Vốn đầu tƣ toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ƣớc tính
đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007,
bao gồm vốn khu vực Nhà nƣớc 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn
và giảm 11,4%; khu vực ngoài Nhà nƣớc 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và
tăng 42,7%; khu vực có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 189, 9 nghìn tỷ đồng,
chiếm 29,8% và tăng 46,9% [19]
Luồng vốn FDI vào Việt Nam cũng tăng lên rõ rệt kể từ sau khi chúng
ta mở cửa hội nhập và thực thi các cam kết với WTO. Năm 2007, Việt Nam
đã thu hút trên 20,3 tỉ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Đặc biệt, nă m 2008
là năm đánh dấu kỉ lục về lƣợng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong hơn 20 năm
kể từ khi nƣớc ta bắt đầu nỗ lực thu hút FDI. Tính chung cả vốn đăng ký cấp
mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
đăng ký tại Việt Nam năm 2008 đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần 3 lần con số của
năm 2007. Điều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào
tiến trình hội nhập, mở cửa thị trƣờng cũng nhƣ vào triển vọng và tiềm năng
phát triển kinh tế của Việt Nam. Lƣợng vốn giải ngân năm 2008 cũng đạt con
số ấn tƣợng 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Trong năm 2008, một
loạt các dự án đầu tƣ lớn trong lĩnh vực công nghiệp, bất động sản, du lịch
cũng ra đời. Sự gia tăng các dự án và lƣợng vốn đăng ký đã làm tăng quy mô
hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam.
99 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thương mại hàng hóa: thực trạng, tác động và định hướng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tập trung triển khai, hoàn thiện các cam kết
về Hiệp định vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), Hiệp định về các hàng
67
rào kỹ thuật đối với thƣơng mại (TBT) và Hiệp định về trị giá hải quan
(CVA).
Thứ hai, sớm xây dựng và hoàn thiện chiến lƣợc hội nhập kinh tế tổng
thể trong giai đoạn tới với những trọng tâm, ƣu tiên rõ ràng và phù hợp với
điều kiện phát triển của Việt Nam, trong đó thống nhất định hƣớng tham gia
chủ động, tích cực và cân bằng vào hội nhập đa phƣơng và liên kết khu vực,
song phƣơng. Chiến lƣợc này cần bảo đảm các điều kiện thuận lợi nhất cho
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở trong nƣớc, điều hòa đƣợc
mối quan hệ phức tạp, đan xen giữa các cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm
tăng cƣờng tác động bổ trợ lẫn nhau giữa các cam kết này, đồng thời nâng vai
trò của Việt Nam trong quá trình hoạch định chính sách thƣơng mại toàn cầu.
Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục tận dụng mọi
điều khoản ngoại lệ của WTO dành cho các nƣớc đang phát triển nhƣ:
Vận dụng điều khoản ngoại lệ về bảo hộ đối với các ngành công nghiệp
non trẻ để vừa duy trì mức thuế cao hợp lý, vừa áp dụng các biện pháp nhƣ
giấy phép, hạn ngạch theo thời hạn cho phép một cách thích hợp.
Vận dụng điều khoản WTO cho phép các nền kinh tế đang phát triển
kéo dài thời hạn cắt giảm thuế quan để áp dụng chế độ thuế linh hoạt đối với
các ngành công nghiệp trong nƣớc.
Vận dụng điều khoản về đảm bảo và cân bằng thu nhập ngoại hối để
thực hiện các biện pháp bảo hộ khẩn cấp đối với nền kinh tế quốc dân khi rơi
vào tình trạng mất cân bằng thƣơng mại và mất cân bằng thu – chi bằng biện
pháp hạn chế nhập khẩu.
Trong khuôn khổ WTO, một số biện pháp hạn chế thƣơng mại phi thuế
quan đƣợc coi là hợp lý vẫn tồn tại khá phổ biến, mà thƣờng ở trình độ và
mức độ tinh vi rất cao. Do đó, Việt Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm
áp dụng các biện pháp phi thuế quan của các thành viên khác để nhanh chóng
áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan (đƣợc phép), chẳng hạn các biện
68
pháp sử dụng tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết lập hệ thống kiểm nghiệm tiêu chuẩn
và chế độ thẩm tra kỹ thuật tƣơng ứng.
Thứ tư, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng
tham gia tích cực vào hệ thống phân công và thực hiện các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích qua thuế, tín dụng đối với những ngành công nghiệp hƣớng tới
xuất khẩu. Tăng cƣờng đào tạo nguồn lao động có kỹ năng trình độ cao cho
các ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thƣơng mại. Từ đó, hình thành và phát
triển cơ cấu thƣơng mại của nền kinh tế phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhằm khai thác lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam và nâng cao tính hiệu quả của cả nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh việc vận động chính trị và đàm phán kỹ thuật với
các đối tác về quy chế kinh tế thị trƣờng của Việt Nam, góp phần giảm thiểu sự
phân biệt đối xử và tác động tiêu cực của các tranh chấp thƣơng mại do các đối
tác nƣớc ngoài khởi kiện nhằm vào các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ sáu, tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ đáp ứng các
tiêu chuẩn ngày càng cao của giai đoạn hội nhập sâu rộng; đẩy mạnh việc
tuyên truyền, phổ biến thông tin để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và
của toàn xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ khi Việt Nam là thành viên WTO.
Thứ bảy, đối với các nƣớc có nền kinh tế chƣa đƣợc công nhận là nền
kinh tế thị trƣờng nhƣ nƣớc ta thì chúng ta còn bị phân biệt đối xử ngay trong
khuôn khổ của WTO. Vì vậy, một mặt chúng ta cần phải tăng cƣờng cải cách
thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng, mặt khác, cần
phải đƣa ra những lý do để bảo vệ và thuyết phục các nƣớc khác về những
đặc trƣng riêng có của nền kinh tế thị trƣờng Việt Nam.
Việc gia nhập WTO đã đánh dấu quá trình tham gia sâu rộng của nền
kinh tế nƣớc ta vào hệ thống kinh tế quốc tế, với những cơ hội và thách thức,
những tác động cả thuận lợi và không thuận lợi đối với công cuộc phát triển
69
kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Đặc biệt, quá trình này lại diễn ra trong bối cảnh
kinh tế khu vực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lƣờng và
tác động sâu rộng đến các nền kinh tế trên thế giới. Những thành tựu to lớn
trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong hơn hai thập kỷ
qua, cùng với cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nƣớc trong việc tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, cũng nhƣ sự chủ động và quyết tâm của Chính phủ
và của toàn xã hội trong việc tận dụng tối đa các cơ hội và vƣợt qua các thách
thức, là cơ sở vững chắc để chúng ta tin tƣởng vào những bƣớc phát triển mới
của đất nƣớc trong thời gian tới.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI TỐT HƠN CÁC CAM KẾT
CỦA VIỆT NAM VỚI WTO TRONG LĨNH VỰC THƢƠNG MẠI HÀNG
HÓA
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nƣớc phát triển bảo
vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những
áp đặt phi lý của các cƣờng quốc kinh tế. Đối với nƣớc ta, sau hai năm hội
nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế đã đƣợc nâng lên một bƣớc mới gắn với thực
hiện các cam kết với WTO. Vì thế, để thực hiện tốt hơn các cam kết với WTO
đặc biệt trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng
cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Sau đây là một số giải
pháp đối với nhà nƣớc và doanh nghiệp để góp phần thực thi tốt hơn các cam
kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa.
