủ nợ của người sở hữu trái phiếu đối với vốn gốc và lãi”. Trái phiếu có nhiều loại: + Trái phiếu kho bạc nhà nước + Công trái + Trái phiếu công ty + Trái phiếu có thế chấp + Trái phiếu tín chấp + Trái phiếu cầm cố ưu tiên + Trái phiếu thu nhập + Trái phiếu chuyển đổi + Trái phiếu chiết khấu + Trái phiếu lãi suất thả nổi + Trái phiếu công trình + Trái phiếu chính quyền địa phương + Kỳ phiếu: Là trái phiếu công tynhưng do ngân hàng phát hành Cũng có ý kiến nên phát triển trái phiếu ở nước ta trước, bởi vì loại hàng hóa này của chúng ta hiện nay khá phong phú: Theo ước tính sơ bộ từ tháng 6 năm 1995 đến 29/10/1997 thì kho bạc nhà nước đã phát hành một lượng trái phiếu kho bạc có giá trị đến 2000 tỷ đồng. Nếu tính chung cho thời kỳ 1991-1995 thì trái phiếu đã được phát hành theo niên hạn như sau: Thời hạn 2 năm đã 9365 tỷ; trái phiếu công trình thời hạn 3-5 năm là 630 tỷ. Riêng năm 1997 kho bạc nhà nước đã phát hành 2914 tỷ đồng trái phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn hai năm trở lên. Dự tính trong năm 1998 chính phủ sẽ phát hành 5000 tỷ để bù đắp cho ngân sách và 3000 tỷ cho 3 dự án quốc gia lớn là: Lọc hóa dầu Dung Quất, khí đạm miền Nam và Dự án trồng rừng. Đây là một lực lượng hàng hóa hùng hậu tham gia TTCK. Còn tín phiếu là công cụ vaycủa thị trường tiền tệ, thông thường là dưới 1 năm và nó không thuộc phạm trù hàng hóa của TTCK. Trong thời kỳ 1991-1996 kho bạc cũng đã phát hành đến 14334 tỷ đồng tín phiếu. Năm 1997 kho bạc nhà nước cũng đã phát hành 2913,9 tỷ đồng trái phiếu trong 37 phiếu đấu thầu. Một số loại hàng hóa khác của TTCK: + Chứng quyền, chứng khế + Chứng chỉ đầu tư + Hợp đồng quyền lựa chọn: Mua, bán Hàng hóa của TTCK sẽ phong phú và đa dạng theo tiến trình phát triển của thị trường tài chính, của tính thị trường của sản xuất xã hội. Hẳn mỗi chúng ta, hay chúng ta đã chứng kiến anh chị em, bè bạn chúng ta mua công trái, trái phiếu kho bạc nhà nước, cổ phần của một công ty nào đó... Và như vậy chúng ta đã tham gia vào công trái rồi đó. TTCK được tạo ra để giúp bạn có thể mua bán dễ dàng các chứng khoán kể trên. Ví dụ khi cần vốn để đầu tư vào việc khác bạn có thể đưa chứng khoán của bạn ra “chợ chứng khoán” (sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán) để bán, ngược lại nếu bạn có vốn nhàn rỗi, bạn có thể mua chứng khoán để đầu tư. Người ta chia TTCK ra thành 2 thị trường con: thị trường sơ cấp: tại thị trường này xảy ra việc mua bán lần đầu chứng khoán và tạo vốn cho người phát hành và thị trường thứ cấp là nơi mua đi bán lại chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ cấp. Chứng khoán có thể được mua bán, trao đổi tại sở giao dịch chứng khoán, thị trường tập trung (The Stock Exchange), hay thị trường phi tập trung (Over The Cointer: OTC). Trong cơ cấu hàng hóa của TTCK thì cổ phiếu thông thường đóng vai trò hết sức quan trọng. Mua cổ phiếu trở thành phong trào của toàn dân ở các nước kinh tế thị trường phát triển, ví dụ ở Mỹ có đến 70% dân số mua cổ phần và là cổ đông. Kinh nghiệm phát triển kinh tế quốc tế cho thấy, sự phát triển của TTCK phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường cổ phiếu. Đối với các nước đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường như Hunggary, Ba Lan, Trung Quốc thì sự phát triển đó liên quan rất mật thiết đến việc cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa càng thành công thì càng tạo được nhiều hàng hóa cho TTCK và từ đó tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Ngược lại, TTCK cũng sẽ phát huy tác dụng của nó và sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hóa. 2. