MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: KHÁI LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ 2
1.1) Bản chất của hoạt động Thẩm định giá: 2
1.2) Vai trò của Thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường: 2
1.3) Cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 8
2.1) Sự cần thiết phát triển hoạt động Thẩm định giá ở nước ta hiện nay: 8
2.1.1) Xuất phát từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý giá phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế: 8
2.1.2) Thực tế trong thời gian vừa qua, hoạt động thẩm định giá đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường: 10
2.1.3) Xuất phát từ yêu cầu phải khắc phục những bất cập hiện tại để phát triển hoạt động thẩm định giá: 11
2.1.4) Kinh nghiệm các quốc gia khu vực và thế giới cho thấy thẩm định giá là một hoạt động cung ứng dịch vụ cho xã hội không thể thiếu của nền kinh tế thị trường: 12
2.2) Tình hình chung về hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 14
2.2.1) Hoạt động cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp thẩm định giá (theo thời gian): 14
2.2.1.1) Giai đoạn 1997- 2002: 14
2.2.1.2) Giai đoạn 2003- 2005: 15
2.2.1.3) Giai đoạn từ 2005 đến nay: 16
2.2.2)Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá: 18
2.2.2.1) Đào tạo dài hạn: 18
2.2.2.2) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá và cấp thẻ thẩm định viên về giá: 19
2.3) Những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay: 22
2.3.1) Hạn chế về cơ sở pháp lý: 22
2.3.2) Hạn chế trong công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá: 24
2.3.3) Cơ sở vật chất, thông tin dữ liệu: 26
CHƯƠNG III: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM . 27
3.1) Tiềm năng phát triển hoạt động Thẩm định giá ở Việt Nam: 27
3.2) Mục tiêu phát triển hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 28
3.3) Giải pháp cụ thể: 29
3.3.1) Xây dựng hàng lang pháp lý: 29
3.3.2) Quản lý Nhà nước: 30
3.3.3) Đào tạo thẩm định viên về giá: 30
3.3.3.1) Đào tạo cử nhân thẩm định giá: 30
3.3.3.2) Về bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn: 32
3.3.4) Ngân hàng dữ liệu: 33
3.3.5) Hợp tác quốc tế: 33
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37\
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4544 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thẩm định giá là một hoạt động tồn tại khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của các nước phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Ngay từ những năm 1940, thẩm định giá được thừa nhận là một nghề có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hay đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường. Đặc biệt, trong những năm sau thời kỳ 1970 của thế kỷ XX, khi thị trường tài chính quốc tế xuất hiện và việc toàn cầu hóa thị trường, đầu tư phát triển nhanh chóng, người ta càng nhận thấy tầm quan trọng của thẩm định giá phục vụ cho hoạt động của thị trường này. Chính vì vậy các nước trên thế giới đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và phát triển hoạt động thẩm định giá, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.
Thẩm định giá “du nhập” vào nước ta khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hoạt động thẩm định giá ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng trên nhiều lĩnh vực như: Xác định giá trị tài sản mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước; xác định giá trị tài sản để góp vốn, thế chấp, bảo đảm vay vốn ngân hàng, mua bán, chuyển nhượng, đặc biệt là trong cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian gần đây… Tuy nhiên, hoạt động thẩm định giá ở nước ta mới hình thành ở giai đoạn đầu, còn thiếu kinh nghiệm, chưa được đánh giá đúng vị trí, vai trò trong nền kinh tế, cơ sở pháp lý và việc đào tạo bồi dưỡng chuyên ngành thẩm định giá còn đang được hoàn thiện, phát triển…
Từ lý do nêu trên, em xin chọn đề tài: “Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay ” nhằm tìm hiểu, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp cần thiêt.
Nội dung đề án gồm 3 phần chính:
- Chương I: Khái luận về hoạt động thẩm định giá.
- Chương II: Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay.
- Chương III: Mục tiêu và giải pháp phát triển hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam.
CHƯƠNG I
KHÁI LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ
1.1) Bản chất của hoạt động Thẩm định giá:
Hoạt động thẩm định giá (TĐG) là một dịch vụ chuyên nghiệp rất cần thiết đối với sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Thẩm định giá là việc xác định giá của tài sản trên thị trường. Nhưng TĐG là một dạng đặc biệt của việc xác định giá bởi công việc TĐG do các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức, có kinh nghiệm và có tính trung thực cao trong nghề nghiệp thực hiện.
TĐG có vai trò quan trọng trong việc giúp chúng ta đưa ra các quyết định liên quan tới việc mua, bán, đầu tư, phát triển, quản lý, sở hữu, cho thuê, đánh thuế, bảo hiểm, cầm cố và kinh doanh tài sản.
TĐG đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa, nó phù hợp với quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần cùng hoạt động, đáp ứng yêu cầu khách quan, cấp thiết của công cuộc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước Việt Nam hiện nay.
1.2) Vai trò của Thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường:
Thẩm định giá (TĐG) là công tác cơ bản để thực hiện bố trí và kinh doanh 1 cách hiệu quả:
- Bất cứ ở lĩnh vực nào, ở tầm vĩ mô hay vi mô, việc bố trí và kinh doanh tài sản (TS) đều nhằm mục đích đạt hiệu quả cao. Muốn thế phải nắm bắt được giá trị của các tư liệu sản xuất, tài sản, phản ánh đúng giá trị TS, tình hình tăng trưởng và thu lợi.