2.1. Nhóm giải pháp đối với nhà nƣớc
2.1.1. Thúc đẩy tiến trình hoàn thiện hệ thống, cơ chế pháp luật
Để thực hiện tốt hơn các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực thƣơng
mại hàng hóa, nhà nƣớc cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế
quản lý.
70
Áp dụng các chính sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt thƣơng mại,
đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa
sản xuất trong nƣớc ;
Cần tiếp tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tƣ duy trong xây
dựng chính sách và điều hành quản lý nhà nƣớc theo hƣớng từ trực tiếp, hành
chính, mệnh lệnh sang gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy kinh tế ;
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế hiện hành; nghiên cứu
xây dựng một môi trƣờng pháp lý chung chặt chẽ nhƣ chế độ quản lý kế toán,
chế độ quản lý thanh toán... để ngăn chặn gian lận thƣơng mại ;
Nâng cao khả năng quản lý đối tƣợng nộp thuế, tạo điều kiện áp dụng
công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong các
khâu công việc ;
Củng cố và phát triển hệ thống hải quan Việt Nam về cơ cấu và năng
lực tổ chức thực hiện, về mức độ tự động hoá và trang bị các phƣơng tiện kỹ
thuật nghiệp vụ theo tinh thần của Luật Hải quan và các cam kết quốc tế của
Việt Nam trong lĩnh vực hải quan. Điều này vừa tạo thuận lợi cho hoạt động
thƣơng mại quốc tế, vừa giúp triển khai có hiệu quả công tác phòng chống
buôn lậu và gian lận thƣơng mại ;
Chính sách và thực tế chi tiêu của Chính phủ cần phải công khai, minh
bạch theo đúng thông lệ quốc tế. Tăng cƣờng kiểm soát chi, đảm bảo chi ngân
sách nhà nƣớc tiết kiệm, hiệu quả. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra
tài chính, chế độ báo cáo thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công
khai, minh bạch. Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo
lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình hội nhập ;
Xây dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và
điều chỉnh việc triển khai Chƣơng trình hành động của Chính phủ và các
71
chƣơng trình hành động của bộ, ngành và địa phƣơng sao cho thiết thực, hiệu
quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa phƣơng.
2.1.2. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính
Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các
thủ tục, giấy tờ không thật sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập
doanh nghiệp, nhanh chóng đƣa hàng hóa vào kinh doanh. Việc quản lý xuất
nhập khẩu các mặt hàng quản lý chuyên ngành nên căn cứ vào tiêu chuẩn kĩ
thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, các điều kiện hành nghề hơn là dùng giấy
phép để hạn chế thƣơng mại. Nhà nƣớc cần công bố công khai mọi quy trình,
thời gian giải quyết công việc, ngƣời đảm nhiệm chức vụ ở các cơ quan thuộc
bộ máy nhà nƣớc để mọi công dân, mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám
sát việc thực hiện. Bên cạnh đó, để thực hiện đƣợc mục tiêu xây dựng một xã
hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, Nhà nƣớc cần công khai, minh bạch mọi
cơ chế quản lý, chính sách. Điều này không những là tiền đề của chống tham
nhũng mà còn là điều kiện để tạo ra một thị trƣờng thuận lợi cho các doanh
nghiệp tự do cạnh tranh, giảm đƣợc chi phí giao dịch và cung cấp đƣợc nhiều
sản phẩm với giá cả phải chăng đến tay ngƣời tiêu dùng.
Tiếp tục rà soát các giấy phép kinh doanh hiện hành và điều kiện kinh
doanh đối với những ngành có điều kiện. Đơn giản hóa các thủ tục về hoàn
thuế, hải quan, xây dựng, hộ khẩu phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Xây
dựng quy chế công bố thông tin của các cơ quan nhà nƣớc về các cơ chế,
chính sách để giải đáp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp và ngƣời
tiêu dùng. Thƣờng xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa doanh nghiệp và các
cơ quan chức năng có thẩm quyền để quy định trách nhiệm và thời gian thực
thi cam kết. Sắp xếp lại các cơ quan nhà nƣớc để đảm bảo sự đồng bộ, tạo
hiệu quả trong việc xây dựng và thực thi các cam kết.
72
2.1.3. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước
Nhà nƣớc cần tiếp tục cần đẩy nhanh việc thực hiện chƣơng trình đổi
mới và cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế. Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc trong
những năm qua đã đem lại những kết quả tích cực. Các doanh nghiệp nhà
nƣớc đƣợc cổ phần hóa đều thu đƣợc lợi nhuận cao và tạo thêm công ăn việc
làm cho ngƣời lao động.
Phải khẩn trƣơng hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nƣớc theo hƣớng hình thành các loại hình công ty nhà nƣớc đa sở hữu,
chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc, tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng
nhƣ kết cấu hạ tầng, sản xuất tƣ liệu sản xuất và dịch vụ.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực,
có sự tham gia cổ phần của Nhà nƣớc, của tƣ nhân trong và ngoài nƣớc, các
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tƣ…trong đó nhà nƣớc giữ cổ phần chi phối.
Tạo lập môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp
nhà nƣớc cũng nhƣ các doanh nghiệp tƣ nhân, hỗ trợ các doanh nghiệp trong
việc chuyển hƣớng kinh doanh đảm bảo tính hiệu quả, miễn giảm thuế trong
thời gian đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
2.1.4. Tiếp tục bảo hộ một số ngành hàng cần hỗ trợ
Trong điều kiện cho phép và phù hợp với các quy định của WTO và
cam kết của Việt Nam về lộ trình giảm thuế suất nhập khẩu, tiếp tục bảo hộ
bằng thuế đối với một số loại ngành hàng cần đƣợc hỗ trợ. Áp dụng linh hoạt
các phƣơng pháp tính thuế; tiếp tục nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả thuế
chống bán phá giá và thuế đối kháng nhằm bảo vệ sản xuất trong nƣớc tránh
khỏi những cạnh tranh không bình đẳng của hàng nhập khẩu. Về các giải
pháp phi thuế, chúng ta cần duy trì các chính sách đầu tƣ, ƣu đãi đầu tƣ đang
thực hiện không trái với quy định của WTO; bên cạnh đó, nghiên cứu, đề xuất
73
các chính sách đầu tƣ, ƣu đãi đầu tƣ dƣới các hình thức khác nhƣ hỗ trợ
nghiên cứu phát triển, giáo dục đào tạo, đầu tƣ cải tiến trang thiết bị.
Về đầu tƣ, tập trung phát triển các sản phẩm trong nƣớc có lợi thế cạnh
tranh cả trên thị trƣờng nội địa và thị trƣờng quốc tế. Khắc phục cơ bản tình
trạng đầu tƣ dàn trải, thiếu chiến lƣợc dài hạn và đẩy mạnh xúc tiến đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài vào các ngành, lĩnh vực cần nhiều vốn, có công nghệ
cao, thân thiện với môi trƣờng, tiêu hao ít tài nguyên.