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ra sao? Đảng và Chính phủ có quyết tâm rất cao trong việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chính sách cổ phần hóa nói chung. Từ Nghị quyết hội nghị TƯ II (tháng 11/91), BCHTƯ khóa VII; Nghị quyết đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994); Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ngày 17/3/1995); Nghị quyết đại hội VIII của Đảng; Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX đều đã khẳng định điều đó. Cụ thể chính phủ đã có các quyết định sau: Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990; số 202/TC ngày 8/6/1992; Chỉ thị 84/TTg này 4/3/1993; Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996; Ngày 4/4/1997 đã có công văn số 63-TB/TW thông báo ý kiến của Bộ Chính trị “về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”. Và gần đây nhất, chính phủ đã có côngvăn 658/TTg: “Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy, triển khai cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”. Chúng ta cũng có ban chỉ đạo Trung ương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đây là việc làm vừa hợp ý đảng vừa phù hợp với quyền lợi của nhân dân và là điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy TTCK phát triển. Sau gần 3 năm thí điểm, tổng kết kết quả của 13 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa đầu tiên thì thấy các doanh nghiệp này đã thể hiện rõ tính ưu việt của mình: Vốn huy động được đã tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, vì vậy năng suất hiệu quả đã được tăng lên. Quyền lợi của người lao động gắn liền với công ty, nên người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn: Lãnh đạo công ty cũng cố gắng hơn; Đời sống của người lao động cũng được cải thiện hơn; Phần đóng góp vào ngân sách ngày một lớn hơn. Cụ thể là: - Vốn bình quân tăng 45% - Doanh thu tăng bình quân 56,9% năm - Lợi nhuận tăng bình quân 70,2% - Nộp ngân sách tăng bình quân 98% năm - Việc làm tăng bình quân 56,8% năm - Thu nhập người lao động tăng bình quân 20% năm - Tỷ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6%. Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hóa như vậy là rất chậm, tính đến cuối tháng 1/1998 có 20 doanh nghiệp thực hiện được cổ phần hóa (Dự báo nếu tích cực thì năm 1998 có thể thực hiện được 150 doanh nghiệp). Nguyên nhân của sự chậm trễ có nhiều, nhưng các nguyên nhân chính của nó là: Thứ nhất, do nhận thức, vẫn còn tư tưởng sợ “Chệnh hướng XHCN”. Các cấp ủy đảng và chính quyền chưa quán triệt đầy đủ chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nên chưa chủ động triển khai. Chưa quán triệt được tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị: “Cổ phần hóa không đồng nghĩa với tư nhân hóa”. Thứ hai, cán bộ lãnh đạo và công nhân viên các doanh nghiệp còn nhiều băn khoăn, lo lắng về vị trí công tác, việc làm, thu nhập, đời sống khi thực hiện cổ phần hóa. Tâm lý e ngại, chờ đợi còn phổ biến. Thứ ba, Một số quy định của Trung ương chưa cụ thể. các văn bản pháp quy ban hành còn chậm, thủ tục còn phiền hà, các chế độ, chính sách đối với công ty cổ phần chưa phù hợp, như chế độ vay ngân hàng, chế độ với người lao động... chưa thỏa đáng, chưa thật sự khuyến khích cổ phần hóa, làm cho việc triển khai gặp khó khăn, lúng túng. Việc chỉ đạo thiếu thường xuyên, sâu sát và còn dàn đều, chưa tập trung vào một số địa phương, ngành trọng điểm. Thứ tư, tỷ lệ cổ phần dành cho xã hội quá ít. Việc tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân, CBCNV thuộc doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp dự định cổ phần hóa. Đây là sự nghiệp của toàn dân mà nhân dân chưa quan tâm nên chưa thể triển khai được nhiều. Thứ năm, môi trường kinh tế chưa đầy đủ, chưa có những hình thức, cơ chế gọi vốn và giao dịch chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay để nhân dân có thể góp vốn và mua bán chứng khoán một cách dễ dàng. Bởi vậy, trong chỉ thị số 658/TTg ngày 20 tháng 8 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ: 1. Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hóa rà soát lại các văn bản hiện hành, trình chính phủ sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Bộ chính trị. 2. Các Bộ chức năng rà soát lại các văn bản đã ban hành, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đẩy nhanh việc thực hiện chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND các cấp cần quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và Chính phủ và phải giải thích cho nhân dân và người lao động về công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong nhận thức về công tác này. Đồng thời tuyên truyền để mọi người thấy rõ lợi ích bỏ vốn đầu tư vào sản xuất thông qua việc mua bán cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hóa. 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng nguyên tắc phân loại doanh nghiệp cần giữ 100% vốn nhà nước, loại nhà nước cần năm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt để trình chính phủ xem xét. 5. Các Bộ ngành dựa vào nguyên tắc ở điểm 4 trên đây lập danh mục những doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn cổ phần hóa trong năm 1997 và 1998. 6. Khẩn trương kiện toàn bộ máy, bổ sung thành viên cho các Ban chỉ đạo cổ phần hóa từ trung ương đến địa phương, ở các Bộ và các ngành. 7. Có kế hoạch cổ phần hóa cụ thể trong năm 1997 và tiến hành cổ phần hóa đặc biệt là các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa -Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương... 8. Hàng tháng các bộ, địa phương có tổng kết báo cáo tình hình lên Ban cổ phần hóa trung ương để tổng hợp trình Chính phủ. 9. Giao cho UBCKNN chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng đề án thành lập trung tâm giao dịch cổ phiếu, trái phiếu. Công việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một biện pháp trong mục tiêu chung về đổi mới doanh nghiệp của Đảng và Chính phủ. Đây là công việc của toàn Đảng toàn dân, nó liên quan đến rất nhiều mặt khác của đời sống kinh tế, xã hội. Bởi vậy, nó đòi hỏi sự cố gắng chung của tất cả các ngành các cấp và sự ủng hộ của nhân dân, nhất là CBCNV tại các doanh nghiệp cổ phần hóa, cũng như sự chỉ đạo thường xuyên, sâu sát và kiên quyết của Chính phủ. Chúng ta hy vọng rằng công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ có bước tiến vượt bậc trong thời gian tới và nó sẽ là nhân tố quan trọng trợ giúp để phát triển TTCK ở nước ta. Đồng thời sớm cho ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng sẽ là động lực thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. III/ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã trải qua hơn 10 năm cùng với sự tham gia tích cực và đông đảo của nhiều thành phần kinh tế. Vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) và xây dựng TTCK, nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn đầu tư và nâng cao chất lượng quản lý kinh tế đang là một vấn đề nổi cộm hiện nay. Từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19, các CTCP phát triển ở các ngành ngân hàng, giao thông vận tải, một số ngành sự nghiệp công cộng ở châu Âu. Nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ 10 các CTCP mới phát triển rộng rãi. Điều này đã làm thay đổi căn bản cơ cấu các loại chứng khoán, tạo điều kiện cho TTCK hoạt động với những sản phẩm đích thực như cổ phiếu, trái phiếu... và tăng thêm sự hưng thịnh của kinh tế và xã hội. Chỉ khi có sự tham gia của các CTCP, các TTCK mới thực sự sôi động. TTCK chính là con đẻ tất yếu của việc xã hội hóa sản xuất, ra đời và hoạt động chủ yếu theo con đường tự phát. Đến thế kỷ 20, quá trình tập trung và tích tụ tư bản mạnh mẽ đã cho phép các ngân hàng lớn, các CTCP và tổ chức lũng đoạn tham gia đầu tư và đầu cơ vào TTCK. Ngày nay, không thể hình dung một TTCK quốc gia và quốc tế mà không có sự hiện diện của các CTCP hoạt động ở các ngành kinh tế khác nhau. TTCK có nhiều tác động tích cực đối với các CTCP, TTCK giúp thành lập các CTCP công cộng hoặc CPH DNNN và doanh nghiệp tư nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu một cách công khai. Nhờ có TTCK mà giá trị của cổ phiếu được xác định một cách chính xác, việc huy động vốn từ công chứng nhanh