- Đánh giá thực tế tài sản không phù hợp, giá trị không đúng, giá cả cơ bản của tài sản bị sai lệch, không chỉ ảnh hưởng đến khấu hao thu hồi để bảo toán tài sản mà còn ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, tính cạnh tranh, làm cho việc hạch toán lợi nhuận bị sai lệch, ảnh hưởng đến tính trung thực trong kinh doanh. Giá cả tài sản không chính xác khiến cho công tác phân tích vĩ mô không chính xác ảnh hưởng đến việc quản lý TS, bố trí TS bị sai lệch, việc sử dụng TS thiếu hiệu quả.
TĐG là thước đo cơ bản hiệu quả trong việc duy trì và điều hòa quyền lợi của người có quyền sở hữu và các quyền khác có liên quan đến tài sản:
- Theo sự thích ứng của nền kinh tế thị trường, mô hình mới về cơ chế sản quyền được thành lập, không những thực hiện được quyền sở hữu, quyền kinh doanh thích hợp mà còn mở rộng phát triển quyền lưu thông, chuyển nhượng, tổ chức lại tài sản … Trong chế độ sở hữu toàn dân cần xác định rõ trách nhiệm của người kinh doanh đối với việc bảo toàn và tăng trưởng TS quốc gia. Vì vậy cần phải tiến hành định giá một cách công tâm, chính xác tình hình giá trị TS, tình hình bảo toàn và làm tăng giá trị TS.
- Khi tiến hành TĐG TS, khi sản quyền bị biến động, không khắc phục được sự tính giá không chính xác, công tư bị sai lệch thì không những làm tổn hại đến quyền lợi của Quốc gia mà lại còn duy trì những quyền lợi hợp pháp của các bên cùng gây ra những trở ngại chủ yếu.
TĐG là điều kiện cần có để khai phá yếu tố thị trường và thị trường sản quyền:
- Kinh tế thị trường phát triển mạnh phải dựa vào yếu tố thị trường sản xuất và thị trường sản quyền phát triển nhanh.
- Tác dụng cơ bản của việc bố trí tài nguyên là do thành quả của thị trường sản xuất báo tín hiệu định hướng và thông qua thị trường sản xuất để có điều kiện trực tiếp tác động thực hiện.
- Bất cứ loại hình hàng hóa nào cũng phải có thước đo giá trị, cho nên thị trường tài sản, thị trường sản quyền cũng phải có TĐG làm thước đo giá trị. TĐG TS một cách khoa học và có quy phạm mới có thể đảm bảo cho thị trường tài sản, thị trường sản quyền vận hành có nề nếp. Giá cả hàng hóa và sản quyền không những chỉ có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi các mặt của TS mà còn phát ra tín hiệu định hướng cho việc bố trí tài nguyên. Nếu như giá cả mất chuẩn xác, tất cả những định hướng sai sẽ làm tổn hại đến các mặt quan hệ liên quan của quyền lợi TS.
- Với điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, thực hiện hợp tác đầu tư trong và ngoài nước, hợp tác kinh doanh, cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển nhượng, cho thuê, liên doanh … đều cần phải tiến hành TĐG . Thẩm định giá TS có lợi cho việc thúc đẩy và qui phạm hóa nền kinh tế phát triển, bảo hộ quyền lợi cho người sở hữu, phát huy ngày càng lớn tác dụng cải cách mở cửa.
TĐG dựa theo thông lệ quốc tế có lợi cho việc mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài, duy trì lợi ích quốc gia:
- Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay cần phải ổn định, tích cực kêu gọi đầu tư của nước ngoài và ứng dụng các kỹ thuật quản lý tiên tiến, trong đó tiến hành hợp tác và góp vốn liên doanh là loại hình có hiệu quả.
- Dựa vào các thông lệ quốc tế, xử lý chính xác mối quan hệ lợi ích trong ngoài mang thước đo cơ bản vẫn là nguyên tắc làm giá đầu tư cân bằng. Nguyên tắc đó làm cho việc TĐG có ý nghĩa rất lớn là đưa ra được thước đo quyền lợi của cả hai bên.
- Đầu tư trong và ngoài nước tình hình rất phức tạp, TS thị trường mang tính đặc thù, sự khác biệt thị trường trong và ngoài nước lớn, có nhiều nhân tố không xác định được, do đó cần phải có trình độ quốc tế về TĐG, đây là biện pháp kỹ thuật rất quan trọng nhằm bảo hộ cho quyền lợi của quốc gia, của dân tộc.
1.3) Cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam:
Ngay từ những năm 1997-1998 hoạt động thẩm định giá đã được hình thành và thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam; hệ thống pháp luật về thẩm định giá của Việt Nam chưa được quy định cụ thể, rõ ràng; hoạt động thẩm định giá chỉ căn cứ vào kinh nghiệm học hỏi và tài liệu của các nước đã phát triển nghề thẩm định giá trong khu vực và dựa vào kinh nghiệm làm giá, quản lý giá mà Việt Nam đã quy định để vận dụng và dựa vào hoạt động thẩm định giá. Sau khi Pháp lệnh giá được UBTV Quốc Hội ban hành, Việt Nam đã xây dựng được hành lang pháp lý về thẩm định giá. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 31/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Bộ Tài chính đã ban hành được bộ 12 tiêu chuẩn thẩm định giá.