Phân loại các mặt hàng thành các nhóm hàng theo những tiêu chí nhất
định, nhƣ: hàng hóa thông thƣờng, hàng hóa có tác động quan trọng đến kinh
tế - xã hội, hàng hóa của các ngành truyền thống, hàng hóa của các ngành
công nghiệp, hàng hóa của các ngành nông nghiệp để có những biện pháp và
mức độ bảo hộ phù hợp với cam kết WTO.
2.1.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ chiếm 70% lực
lƣợng lao động lại cần cù, chăm chỉ và nhận thức nhanh. Tuy nhiên, nền kinh tế
nƣớc ta chƣa hoàn toàn phát triển vì thế lao động chủ yếu vẫn làm việc ở
những ngành có năng suất lao động thấp, chƣa đòi hỏi nhiều tri thức. Còn
những ngành có lĩnh vực gia tăng lớn, đòi hỏi trình độ cao, Việt Nam vẫn còn
rất thiếu. Gia nhập vào WTO, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc
tế đòi hỏi ngƣời lao động phải có trình độ và tay nghề cao hơn để đáp ứng nhu
cầu của các doanh nghiệp. Vì thế, đào tạo đội ngũ lao động đƣợc coi là một
trong những vấn đề trọng tâm trong bối cảnh hiện nay. Một số định hƣớng để
phát triển đội ngũ lao động cho phù hợp với tình hình và nhu cầu của WTO là:
Chấp nhận cơ chế thị trƣờng trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ
thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và
nâng cao chất lƣợng đào tạo gắn liền với thực hiện đầy đủ cơ chế thị trƣờng
trong việc trả lƣơng cho ngƣời lao động. Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và
sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao
74
động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lƣợng cao, nhất là các chuyên gia
đầu ngành. Xây dựng một số trƣờng đại học đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Nhanh chóng xây dựng chiến lƣợc cải cách giáo dục từ nội dung,
phƣơng pháp giảng dạy đến chế độ thi cử ở tất cả các cấp. Khuyến khích các
chƣơng trình hợp tác, trao đổi với nƣớc ngoài, mời các chuyên gia nƣớc ngoài
về giảng dạy trong nƣớc. Đồng thời chúng ta cần tăng cƣờng hợp tác quốc tế
về giáo dục, tiếp cận các phƣơng pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới.
2.1.6. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành nông nghiệp
Khi thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thƣơng
mại hàng hóa, nông nghiệp là ngành dễ bị ảnh hƣởng và tổn thƣơng nhất.
Việc cắt giảm thuế và xóa bỏ các hình thức trợ cấp bị cấm đã gây sức ép cạnh
tranh lớn đối với hàng nông sản trong nƣớc. Trong WTO, sản xuất nông
nghiệp của Việt Nam hiện vẫn là sản xuất nhỏ, năng suất, chất lƣợng thấp;
trong khi đó, nhiều thành viên của WTO có nền nông nghiệp phát triển ở trình
độ cao. Nông nghiệp Mỹ, nông nghiệp Tây và Bắc Âu, nông nghiệp một số
nƣớc Châu Á đều đã phát triển. Vì thế để hạn chế các tác động tiêu cực của
hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi tốt hơn các cam kết với WTO trong lĩnh
vực thƣơng mại hàng hóa, Nhà nƣớc và ngành nông nghiệp cần thực hiện các
giải pháp sau đây:
Thứ nhất, Nhà nƣớc cần tiến tới một phƣơng án mang tính cơ bản, lâu
dài với tính cách là một “chiến lƣợc” hoàn chỉnh đối với nông nghiệp, nông
thôn và nông dân. Chính sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhƣng đƣợc đặt
trong điều kiện thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết của nƣớc ta khi gia
nhập WTO và đã đến thời điểm thực hiện, đồng thời tính đến những vấn đề
thực tế của nông nghiệp nƣớc ta hiện nay. Nội dung cốt lõi của “chiến lƣợc”
này phải bao hàm các vấn đề: khắc phục nếp nghĩ, cách làm của ngƣời nông
dân sản xuất nhỏ; xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển nông
75
nghiệp, chính sách phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp, nông
thôn, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; chính
sách về tích tụ ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, phát triển nông nghiệp
sinh thái, phát triển làng nghề; những chủ trƣơng lớn về đổi mới, nâng cao
chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng môi trƣờng văn hoá mới với
một hệ thống những điều kiện đảm bảo tính khả thi tƣơng ứng.
Thứ hai, Nhà nƣớc cần có biện pháp tích cực và quyết liệt nhằm khắc
phục cách nghĩ, cách làm, cách sống “tiểu nông” của ngƣời nông dân trong
quá trình hội nhập. Tuy hơn hai năm thực thi cam kết, cách suy nghĩ của
ngƣời nông dân đã phần nào thay đổi nhƣng vẫn chƣa hoàn toàn phù hợp với
nền kinh tế thị trƣờng ở cấp độ toàn cầu. Vì thế, bằng các biện pháp tích cực,
không bị ràng buộc bởi các cam kết WTO, Nhà nƣớc có thể giúp nông dân
bằng con đƣờng nhƣ: đổi mới và nâng cao chất lƣợng các hoạt động khuyên
nông, khuyến ngƣ, khuyến lâm; thực hiện phát triển lực lƣợng sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kết cấu hạ
tầng; nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực khu vực nông
thôn; xây dựng môi trƣờng văn hoá tiến bộ lành mạnh ở khu vực nông thôn
nhằm giúp nông dân thoát dần ảnh hƣởng của tâm lý tiểu nông, hội nhập kinh
tế quốc tế có hiệu quả.
Thứ ba, phát huy vai trò quản lý của Nhà nƣớc, tranh thủ thời gian để
thay đổi những tập quán sản xuất, kinh doanh không phù hợp với xu hƣớng
hội nhập. Bên cạnh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông
nghiệp; ngƣời nông dân phải có các biện pháp giữ gìn, bảo vệ thƣơng hiệu các
sản phẩm nông nghiệp hiện đã đƣợc xác lập của Việt Nam nhƣ: gạo, cà phê,
hồ tiêu, hạt điều, cá da trơn; gắn thƣơng hiệu với tiêu chuẩn môi trƣờng; đồng
thời phải giữ vững chữ tín trong kinh doanh.
Thứ tư, khai thác tối đa những ƣu đãi của WTO đối với các nƣớc thành
viên thuộc diện đang phát triển để nông nghiệp, nông thôn và nông dân hội
76
nhập có hiệu quả. Vào một “sân chơi” với các luật lệ đã có sẵn, chúng ta thực
hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, đồng thời cần khai thác triệt để các quyền
đƣợc hƣởng, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia. Là một trong những nƣớc đang
phát triển, theo luật của WTO và các cam kết đã thỏa thuận, Việt Nam đƣợc
hƣởng ƣu đãi về: quyền đƣợc mở rộng thƣơng mại, xuất khẩu, thu hút vốn
nƣớc ngoài, nâng cao ý thức cạnh tranh, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh
tăng trƣởng kinh tế, nâng cao mức sống và quyền đƣợc hƣởng những ƣu đãi
đối với các các nƣớc đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Nhƣ vậy,
các cơ quan chức năng của Nhà nƣớc cần thông tin rõ, cụ thể và có biện pháp
khai thác một cách có lợi nhất những ƣu đãi đƣợc hƣởng trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, nông dân, để trên cơ sở đó, Nhà nƣớc ban hành những
chính sách phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn và nông dân
nƣớc ta hiện nay, giúp họ hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả.