chóng hơn, bảo vệ được quyền lợi của người đầu tư. TTCK là một kênh tạo vốn cho các công ty bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc vay vốn tù công chúng bằng cách phát hành trái phiếu công khai, hợp pháp. Muốn vậy, TTCK đòi hỏi các công ty phải công khai hóa về tài chính, mục đích sử dụng vốn, khả năng sinh lời... Điều này sẽ giúp công ty hoàn chỉnh về công tác kế toán, thanh toán, thống kê, quản trị... Khi mà giá cổ phiếu sẽ có điều kiện tăng lên bởi lòng tin của thị trường và công chúng. TTCK rất có lợi cho các nhà quản trị doanh nghiệp. Thị trường cung cấp cho họ cách làm việc khoa học, buộc họ phải rèn luyện phương pháp quản lý cho phù hợp với thực tiễn. TTCK chỉ chấp nhận các chứng khoán tốt của công ty làm ăn tốt, dân chúng chỉ chấp nhận các chứng khoán tốt. Muốn vậy, Công typhải có ban quản trị tốt, nếu không, cổ đông sẽ bãi miễn họ trước nhiệm kỳ. TTCK giúp công ty thực hiện linh hoạt, có hiệu quả các ý định về tài sản của họ. Với nhiều nghiệp vụ chứng khoán như nghiệp vụ chào mua công khai...., mà các doanh nghiệp có thể hợp nhất lại với nhau để tạo thành các công ty lớn hơn về tài sản và thanh thế, hoạc là loại bỏ lẫn nhau một cách hợp pháp và công khai. Các hoạt động giải thể hay phá sản công ty có thể thực hiện công bằng thông qua thị trường cổ phiếu. Ở đó, thị trường sẽ giúp đánh giá tài sản của công ty, phân chia tài sản... TTCK cũng là nơi để các công ty có thể thực hiện các ý định đầu tư trung và dài hạn bằng cách mua cổ phiếu của các chủ thể khác, như đầu cơ vào chứng khoán có độ rủi ro cao, quyết định xây dựng một xí nghiệp mới, mua một công ty con, triển vọng liên kết với nước ngoài. TTCK cũng giúp công ty khuyếch trương thanh thế và uy tín, nhất là các công ty được niêm yết ở Sở Giao dịch chứng khoán. Tùy vào mức độ tài sản của mình, mà các công ty có thể tham gia vào các loại TTCK tương ứng. Một công ty có tên trong Sở giao dịch chứng khoán bao giờ cũng có uy tín cao, được thị trường quảng cáo trên các phương tiện thông tin công cộng; qua đó mà có khả năng thuận lợi hơn khi cần huy động vốn. Khi gia nhập vào TTCK, các công ty đồng thời cũng được tiếp nhận và sử dụng dòng thông tin công cộng, qua hệ thống thông tin thị trường một cách công khai, hợp pháp. Nhờ đó, công ty sẽ tránh được việc đầu tư vào chứng khoán mang tính chất cờ bạc, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. TTCK là một phương cách giúp công ty bước dần vào thị trường tài chính quốc tế, buộc công ty phải năng động hơn, trưởng thành hơn trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường, đã được xã hội hóa và quốc tế hóa cao. Ngược lại, các CTCP cũng có mối quan hệ biện chứng đối với TTCK. Theo cách nói của người Đức, thì kinh tế thị trường bắt đầu từ cổ phiếu. Nếu gọi cổ phiếu là A (Active), thì phải gọi là B và TTCK (Borse). Cổ phiếu là loại chứng khoán đích thực nhất trong các loại sản phẩm tài chính trung và dài hạn, nó là hiện thân của một loại tư bản đặc biệt - tư bản tự có - mà tư bản là tiền cộng với lòng tin. Cổ phiếu đem lại cho doanh nghiệp nào có được về khả năng gọi và sử dụng vốn, tổ chức điều hành, quản lý... Người duy nhất được sáng tạo ra cổ phiếu là CTCP - loại chủ thể quan trọng tác động cả về phía cung và cầu của TTCK. Đối với các CTCP riêng biệt hoạt động trong các ngành kinh tế thì TTCK là một sân chơi bình đẳng mà họ có thể thử sức cả trong đầu tư và đầu cơ. Số lượng các CTCP công cộng càng nhiều thì số lượng và chủng loại chứng khoán càng phong phú, tạo cơ hội lựa chọn mục tiêu đầu tư và phân tán rủi ro cho người đầu tư. Đặc biệt, các CTCP hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, nhưcác ngân hàng cổ phần, công ty bảo hiểm cổ phần... có một vai trò quan trọng đối với TTCK. Thông thường, hầu hết các ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đều được đưa vào tổ chức của công ty cổ phần, do đó, mối liên hệ tự nhiên giữa các ngân hàng cổ phần và CTCP công nghiệp luôn diễn