Một số Quyết định, Nghị định khác như: Nghị định 153/2007/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản; Quyết định số 87/2008/QĐ- BTC về quy chế đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá; Quyết định số 55/2008/QĐ- BTC về việc ban hành quy chế thi, cấp, sử dụng và quản lý thẻ thẩm định viên về giá…
Hành lang pháp lý cơ bản này đã giúp triển khai có hiệu quả trong thực tiễn các hoạt động sau đây:
+ Quản lý nhà nước về hoạt động thẩm định giá tài sản.
+ Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá tài sản.
+ Thẩm định giá các tài sản, hàng hóa và dự án theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản.
Chính vì vậy:
- Hoạt động thẩm định giá tài sản đã được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật, giảm thiểu rủi ro cho thẩm định viên trong quá trình hành nghề.
- Tài sản được thẩm định giá tài sản ngày càng tăng về giá trị và mở rộng về đối tượng. Hoạt động này đã góp phần tích cực thúc đẩy mua bán, trao đổi hàng hóa, tài sản, thực hiện tiết kiện chi cho ngân sách, phục vụ công tác đến bù giải phóng mặt bằng…
- Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế thành lập doanh nghiệp thẩm định giá, đã xuất hiện yếu tố cạnh tranh về giá cả và chất lượng dịch vụ thẩm định giá tài sản.
- Tạo điều kiện cho mọi người có đủ điều kiện tham dự thi cấp thẻ thẩm định viên về giá để thành lập doanh nghiệp thẩm định giá hoặc hành nghề thẩm định giá.
- Tạo điều kiện cho hoạt động thẩm định giá của Việt Nam phát triển hội nhập với khu vực và thế giới.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1) Sự cần thiết phát triển hoạt động Thẩm định giá ở nước ta hiện nay:
2.1.1) Xuất phát từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý giá phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế:
Trong những năm qua, đổi mới cơ chế quản lý giá là một nội dung quan trọng trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: nền kinh tế nước ta phải tiếp tục chuyển mạnh “ sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chù nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta” . “ Tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thực hiện quản lý Nhà nước về giá đối với một số mặt hàng, dịch vụ độc quyền, phù hợp với cơ chế thị trường và nguyên tắc hội nhập thị trường”.
Như vậy, cơ chế quản lý giá cần được tiếp tục đổi mới theo hướng Nhà nước quản lý và điều hành giá bằng hệ thống pháp luật là chủ yếu; tiếp tục giảm mạnh quyền định giá trực tiếp, chỉ còn quy định giá một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền, sản phẩm công ích, còn lại đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế thực hiện theo cơ chế giá thị trường do người mua và người bán thỏa thuận có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các nguồn lực vốn vật tư, lao động, đất đai … đã trở thành hàng hóa và tham gia vào các giao dịch kinh doanh rất đa dạng. Khi Nhà nước “ rời bỏ” quyền định giá trực tiếp đại bộ phận hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường thì xuất hiện nhu cầu cần phải đánh giá khách quan, chính xác giá trị của các nguồn lực để đảm bảo hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất.
Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng diễn ra sâu rộng, nhu cầu về liên doanh, liên kết kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài; vay nợ của Chính phủ và vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp cần có sự bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án ngày một gia tăng, xuất hiện yêu cầu ngày càng nhiều, đa dạng trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nước ta như: xác định giá trị tài sản để góp vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp, thế chấp, mua bán, chuyển nhượng tài sản trong việc thi hành án… của các bên liên quan. Việc xác định đúng đắn giá trị của các nguồn lực, từng loại hình tài sản thuộc nguồn lực này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa trong việc mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động giao dịch mua bán trên thị trường không phải bao giờ giá trị thị trường cũng xuất hiện và vận động đúng giá trị thị trường do các yếu tố độc quyền, móc ngoặc, đầu cơ, gian lận thương mại chi phối. Vì thế khi đầu tư, mua bán cả hai phía ( nguời mua và người bán) đều muốn có giá trị thị trường thực để ra quyết định mua bán, đầu tư. Do vậy, họ thỏa thuận cùng thuê một tổ chức thẩm định giá để xác định. Nhu cầu này đã xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng trên nhiều lĩnh vực của nước ta như: xác định giá trị tài sản mua sắm từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, xác định giá trị tài sản để góp vốn, thế chấp, mua bán, chuyển nhượng… Điều đó đòi hỏi phải hình thành các tổ chức trung gian tài chính có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật để xác định đúng giá trị thị trường của tài sản, phục vụ cho việc trao đổi giao dịch về tài sản, hàng hóa trên thị trường là hết sức cần thiết để góp phần tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí, góp phần đề cao trách nhiệm và tinh thần tôn trọng kỷ cương, pháp luật của mọi người dân, mọi doanh nghiệp và làm cho kinh tế phát triển bền vững.
Những nhu cầu trên đã và đang đòi hỏi hoạt động thẩm định giá phải được phát triển cả về chất lượng cũng như số lượng, trở thành một hoạt động tư vấn dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao, độc lập, khách quan, trung thực, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của Xã hội, phù hợp với chương trình hiện đại hóa ngành Tài chính và đòi hỏi của các tổ chức thẩm định giá quốc tế mà Việt Nam tham gia ( ngày 8/6/1997 Ban vật giá Chính phủ nay là Cục Quản lý giá thuộc Bộ tài chính đã gia nhập và là thành viên chính thức của Hiệp hội Thẩm định giá ASEAN; từ ngày 1/6/1998 tham gia Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế với tư cách là hội viên thông tấn).
