Đề tài Thị trường vàng Việt Nam thực trạng và giải pháp

Ở Việt Nam vàng đã được sử dụng rộng rãi thay thế các tiền tệ trong các giao dịch thương mại như bất động sản, phương tiện đi lại cho đến tận giữa thập niên 1990s. Chẳng có một thống kê nào có thể cho biết chính xác đã có bao nhiêu giao dịch thành công và tổng giá trị là bao nhiêu nhờ công cụ tiền tệ này. Cho đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường vàng Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ, cùng với nhiều biến động như sự ra đời của các trung tâm giao dịch vàng liên thông thế giới, việc đóng cửa các sàn giao dịch vàng sau hơn hai năm hoạt động, cho đến các chính sách xuất nhập khẩu vàng của nhà nước. Tất cả tạo nên một thị trường vàng Việt Nam sôi động và thu hút nhiều nhà đầu tư, cuộc chơi của các nhà đầu tư vàng Việt Nam mở rộng hơn với nhiều lựa chọn và đa dạng về công cụ đầu tư.

pdf85 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7656 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường vàng Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cán cân thương mại. Nhập vàng đồng nghĩa phải tiêu đi một số lượng lớn ngoại tệ nên cán cân ngoại tệ trong nước cũng bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó khi giá vàng tăng cao sẽ có trường hợp người ta gom đô la để nhập vàng dù và đường chính ngạch hay đường lậu đẩy tỷ giá USD/VNĐ tăng cao, điều đó gây không ít khó khăn cho việc nhập khẩu các mặt hàng khác. Trong các năm mà thị trường vàng có nhiều biến động lượng ngoại tệ cho nhập khẩu vàng tăng mạnh. Năm 2007 tổng giá trị nhập khẩu vàng của nước ta theo đường chính ngạch là 1,6 tỷ USD (70 tấn). Năm 2008 nước ta đã nhập đến 1,7 tỷ USD 45 tấn vàng trong quý 1 do tình hình nhập khẩu lượng vàng quá lớn dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại, Ngân hàng nhà nước đã phải cho ngừng nhập khẩu vàng trong suốt một năm rưỡi do tiêu tốn quá nhiều ngoại tệ. Giá vàng tăng cao còn ảnh hưởng đến giá vàng nguyên liệu trong việc chế tác sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu hay các đồ điện tử, các sản phẩm Việt Nam sẽ xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới, giá các sản phẩm đương 53 nhiên sẽ tăng theo giá vàng. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn giá hàng hoá tăng giá cũng là một bất lợi đối với sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam do Việt Nam vẫn được biết đến với nguồn nhân công cũng như nguồn nguyên liệu rẻ. 2.2. Ảnh hƣởng đến hoạt động đầu tƣ Trên thị trường tài chính hiện nay có bốn kênh đầu tư là vàng, chứng khoán, USD và bất động sản luôn được giới đầu tư quan tâm hàng đầu.Trong điều kiện nền kinh tế lạm phát cao năm 2007-2008 để tránh mất giá tiền tệ, nhiều người đã chọn tích trữ vàng thay vì tiền mặt và vào những lúc giá vàng trong nước có chênh lệch đáng kể so với giá vàng thế giới các nhà đầu cơ cũng tranh thủ mua đi bán lại để hưởng lời từ chênh lệch giá. Từ lúc thị trường vàng có nhiều biến động đến nay hiệu ứng của vàng đã thu hút không ít nhà đầu tư chuyển từ đầu tư chứng khoán, bất động sản và USD sang đầu tư vàng. Những ngày đầu năm 2008, khi mà bảng chứng khoảng liên tiếp bị bao trùm bởi màu đỏ thì thị trường vàng lại được hâm nóng bởi rất nhiều thông tin hỗ trợ. Thời điểm đó giới đầu tư nghĩ rằng đầu tư vào vàng có lời hơn và ít rủi ro hơn vào chứng khoán, họ ồ ạt bán chứng khoán ra để lấy tiền mặt đầu tư vào thị trường vàng. Việc bán ồ ạt các loại chứng khoán cùng một lúc của giới đầu tư cũng đồng thời làm cho giá chứng khoán nói chung giảm đi. Khi đó giới đầu tư đánh giá vàng là một nguồn ngoại tệ dự trữ an toàn và có tính dài lâu nhất. Cũng đầu năm đó, giá vàng liên tiếp lên những kỷ lục mới khiến cho nhiều nhà đầu tư đổ xô kinh doanh. Hơn thế nữa sự ra đời của sàn giao dịch vàng năm 2007 lại càng khiến cho vàng trở thành “ông vua” trong các kênh đầu tư. Xu hướng kinh doanh vàng dạng lướt song ngày càng trở nên nhiều hơn. Giá vàng biến động nhiều làm cho nguồn vay vàng tại các ngân hàng cũng tăng đáng kể, người đi vay sẽ đi vay vàng khi giá cao để bán ra kiếm lời và khi vàng giảm thì mua vào để trả lại ngân hàng. Thậm chí sức hút 54 của vàng còn thâm nhập vào những người dân. Họ đổ xô đi mua vàng để dự trữ, lượng vàng này không chiếm nhiều trên thị trường nhưng đó cũng là một hình thức đầu tư không quan tâm đến mức lời để tránh sự mất giá của đồng VNĐ Vàng luôn dịch chuyển, giá vàng luôn biến động không ngừng, ngày càng thấy rõ được sức nóng từ thị trường vàng và vàng có thực sự là kênh đầu tư an toàn. Rõ ràng giá vàng tăng là do đầu cơ, kể từ năm 2009 thì lượng vàng của SPDR Gold Trust, quỹ đầu tư vàng lớn thế giới đã tăng 33%. Cung vàng cũng là một yếu tố thực sự tác động đến giá vàng, nhiều nhà đầu tư nắm giữ vàng đã phải đối mặt với sự mất giá của những tài sản khác, khi đó họ phải bán vàng để bù lỗ. Những người bình thường cũng có động thái bán vàng khi mà suy thoái kinh tế như vậy sẽ làm tăng cung vàng trên thị trường mở và ngăn tăng giá. Bên cạnh đó giá dầu giảm mạnh từ năm 2008 do nhà đầu cơ bán ra để bù lỗ nhưng giá vàng lại không trượt dốc theo giá dầu. Rõ ràng là dòng tiền mới đã đổ vào vàng, nhiều người bán chứng khoán và các tài sản khác như bất động sản đô la để tái đầu tư vào vàng. Phần lớn đầu cơ vàng đều do động cơ lợi nhuận, khi mà tất cả các kênh đầu tư khác đều giảm giá do khủng hoảng kinh tế mang lại thì vàng vẫn “vững chân”. Vàng có thể coi là loại tiền tệ duy nhất không liên quan trực tiếp đến bất kỳ nền kinh tế quốc gia nào, với việc suy thoái kinh tế khiến sức mua ngoại tệ bị ảnh hưởng thì vàng là kênh đầu tư an toàn nhất. Song cũng là một phần trong thị trường tài chính, thị trường vàng cũng có thể thay đổi.