ra thường xuyên. Vì mục đích lợi nhuận mà công ty tham gia vào các nghiệp vụ và loại hình của TTCK. Trên thị trường sơ cấp, các tổ chức cổ phần này trực tiếp phát hành ra các loại cổ phiếu, trái phiếu... của mình để giải quyết nhu cầu về vốn trung và dài hạn của bản thân công ty. Các CTCP cũng hoạt động mạnh mẽ với tư cách người bảo lãnh phát hành, người đại lý phát hành hoặc tham gia đấu thầu phát hành cho các chủ thể phát hành khác. Họ có thể tư vấn cho các chủ thể này về thời điểm phát hành, mệnh giá, lãi suất... nhằm tạo ra các chứng khoán có độ dễ bán cao. Tren thị trường thứ cấp, các tổ chức cổ phần này có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ chứng khoán như môi giới, kinh doanh chứng khoán, lưu giữ chứng khoán cho khách hàng, thực hiện thanh toán bù trừ hoặc là quản lý chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán... Khả năng tham gia các nghiệp vụ này rộng hay hẹp, nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp ... của các tổ chức vào TTCK, phụ thuộc vào mức vốn tự có, cơ cấu tổ chức của hệ thống tài chính, luật lệ quy chế... Dĩ nhiên, các loại hình công ty khác cũng có thể thực hiện được các nghiệp vụ này, song các ngân hàng cổ phần, công ty bảo hiểm cổ phần... có ưu thế hơn hẳn về vốn, trình độ chuyên môn, mạng lưới khách hàng, thông tin thị trường, khả năng cạnh tranh... Mặt khác, cuộc hôn nhân giữa TTCK và CTCP không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Sự suy yếu của bản thân công ty sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền ở TTCK thông qua sự sụt giá cổ phiếu. Trào lưu lên giá của TTCK thường diễn ra khi các công ty làm ăn phát đạt và ngược lại. Khi TTCK có biến động bất thường thì các công ty thường do dự khi đầu vào chứng khoán. Khi chơi trò chơi chứng khoán, các công ty khó giữ được bí mật nghề nghiệp, bí mật tài chính do yêu cầu công khai hóa thông tin của thị trường hoặc là luôn đứng trước khả năng bị loại khỏi cuộc chơi do bị mua đứt hay phá sản... Nhìn chung, các công ty sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường thứ cấp và cùng với sự phát triển của các công ty, TTCK chắc chắn được mở rộng hơn. Việt Nam đang tiến tới xây dựng một TTCK chính thức để tạo thêm kênh huy động vốn trung và dài hạn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm về vấn đề này: Một là, phải đẩy mạnh cổ phần hóa, chỉ khi có được TTCK. Hai là, không cần chờ đến lúc có được kết quả khả quan của cổ phần hóa mới thành lập TTCK mà có thể phải dùng đến TTCK để thúc đẩy chương trình CPHDNNN. Sự lo ngại đó không phải là không có căn cứ. Tuy nhiên, xét về lý luận và thực tế lịch sử thì hiện nay Việt Nam nên đi theo quan điểm thứ hai vì: - Bước đi như vậy sẽ rút ngắn thời gian phát triển, giảm tốc độ tụt hậu của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới bằng cách tạo ra và sử dụng các hình thức kinh tế hiện đại. Mặt khác, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ thêm các hình thức huy động trong khi đang thiếu vốn đầu tư. Xét về khía cạnh hàng hóa của TTCK, có điều hàng hóa truyền thống và hiện đại ở TTCK như cổ phiếu, trái phiếu, các công ty tài chính tương tự khác (Derivatives)... ở nhiều TTCK truyền thống như Mỹ, Anh... TTCK bắt đầu từ việc kinh doanh trái phiếu chính phủ, sau đó mới có sự tham gia vào các cổ phiếu. Ở Việt Nam nếu chờ hình thành thị trường cổ phiếu rồi mới xây dựng TTCK thì sẽ kéo dài thời gian vì số lượng CTCP hiện còn quá ít. Thậm chí, nếu áp lực CPH DNNN được đẩy mạnh theo tinh thần nghị định 28/CP này 7/5/1996 thì tới năm 2000, chúng ta cố gắng có khoảng 150-200 DNNN được CPH trong một năm. Đây vẫn là một con số khiêm tốn, hơn nữa, tính công khai của cổ phiếu thấp, sự hiểu biết của công chúng về cổ phiếu còn chưa cao, môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh... Do đó, việc TTCK Việt Nam bắt đầu từ thị trường tín phiếu, trái phiếu là hợp lý, phù hợp với các điều kiện hiện có của đất nước, vì trái phiếu là