2.1.2) Thực tế trong thời gian vừa qua, hoạt động thẩm định giá đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường:
Từ khi Pháp lệnh giá ra đời, nhất là khi nghị định số 101/2005/ NĐ- CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá được ban hành, các cơ quan có thẩm quyền đã cho phép thành lập 47 công ty thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá theo yêu cầu của pháp luật.
Qua quá trình hoạt động, thẩm định giá đã góp phần rất lớn vào việc xác định giá trị đất đai, tài nguyên, tài sản làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư trong nước, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, dự toán cấp phát kinh phí mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước… Theo báo cáo của các doanh nghiệp thẩm định giá, kết quả thẩm định giá đã giúp tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước khoảng 10- 15% giá trị thẩm định; góp phần tích cực vào việc ngăn chặn tiêu cực, lãng phí, thất thoát nguồn lực của Xã hội; làm cho hoạt động thị trường công khai minh bạch hơn.
2.1.3) Xuất phát từ yêu cầu phải khắc phục những bất cập hiện tại để phát triển hoạt động thẩm định giá:
Từ khi xuất hiện đến nay, bằng kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong khu vực và trên thế giới đã cho thấy: để hoạt động thẩm định giá phát triển bền vững thì phải giải quyết rất nhiều vấn đề về pháp lý, tiêu chuẩn, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, đào tạo đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp… Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, nghề thẩm định giá cũng đã ra đời và bước đầu phát triển. Hoạt động thẩm định giá đã có môi trường pháp lý thuận lợi dựa trên cơ sở một số luật quan trong như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật kinh doanh bất động sản, Pháp Lệnh giá… Đối với chuyên ngành thẩm định giá Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: quy định các phương pháp thẩm định giá phù hợp với tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế và ASEAN, xây dựng và ban hành được 12 tiêu chuẩn thẩm định giá; cho phép các loại hình doanh nghiệp nếu đủ điều kiện thì được tổ chức hoạt động thẩm định giá… Tuy nhiên trước những yêu cầu mới theo tinh thần Nghị quyết của Đảng là phải xây dựng các dịch vụ tài chính (trong đó có dịch vụ thẩm định giá) phát triển trở thành trung tâm của các nước trong khu vực thì thẩm định giá đang gặp những bất cập sau đòi hỏi phải được giải quyết đó là:
- Khung pháp lý cho hoạt động thẩm định giá còn thiếu và chưa đồng bộ, vì thế rủi ro nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá luôn có khả năng xảy ra.
- Số lượng đội ngũ thẩm định viên về giá còn ít, tính chuyên nghiệp còn hạn chế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao… Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành thẩm định giá còn nhiều bất cập (chưa có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng dài hạn…).
- Số lượng các doanh nghiệp thẩm định giá thành lập theo quy định của pháp luật chưa nhiều, cơ cấu sản lượng dịch vụ thẩm định giá cung ứng chưa cân đối (chủ yếu thẩm định giá bất động sản và tài sản mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước)…
2.1.4) Kinh nghiệm các quốc gia khu vực và thế giới cho thấy thẩm định giá là một hoạt động cung ứng dịch vụ cho xã hội không thể thiếu của nền kinh tế thị trường:
Tại hầu hết các quốc gia, hoạt động thẩm định giá được quản lý theo quy định của pháp luật, các thẩm định viên về giá được hành nghề độc lập và hoạt động trong tổ chức theo mô hình Hiệp hội nghề nghiệp. Tuy tên gọi của Hiệp hội có khác nhưng về cơ bản các Hiệp hội này tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Xây dựng, ban hành và giảm sát chấp hành các quy định về thẩm định giá tài sản (trong đó có hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá tài sản).
- Quản lý hoạt động hành nghề của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá.
- Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ thẩm định viên.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên; xử lý tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện thẩm định giá của các Hội viên khi cung cấp dịch vụ thẩm định giá cho khách hàng.
- Nghiên cứu, xuất bản ấn phẩm, hội thảo.
- Hợp tác quốc tế.
Kinh nghiệm qua khảo sát thực tế ở một số nước trên thế giới (Hoa Kỳ, Úc, Trung Quốc, Anh, Canada….) và trong khu vực (Thái Lan, Singapo, Indonexia, Malaysia, Philipin…) cho thấy:
- Hoạt động thẩm định giá (đất đai, công trình kiến trúc, doanh nghiệp…) được coi là một nghề hình thành từ lâu và không thể thiếu được trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.
- Có sự phân biệt rõ giữa thẩm định giá công (do đội ngũ công chức của chính phủ tiến hành, phục vụ Chính phủ thu thuế tài sản, đền bù thu hồi đất, xét xử của cơ quan tư pháp..) và thẩm định giá tư (do các doanh nghiệp tư vấn định giá tài sản tiến hành, phục vụ các giao dịch dân sự về tài sản công dân).