[17] 2.3. Ảnh hƣớng đến thị trƣờng bất động sản Do khủng hoảng kinh tế, thị trường chứng khoán sụt giảm, lạm phát tăng cao cùng với kế hoạch cắt giảm chi tiêu, thị trường bất động sản năm 2007 và 2008 diễn ra trầm lắng, một phần là do sự ảnh hưởng từ thị trường vàng. Ở Việt Nam ở người ta sử dụng vàng làm đơn vị thanh toán và phương tiện 55 thanh toán trong giao dịch mua bán nhà đất, tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh phía Nam. Hàng ngày chúng ta đọc trong mục quảng cáo của không ít tờ báo đăng các tin rao bán: đất ở khu này, diện tích như thế này, giá 2 cây/1m 2, hay 9 chỉ/m2, hoặc biệt thự nọ giá 1.500 cây vàng. Việc công bố giao dịch như vậy cũng xuất hiện công khai trong các giao dịch địa ốc của các ngân hàng, như: ACB... Trong thực tế, ít người thanh toán trực tiếp với nhau bằng vàng, mà vàng chỉ là đơn vị thanh toán, người mua và người bán vẫn thanh toán với nhau bằng tiền mặt, chủ yếu là đồng Việt Nam. Giá đất vẫn được nhà đầu tư tính bằng vàng, vì vậy khi thị trường vàng biến động mà ở đây là sự tăng giá của vàng sẽ kéo theo tâm lý hoang mang cho người dân, những người đã mua nhà và trả bằng vàng hay những người có ý định mua nhà. Một trong các lý do khiên cho thị trường bất động sản bị ắch tắc là do rất ít giao dịch mua bán nhà bằng vàng thành công. Người mua rất ngại mua nhà do họ lo sợ giá vàng sẽ tiếp tục tăng cao, giá nhà bị đắt so với giá thực, trong khi đó người bán lại muốn giao dịch bằng vàng để hưởng chênh lệch khi giá vàng tăng song tính thanh khoản của căn nhà là rất thấp. Hơn thế nữa, khi giá vàng biến động theo xu hướng lên nhà đầu tư bất động sản chuyển qua đầu tư vàng, đầu tư vàng vừa cần vốn lớn, tính thanh khoản lại thấp, việc tìm người bán người mua khó hơn so với vàng lại không bị rằng buộc vào giấy tờ như bất động sản. 2.4. Ảnh hƣởng đến hàng hoá khác Khi thị trường vàng biến động một số hang hoá trong xã hội cũng bị kéo theo, mà ở đây đầu tiên là trang sức. Trang sức làm bằng vàng tất nhiên sẽ tăng giá theo vàng, thời điểm cuối năm là thời điểm trang sức được tiêu thụ lớn nhất do là mùa cưới và dịp tết cổ truyền, song do giá vàng những năm gần đây tăng cao, lượng trang sức vàng giảm mạnh trong những năm gần đây. Các loại trang sức khác như bạc hay bạch kim cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi giá 56 vàng. Các loại hang hoá tiêu dung hang ngày do không được trao đổi bằng vàng nên cũng không có nhiều biến động. 2.5. Ảnh hƣởng đến tâm lý và cuộc sống của nhân dân Nước ta là một trong số những trường hợp hiếm hoi khi mà cả vàng và ngoại tệ (chủ yếu là Đô la Mỹ) được sử dụng công khai bình đẳng như nhau trong các quan hệ cất trữ, thanh toán và giao dịch với ngân hang như nội tệ _Đồng Việt Nam, đồng tiền quốc gia. Vì vậy những biến động lớn của thị trường vàng gần đây ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý cũng như cuộc sống của người dân. Thực tế đã cho thấy rằng rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn, người dân sẵn sang chấp nhận rủi ro để kiểm được lợi nhuận rất lớn, và lợi nhuận đó được coi là cái giá của rủi ro họ nhận được. Đã có rất nhiều thời điểm giá vàng tăng cao, người dân đổ xô đi mua vàng làm giá vàng trong nước chênh lệch lớn với giá vàng thế giới, mà điểm hình là tháng 11 năm 2009, đã có lúc giá vàng lên vượt ngưỡng 29 triệu đồng/lượng chênh lệch gần 3triệu đồng so với giá vàng thế giới. Thị trường vàng trở nên hoảng loạn, người dân đổ xô đi rút tiền ở các ngân hang để mua vàng tích trữ, giá vàng tăng lên từng phút. Thị trường trở nên điên loạn với giá vàng bị thổi lên quá đáng. 57 Hình ảnh người dân xếp hang đi mua vàng ngày 11.11.2009 Hơn thế nữa, thị trường vàng biến động mạnh còn ảnh hưởng đến những người vay vàng đến kỳ trả nợ thi gánh nợ rất cao, do giá vàng lúc vay thấp hơn so với giá vàng lúc trả rất lớn. Đó là chưa kể tới lãi của ngân hang, chỉ tính riêng biến động giá vàng ngân hang đã được lợi rất lơn. Trong nền kinh tế hiếm có mặt hang nào mà biến động của nó lại tăng với tốc độ lớn như vàng hiện nay. Cũng chính bởi sự biến động không ngừng và không thể lường trước của thị trường vàng mà có nhiều nhà đầu tư đã phá sản vì đầu tư vàng. Sau đợt giá vàng tăng kỷ lục nhà nước cho phép nhập khẩu vàng trở lại thị trường vàng ngay lập tức hạ nhiệt, nhiều nhà đầu tư với hi vọng giá vàng tiếp tục tăng đã ôm một khối lượng lớn vàng, khi vàng hạ giá trở tay không kịp và dẫn đến phá sản. Nhiều người đã gọi ngày 11/11/2009 là ngày thứ tư đen tối bởi nó thực sự ảnh hướng lớn đến cuộc sống của nhiều nhà đầu tư. Như vậy có thể thẩy rõ được sự tác động sâu và rộng của thị trường vàng đến cuộc sống của người dân Việt Nam những người có thói quen tích trữ vàng từ xưa hay những nhà đầu tư coi vàng là một kênh đầu tư kiếm lợi 58 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM 3.1. Thành công Thị trường vàng Việt Nam có một tốc độ phát triển nhanh nhất khu vực, đó là thành công lớn nhất của thị trường vàng trong những năm qua. Theo số liệu từ Hội đồng vàng thế giới trong năm 2007 thị trường vàng trong nước tiêu thụ 75tấn vàng, cho đến thời điểm ngừng nhập khẩu vàng năm 2008 thị trường tiêu thụ khoảng 43tấn vàng. Khối lượng giao dịch vàng tại các ngân hang trong nước mà chủ yểu ở hai thành phố chính lớn, có thể vượt mức trung bình 500.000 lượng/ngày. Khi thị trường chứng khoán sụt giảm thị trường bất động sản trầm lắng thị thị trường vàng trở thành “nơi trú ẩn an toàn”, là kênh đầu tư được sự quan tâm lớn nhất của hầu hết nhà đầu tư. Thị trường vàng đã thu hút được nhiều chủ thể tham gia từ các cá nhân muốn đầu tư vào thị trường, các ngân hàng, các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý….tạo nên một làn sóng kinh đầu tư vàng thu hút một nguồn vốn lớn trong nền kinh tế. 3.2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh sự những thành công mà thị trường vàng có được thì vẫn còn nhiều vấn đề còn tồn tại với thị trường nơi buôn bán những hàng hoá đặc biệt nhạy cảm này. Trước hết, phần quản lý nhà nước vẫn chưa có quy định cụ thể, hành lang pháp lý chặt chẽ để quản lý việc kinh doanh hoạt động vàng, mà đặc biệt là hoạt động đầu tư vàng, gây ra nhiều khó khăn cho thị trường. Điều đó là do thị trường vàng Việt nam vẫn còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý, do đó sai sót là không thể tránh khỏi. Ví dụ như khi nhà nước cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài cũng như kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước, nhà nước chưa có những văn bản pháp luật đủ 59 chặt chẽ để quản lý, vì vậy việc ra đời của các sàn giao dịch vàng đã sớm phải ngừng hoạt động sau hai năm thành lập. Hiện tượng kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng cũng như việc một số sàn giao dịch vàng mở không có giấy phép của nhà nước cũng chưa có những biện pháp quản lý chặt chẽ nên vẫn tự do kinh doanh. Nguyên nhân là do chưa có một cơ quan chức năng có thẩm quyền nào đứng ra chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp, vì thế việc tổ chức kinh doanh vàng bất hợp pháp vẫn diễn ra bình thường cho đến khi nhà nước buộc phải buộc đóng cửa tất cả sàn