Thứ năm, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp và nông thôn, từng bƣớc chuyển lao động từ lĩnh vực nông nghiệp
sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đƣa các doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn, phát triển các làng nghề
sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời, nhà nƣớc cũng cần tăng ngân sách
đầu tƣ cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn
vốn hỗ trợ trƣớc đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tƣ phát
triển thủy lợi, giao thông nông thôn. Nhà nƣớc hỗ trợ việc xây dựng hệ thống
kho tàng, cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, đảm bảo chất lƣợng
sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lƣợng hàng hóa lƣu thông trên
thị trƣờng nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn.
Thứ sáu, Nhà nƣớc đứng ra giúp đỡ thành lập một hiệp hội nông nghiệp
hữu hiệu cho nhà nông. Thực tế khi gia nhập WTO, ngƣời nông dân phải trực
tiếp đƣơng đầu với một sức ép lớn buộc họ phải thay đổi tƣ duy và thói quen
làm việc. Hiện đại hóa nông thôn nhờ đó mà phát triển. Tuy nhiên, một số
77
nông dân lại không có khả năng thích nghi với điều kiện sản xuất mới. Mặc
dù Nhà nƣớc chƣa có khả năng hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ngay
nhƣng có thể giúp nông dân tổ chức những hiệp hội để nhà nông - nhà kinh
doanh - nhà hợp tác làm việc, qua đó chuyển giao kỹ thuật, công nghệ hoặc
yêu cầu của thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu.
2.1.7. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong ngành công nghiệp
Thứ nhất, dể thực thi tốt hơn các cam kết của Việt Nam với WTO trong
lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa, chúng ta đã tiến hành cắt giảm thuế và hàng
rào bảo hộ với nhiều ngành công nghiệp. Vì thế, để nâng cao năng lực cạnh
tranh hàng công nghiệp, chúng ta cần xác định đúng năng lực cạnh tranh của
hàng hóa công nghiệp trên cả hai phƣơng diện: thị trƣờng trong nƣớc và thị
trƣờng quốc tế. Đối với hàng trong nƣớc, yêu cầu hàng hóa có giá rẻ, chất
lƣợng không kém nhiều so với hàng hóa nhập khẩu cùng loại. Còn đối với
hàng hóa tiêu thụ trên thị trƣờng quốc tế, yêu cầu cao hơn về chất lƣợng, sự
độc đáo, khả năng thay đổi mẫu mã nhanh, khả năng cung cấp ổn định và
nhiều yêu cầu khác quy định bởi các rào cản kỹ thuật cũng phải đáp ứng.
Nhóm hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh tƣơng đối tốt của ta là
hàng may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, gỗ…Các sản phẩm sử dụng
nhiều lao động và có lợi thế so sánh cao vốn là thế mạnh của Việt Nam. Tuy
nhiên, trong thời gian dài lợi thế về các nhóm sản phẩm này sẽ giảm và ngành
công nghiệp sẽ gặp khó khăn nếu không nâng cao đƣợc năng lực cạnh tranh
của các ngành công nghiệp cao, sử dụng nhiều hàm lƣợng tri thức.
Thứ hai, chúng ta cần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, khai
thác năng lực toàn ngành nhằm duy trì mức tăng trƣởng sản xuất hợp lý. Tập
trung phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, có khả
năng mở rộng thị trƣờng. Cần có biện pháp tổ chức sản xuất thích hợp để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hƣớng gia tăng các sản phẩm
có hàm lƣợng chế biến, các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Quan
78
tâm khai thác các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, sử dụng
nhiều lao động nhƣ chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ
công mỹ nghệ. Theo phƣơng hƣớng ƣu tiên từng ngành hàng chủ lực hay từng
doanh nghiệp có vai trò trọng yếu, cần xây dựng và thực hiện chƣơng trình
sản xuất kinh doanh thích hợp. Cùng với các ngành hàng, mỗi địa phƣơng
nhất là ở những vùng trọng điểm cần có những biện pháp cụ thể để hỗ trợ,
thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn đạt đƣợc mức tăng trƣởng
cao nhất. Tuy nhiên, không vì chú trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có
khối lƣợng cao và giá trị xuất khẩu lớn mà chúng ta lại quên phát triển các
mặt hàng nhỏ, lẻ khác bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng góp một
phần đáng kể vào tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP).
Thứ ba, một trong những biện pháp quan trọng khác để thực thi các
cam kết với WTO trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa đem lại hiệu quả cao
nhất với nƣớc ta là chúng ta cần đầu tƣ xây dựng các công trình công nghiệp
để nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng
nhƣ của sản phẩm công nghiệp. Đầu tƣ cho công nghiệp phụ trợ để nâng cao
tỷ lệ sử dụng nguyên, vật liệu trong nƣớc. Khuyến khích mở rộng các quan hệ
liên kết hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp, các khu công nghiệp, các
cụm công nghiệp trong vùng. Đầu tƣ vùng nguyên liệu công nghiệp cho công
nghiệp chế biến và mở rộng hình thức liên kết, triển khai thực hiện có hiệu
quả các nguồn vốn của Nhà nƣớc theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đẩy mạnh thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào các dự án xây dựng
lớn. Hơn hai năm qua, số vốn vào nƣớc ta đã đạt con số kỉ lục đồng thời
lƣợng vốn đầu tƣ vào các ngành công nghiệp chế biến là rất lớn. Vì thế, chúng
ta cần tiếp tục mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn vốn nƣớc ngoài đầu
tƣ vào nƣớc ta. Đối với đầu tƣ trong nƣớc, Nhà nƣớc cần tạo mọi điều kiện và
khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tƣ kinh doanh, phát
triển mạnh qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên khắp các địa bàn.
79
Đối với các khu công nghiệp, tiếp tục thực hiện các dự án đầu tƣ xây
dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu về mặt bằng cho các nhà đầu tƣ, khuyến
khích các doanh nghiệp đang hoạt động bổ sung vốn đầu tƣ mở rộng và đầu
tƣ chiều sâu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, chúng ta cần tăng cƣờng hoạt động khoa học, công nghệ và đào
tạo. Đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ toàn ngành, chú trọng phát triển
và thu hút các ngành công nghệ cao. Cùng với nhiệm vụ, giải pháp chung của
toàn ngành, đối với từng ngành hàng, nhất là các ngành chủ lực cần xác lập
các chƣơng trình ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ phù hợp với mục tiêu
phát triển chiến lƣợc. Bên cạnh đó, cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, ngƣời
lao động để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đáp ứng đủ nhu cầu về số
lƣợng lao động, trình độ kỹ thuật và tác phong công nghiệp.