- Hoạt động thẩm định giá được quản lý theo quy định của pháp luật. Chính phủ một số nước giao Hiệp hội thẩm định giá thay mặt Chính phủ quản lý, giám sát hoạt động thẩm định giá, ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá, thẩm định cấp giấy phép hành nghề thẩm định giá, đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá, quan hệ quốc tế về thẩm định giá, đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá, quan hệ quốc tế về thẩm định giá…
- Thẩm định viên về giá được đào tạo bài bản, chính quy phân theo nhiều cấp trình độ khác nhau (cao học, đại học…) phù hợp với tiêu chuẩn, chuẩn mực của thế giới và khu vực. Thẩm định viên về giá thường có trình độ đại học thẩm định giá. Một số nước (Singaporre, Thái Lan…) còn đào tạo Thẩm định viên có trình độ chuyên sâu về từng lĩnh vực như: cử nhân về bất động sản, cử nhân quản lý bất động sản, cử nhân kinh tế học về bất động sản… Trong quá trình hành nghề, thẩm định viên phải thực hiện cập nhật kiến thức về thẩm định giá hàng năm theo các hình thức tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, hội thảo về thẩm định giá.
Tóm lại: thẩm định giá tài sản là một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường, khi nền kinh tế thị trường vận hành theo đúng các yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, các loại thị trường được hình thành đồng bộ thì nhu cầu về thẩm định giá tài sản của xã hội càng lớn…. Để đáp ứng yêu cầu của xã hội, của nền kinh tế thị trường, thẩm định giá tài sản phải trở thành một dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp, độc lập, khách quan, đủ năng lực hoạt động.
2.2) Tình hình chung về hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam:
2.2.1) Hoạt động cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp thẩm định giá ( theo thời gian):
2.2.1.1) Giai đoạn 1997- 2002:
Cả nước có 2 trung tâm Thẩm định giá tài sản được thành lập theo quyết định của Trưởng Ban vật giá Chính phủ là: Trung tâm Thẩm định giá; Trung tâm Thông tin và Thẩm định giá Miền Nam với số lượng nhân viên gần 300 người.
Hai trung tâm này tiến hành thẩm định giá chủ yếu đối với: Tài sản Nhà nước phải thẩm định giá; tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Tổng giá trị tài sản thẩm định của 2 trung tâm này khoảng 4500 tỷ đồng.
2.2.1.2) Giai đoạn 2003- 2005:
Trung ương có 2 Trung tâm Thẩm định giá thuộc Bộ Tài chính có khoảng 18 thẩm định viên được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp thẻ thẩm định viên về giá.
Hoạt động của 2 trung tâm chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực: Tài sản Nhà nước phải thẩm định giá; xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hóa; xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Tổng giá trị tài sản thẩm định của 2 trung tâm này khoảng 238.400 tỷ đồng. Tăng 5,5 lần so với thời kỳ 1997-2002.
Ở địa phương, cả nước có 34 trung tâm Thẩm định giá trực thuộc Sở Tài chính; nhiệm vụ chủ yếu của các trung tâm này là thẩm định giá tài sản Nhà nước phải thẩm định giá, tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Trong thời kỳ 2003- 2005, tham gia thị trường thẩm định giá, ngoài các trung tâm thẩm định giá, còn có trên 40 công ty kiểm toán, kế toán trong nước và 5 công ty kiểm toán, kế toán nước ngoài làm nhiệm vụ xác định giá
trị doanh nghiệp để cổ phần hóa… các công ty này có chức năng thẩm định giá, bên cạnh chức năng kế toán là chủ yếu.
Trên thực tế, 80% hồ sơ thẩm định giá của các công ty kế toán và kiểm toán là xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa (dựa trên hành lang pháp lý là Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư số 126/TT-BTC; ngoái ra xác định giá trị bất động sản.
2.2.1.3) Giai đoạn từ 2005 đến nay:
Thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về thẩm định giá; Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thẩm định giá hoạt động thẩm định giá đã được tăng cường cả về chất lượng đào tạo, số lượng thẩm định viên, số lượng các tổ chức tham gia thị trường thẩm định giá.
Tính đến tháng 6 năm 2008 cả nước có khoảng 2500 người làm việc trong lĩnh vực thẩm định giá, trong đó có 216 người được Bộ Tài chính cấp thẻ thẩm định viên về giá và có 174 thẩm định viên đăng ký hành nghề tại 47 doanh nghiệp thẩm định giá được Bộ Tài chính thông báo có đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá.
Ngoài ra, còn có các tổ chức định giá xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phẩn hóa theo quy định của Nghị định 109/2007/NĐ- CP về Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Hoạt động của các công ty thẩm định giá giai đoạn này rất đa dạng, phục vụ nhiều mục đích khác nhau.
* Đánh giá chung:
- Các trung tâm thẩm định giá đã chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Các Trung tâm không đủ điều kiện chuyển đổi theo quy định của Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư 67/2007/TT-BTC về việc chuyển đổi các trung tâm thẩm định giá sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp thì phải chuyển đổi nhiệm vụ hoạt động và không được phép hoạt động thẩm định giá. Vì vậy đã có 30 trung tâm ở các địa phương không đủ điều kiện chuyển đổi phải chấm dứt hoạt động thẩm định giá.
- Trình độ của thẩm định viên về giá đã được nâng cao do được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá một cách cơ bản, thường xuyên được cập nhật các kiến thức mới về thẩm định giá, về các quy định của Nhà nước về thẩm định giá.
- Hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên, của các doanh nghiệp thẩm định giá đã tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá, hệ thống tiêu chuẩn.