loại chứng khoán đã khá quen thuộc ở Việt Nam, chủng loại khá phong phú, độ an toàn cao, việc mua bán trái phiếu trên thục tế cũng đã diễn ra. Thị trường trái phiếu sẽ tập dượt thói quen đầu tư chứng khoán cho công chúng, đúc rút kinh nghiệm vận hành và tổ chức TTCK ở buổi ban đầu. Cùng với tiến trình CPH, TTCK sẽ song song lưu hành cả cổ phiếu và trái phiếu, trong đó thị trường cổ phiếu sẽ phát triển từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao. Con đường xây dựng TTCK như vậy cũng đã được lịch sử thử nghiệm. - Về bản chất, TTCK là một thị trường có tổ chức, là nơi các chứng koán được mua bán theo những quy tắc đã được ấn định. Một TTCK hiện đại là nơi hội tụ của công nghệ thông tin hiện đại, trình độ tổ chức và chuyên môn cao. Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào TTCK cũng ở mức độ như vậy, mà nó còn là nơi kết hợp giữa thủ công, truyền thống và hiện đại. TTCK đầutiên ở Việt Nam chưa thể đạt tới ngay trình độ cao cấp, ở một mức độ phù hợp nó có thể hỗ trợ cho CPH DNNN khi mà trong gần 6000 DNNN có tới khoảng 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà gần 50% là doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Sau khi sắp xếp lại thì có khoảng 1/ 3 doanh nghiệp nhà nước có đủ chất lượng để phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Như vậy tiềm năng của thị trường cổ phiếu không phải là nhỏ. Một TTCK thích hợp sẽ tạo điều kiện giao dịch cổ phiếu thuận lợi hơn, xác định giá trị cổ phiếu đúng đắn hơn, và lôi cuốn dân cư vào quỹ đạo đầu tư chứng khoán hơn. - Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Khu vực tư nhân có trên 22000 doanh nghiệp với các loại hình như doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, CTCP... ngày càng phát triển. Khu vực này sẽ phát triển mạnh hơn khi đã có TTCK, gắn liền với TTCK, tham gia TTCK, khu vực tư nhân sẽ có điều kiện cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Một nền kinh tế thị trường phải có sự tham gia tương xứng của thành phần kinh tế tư bản. Như vậy, để thực hiện đồng thời các nhiệm vụ xây dựng TTCK và đẩy mạnh sự hoạt động của các CTCP, theo chúng tôi cần chú ý những vấn đề sau: 1. Đẩy mạnh quá trình thành lập CTCP: Các CTCP có thể được thành lập bằng nhiều cách và có nhiều hình thức CTCP. Vì vậy cần tiến hành đồng thời nhiều biện pháp đó. Thứ nhất, đẩy mạnh việc CPH các DNNN và doanh nghiệp tư nhân. CPH DNNN là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và nhà nước từ năm 1992 nhằm sắp xếp hợp lý khu vực kinh tế nhà nước, tăng thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế. Cho đến tháng 3/1997 mới có 11 DNNN được CPH. Quá trình này tiến hành quá chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân vì chưa có TTCK để tính toán giá trị tài sản, đảm bảo mức độ công khai của thông tin... Để thực hiện triệt để hơn nữa chương trình này thì điều tiên quyết là phải có quyết tâm cao của Chính phủ, thái độ kiên quyết của các cơ quan có trách nhiệm. Có được điều đó thì các trở ngại hiện nay về chính sách, cơ chế, thủ tục hành chính.... và về quan điểm, hiểu biết... trong CPH DNNN sẽ được giải quyết nhanh và triệt để. Việc thanh lọc, sắp xếp DNNN để xác định danh mục các DNNN được CPH và không CPH mà công khai danh sách này cho toàn dân biết là cần thiết, chứng tỏ quyết tâm cao của chính phủ và các cấp chính quyền nhà nước trong việc thúc đẩy CPH. Việc này phải tiến hành thường xuyên, nhiều lần. Công tác tuyên truyền về CPH DNNN là rất quan trọng. Khối lượng DNNN hiện nay là lớn, số lượng CBCNV trong các DNNN này không phải là nhỏ mà quyền lợi của họ sẽ thay đổi khi DNNN được CPH. Bản thân các DNNN cũng chưa được cung cấp đầy đủ các tài liệu hướng dẫn về CPH. Vì vậy, Ban chỉ đạo CPH DNNN cùng các cơ quan hữu quan cần thống nhất soạn thảo các quy trình, thủ tục hành chính, bước đi, ý nghĩa... của CPH và phát hành rộng rãi cho nhân dân. Huy động vốn thông qua CPH một bộ phận DNNN thực sự có hiệu