2.2. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp
Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thƣơng
mại hàng hóa khiến các doanh nghiệp trong nƣớc phải chịu sự cạnh tranh
mạnh mẽ của các doanh nghiệp nƣớc ngoài. Vì thế, các doanh nghiệp cần chủ
động trong việc tìm hiểu các quy định của WTO; đặc biệt là các cam kết có
liên quan đến lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa để nắm đƣợc những lợi ích và
thách thức phải đối mặt. Điều này cũng tạo tiền đề cho các doanh nghiệp
trong việc xây dựng lại các chiến lƣợc và kế hoạch về sản xuất và kinh doanh
của mình. Qua hai năm hội nhập, chúng ta có thể thấy rõ bốn yếu điểm của
doanh nghiệp trong nƣớc là số lƣợng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn;
công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung còn lạc hậu và khả năng quản trị
doanh nghiệp còn kém. Những hạn chế này có nguyên nhân khách quan, do
một nền kinh tế còn phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển
đổi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhận thức đƣợc các hạn chế
của mình, tận dụng cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để đƣơng đầu,
vƣợt qua thử thách và khẳng định đƣợc chỗ đứng trên trƣờng quốc tế.
80
2.2.1. Triển khai thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
Tái cơ cấu đƣợc coi là biện pháp lâu dài và định hƣớng có tính chiến
lƣợc cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tái cơ cấu doanh nghiệp chính là việc
sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, bằng cách xây dựng lại sơ đồ cơ
cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới. Tái cơ
cấu còn quan tâm đến tính hệ thống và chuyên nghiệp trong phƣơng thức thực
hiện, phối hợp và điều hành công việc. Các đề án tái cơ cấu doanh nghiệp vẫn
đang đƣợc triển khai khá rộng ở Việt Nam, đặc biệt là sau khi Việt Nam tiến
hành thực thi các cam kết với WTO. Các mô hình công ty mẹ - công ty con,
mô hình tập đoàn không còn là mới mẻ nữa. Các doanh nghiệp đã chủ động
đón nhận một cuộc chơi bình đẳng trong xu thế hội nhập. Có những doanh
nghiệp đã kịp đổi mới, thích nghi mới môi trƣờng cạnh tranh nhƣng cũng có
những doanh nghiệp chƣa đủ khả năng để đối mặt với các thử thách mới. Vì
thế, để đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp một cách sâu rộng và
đồng bộ, các doanh nghiệp Việt Nam cần:
Thứ nhất, tổ chức mời đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm phổ biến
những quan điểm về tái cơ cấu doanh nghiệp cho các thành viên trong công ty để
mọi ngƣời nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề này. Đồng thời quán triệt
về nhận thức và hành động trong các đơn vị thành viên để việc triển khai tái cơ
cấu đƣợc thực hiện đúng thời điểm, đúng trọng tâm và đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, cần đào tạo và trang bị cho đội ngũ lao động những kiến thức
cần thiết để có khả năng thích ứng với mô hình mới, vấn đề mới sau khi tái cơ
cấu doanh nghiệp. Quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp bao gồm tái cơ cấu tổ
chức và quản lý, tái cơ cấu tài sản, sản phẩm, thị trƣờng, lao động...Việc cắt
giảm hay thuyên chuyển lao động giữa các đơn vị sản xuất hay các phòng ban
sẽ gây ảnh hƣởng trực tiếp đến ngƣời lao động. Khi ngƣời lao động không kịp
thích nghi với mô hình mới, công ty sẽ làm ăn không hiệu quả. Vì thế, để
tránh tình trạng này, doanh nghiệp cần cung cấp cho ngƣời lao động những
81
thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích và trách nhiệm của họ, để họ có kế
hoạch chủ động trong công việc. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tổ chức tập
huấn, trang bị những kiến thức cần thiết với vị trí công việc mới của ngƣời lao
động để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
Thứ ba, tái cơ cấu phải đúng lúc thì mới đạt hiệu quả cao nhất. Các
doanh nghiệp cần tích cực phân tích tình hình sản xuất kinh doanh nội bộ
cũng nhƣ tình hình đối thủ cạnh tranh và môi trƣờng kinh doanh để nắm bắt
thời cơ tái cơ cấu.
Nhƣ vậy, tái cơ cấu là một trong những nhân tố bƣớc đầu tạo nên thành
công cho doanh nghiệp trong giai đoạn Việt Nam thực thi các cam kết với
WTO về mở cửa thị trƣờng hàng hóa.
2.2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ khi thực thi các cam kết với WTO
trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa, cạnh tranh trên thị trƣờng sẽ diễn ra
ngày càng gay gắt, đặc biệt là cạnh tranh về giá. Vì thế các doanh nghiệp cần
phải coi yêu cầu giảm giá thành và phí lƣu thông là vấn đề quan trọng sống
còn, phải ra soát lại từng công đoạn trong quá trình sản xuất lƣu thông, triệt
để tiết kiệm chi phí nguyên liệu, năng lƣợng và các chi phí quản lý khác, thiết
lập những quy trình sản xuất, những phƣơng thức bảo đảm hậu cần - vận tải
và công nghệ quản lý mới. Sau đây là một số đề xuất để nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp:
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh sẵn có đồng
thời tạo ra lợi thế so sánh mới cho mình. Lợi thế sẵn có mà thiên nhiên ban
tặng cho nƣớc ta là nguồn tài nguyên dồi dào và vị trí địa lý khá thuận lợi cho
giao thƣơng. Bên cạnh đó, tiền công lao động nƣớc ta cũng rẻ hơn so với các
nƣớc phát triển nên chúng ta có thể tận dụng lợi thế này để sản xuất các sản
phẩm với giá rẻ hơn, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa nƣớc ngoài. Tuy nhiên,
việc giảm thuế nhập khẩu đã làm giá cả hàng ngoại trở nên rẻ hơn, phù hợp
82
với ngƣời tiêu dùng nội địa. Vì thế, để cạnh tranh đƣợc chúng ta cần tiếp thu
công nghệ hiện đại, trình độ quản lý mới kết hợp với thế mạnh nội tại để tạo
ra lợi thế so sánh mới trên thị trƣờng.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần tăng cƣờng liên kết theo chiều dọc và
chiều ngang để đồng bộ hoá việc cung ứng, ổn định và mở rộng các kênh lƣu
thông. Cạnh tranh không loại trừ hợp tác mà luôn song hành trong kinh tế thị
trƣờng. Làm đƣợc điều này, các doanh nghiệp sẽ tận dụng đƣợc cả hai ƣu
điểm của cạnh tranh và hợp tác. Cạnh tranh để có đƣợc sản phẩm tốt nhất và
giá cả thấp nhất còn hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài hệ
thống cùng phát triển.
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa bằng cách đổi mới
công nghệ, học hỏi kinh nghiệm các nƣớc đi trƣớc để đạt đƣợc mục tiêu chất
lƣợng cao mà giá thành lại thấp và ổn định. Sản phẩm của doanh nghiệp
không những cần đứng vững trên thị trƣờng thị trƣờng nội địa mà còn phải
cạnh tranh thắng lợi trên thị trƣờng quốc tế. Trƣớc tiên, cần đầu tƣ thay thế
các máy móc, thiết bị đã lạc hậu, không còn phù hợp với quá trình sản xuất
đồng thời liên kết, hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp khác để tận dụng
cơ sở vật chất của họ. Hơn nữa, các doanh nghiệp cần khơi dậy khả năng sáng
tạo của các cá nhân và tập thể để tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi
phí nguyên liệu, quản lý doanh nghiệp.