- Thị trường về thẩm định giá có tốc độ tăng rất nhanh về nhu cầu tài sản thẩm định giá theo yêu cầu xã hội và đòi hỏi về thẩm định giá rất lớn, vì vậy xã hội phải nhanh chóng tăng cả về số lượng thẩm định viên, số lượng doanh nghiệp thẩm định giá và chất lượng của hoạt động thẩm định giá. Đây là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, đồng thời phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp thẩm định giá đã mở rộng thị trường trong và ngoài nước, sự cạnh tranh về hoạt động thẩm định giá là rất lớn.
2.2.2) Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá:
2.2.2.1) Đào tạo dài hạn:
Việc đào tạo dài hạn học viên chuyên ngành thẩm định giá tài sản hiện đang được thực hiện ở 5 trường đại học và cao đẳng, cụ thể là:
- Hai trường Đại học Marketing và Cao đẳng quản trị kinh doanh thuộc Bộ Tài chính có khoa Thẩm định giá, bắt đầu chiêu sinh từ năm học 1998- 1999, hằng năm mỗi trường đào tạo khoảng 50- 70 học sinh. Hai trường này đã đào tạo được 4 khóa với khoảng 400 học viên tốt nghiệp bậc cao đẳng; số học viên này ra trường chỉ có 40- 50% là tìm được việc làm đúng chuyên ngành đào tạo. Năm học 2004-2005 trường đại học Marketing đã có chiêu sinh hệ đại học với 81 học viên; năm học 2006- 2007 trường đã chiêu sinh khoảng 100 sinh viên học khoa Thẩm định giá; năm học 2008- 2009 chiêu sinh hệ cao đẳng là 107 học viên và hệ dại học la 66 học viên. Trường cao đẳng tài chính- QTKD năm 2007-2008 chiêu sinh 100 học viên và năm 2008- 2009 chiêu sinh 100 học sinh khoa Thẩm định giá.
- Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội mới hình thành tổ bộ môn định giá với 4 giáo viên; năm học 2007-2008 đã chiêu sinh 50 học viên và năm học 2008-2009, 2009- 1010 đã chiêu sinh 50 học viên vào học chuyên ngành Thẩm định giá.
- Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh có tổ bộ môn Thẩm định giá thuộc khoa Kinh tế phát triển đảm nhiệm việc giảng về thẩm định giá với 7 giáo viên và đã tuyển sinh được 3 khóa, mỗi khóa 1 lớp, tổng số học viên của 3 khóa là 170 người; kết thúc khóa học đầu tiên 2005-2006 có 40 người ra trường, trường có dự kiến sẽ hình thành và phát triển bộ môn chuyên ngành Thẩm định giá, là một trong năm chuyên ngành của khoa kinh tế phát triển thuộc trường. Năm học 2006-2007; năm học 2007-2008 đã chiêu sinh 80 học viên và dự kiến năm học 2008-2009 chiêu sinh 100 học viên học chuyên ngành Thẩm định giá.
- Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) đã tuyển sinh 5 khóa đào tạo hệ đại học chuyên ngành Thẩm định giá từ năm học 2004-2005, mỗi khóa 1 lớp với 40 – 50 học viên/lớp. Năm 2007 đã có 41 học viên; năm 2008 có 45 học viên được đào tạo chuyên nghành thẩm định giá ra trường và năm 2009 sẽ có 56 học viên tốt nghiệp ra trường.
2.2.2.2) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá và cấp thẻ thẩm định viên về giá:
Thực hiện quy định tại Điều 16 Pháp lệnh giá, để chuẩn bị cơ sở cho việc cấp thẻ thẩm định viên về giá, Ban Vật giá chính phủ ( trước đây) đã giao cho 2 trung tâm thẩm định giá thuộc Ban Vật giá Chính phủ tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá tại miền Bắc, miền Trung và miền Nam vào cuối năm 2002 cho 203 học viên là cán bộ đang làm công tác quản lí giá tại cơ quan nhà nước, Sở Tài chính, doanh nghiệp, mỗi lớp thực hiện trong 2 tuần, giảng viên và nội dung bồi dưỡng do các đơn vị thuộc Ban Vật giá Chính phủ ( trước đây) biên soạn, thực hiện giảng. Sau khóa học, Trưởng ban Ban Vật giá cho các học viên và đã cấp 38 thẻ thẩm định viên về giá trong số 203 học viên tham gia học.
Ngày 24/02/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 21/2004/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế cấp, sử dụng và quản lí thẻ thẩm định viên về giá. Đồng thời Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành Thẩm định giá; từ năm 2004 đến nay, các cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính cho phép mở lớp ngắn hạn như: Học viện Tài chính, trường Đại học Marketing thành phố Hồ Chí Minh; trường Cao đẳng Tài chính- Quản trị kinh doanh; Trung tâm Thẩm định giá miền Bắc ( nay là công ty cổ phần Dịch vụ Tài chính, thẩm định giá); Trung tâm Thông tin Thẩm định giá miền Nam (nay là Công ty Cổ phần Tư vấn dịch vụ Tài chính và Thẩm định giá Việt Nam) và Hội thẩm định giá Việt Nam đã tiến hành tổ chức các lớp học với thời gian là 120 tiết; nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá theo chương trình quy định của Bộ Tài chính. Tính đến tháng 6/2008 các tổ chức này đã cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá khoảng 1.000 người đang làm việc tại các Sở Tài chính, các tổ chức Thẩm định giá, tổ chức Định giá, Ngân hàng, Kiểm toán, Chứng khoán…Trên cơ sở đó Bộ Tài chính đã tổ chức 4 kì thi (2005-2007) cấp thẻ thẩm định viên về giá cho trên 500 chuyên viên đang làm công tác định giá, thẩm định giá trong cả nước của các tổ chức, doanh nghiệp thẩm định giá và đã cấp thẻ thẩm định viên về giá cho 216 người trong đó có 174 thẩm định viên về giá đã hành nghề tại 47 doanh nghiệp thẩm định giá được Bộ Tài chính thông báo có đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá.