vàng và bãi bỏ việc kinh doanh vàng qua mạng. Hơn nữa bản thân người dân cũng chưa ý thức được sự mạo hiểm khi tham gia những sàn vàng hay các đầu tư qua các công ty môi giới đầu tư này. Bên cạnh đó nhà nước chính sách xuất nhập khẩu vàng của Việt Nam hiện nay cũng chưa thật tốt, tuỳ theo biến động của thị trường mà Ngân hàng nhà nước cho phép nhập hoặc không, như vậy không thể tạo thế chủ động cho nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp kinh doanh vàng. Vì vậy để phát triển thị trường vàng trong nước toàn diện phải được quản lý chặt chẽ của nhà nước. Môi trường cạnh tranh thị trường vàng chưa thực sự được đảm bảo công bằng do chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu và phân phối vàng nên vẫn còn hiện tượng độc quyền, đôi khi những doanh nghiệp này làm cho giá vàng tăng cao do “ém” vàng không chịu bán. Kho vàng ngoại quan chưa phát huy được hiệu quả bình ổn thị trường như mong đợi. Thêm vào đó người dân chưa có những kiến thức cơ bản về vàng cũng như thị trường vàng vì thế nên họ thường đầu tư hay mua vào bán ra theo phong trào, điều đó tác động xấu đến thị trường, dẫn đến giá vàng Việt Nam và giá vàng thế giới chênh lệch lớn, thị trường trở thành mất phương hướng khi mà giá vàng cứ tăng cao hơn so với thực tế đáng có. 60 CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG VIỆT NAM 1. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VÀNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.1. Thị trƣờng vàng thế giới Hiện nay khi mà tình hình kinh tế thế giới chưa thực sự có được sự ổn định, thì thị trường vàng thế giới phụ thuộc một phần lớn vào những diễn biến cũng như tin tức tốt xấu của nền kinh tế Mỹ hay ngay cả những quyết định của Chính phủ Mỹ. Các chuyên gia của thị trường vàng cho rằng thị trường vàng hiện không có nhiều lý do để tăng quá mạnh trong thời gian ngắn hạn. Đầu năm 2010 Quỹ tiền tệ IMF tuyên bố kế hoạch bán ra thị trường 191,3 tấn vàng tương đương 6.9tỷ USD, trong khi đó sau dịp tết của một số nước Á đông nhu cầu vàng vật chất cũng từ những thị trường có sức tiêu thụ lớn như Trung Quốc, Ấn độ bao giờ cũng giảm mạnh. Cung tăng, cầu giảm sẽ khiến giá vàng ở mức thấp. Tình hình này càng khiến cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới trở nên thận trọng và làm thị trường vàng càng trở nên thêm trầm lắng. Theo nhận định của một số chuyên gia, thì trong dài hạn giá vàng vẫn có xu hướng tăng khả quan do áp lực lạm phát. Nếu như lạm phát bùng phát thì giá vàng có cơ hội chinh phục trở lại ngưỡng cao kỷ lục 1.226 USD/oz trong năm 2009. Song nguyên nhân chính giá vàng đầu năm 2010 giảm sẽ là do đồng USD trên thế giới đang đà phục hồi mạnh và giá vàng thường tỷ lệ nghịch với ngoại tệ này. Hiện nay đầu tư thế giới đang lo ngại khả năng FED sẽ sớm thắt chặt các chính sách tiền tệ và điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD, lúc đó chỉ số giá USD sẽ được hỗ trợ giá tăng, kéo theo vàng phải chịu áp lực giảm giá. Theo Jon Nadler chuyên gia phân tích cao cấp tại Kitco Bullion Dealers Montreal cho rằng nhiều Ngân hàng trung ương và cá nhân 61 chưa thật sự đặt niềm tin vào vàng, vì theo họ vàng vẫn chưa đủ khả năng để trở thành một đồng tiền dự trữ hàng đầu. Trong thời gian đầu thị trường vàng thế giới sẽ không có nhiều sự biến động song nhận định chung của nhiều nhà phân tích thì giá vàng năm 2010 sẽ tăng theo đà phục hồi kinh tế thế giới, hứa hẹn nhiều điều thú vị trước mắt.[36] 1.2. Thị trƣờng vàng Việt Nam Năm 2010 được dự đoán là một năm thị trường Việt Nam sẽ có những bước biến chuyển cùng nhịp với sự chuyển động của thị trường thế giới. Thị trường vàng trong nước biến động hay giá vàng trong nước có bằng với giá vàng thế giới hay không thì đó là do chính sách nhà nước. Theo như Hội Đồng vàng thế giới, trong những năm gần đây Việt Nam nhập trung bình khoảng 60tấn vàng một năm để dập thành vàng miếng và nữ trang. Trong số đó có khoảng 80% là vàng miếng còn lại 20% nữ trang để cung ứng cho thị trường. Từ khi Việt Nam cho phép mở sàn vàng các giao dịch vàng bắt đầu sôi động hẳn lên, đến đầu năm 2008 lượng vàng nhập khẩu cũng tăng lên dáng kể. Lúc này giá vàng trong nước chênh rất ít so với giá vàng thế giới. Sau đó do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, Ngân hàng nhà nước thay đổi chính sách về việc nhập khẩu vàng và cho ngừng nhập khẩu trong suốt 18tháng dẫn đến tình trạng nguồn cung bị khan, giá vàng trong nước tăng đột biến trong tháng 11/2009 lên mức 29 triệu đồng/lượng, vênh xa với thế giới gần 3 triệu đồng một lượng. Song ngay khi Ngân hàng nhà nước đã phát đi thông điệp cho phép nhập khẩu vàng trở lại, ngay lập tức vàng hạ nhiệt. Do vậy, trong tương lai gần với chính sách nhập vàng không giới hạn mà nhà nước cho phép một số doanh nghiệp giá vàng trong nước sẽ theo nhịp thế giới và sẽ không có sự “ mất bình tĩnh” của thị trường vàng giống như tháng cuối năm 2009. Việc cho phép nhập khẩu vàng không giới hạn dễ dẫn đến thâm 62 hụt cán cân thương mại vì Việt Nam vẫn chưa coi vàng là một ngoại tệ trong khi trên thế giới đều coi đây là một ngoại tệ mạnh. Vì vậy trong thời gian tới Hiệp hội vàng sẽ xem xét kiến nghị lên Ngân hàng Nhà nước đưa vàng ra khỏi danh sách mặt hàng xuất nhập khẩu và coi đây là một hàng hoá đặc biệt. Những tháng đầu năm 2010 mãi lực từ thị trường vàng trong nước chưa lớn, do tâm lý nghe ngóng của giới đầu tư. Nhưng đây vẫn được xem là một kênh đầu tư hấp dẫn. Bởi kênh đầu tư chứng khoán đã trở nên rất khó khăn và đã không còn sức hút như trước. Bất động sản thì vốn sẽ lớn hơn rất nhiểu trong khi tính thanh khoản thấp. Do vậy, thị trường vàng vẫn là thị trường tiềm năng đối với những người có vốn nhàn rỗi, mua vàng tích trữ lâu dài vừa an toàn vừa có cơ hội lời cao. Song năm 2010 sẽ không có nhiều biến động lớn trong thị trường vàng do không bị giới hạn nguồn cung, cũng như nền kinh tế thế giới đã đi vào quỹ đạo dần ổn định. 1.3. Những chính sách của nhà nƣớc tác động đến thị trƣờng vàng trong thời gian tới. Đầu năm 2010 Ngân Hàng nhà nước chính thức có văn bản chấm dứt hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được cấp phép trước đó. Theo đó Thông tư số 01/2010/TT-NHNN quy định các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài phải chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài kể từ ngày 06/01/2010, trừ các giao dịch để tất toán, đóng tài khoản kinh doanh vàng nói