quả vì có lợi cho cả ba phía: nhà nước, doanh nghiệp, người lao động. Việc CPH thành công các DNNN sẽ tạo ra sự thay đổi trong quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời là trọng điểm trong việc xây dựng các CTCP ở Việt Nam. Thứ hai, cần quan tâm hơn nữa tới việc CPH các doanh nghiệp tư nhân. Nếu vào năm 1986, ở Việt Nam gần như chưa có các doanh nghiệp tư nhân thì tới nay, con số nàylên tới khoảng 22000. Họ gặp khó khăn thực sự về vốn, công nghệ kỹ thuật thấp, thiếu thông tin, khó tiếp cận thị trường trong và ngoài nước, chính sách chưa rõ ràng... Trong khi đó, đây lại là hình thức doanh nghiệp phù hợp với Việt Nam do tạo thêm công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập, tăng thu ngân sách, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế... Để góp phần giải quyết các khó khăn đó, nhà nước có thể và cần tạo điều kiện CPH các doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả, chuyển thành các CTCP. Quá trình này sẽ được tiến hành theo luật công ty và được hỗ trợ bởi các quy chế cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Thứ ba, khuyến khích thành lập các CTCP công cộng do các sáng lập viên tiến hành trong các ngành nghề được luật pháp cho phép. Hiện nay, công việc này chưa được quan tâm thích đáng, tuy trong xã hội có những người có vốn song không có năng lực kinh doanh, bên cạnh đó lại có những người có trình độ kinh doanh song không có vốn; hoặc là tầng lớp trung lưu có nhu cầu xuất vốn kinh doanh để thu lợi nhuận. Hầu như họ phải tự mày mò tìm hiểu trong hoàn cảnh luật pháp chưa đầy đủ, thống nhất tài liệu thiếu thốn... nhà nước cần có những quy chế rõ ràng về thủ tục, hình thức, bước đi... công khai và phát hành các ấn phẩm về vấn đề này. Một chiến được nâng cao hiểu biết của nhân dân về công ty cổ phần là điều không thể thiếu. 2. Xúc tiến thành lập TTCK ở Việt Nam: Trên cơ sở môi trường thể chế chung và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết. Nhiệm vụ hàng đầu mà Ủy ban chứng khoán nhà nước cần quan tâm là đào tạo cán bộ quản lý và tác nghiệp về đạo đức và trình độ kinh doanh. Đội ngũ này trước hết là cần thiết cho ủy ban chứng khoán, sau đó là những cán bộ làm việc trong các ngân hàng thương mại, công tay tài chính và một số thể chế tài chính khác sẽ tham gia trực tiếp vào TTCK. Một công việc không kém phần quan trọng và tiên quyết là chuẩn bị cơ cấu pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ bởi vì kinh doanh chứng khoán mang tính phức tạp cao. 3. Tăng cường sự hỗ trợ giữa TTCK và CTCP Trong thời gian đầu của TTCK Việt Nam, đa số các giao dịch sẽ là giao dịch về trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, các công typt hơn chắc chắn muốn bán cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ đầu tư giữa cho vay và vay cân bằng hơn. Những công ty cổ phần được thành lập từ quá trình CPH DNNN có uy tín sẽ là những công ty đầu tiên bán cổ phiếu ở thị trường này, sau đó sẽ là cổ phiếu của những CTCP nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam. Có thể sử dụng một thị trường chính thức để định giá cổ phiếu và giúp bán cổ phiếu rộng rãi. Trong trường hợp chưa có đủ điều kiện thành lập Sở giao dịch chứng khoán thì nhà nước có thể cho phép thành lập một Trung tâm giao dịch cổ phiếu để giúp cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu một cách hợp pháp và công khai. Nếu không sớm thực hiện điều này thì một thị trường phi chính thức đã hình thành từ khi có luật công ty sẽ có điều kiện mở rộng qua nhiều hình thức, đem lại nhiều tiêu cực cho công chúng và cho công tác quản lý TTCK sau này. Tóm lại, nếu kết hợp đồng bộ các vấn đề trên thì quá trình xây dựng TTCK ở Việt Nam sẽ có chất lượng hơn, góp phần đắc lực vào công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. PHẦN III: KẾT LUẬN Để xây dựng TTCK của Việt Nam theo mô hình trên đây, tôi thấy cần phải tiến hành một số công việc cơ bản sau đây: 1. Về hệ thống pháp lý