Việc tổ chức các lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn vừa qua đã góp phần cập nhật, nâng cấp kiến thức, kĩ năng hành nghề cho đội ngũ những người làm công tác định giá, thẩm định viên; đồng thời tạo điều kiện cho các đối tượng tham dự lớp bồi dưỡng có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá. Đây là một trong các điều kiện để họ tham gia dự thi để lấy thẻ thẩm định viên về giá và hành nghề thẩm định giá và phát triển nghề nghiệp về sau.
Thực hiện nhiệm vụ của Bộ giao, Cục Quản lí giá Bộ Tài chính đã phối hợp với chuyên gia tư vấn nước ngoài, tổ chức thẩm định giá nước ngoài và các nhà khoa học chuyên ngành về giá, luật, thẩm định giá… tổ chức biên soạn bộ Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá và đã được Hội đồng thẩm định của Cục Quản lí giá ( theo quyết định số 853/BTC ngày 27/02/2007 của Bộ Tài chính) thẩm định và tháng 10/2007 Bộ Tài chính mới chính thức phát hành tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá được áp dụng thống nhất cho các trường đào tạo bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá trong phạm vi cả nước. Tài liệu này gồm 6 chuyên đề cơ bản cụ thể là:
1- Pháp luật áp dụng trong hoạt động định giá và thẩm định giá tài sản.
2- Cơ sở hình thành giá.
3- Nguyên lí căn bản về thẩm định giá.
4- Thẩm định giá bất động sản.
5- Thẩm định giá máy, thiết bị.
6- Thẩm định giá doanh nghiệp.
Với nội dung này, về cơ bản đã tạo điều kiện cho các đơn vị được phép tổ chức mở lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá có cơ sở để giảng dạy theo một nội dung chương trình quy định thống nhất phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu về nghiệp vụ chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi cho thẩm định viên không ngừng nâng cao nghiệp vụ, kĩ năng trong nghề thẩm định giá.
2.3) Những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay:
2.3.1) Hạn chế về cơ sở pháp lý:
Một là, tuy một số văn bản pháp quy chủ yếu đã được ban hành, tạo điều kiện pháp lý cho việc hình thành và tổ chức hoạt động thẩm định giá nhưng:
- Việc thể chế hóa các quy định về thẩm định giá, quy định trong Pháp lệnh giá còn chậm thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Vì thế rủi ro nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá luôn có khả năng xảy ra.
- Văn bản quy phạm pháp luật về thẩm định giá còn thiếu đồng bộ, các văn bản hướng dẫn thực hiện còn chậm ban hành, do vậy ít nhiều cũng gây khó khăn cho việc thực hiện hoạt động thẩm định giá.
- Việc hướng dẫn các tiêu chuẩn thẩm định giá (các phương pháp thẩm định giá chung, các phương pháp thẩm định giá cụ thể) chậm được ban hành.
- Việc quy định về cấp thẻ thẩm định viên về giá còn bó hẹp (công chức nhà nước không được tham dự thi cấp thẻ thẩm định viên về giá) và chưa đúng với quy định của Pháp lệnh giá. Vì vậy, dẫn đến số lượng đội ngũ thẩm định viên về giá còn ít tính chuyên nghiệp còn hạn chế, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành còn nhiều bất cập…
Hai là, Pháp lệnh giá, Nghị định số 170/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điểm của Pháp lệnh giá, Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá chủ yếu mới đề cập đến nội dung điều chỉnh hành vi thẩm định giá tài sản mang tính chất tư vấn do Bộ tài chính quản lý về nghiệp vụ, chưa bao quát hoạt động thẩm định giá trị tài sản thưộc ngành khác như: thẩm định giá bảo đảm vay tiền (thuộc phạm vi hướng dẫn của ngành ngân hàng), thẩm định giá tài sản thi hành án.
Ba là, chưa xây dựng được một kế hoạch tổng thể phát triển ngành thẩm định giá dài hạn, vì vậy chưa có lộ trình cụ thể cho các bước đi. Việc hoạch định chính sách liên quan đến các nội dung xây dựng văn bản pháp quy, phát triển nguồn nhân lực, thị trường thẩm định giá… còn ở mức sơ khai, ngắn hạn.
Bốn là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động thẩm định giá còn có sự chưa nhất quán, thậm chí còn mâu thuẫn nhau; điều đó đã gây nhiều bất cập, lúng túng trong việc chỉ đạo hoạt động thẩm định giá, cụ thể là quy định về hoạt động thẩm định giá tài sản theo quy định của Pháp lệnh giá và Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3 tháng 8 năm 2005 của chính phủ về thẩm định giá không đồng nhất với việc quy định giá bất động sản theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản và Nghị định 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh Bất động sản.
2.3.2) Hạn chế trong công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá:
* Đào tạo dài hạn:
- Việc đào tạo các cử nhân đại học chuyên ngành Thẩm định giá đã được đưa vào chương trình đào tạo ở một số trường nhưng còn mang tính chất tự phát xuất phát từ yêu cầu thực tế, chưa thành một hệ thống chính quy mang tính chính thức từ quyết định từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính….), chưa được đưa vào chương trình đào tạo có hệ thống chính thức trong các trường đại học.