trên. Các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đang kinh doanh vàng trong tài khoản ở nước ngoài có trách nhiệm hoàn tất và đóng cửa trước ngày 30/03/2010. Trước đó ngày 30/12/2009 Thủ tướng chính phủ cũng đã phải có công văn yêu cầu không tổ chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước dưới mọi hình thức và chậm nhất 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009 mọi hoạt động liên 63 quan đến sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động[28]. Và đồng thời cũng bãi bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài theo Quyết định số 03/2006/QĐ- NHNN ngày 18/01/2006[37] Như vậy, việc đóng cửa các sàn giao dịch vàng, cấm các hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài cũng như trong nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến những biến động của thị trường vàng trong nước. Thị trường vàng sẽ phần nào giảm bớt những biến động bất ngờ cũng như sẽ làm cho không khí thị trường vàng vật chất ảm đạm do việc đóng của sàn vàng làm giá vàng thiếu sóng gió, vàng trở nên kém hấp dẫn hơn. Việc Ngân hàng nhà nước Việt Nam chính thức cho phép nhập khẩu vàng với khối lượng phù hợp để can thiệp thị trường cuối năm 2009 cũng là một tác động lớn đến thị trường vàng trong nước, góp phần can thiệp thị trường giảm sức nóng và cơn thèm khát vàng trong suốt 18 tháng ngừng nhập khẩu vàng trước đó. Điều đó đã giúp bình ổn thị trường chống đầu cơ, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Song việc mở cửa nhập khẩu trở lại chỉ đối với một số đầu mối lớn như: Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam, Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận, Công ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Nông nghiệp…[38] 2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP 2.1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nƣớc về thị trƣờng vàng Hiện nay, Việt nam chưa có một hành lang pháp lý chặt chẽ trong việc quản lý thị trường vàng, mới chỉ có nghị định 174/199/NĐ-CP ngày 9/12/1999 của chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Song nghị định này đã cũ và không được cập nhật thường xuyên với những biến động của thị trường. Bên cạnh đó, nghị định 174 không bao gồm các quy định về 64 việc đầu tư vàng, chỉ chủ yếu để cập đến việc kinh doanh vàng, xuất nhập khẩu, sản xuất gia công và khai thác vàng tự nhiên, song hiện nay cũng đã có nhiều thay đổi trên thị trường vàng nên nghị định 174 có nhiều điểm đã không còn phù hợp[5]. Nhà nước đang trong quá trình xây dựng một hành lang pháp lý hoàn hảo, nhằm giúp cho thị trường vàng Việt Nam phát triển toàn diện hơn, an toàn hơn và dễ dàng liên kết với thị trường thế giới. Ngân hang nhà nước cũng cần phải văn bản chỉ đạo về việc thu thập và cung cấp thông tin, số liệu về tình hình kinh doanh vàng tại một số thành phố lớn. Việc làm này sẽ có thể giúp Ngân hàng nhà nước tiến tới quản lý chặt chẽ hơn loại hàng hoá này. Trong một thời gian dài từ cuối những năm 90 cho đến thời điểm năm 2007 hoạt động vàng nhìn chung đã diễn ra khá ổn định và không có tác động đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do biến động của giá vàng thế giới cũng như những biến động và những nhiều yếu tố tác động đến thị trường vàng trong nước, vàng trở lại trở thành hoá đặc biệt và nó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và bảo đảm ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó nhà nước cũng nên có biện pháp hay ban hành nghị định quản lý đối với vàng theo hướng Nhà nước tập trung thống nhất. Hiện nay, các quy định và một số văn bản hướng dẫn thi hành việc quản lý kinh doanh vàng lại có những điểm quy định khác nhau. Cụ thể như nghị định 174 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng quy định Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý một số hoạt động về vàng có liên quan tới chính sách tiền tệ như: xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu sản xuất vàng miếng. Các hoạt động kinh doanh vàng bạc khác như mua bán vàng trang sức mỹ nghệ vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như các loại hang hoá khác.[5] Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh vàng chỉ cần thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, Luật thương 65 mại. Sở kế hoạch và đầu tư thực hiện cấp phép, kiếm tra, kiểm soát hoạt động trên thị trường do Bộ Công thương chịu trách nhiệm. Trong khi đó, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 thì quy định Ngân hàng Nhà nước được giao là cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng đồng thời đưa vàng trên tài khoản ở nước ngoài vào khái niệm ngoại hối[9]. Còn nghị định 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn pháp lệnh ngoại hội giao Ngân hàng Nhà nước quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng. Nghị định 86/1999/NĐ-CPquy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về dự trữ ngoại hối Nhà nước, trong đó có vàng trong dự trữ ngoại hối Nhà nước[6]. Ngoài ra,với mục tiêu chuyển hóa nguồn vốn trong dân thành nguồn vốn tiền đồng để phục vụ sản xuất, vào năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành QĐ Quyết định 432 cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện hoạt động huy động và cho vay bằng vàng: hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng; hoạt động sản xuất vàng miếng; hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; hoạt động huy động, cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng; quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối Nhà nước.