chứng khoán Hiện nay Ủy ban chứng khoán nhà nước đã thống kê những điểm mâu thuẫn chính với văn bản pháp lý hiện hành. Trên cơ sở đó phân loại và có giải pháp xử lý như sau: - Những xung đột liên quan đến các luật đang trong quá trình sửa đổi (như luật công ty, luật ngân hàng...) thì phải đưa ngay vào các văn bản dự thảo sửa đổi. Những xung đột hoặc những điểm thiếu liên quan đến các văn bản chưa có chương trình sửa đổi thì phải xử lý bằng hai cách: + Những xung đột liên quan đến quyền sở hữu thì phải sửa đổi trước khi có thị trường. + Những xung đột khác không quan trọng thì có thể giải quyết dần dần. Về mức độ ban hành bản pháp lý chứng khoán, chính phủ đã quyết định soạn thảo ban hành pháp lệnh chứng khoán và TTCK. Cách thức này cho phép bảo đảm giá trị pháp lý tối thiểu cho hệ thống văn bản chứng khoán, mặt khác quá trình xây dựng thông qua không quá phức tạp. - Trong pháp lệnh sẽ đề cập đến tất cả các vấn đề chủ yếu nhưng không đi sâu vào chi tiết còn việc cụ thể hóa sẽ do Nghị định của Chính phủ và quy chế của UBCK thực hiện. 2. Về vấn đề đào tạo Việc đào tạo cán bộ có ý nghĩa rất quan trọng và phải đi trước một bước, chúng ta không thể có được TTCK nếu không có đội ngũ cán bộ có kiến thức và đạo đức hoạt động trên thị trường. Về cán bộ cần đào tạo các đối tượng sau: Cán bộ quản lý của UBCK Cán bộ vận hành tại SGDCK và các tổ chức phụ trợ Cán bộ kinh doanh chứng khoán Trong đó đào tạo cán bộ quản lý của UBCK và giáo viên cho TTCK cần đi trước một bước. 3. Hệ thống giám sát chứng khoán Để đảm bảo cho hoạt động của TTCK hoạt động một cách an toàn, công bằng và đi đúng định hướng XHCN, nhà nước cần phải tham gia chặt chẽ vào quá trình xây dựng, tổ chức và quản lý giám sát chặt chẽ thị trường. Có thể xây dựng 3 cấp giám sát như sau: Cấp giám sát táicac tổ chức kinh doanh chứng khoán; Cấp giám sát tại SGDCK; Cấp giám sát tại UBCK nhà nước. Bên cạnh việc theo dõi của các vụ chuyên môn, vụ thanh tra phải giám sát và thanh tra toàn bộ các hoạt động chứng khoán. Ngoài ra UBCK sẽ phải phối hợp với UBCK các nước để xử lý các vụ việc vi phạm liên quan đến các hoạt động kinh doanh chứng khoán ngoài biên giới. Cùng với việc củng cố hệ thống giám sát phải áp dụng chặt chẽ chế độ thông tin, báo cáo và chế độ kiểm toán kế toán nhằm khống chế và quản lý được từ đầu những vi phạm có thể xảy ra. Từ những nghiên cứu trên tôi xin mạnh dạn đề xuất một số vấn đề sau: a) Ổn định hoạt động của UBCK nhà nước b) Cơ sở pháp lý: Tập trung soạn thảo các văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK, bao gồm pháp lệnh, Nghị định Chính phủ, các quy chế và thông tư hướng dẫn dưới luật, các quy tắc và nội quy giao dịch, bổ sung và sửa đổi các văn bản có liên quan. c) Thúc đẩy chương trình cổ phần hóa và kiểm toán doanh nghiệp: TTCK có thể phát triển được trên cơ sở một nền kinh tế đã được cổ phần hóa. Đây là một yếu tố quan trọng, là điều kiện không thể thiếu trong khi hình thành TTCK, vì quá trình đó cho ra đời hàng loạt các doanh nghiệp, công ty có đủ điều kiện phát hành trái phiếu, cổ phiếu - là những chứng khoán của TTCK. d) Chuẩn bị hệ thống kế toán, thanh tra và phát triển các công ty kiểm toán. e) Đào tạo cán bộ f) Chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để hình thành SGDCK, xây dựng mô hình, lắp đặt trang thiết bị cho SGDCK và các tổ chức phụ trợ. g) Tổ chức tốt việc tuyên truyền, giải thích về hoạt động của TTCK để dân chúng hiểu, tin tưởng và tích cực tham gia đầu tư. h) Cấp giấy phép thành lập SGDCK và các tổ chức phụ trợ. i) Tổ chức vận hành thử hoạt động của SGDCK và các tổ chức phụ trợ k) Cấp giấy phép cho các công ty môi giới là thành viên SGDCK l) Lựa chọn các doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia phát hành CK m) Tiến hành niêm yết giá và giao dịch tại SGDCK.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThị trường chứng khoán với phát triển kinh tế & mối quan hệ với công ty cổ phần.doc
Luận văn liên quan