Thứ tư, các doanh nghiệp phải chủ động đa dạng hóa thị trƣờng, không
chỉ tập trung phát triển tại các thị trƣờng quen thuộc mà cần khai thác các thị
trƣờng mới. Hiện nay, thị trƣờng Châu Phi - Trung Đông và thị trƣờng Mỹ La
Tinh là những thị trƣờng rất tiềm năng của hàng hóa nƣớc ta. Để đáp ứng nhu
cầu thị trƣờng, các doanh nghiệp cần chọn các sản phẩm có thế mạnh, không
ngừng cải tiến nâng cao chất lƣợng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu
cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên, không vì
83
thế mà chúng ta lại quên việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới phù
hợp với thị hiếu của xã hội.
Thứ năm, các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu thị trƣờng. Quá
trình nghiên cứu thị trƣờng là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị
trƣờng kinh doanh, phân tích so sánh số liệu để tìm ra phƣơng hƣớng tốt nhất
phát triển doanh nghiệp. Đây là công việc cần thiết và đặc biệt quan trọng khi
Việt Nam gia nhập WTO. Khi có đầy đủ thông tin về thị trƣờng, các doanh
nghiệp có thể khai thác hết tiềm năng của mình để thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng. Sau khi đã nghiên cứu thị trƣờng, các doanh nghiệp cần tiến hành
phân lớp thị trƣờng để xác định đúng đối tƣợng khách hàng mà mình hƣớng
tới, phù hợp với lợi thế và khả năng của doanh nghiệp. Khả năng cá thể hóa
đối tƣợng là rất quan trọng với các doanh nghiệp bởi qua đó họ có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình rất nhanh.
Thứ sáu, tăng cƣờng công tác quảng cáo, xúc tiến bán hàng để kích
thích sức mua của thị trƣờng. Quảng cáo và tuyên truyền phải hƣớng tới ba
mục tiêu là thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tƣ tƣởng chủ đạo của các
thông điệp đƣa ra phải dựa vào nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến khách
hàng qua các tính năng đặc biệt và uy tín của doanh nghiệp.
2.2.3. Coi trọng việc chiếm lĩnh thị trường trong nước
Với việc cắt giảm thuế theo lộ trình và giảm sự trợ cấp của nhà nƣớc
với các doanh nghiệp, hàng hóa nƣớc ngoài tràn vào nƣớc ta ngày càng nhiều.
Ngƣời tiêu dùng lại có xu hƣớng chọn hàng ngoại nên việc chiếm lĩnh thị
trƣờng nội địa là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay. Thị trƣờng Việt Nam với 84 triệu dân là một thị trƣờng lớn. Tổng doanh
thu tiêu dùng hàng hóa nƣớc ta rất cao bởi thế không phải ngẫu nhiên mà các
doanh nghiệp nƣớc ngoài lại sẵn sàng xâm nhập vào thị trƣờng nội địa nƣớc
ta. Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp nƣớc ta, lại là những doanh nghiệp
lớn ít quan tâm đến phát triển mạng lƣới kinh doanh trong nƣớc. Vì thế, các
84
doanh nghiệp phải nhận thức lại để có chiến lƣợc phát triển đúng. Muốn cạnh
tranh thắng lợi trên thị trƣờng nƣớc ngoài phải cạnh tranh đƣợc trên thị trƣờng
trong nƣớc, nơi doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế hơn doanh nghiệp nƣớc
ngoài do hiểu biết thị trƣờng, thói quen và văn hoá tiêu dùng của ngƣời mua
tốt hơn, có nhiều lựa chọn cách tổ chức thị trƣờng với các phƣơng thức phân
phối đa dạng hơn. Đây không chỉ là yêu cầu đối với khó khăn trƣớc mắt do
suy giảm tăng trƣởng mà là yêu cầu lâu dài với các doanh nghiệp Việt Nam.
2.2.4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
Doanh nghiệp cần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực theo hƣớng chuyên nghiệp hóa và công nghiệp hóa nhằm nâng cao
năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm giá thành sản phẩm. Thực tế ở Việt
Nam vẫn còn một lƣợng lớn nguồn lao động đƣợc đào tạo, có tay nghề và
kinh nghiệm nhƣng lại không có công ăn việc làm. Vì thế, các doanh nghiệp
cần tranh thủ tận dụng tối đa hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Doanh nghiệp
cũng cần tập trung đào tạo lại nguồn nhân lực, nhanh chóng tiếp cận và áp
dụng kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực tại các nƣớc phát triển.
Để có đƣợc đội ngũ nhân viên lành nghề, tâm huyết với công việc thì
doanh nghiệp phải có chính sách đãi ngộ hợp lý về chức vụ, lƣơng bổng và
tiền thƣởng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chú ý đến việc chia sẻ khó
khăn và xử lý hài hoà lợi ích giữa chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và ngƣời
lao động. Trong bối cảnh khó khăn, thu nhập của chủ doanh nghiệp, cán bộ
quản lý và ngƣời lao động có thể bị sụt giảm. Chủ doanh nghiệp, cán bộ quản
lý cần làm rõ tình hình cho ngƣời lao động, tự mình chịu thua thiệt nhiều hơn,
tạo ra động lực tinh thần mới, nền tảng văn hoá doanh nghiệp mới.
Nhân viên có trình độ sẽ nắm vững tình hình công ty, đƣa ra những
kiến nghị hợp lý giúp công ty phát triển. Việc tuyển dụng và giữ chân đƣợc
các nhân viên cao cấp là một vũ khí cạnh tranh đầy uy lực của các doanh
nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghệ
85
cao và dịch vụ. Thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực
thƣơng mại hàng hóa, các doanh nghiệp nƣớc ngoài sẽ vào Việt Nam nhiều
hơn. Họ sẽ có chiến lƣợc thu hút các nhân viên giỏi, có năng lực. Vì thế, các
doanh nghiệp nội địa cần đặc biệt quan tâm đến việc tuyển dụng nhân lực có
chất lƣợng cao.
Để tăng cƣờng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp cần
cơ cấu lại, hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh. Khi đƣợc làm việc trong
một môi trƣờng phù hợp và đúng với trình độ chuyên môn của mình, đội ngũ
công nhân viên sẽ phát huy tối đa khả năng.
2.2.5. Tăng cường hợp tác, gắn kết giữa các doanh nghiệp
Hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình phân công lao động
quốc tế, trở thành một bộ phận của chuỗi giá trị toàn cầu buộc các doanh
nghiệp phải tiến tới hợp tác, gắn kết kinh tế để tồn tại và phát triển. Vì thế,
trƣớc tiên các doanh nghiệp cần thay đổi cách thức tổ chức sản xuất kinh
doanh, loại bỏ mô hình khép kín trƣớc đây. Khi tham gia vào một chuỗi gắn
kết giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần tuân thủ các luật chơi và
tiêu chuẩn chất lƣợng đồng nhất đồng thời giúp đỡ nhau cùng phát triển. Có
nhƣ thế thì sự hợp tác mới đem lại hiệu quả cao nhất. Mỗi doanh nghiệp vừa
có điều kiện chuyên môn hóa sản xuất, vừa có khả năng điều chỉnh để kịp
thích nghi với những biến động của thị trƣờng.