[10]Các hoạt động mua bán, sản xuất, gia công vàng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng; hoạt động xuất nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ không do Ngân hàng Nhà nước quản lý; được cấp phép từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố; quản lý thị trường của Bộ Công thương; xuất nhập khẩu qua Hải quan của Bộ Tài chính; quản lý chất lượng của Bộ Khoa học công nghệ. Rõ ràng, với các văn bản pháp luật trên, người ta thấy vẫn còn nhiều chống chéo, thiếu nhất quán trong quản lý vàng. Và vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng rà soát để ban hành một Nghị định quản lý đối với vàng theo hướng Nhà nước tập trung và thống nhất hơn. Sàn vàng trong những năm qua hoạt động là kẽ hở của pháp luật và không có cơ quan nào quản lý. Việc không một cơ quan nào đứng ra quản lý 66 sàn vàng dẫn đến những biến động cũng như tiềm tang những sự nguy hiểm đối với không chỉ nhà đầu tư mà còn với đảm bảo trật tự xã hội dẫn đến việc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam phải bắt các sàn giao dịch vàng ngừng hoạt động chính thức vào tháng 3 năm 2010. Một số các ngân hàng cũng hoạt động giao dịch vàng trong khi không hề được cấp giấy phép, điều đó cho thấy sàn giao dịch một mặt hàng nhạy cảm mà không hề có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Sàn giao dịch vàng là một lĩnh vực đầy tiềm năng và rất mới mẻ nên được rất nhiều người quan tâm. Vì vậy nên xây dựng cho sàn giao dịch vàng một hành lang pháp lý chặt chẽ, Ngân hàng Nhà nước nên đứng ra quản lý từ việc thành lập sàn giao dịch vàng, cho đến việc quản lý việc lập tài khoản. Hơn thế nữa nên tổ chức những hội thảo về tổ chức và quản lý sàn giao dịch vàng trong đó có sự tham gia của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam, Hiệp hội kinh doanh vàng thế giới và đại diện của nhà nước. Qua đó tìm hiểu rút kinh nghiệm của các nước phát triển chọn ra một phương thức phù hợp với thị trường Việt Nam. Vấn đề xuất nhập khẩu vàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến thị trường vàng, như tình hình năm 2009 khi mà nhà nước cấm nhập khẩu vàng, tình trạng nhu cầu vàng tăng cao mà nguồn cung hạn chế dẫn đến những biến động không lường trước được của thị trường vàng, đẩy nhiều nhà đầu tư vào cảnh dở khóc dở cười, sau đó Thống đốc ngân hàng nhà nước cho phép một số doanh nghiệp được nhập khẩu vàng không hạn chế điều đó ngay lập tức làm dịu thị trường. Song nếu cứ để nhập khẩu vàng không giới hạn sẽ dẫn đến làm tăng tỷ lệ nhập siêu do Việt Nam 95% nhu cầu vàng là nhập khẩu từ nước ngoài. Nhà nước nên đưa vàng ra khỏi danh sách mặt hàng xuất nhập khẩu mà xem đây như là một hàng đặc biệt. Nếu vàng không ở trong danh sách các mặt hàng xuất nhập khẩu thì có thể thực hiện chính sách thả nổi việc nhập vàng 67 theo nhu cầu thị trường và không làm ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Và như vậy sẽ không có chuyện giá vàng trong nước chênh với giá vàng thế giới. Việc thả nổi xuất nhập vàng thì có tái nhập tái xuất và như vậy thị trường ngoại hối sẽ càng lưu thông không bị khan hiếm ngoại tệ giống như nhiều người lo ngại. Sự quản lý của nhà nước là một trong những yếu tố rất quan trọng trong tất cả các hoạt động kinh tế trong xã hội, đặc biệt hơn ở thị trường vàng, một mặt hàng mà sức ảnh hưởng của nó đến các mặt của xã hội là rất lớn, thì cần quản lý hết sức chặt chẽ và có những phương án dự phòng cũng như có kế hoạch phát triển thị trường ngắn hạn và dài hạn. 2.2. Đảm bảo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh Cạnh tranh lành mạnh là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ một thị trường nào và thị trường vàng cũng không năm ngoài. Luật cạnh tranh đã ra đời năm 2004 nhưng đi vào cuộc sống quá chậm cho đến nay nhiều ngành nghề trong nước chưa có được một môi trường cạnh tranh thật sự lành mạnh và bình đẳng. Trong thị trường vàng không hẳn xuất hiện yếu tố độc quyền, song việc chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu vàng đã đẩy thị trường vàng Việt Nam có những lúc phụ thuộc vào các doanh nghiệp đó. Như mục tiêu bình ổn giá vàng của nhà nước nhiều lúc chưa thực sự phát huy do việc SJC bán vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng với giá cao so với giá thế giới như vậy phải chăng SJC được hưởng lợi từ việc nhập khẩu vàng còn những doanh nghiệp mua lại vàng của SJC cũng như người dân vẫn phải mua vàng với giá cao. Sự độc quyền của SJC cũng như một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu vàng cũng là nguyên nhân gây ra mất cân đối cung cầu vì nguồn nhập khẩu có tác động rất lớn đối đến cân đối cung cầu vàng trên thị trường, nhiều người muốn mua và chỉ có ít người bán thì mất cân đối cung cầu và phải mua với giá do họ quyết định. Cũng chính vì một số doanh nghiệp 68 được phép nhập khẩu vàng, trong một số trường hợp họ có thể chi phối thị trường, nhất là khi vàng khan hiếm họ có vàng và đấy giá lên cao làm lũng đoạn thị trường. Vì vậy không đem lại hiệu quả cao cho thị trường vàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh có sự tham gia của mọi doanh nghiệp từ tư nhân đến nhà nước cổ phần thì tính năng động, chất lượng quản lý đều được nâng cao. Kinh tế thị trường sở dĩ là năng động phát triển nhanh nhờ cạnh tranh. Chúng ta cần kiểm điểm việc thi hành luật Cạnh tranh, phân tích cặn kẽ tính cạnh tranh trong môi trường kinh doanh vàng, làm rõ những trở lực đang kìm hãm việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng. Nếu đảm bảo được một môi trường cạnh tranh lành mạnh xoá bỏ được độc quyền sẽ tạo tiền đề cho việc xây dựng luật đảm bảo quyền của dân được tiếp cận thông tin và đóng góp ý kiến hoàn thiện, vì thị trường vàng có quan hệ mật thiết đến sản xuất và đời sống nhân dân, đảm bảo được sự công bằng người dân sẽ an tâm khi tham gia vào thị trường vàng. 2.3. Phát huy hiệu quả kho ngoại quan vàng Năm 2006, kho ngoại quan vàng bạc đá quý đầu tiên tại Việt Nam chính thức được đưa vào sử dụng. Sự ra đời của kho ngoại quan vàng được kỳ vòng là sẽ bình ổn được nguồn cung cấp vàng cho thị trường trong nước và sự hoạt động của nó sẽ tác động tích cực đến thị trường vàng trong nước.[39] Với ưu điểm là thời gian được rút ngắn và chi phí so với việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài đáng lẽ ra kho ngoại quan vàng phát rất được quan tâm. Song thực tế cho thấy rất ít doanh nghiệp trong nước lấy vàng từ đây, doanh nghiệp nước ngoài cũng không sử dụng. Ước tính phí vận chuyển và bảo hiểm sẽ giảm đến 40% nếu nhập khẩu từ kho vàng ngoại quan so với nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài thông qua trung gian. Một yếu tố mà chắc chắn các doanh nghiệp phải đối mặt là thời 69 gian nhập khẩu từ nước ngoài sẽ lâu hơn rất nhiều khi nhập khẩu trong nước. Song hoạt động của kho ngoại quan vàng cũng không tiến triển tốt, chưa phát huy được ưu thế của mình. Theo như một số doanh nghiệp sản xuất vàng miếng trong nước thì gửi vàng vào kho ngoại quan vàng chủ yếu là các đầu mối kinh doanh lớn như Eximbank, Sacombank, ACB. Như vậy khách hàng chủ yếu vẫn là các thành viên trong liên minh thành lập ra kho ngoại quan vàng và chủ yếu chỉ kinh doanh chứ không tập trung sản xuất. Theo như ông Nguyễn Thanh Trúc, Giám đốc công ty Vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp thừa nhận, để thu hút được số lượng lớn khách hàng thì các kho ngoại quan vàng phải dựa vào một công ty chuyên về kho vàng ngoại quan của nước ngoài và trên thực tế việc ký kết được hợp đồng bảo hiểm kiểu này thì không đơn giản. Trên lý thuyết thì chi phí và thời gian cũng giảm được đáng kể so giữa nhập khẩu vàng trực tiếp trong nước với nhập khẩu vàng từ nước ngoài. Song nhiều doanh nghiệp lâu nay vẫn có những nguồn nhập riêng với giá rẻ hơn và thời gian thậm chí còn nhanh hơn. Nếu vào những thời điểm sốt vàng, giá cả thay đổi theo giờ thì lấy vàng qua kho vẫn bị chậm, nếu qua “mối quen” thì chỉ cần gửi tiền là có thể lấy hang bất cứ lúc nào. Một vấn đề nữa với kho ngoại quan vàng nước ta là do vàng Việt Nam chủ yếu là sử dụng để chứa và lưu vàng nhập khẩu, vì vậy công suất của kho chưa được sử dụng hết. Tuy nhiên, đến giữa năm 2008, Nhà nước cho ngừng việc nhập khẩu vàng, kho ngoại quan vàng càng trở nên trầm lắng hơn vì không xuất cũng không nhập, kho vàng trở thành đúng nghĩa là nơi lưu giữ vàng chứ chưa phát huy được những mong muốn ngày đầu khai trương. Một vấn đề ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của kho ngoại quan vàng đó là tình trạng xuất lậu vàng. Do chênh lệch giữa giá vàng Việt nam và thế giới 70 lớn, lợi nhuận từ việc buôn vàng to nên nhiều người đã buôn lậu. Những lúc giá vàng tăng cao là dịp để các mối tranh thủ xuất hang sang các nước láng giềng như Campuchia hay Lào để hưởng chênh lệch. Việc hạn chế xuất khẩu vàng như hiện nay thì sẽ không tránh được tình trạng chảu máu vàng như hiện nay. Đây sẽ là một thiệt hại lớn khi mà nhà nước thì không thu được thuế xuất khẩu mà vàng thì vẫn chảy ra khỏi đất nước. Hơn thế nữa, loại vàng được xuất lậu lại không phải vàng chế tác mà là vàng nguyên liệu vì vậy không tạo được công ăn việc làm người lao động. Nhà nước nên quản lý chặt chẽ, không để cho buôn lậu vàng hoành hành, hơn thế nữa, cần có những ưu đãi rõ ràng với những doanh nghiệp sử dụng kho ngoại quan vàng, một phần bình ổn thị trường vàng trong nước. Cuối năm 2010 Nhà nước đã cho phép một số doanh nghiệp nhập khẩu vàng trở lại, và đầu năm 2010 công ty Vàng bạc đá quý SJC đã nhập 4tấn vàng và chuyển đến kho ngoại quan vàng, chuẩn bị làm thủ tục đem ra dập thành vàng miếng. Hi vọng kho ngoại quan vàng sẽ phát huy được ưu thế của nó, khi mà chỉ có một số doanh nghiệp được phép nhập khẩu vàng thì các doanh nghiệp khác phải nhập trực tiếp từ SJC, chứ không thế nhập khẩu qua trung gian nước ngoài. Song bên cạnh đó, SJC cũng phải có những quy định rõ ràng về giá cả thời gian giao hang nhanh chóng, tạo ra niềm tin cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. 2.4. Phát triển kế hoạch xây dựng sàn vàng quốc gia Khi mà các sàn giao dịch tự do trong nước ra đời và hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư, hơn thế nữa sau một thời gian hoạt động các sàn giao dịch tự do bao gồm cả những sàn giao dịch chưa có giấy phép kinh doanh, hoạt động không dựa trên một quy tắc nào, dẫn đến nhiều biến động khó lường lên thị trường vàng trong nước. Trước tình hình đó ngày 71 30/12/2010 Thống đốc Ngân hàng nhà nước chính thức cho ngừng hoạt động của các sàn giao dịch vàng. Nhưng hiện Việt Nam la quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng đầu thế giới, do vậy đã đến lúc cần có một sàn giao dịch vàng mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu thị trường. Còn để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn thị trường cũng như nhà đầu tư vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro. Việt Nam nên cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia, thêm vào đó trước khi cho ra đời nên nghiên cức kinh nghiệp của các sàn giao dich vàng quốc tế hoạt động hiệu quả trên thế giới, kết hợp với nghiên cứu tình hình thị trường vàng trong nước. Bên cạnh đó cũng phải nhanh chóng xây dựng một hành lang pháp lý cho bộ máy sàn giao dịch vàng quốc gia diễn ra suôn xẻ. Điểm khác biệt lớn nhất so với các sàn giao dịch nhỏ lẻ là không phải do một doanh nghiệp, một đơn vị tổ chức mà là do nhiều ngân hang thương mại, nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tham gia. Hoạt động của sàn giao dịch sẽ độc lập không phụ thuộc hoặc hoạt động chỉ vì lợi ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh tranh kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Sàn giao dịch vàng quốc gia này sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra thành lập và chịu trách nhiệm, vì vậy việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá trên trên thị trường cũng như giá bán sẽ được minh bạch rõ ràng, không còn gây ra những tranh cãi như mô hình sàn giao dịch vàng do doanh nghiệp tổ chức. Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ đề phòng rủi ro khi thị trường vàng thế giới biến động bất thường. Như vậy nhà đầu tư có thể tính được giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch ngày càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn. 72 Hơn thế nữa sàn giao dịch vàng quốc gia còn mang lại nhiều lợi ích cho các cơ quan quản lý nhà nước. Với sự ra đời của sàn giao dịch quốc gia thì sẽ hạn chế được lượng giao dịch không chính thức, tránh được rủi ro không đáng có. Qua đó cơ quan quản lý cũng nắm được rõ tình hình cung cầu thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra. Thông qua sàn giao dịch này Ngân hang Nhà nước có cơ sở để ban hành các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trường vàng trong nước. Hơn thế nữa, qua sàn giao dịch Nhà nước thì có thể huy động được nguồn vốn để đầu tư cho phát triển còn nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí. Khi mới đi vào hoạt động sàn vàng quốc gia nên được hưởng những chính sách thoả đáng để tạo điều kiện cho thị trường phát triển ổn định với đúng ý nghĩa là một thị trường dịch vụ nhưng vẫn phải bảo vệ được lợi ích cho nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Nếu sàn vàng quốc gia có thể đảm bảo tính minh bạch và hạn chế các yếu tố đầu cơ thi nó sẽ góp phần kiểm soát thị trường tiền tệ. Hiện nay Nhà nước chỉ mới quản lý vàng trong quan hệ xuất nhập khẩu, vì vậy muốn Sàn giao dịch vàng quốc gia được thành lập và hoạt động trôi chảy thì Ngân hàng nhà nước cũng nên ban hành quy chế về việc kết nối giữa các sàn giao dịch nhỏ với sàn giao dịch quốc gia. 2.5. Quản lý việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng Thời gian vừa qua hang loạt vụ lừa đảo kinh doanh vàng qua mạng đã khiến nhiều người điêu đứng. Lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin và kém hiểu biết của nhà đầu tư một số tổ chức tư vấn môi giời vàng đã mở ra các tài khoản cho phép nhà đầu tư kinh doanh vàng trên đó. Thế nhưng hoạt động kinh doanh vàng qua mạng vẫn tiếp tục rộ lên từ khi sàn giao dịch đầu tiên của Việt Nam 73 ra đời cho đến thời điểm này, khi mà tất cả các sàn giao dịch sẽ phải đóng cửa và việc kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước và nước ngoài phải ngừng. Hầu hết tất cả các công ty kinh doanh vàng qua mạng hiện đều hoạt động bất hợp pháp. Các công ty núp dưới cái bong là công ty dịch vụ tư vấn đầu tư nhưng thực chất bên trong là kinh doanh vàng cho một số trang web vàng ở nước ngoài. Thời điểm đầu năm 2009 trên thị trường xuất hiện nhiều sàn giao dịch vàng chui hơn song vẫn không có một khung pháp lý nào để quản lý sàn giao dịch vàng hay việc kinh doanh vàng bất hợp pháp qua mạng. Về tổ chức, Ngân hàng Nhà nước cấp phép cho 5 ngân hàng kinh doanh vàng trên tài khoản ra nước ngoài như một công cụ bảo hiểm kinh doanh, nhằm bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh vàng của ngân hàng chứ cũng không cho phép ngân hàng kinh doanh vàng qua mạng cho khách hàng. Các giao dịch mua bán không rõ ràng và thiếu tính minh bạch sẽ mang lại rủi ro lớn cho nhà đầu tư. Sàn giao dịch vàng Sài Gòn một sàn giao dịch vàng đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu trong việc xây dựng và đưa hoạt động kinh doanh vàng vào bước phát triển mới. Cũng như chứng khoán, bất động sản, nhà đầu tư có thể kinh doanh vàng qua sàn. Thế nhưng, thị trường vẫn chờ đợi một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này để nhà đầu tư có thể yên tâm tham gia kinh doanh vàng qua sàn. Không chỉ với nhà đầu tư, mà ngay cả nhà tổ chức Sàn giao dịch vàng cũng băn khoăn khi chưa có khung pháp lý rõ ràng. Đại diện một ngân hàng cho biết, việc thành lập sàn giao dịch vàng đã được tính đến, vì đây được xem là loại hình kinh doanh tăng nguồn thu cho mảng dịch vụ. Tuy nhiên, ngân hàng này vẫn muốn có khung pháp lý trước khi triển khai sàn vàng. Vì vậy, kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng là hành vi phạp pháp, trái pháp luật và lừa đảo gây ra những thiệt hại cho nhà đầu tư. Nhà nước cần 74 có những biện pháp cứng rắn để ngăn chặn việc hoạt động của việc kinh doanh trái phép này. Hơn nữa, trong thời gian tới, khi mà các sàn giao dịch chính thức bị đóng cửa, nguy cơ bùng nổ đầu tư vàng chui là rất lớn, vì thế nên có những biện pháp quản lý chặt chẽ từ bây giờ. Thêm vào đó, các nhà đầu tư cần phải tìm hiểu để có kiến thức về việc giao dịch vàng, không nên tham gia các trang web bất hợp pháp này, đó chính là cách bảo vệ mình khỏi rủi ro trong đầu tư vàng. 2.6. Xây dựng các dịch vụ tƣ vấn đầu tƣ vàng Trong một thị trường vàng đầy biến động và không thể biết trước được giá vàng sẽ lên hay xuống, thị trường vàng phải chịu tác động từ nhiều phía, để trờ thành một nhà đầu tư thành công không phải là chuyện đơn giản, mà thực sự đó là niềm ước ao của rất nhiều người. Hầu hết các nhà đầu tư ở Việt Nam đều không có kiến thức tốt về thị trường vàng nói chung cũng như nguyên nhân các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng nói riêng, vì vậy họ thường đầu tư theo xu hướng, không có định hướng rõ ràng gây ra nhiễu song thị trường, cũng như đem đến những rủi ro tiềm tang cho chính họ. Vì vậy sự ra đời của các công ty tư vấn đầu tư vàng là một giải pháp tất yếu cho thị trường. Kinh doanh vàng là công cụ đầu tư cho lợi nhuận cao nhưng luôn đi kèm với rủi ro. Đây có thể là con đường dẫn đến giàu sang của nhiều người nhưng cũng khiến không ít nhà đầu tư lớn phải khốn đốn, vì vậy công ty tư vấn đầu tư như một công cụ thay nhà đầu tư quản lý cũng như giúp nhà đầu tư có những kiến thức cơ bản trước khi bước chân vào đầu tư. Hình thức công ty tư vấn đầu tư vàng như vậy đã gặt hái được nhiều thành công ở nhiều nước trên thế giới như Hồng Kông, Thượng Hải… Công ty tư vấn đầu tư có trách nhiệm tìm hiểu thị trường vàng thông qua những kiến thức chuyên nghiệp của mình cũng như nắm rõ thị trường thế giới, sự biến động, chu kỳ của sự biến động, phân tích kỹ thuật…Mục đích chính là giúp các nhà đầu tư không có nhiều kiến thức đầu tư hiệu quả, tất 75 nhiên quyết định cuối cùng vẫn thuộc về nhà đầu tư. Nhưng các công ty tư vấn đầu tư cần thực hiện đúng chức năng của mình, không được lợi dụng nhà đầu tư cũng như kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng bất hợp pháp. 2.7. Xây dựng các công cụ phân tích kỹ thuật và thông tin thị trƣờng Để tạo ra lợi nhuận cao cũng tránh được rủi ro, nhà đầu tư cần phải có được sự hỗ trợ từ các phương pháp phân tích kỹ thuật trong đầu tư vàng cũng như nắm chắc những thông tin thị trường. Phân tích kỹ thuật là phương pháp nghiên cứu sự biến động của giá trong quá khứ và hiện tại dựa vào đồ thị nhằm mục đích dự báo xu hướng giá trong tương lai (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn). Trên thực tế, việc xây dựng cũng như thực hiện tốt các phương pháp phân tích kỹ thuật là một mắt xích quan trọng trong đầu tư, hơn thế nữa, ở thị trường vàng nhiều biến động và rủi ro nhà đầu tư càng nên trang bị cho mình một nền tảng kiến thức về đầu tư vàng để trở thành nhà đầu tư thành công. Trong đầu tư vàng nhà đầu tư có thể tham khảo các phương pháp sau: phân tích kỹ thuật , phân tích cơ bản, phân tích tâm lý, phân tích tổng hợp kết hợp kỹ thuật và cơ bản. [40] So với phân tích kỹ thuật cơ bản thì phân tích kỹ thuật dễ tiếp cận hơn và dễ hiểu hơn và khi áp dụng đem đến kết quả tức thời và hiệu quả. Phân tích kỹ thuật được tiếp cận dựa trên 3 giả định cơ bản là biến động thị trường phản ánh tất cả, giá di chuyển theo xu thế chung và lịch sử sẽ lặp lại. Khi sử dụng phân tích cơ bản để xác định xu hướng giá thì rất khó để dự báo giá sẽ tăng hoặc giảm bao nhiêu. Nhưng sử dụng phân tích kỹ thuật , nhà đầu tư có thể dễ dàng xác định các mức cản trên hoặc cản dưới và dễ dàng xác định mục tiêu dừng lỗ hoặc chốt lời khi giao dịch. Để ứng dụng phân tích cơ bản trong xác định xu hướng thị trường, nhà đầu tư cần có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, phải có nguồn thông tin nhanh và chính xác, phải phân tích tổng hợp từ rất nhiều nguồn tư liệu…Vì 76 vậy đầu tư vàng không hẳn là quá khó, nhưng vấn đề là nhà đầu tư cần phải sử dụng hiệu quả phân tích kỹ thuật, tuỳ vào từng trường hợp mà sự dụng các công cụ khác nhau tuỳ theo thị trường xuất hiện xu hướng hay thị trường dao động trong biên độ bao nhiêu.