Phải tăng cƣờng liên kết theo chiều dọc và chiều ngang, xác lập quan
hệ bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối. Các tập đoàn tƣ
bản cạnh tranh với nhau gay gắt nhƣng lại sẵn sàng hợp tác vì lợi ích của
chính mình bởi họ đã nhận thức đƣợc trong cơ chế thị trƣờng hiện nay thì hợp
tác và cạnh tranh luôn song hành cùng nhau. Các doanh nghiệp Việt Nam quy
mô nhỏ, vốn lại ít, trang thiết bị thì chƣa hiện đại và đầy đủ. Chính vì thế, khi
liên kết và hợp tác với nhau, các doanh nghiệp có thể tranh thủ đƣợc nguồn
86
lực và cơ sở vật chất của đối tác, giảm thiểu rủi ro cho mình. Từ đó, tăng hiệu
quả sản xuất kinh doanh và thu đƣợc lợi nhuận.
Tất cả các doanh nghiệp dù lớn dù nhỏ đều có khả năng liên kết với
nhau nếu điều này mang lại lợi ích cho họ. Có nhiều phƣơng thức liên doanh,
liên kết nhƣ liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau, giữa các
doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh nghiệp lớn, giữa các doanh nghiệp
lớn và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài...Tuy nhiên, việc quan trọng
nhất hiện nay là các doanh nghiệp trong nƣớc cần liên kết với nhau để chiếm
lĩnh thị trƣờng nội địa, ngăn cản sự thống lĩnh của hàng ngoại.
2.2.6. Nâng cao vai trò và năng lực của các hiệp hội ngành hàng.
Ngày nay, đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
xuất khẩu nói riêng, các hiệp hội ngành hàng có vai trò rất quan trọng, đặc
biệt là khi chúng ta đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Hiệp hội
ngành hàng phải có đủ điều kiện và năng lực để đại diện cho các hội viên
trong các quan hệ trong nƣớc và quốc tế, cung cấp thông tin thị trƣờng và xúc
tiến thƣơng mại, tham gia giải quyết các tranh chấp thƣơng mại và tƣ vấn cho
cơ quan quản lý nhà nƣớc về những vấn đề chính sách có liên quan đến ngành
hàng. Trong thời gian qua, chúng ta đã thành lập đƣợc khá nhiều hiệp hội
ngành hàng nhƣ Hiệp hội dệt may, thép, xăng dầu, cà phê, than...Nhiều hiệp
hội đã tƣ vấn cho các bộ, các tập đoàn, tổng công ty về thẩm định dự án lớn,
chƣơng trình trọng điểm của nhà nƣớc. Hơn nữa, nhiều hiệp hội thông qua
hoạt động của mình đã có nhiều đóng góp vào việc bình ổn giá cả, thị trƣờng
nhƣ hiệp hội thép Việt Nam, hiệp hội xăng dầu Việt Nam...Tuy nhiên, khi
Việt Nam mở cửa thị trƣờng hàng hóa, nhiều hiệp hội gặp phải khó khăn
trong việc đổi mới cơ chế để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Vì thế, cần phải kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội
ngành hàng, đảm bảo hiệp hội là cầu nối giữa các doanh nghiệp và nhà nƣớc,
hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trƣờng, xúc
tiến thƣơng mại và đào tạo nguồn nhân lực. Hiệp hội cũng cần phải mở rộng
87
quy mô, tính chất hơn để thu hút rộng rãi hơn các doanh nghiệp hội viên.
Tăng cƣờng các hoạt động nhƣ hội thảo, hội chợ để các doanh nghiệp nội địa
có điều kiện tiếp xúc với các đối tác trong và ngoài nƣớc. Làm đƣợc những
điều trên, các hiệp hội sẽ ngày càng uy tín và xứng đáng là chỗ dựa vững chắc
của doanh nghiệp.
2.2.7. Xây dựng được thương hiệu vững mạnh
Thƣơng hiệu có một vai trò to lớn đối với tất cả các doanh nghiệp. Đặc
biệt, khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc xây dựng và phát triển
thƣơng hiệu còn mang ý nghĩa sống còn với các doanh nghiệp. Nhiều sản
phẩm trong nƣớc tuy có chất lƣợng cao nhƣng lại ít đƣợc quảng bá và định vị
thƣơng hiệu khiến cho ít ngƣời gọi đúng tên thƣơng hiệu sản phẩm. Nhiều
mặt hàng nông sản nhƣ cà phê, hồ tiêu, gạo và thủy sản hiện còn xuất khẩu ở
dạng thô và hàng dệt may chủ yếu là hàng gia công nên không có thƣơng hiệu
trong hệ thống phân phối của nƣớc ngoài. Việc không có thƣơng hiệu đã
khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm sang thị trƣờng nƣớc
ngoài phải chịu bất lợi nhƣ bán với giá thấp hoặc bán nhờ thƣơng hiệu của
một hãng nƣớc ngoài. Vì thế, tăng cƣờng hoạt động xây dựng, phát triển
thƣơng hiệu và nhãn hiệu sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
hàng hóa là vấn đề cực kì quan trọng đối với doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên,
để có đƣợc thƣơng hiệu và duy trì đƣợc hình ảnh tốt đẹp đối với ngƣời mua
chúng ta buộc phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế về
chất lƣợng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm và những quy định về bảo vệ
môi trƣờng.
Thứ nhất, doanh nghiệp cần đầu tƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tạo
nên sự khác biệt trong suốt quá trình phát triển sản phẩm, để sản phẩm khắc
sâu vào tâm trí khách hàng. Đặc biệt, mỗi sản phẩm của doanh nghiệp phải
nhƣ là một lời cam kết chất lƣợng giữa nhà sản xuất với khách hàng.
88
Thứ hai, các doanh nghiệp cũng cần chú ý đến tính phân đoạn thị
trƣờng của sản phẩm mang thƣơng hiệu mình, cần tạo nên định hƣớng và ý
nghĩa cho sản phẩm. Ngoài ra, để phát triển thƣơng hiệu, các doanh nghiệp
cũng cần quảng bá, tuyên truyền, tạo ra đƣợc nhiều loại sản phẩm phù hợp
với nhu cầu của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng.
Thứ ba, khi đã xây dựng đƣợc nhãn hiệu hàng hóa, doanh nghiệp phải
nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các nhãn hiệu, kiểu dáng
hàng hóa là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công
nghiệp, đăng kí độc quyền nhãn hiệu hàng hóa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp trên thị trƣờng.