[40] Khi càng am hiểu về phân tích kỹ thuật thì mức độ chính xác trong phân tích càng cao. Nhà đầu tư cần kết hợp nguồn thông tinh chính xác kịp thời để đưa ra quyết định cuối cùng trong giao dịch. [41] 2.8. Đẩy mạnh nghiên cứu đào tạo đồng thời phổ biến rộng rãi kiến thƣc về giá vàng và thị trƣờng vàng Tình hình giá vàng biến động lên xuống nhiều lúc có sự chênh lệch lớn với thế giới một phần do sự thiếu hiểu biết của nhà đầu tư, mà chính xác là do những người dân thấy giá vàng lên cao đổ xô đi mua có lúc lại đổ xô bán ra như một phong trào. Vì vậy việc phổ biến kiến thức về giá vàng cũng như thị trường vàng là hết sức quan trọng trong tình hình hiện này. Người dân hay nhà đầu tư vàng nên hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng cũng như sự tác động của thị trường vàng đến tổng thể nền kinh tế đất nước. Như vậy chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu đạo tạo, nên mở các lớp phổ biến kiến thức cơ bản đầu tư vàng, để nhà đầu tư không đầu tư theo hướng “phong trào” như vậy với bất cứ biến động nào thị trường sẽ không bị “nháo nhác” như đợt giá vàng tăng cao tháng 11/2009. Trong mọi ngành nghề thị trường không riêng gì thị trường vàng, nghiên cứu và phát triển là một yếu tố không thể thiếu, với sự non trẻ của mình, việc nâng cao nghiên cứu đào tạo và phổ biến kiến thức về giá vàng và thị trường vàng là không thể thiếu. 77 KẾT LUẬN Ở Việt Nam vàng đã được sử dụng rộng rãi thay thế các tiền tệ trong các giao dịch thương mại như bất động sản, phương tiện đi lại cho đến tận giữa thập niên 1990s. Chẳng có một thống kê nào có thể cho biết chính xác đã có bao nhiêu giao dịch thành công và tổng giá trị là bao nhiêu nhờ công cụ tiền tệ này. Cho đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường vàng Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ, cùng với nhiều biến động như sự ra đời của các trung tâm giao dịch vàng liên thông thế giới, việc đóng cửa các sàn giao dịch vàng sau hơn hai năm hoạt động, cho đến các chính sách xuất nhập khẩu vàng của nhà nước. Tất cả tạo nên một thị trường vàng Việt Nam sôi động và thu hút nhiều nhà đầu tư, cuộc chơi của các nhà đầu tư vàng Việt Nam mở rộng hơn với nhiều lựa chọn và đa dạng về công cụ đầu tư. Song kinh doanh vàng là kênh đầu tư ẩn chứa nhiều rủi ro khó dự đoán, bước đầu thị trường vàng Việt Nam cũng còn gặp nhiều khó khăn trong quản lý. Nếu có thể chớp lấy cơ hội thì thị trường Việt Nam sẽ mang lại nhiều nguồn lợi cho đất nước. Tuy nhiên, nhà nước nên vừa có những biện pháp quản lý chặt chẽ vừa tạo thông thoáng cần thiết cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng để có thể phát triển thị trường ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Doanh nghiệp và nhà nước nên có những phối hợp cần thiết để tạo nên một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Nhà đầu tư cũng nên trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về thị trường vàng để không gặp phải những rủi ro không đáng có vì sự thiếu hiểu biết. Thị trường vàng Việt Nam sẽ vững mạnh hơn khi có thể tận tận dụng tốt những biến động trên thị trường thế giới cũng như có hành lang pháp lý phù hợp. Thị trường vàng thật sự là một thị trường nhạy cảm và rất phức tạm, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố từ vi mô đến vĩ mô, và chính bản thân thị 78 trường vàng cũng phần nào tác động đến nền kinh tế đất nước. Trong quá trình thực hiện, tuy đã có gắng tìm hiểu và sưu tầm tài liệu, nhưng chắc chắn bản khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em hi vọng được các thầy cô và các bạn góp ý để bài viết hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trường đại học Ngoại Thương và đặc biệt là Tiến sỹ Lê thị Thu Thuỷ đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo Tiếng Việt: 1. Đinh Xuân Trình- 1999 – Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ- tập 1- NXB Giáo dục 2. K.Mark- 1959- Tư bản quyển 1, tập I. NXB Sự thật, tr179 3. N.Gregonry Mankiw (2004) Những nguyên lý của kinh tế học, NXB Lao động xã hội- Hà Nội 4. Nghị định 160/2006/NĐ-CP hướng dẫn pháp lệnh ngoại hội giao NHNN quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng 5. Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 của chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng 6. Nghị định 86/199/NĐ-CP 7. Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 của chính phủ sử đổi bổ sung từ nghị định số 174/199/NĐ-CP 8. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến- 2007- Tài chính quốc tế- NXB Thống kê 9. Pháp lệnh ngoại hối 2005 10. Quyết định 432 năm 2000, do NHNN đã ban hành 11. Quyết định 76/HĐBT ngày 13 thánh 5 năm 1987 của Hội đồng bộ trường quy định về thăm dò khai thác chế biến và mua bán vàng 12. Quyết định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài- Số 03/2006/QĐ-NHNN tháng 1 năm 2006 13. Tạp chí Doanh số ra ngày 02/09/2009 14. Theo thông tấn xã Việt Nam ra ngày 22-1-2006 15. Thông tư số 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản pử nớpc ngoài và quyết định số 11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/3/2007 về sửa đổi bổ sung quy định 80 Tài liệu tham khảo Tiếng Anh: 16. T.W. McRae (2003), The gold market, Oxford University Press, UK 17. The time-19.03.2009 18. United State National Mining Association (2001) 19. Word Gold Council (2007) “The Value of Gold to the Society” 20. World gold council (2007) “Gold Market Knowledge” Trang website tham khảo: 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. Báo Sài gòn giải phóng 29. vang-tren-tai-khoan-o-nuoc-ngoai.htm 30. TPHCM/20076/43370.laodong 31. 32. Website công ty vàng bạc đá quý Bảo tín Minh Châu Ngày 15/10/2008 33. www.24h.com.vn/news/detail/52/26...ews%3D10 34. 35. http:// www.gold.org _Hội đồng vàng thế giới 36. 2010/20103/138078.vov- Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam 81 37. Theo Vieteconomy ngày thứ 5 07/01/2010 38. ngày 11/11/2009- Wesbsite của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 39. website chính thức của Bộ tài chính 40. 20091125-12481.html 41. sid-46811.htm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5106_4775.pdf
Luận văn liên quan