Tóm lại, từ những khó khăn và tác động tiêu cực của việc thực thi các
cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa đƣợc
nêu ra ở chƣơng II, chƣơng III đã đƣa ra một số định hƣớng và giải pháp
nhằm thực thi tốt hơn các cam kết. Tuy nhiên, để những định hƣớng và giải
pháp này thực sự có hiệu quả, cần sự phối hợp đồng bộ của Nhà nƣớc, các bộ
ngành và các doanh nghiệp trong nƣớc. Nhà nƣớc cần tạo mọi điều kiện, giúp
đỡ các doanh nghiệp phát triển trong quá trình hội nhập. Mặt khác, các doanh
nghiệp cũng cần hợp tác, nâng cao năng lực cạnh tranh, đào tạo đội ngũ lao
động để đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong và ngoài nƣớc. Hy vọng rằng
trong tƣơng lai gần, Việt Nam sẽ ngày càng thực thi tốt hơn các cam kết với
WTO trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa.
89
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn
là nhu cầu thiết thực của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cƣờng hợp
tác là điều kiện cần thiết để Việt Nam có thể xây dựng một nền kinh tế độc
lập, tự chủ theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau hơn 11 năm nỗ lực,
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thƣơng mại thế giới
WTO. Các cam kết mà Việt Nam ký với WTO trong lĩnh vực thƣơng mại
hàng hóa hầu hết đều có lộ trình từ 5 đến 7 năm. Nhiều cam kết yêu cầu Việt
Nam cần có những thay đổi lớn trong chính sách thuế, phi thuế quan, trợ cấp
đồng thời phải cải thiện môi trƣờng kinh doanh trong nƣớc, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, những cam kết này sẽ đã có giúp Việt
Nam tiến gần hơn những nguyên tắc và tiêu chuẩn thƣơng mại quốc tế.
Thực hiện cam kết là một quá trình lâu dài, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Sau hơn hai
năm từ khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, chúng ta đã thực
hiện tốt và nghiêm chỉnh các cam kết trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa.
Chính phủ và các bộ ngành liên quan đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống thuế, phi thuế quan, xóa bỏ các trợ cấp bị WTO cấm và
thực hiện các hiệp định theo khuôn khổ WTO. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc cũng
xây dựng hành lang pháp lý, cải thiện môi trƣờng kinh doanh cho các doanh
nghiệp trong và ngoài nƣớc. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa,
từng bƣớc xây dựng một chiến lƣợc kinh doanh hợp lý, cải tiến mẫu mã, chất
lƣợng, hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh với hàng hóa nƣớc ngoài tràn vào
nƣớc ta khi chúng ta tiến hành mở cửa thị trƣờng hàng hóa. Trên cơ sở xem
xét thực trạng thực thi các cam kết trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa, có thể
thấy rằng thời cơ và thách thức luôn đan xen với nhau. Vấn đề là chúng ta cần
90
phải tìm một hƣớng đi thích hợp để khai thác đƣợc lợi thế, tận dụng đƣợc cơ
hội do gia nhập WTO mang lại đồng thời phân tích đƣợc những khó khăn, rút
ra bài học kinh nghiệm để thực hiện cam kết một cách có hiệu quả nhất. Mặt
khác, việc thực thi các cam kết cũng gây ra những tác động lớn đến nền kinh
tế và các ngành kinh tế của nƣớc ta theo cả hƣớng tích cực và tiêu cực. Tuy
nhiên, nếu Việt Nam xác định đƣợc những bƣớc đi đúng đắn và với quyết tâm
cao, chắc chắn việc thực thi các cam kết sẽ có những tác động tiêu cực đến sự
nghiệp phát triển kinh tế của đất nƣớc.
Sau khi tổng hợp, phân tích và đánh giá về thực trạng thực hiện các cam
kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa, luận văn đƣa
ra một số định hƣớng và giải pháp nhằm thực thi tốt hơn các cam kết cả ở tầm
vĩ mô đối với Chính phủ và cả ở tầm vi mô đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Các định hƣớng, giải pháp cũng nhƣ các ý kiến đƣợc nêu trong phạm vi
nghiên cứu này chỉ là những đề xuất cơ bản xuất phát từ tình hình thực tiễn
của Việt Nam nhằm thực hiện có hiệu quả các cam kết với WTO trong lĩnh
vực thƣơng mại hàng hóa. Việc thực thi tốt các cam kết không những tạo động
lực để phát triển kinh tế đất nƣớc mà còn giúp khẳng định vị thế của Việt Nam
trên trƣờng quốc tế.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành từ phía các thầy
cô. Em xin trân trọng cảm ơn.
Nhân đây, em xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới ThS.Vũ Thành
Toàn, thầy giáo đã trực tiếp hƣớng dẫn, động viên em tận tình trong suốt thời
gian lập đề cƣơng, lựa chọn tài liệu và hoàn thành xuất sắc khóa luận này. Và
em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới bố mẹ, gia đình, bạn bè đã động
viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian viết khóa luận.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
1. Understanding WTO, 3rd edition, September 2003, revised October
2005;
2. Trƣờng Đại Học Ngoại Thƣơng Hà Nội (2006), Giáo trình Kinh tế
Ngoại Thương, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội;
3. Bộ thƣơng mại (2007), Các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế
giới của Việt Nam;
4. Dự án hỗ trợ thƣơng mại đa biên Mutrap II (2007); Vị trí, vai trò và cơ
chế hoạt động của tổ chức thương mại thế giới trong hệ thống thương
mại đa phương. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Hà Nội;
5. Bộ Tài Chính (2006), Văn kiện và biểu thuế gia nhập WTO của Việt
Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội;
6. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội (2006) ; Những quy định về WTO ( tập
1-2), Hà Nội;
7. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 27/2008/QH12 ;
8. Thông tƣ số 04/2009/TT-BCT hƣớng dẫn việc nhập khẩu theo hạn
ngạch thuế quan năm 2009 ;
9. Thông tƣ 16/2008/TT-BTC về hƣớng dẫn việc nhập khẩu các mặt hàng
thuộc danh mục quản lý nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan năm 2009
10. Quyết định số 126/2006/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ.
II. CÁC TRANG WEB
11. Trang web Cổng thông tin về WTO và tiếp cận thị trƣờng:
12. Trang web của Bộ Công Thƣơng:
92
13. Trang web của Văn phòng quốc gia SPS Việt Nam:
14. Trang web của Văn phòng thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về tiêu
chuẩn đo lƣờng chất lƣợng:
15. Trang web của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia:
2997
16. Bộ tƣ pháp (2009); Phê duyệt đề án phát triển thương mại trong nước đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Trang web điện tử của Bộ tƣ pháp:
17. Thông tin về chống bán phá giá, chống trợ cấp và biện pháp tự vệ. Trang web:
cap.
18. Trang web Bộ Ngoại Giao Việt Nam:
19. Cổng thông tin Kinh tế Việt Nam; Tình hình kinh tế - xã hội năm2008:
20. Trang web của Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tƣ:
21. Bộ tài chính (2006), Gia nhập WTO: Thuế sẽ cắt giảm nhƣ thế nào?
Trang web điện tử của Bộ Tài Chính:
22. Trang web của tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO:
23. Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (2008). Toàn cảnh 2008, thách
thức và cơ hội năm 2009; Trang web:
1/Bao%20cao%20nam%202008%20-%20BVSC.pdf
24. Trang web của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4475_2419.pdf