- Đội ngũ giảng viên chuyên ngành thẩm định giá còn mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành thẩm định giá.
- Nội dung, chương trình đào tạo dựa trên tài liệu đã ban hành trong nước và ngoài nước do từng trường tự thu nhập và biên soạn, chưa gắn liền với thực tiễn thẩm định giá Việt Nam, chưa có giáo trình chính thức mang tính chuẩn mực thống nhất của nhà nước ( Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính).
- Sinh viên tốt nghiệp khoa thẩm định giá các trường đại học là một trong các nguồn nhân lực rất quan trọng cung cấp nhân lực cho thị trường thẩm định giá tài sản trong tương lai. Tuy nhiên, số lượng sinh viên nhập học ngành này quá ít so với nhu cầu thị trường; việc đào tạo dài hạn hàng năm của các trường còn có tính chất thăm dò, chưa hình thành định hướng chung dài hạn trong việc tạo nguồn nhân lực cho hoạt động thẩm định giá trong 5-10 năm tới.
- Xã hội chưa nhận thức được vai trò của nghề thẩm định giá, sinh viên ít có xu hướng muốn vào học chuyên ngành này do tỷ lệ sinh viên xin được đúng việc làm sau tốt nghiệp thấp.
* Đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn:
- Cả một thời gian dài việc bồi dưỡng kiến thức cho thẩm định viên chưa được thường xuyên, mới chỉ thực hiện thông qua các dự án với nước ngoài trong thời gian ngắn hoặc khi chuẩn bị thi cấp thẻ thẩm định viên. Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá tại các lớp do các đơn vị được phép tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá không được đồng đều và không đáp ứng được yêu cầu của Bộ Tài chính đề ra.
- Tham gia bồi dưỡng dự thi cấp thẻ gồm nhiều học viên có trình độ khác nhau, có người chưa qua đào tạo chuyên ngành Thẩm định giá nên nhận thức về chuyên môn giữa các học viên có chênh lệch lớn, trong khi nội dung bồi dưỡng lại có tính khái quát, thực hiện trong thời gian ngắn (2 tuần), dẫn đến trình độ học viên có chênh lệch lớn về nghiệp vụ.
- Việc tổ chức thi cấp thẻ thẩm định viên diễn ra nghiêm túc. Tuy nhiên, số lượng thẩm định viên được cấp thẻ còn ít quá ít nên khó đáp ứng được kịp thời cho các nhu cầu thẩm định giá của doanh nghiệp.
- Việc quy định về cấp thẻ thẩm định viên về giá còn bó hẹp (công chức Nhà nước không được tham dự kỳ thi cấp thẻ thẩm định viên về giá ) và chưa đúng với quy định của Pháp lệnh giá.
2.3.3) Cơ sở vật chất, thông tin dữ liệu:
Cơ sở dữ liệu chung phục vụ hoạt động thẩm định giá bất động sản, máy móc thiết bị, doanh nghiệp hầu như còn sơ khai và rất thiếu chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa đủ điều kiện hình thành được hệ cơ sơ dữ liệu chung về tài sản thuộc Bộ Tài chính.
Nhận xét:
+ Việt Nam chưa xây dựng được trung tâm cơ sở dữ liệu, thông tin thị trường cho hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp và tài sản toàn quốc.
+ Thông tin giá cả, cung cầu, thị trường tài sản sử dụng trong hoạt động nghiệp vụ thẩm định giá còn hạn chế về nguồn thông tin, độ tin cậy chưa cao, ảnh hưởng nhất định đến độ chính xác của mức giá tài sản cần thẩm định.
CHƯƠNG III
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM
3.1) Tiềm năng phát triển hoạt động Thẩm định giá ở Việt Nam:
Với sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam và với xu thế hội nhập, chắc chắn rằng trong những năm tới hoạt động thẩm định giá sẽ phát triển mạnh và trở thành một ngành dịch vụ tài chính quan trọng, vì:
- Ở Việt Nam tình hình chính trị ổn định.
- Thu hút đầu tư nước ngoài luôn tăng cao.
- Tăng trưởng hàng năm cũng luôn tăng ở mức cao.
- Quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp đã và đang phát triển mạnh.
- Liên doanh liên kết để phát triển kinh tế với nước ngoài ngày càng tăng.
- Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, xã hội sẽ ngày càng phát triển. Từ đó thị trường bất động sản ngày càng phát triển mạnh và hoạt động thẩm định giá để xác định mức giá bất động sản và tư vấn đầu tư kinh doanh bất động sản sẽ tăng mạnh.
- Hiện nay và trong những năm sắp tới Nhà nước ta vẫn là người mua, đồng thời là người bán lớn nhất trong xã hội. Không quyết định giá mua và giá bán nhưng nhất thiết phải thẩm định giá để góp phần đấu tranh chống thất thoát, tiêu cực.
- Với xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế thị trường và hội nhập, cạnh tranh càng phát triển, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp, của sản phẩm sẽ ngày càng được quan tâm. Từ đó thẩm định giá thương hiệu, giá trị sáng tạo, sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng cao.
3.2) Mục tiêu phát triển hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam:
- Xây dựng và phát triển hoạt động thẩm định giá tài sản (bất động sản, động sản….) ở nước ta trở thành chuyên nghiệp, độc lập, khách quan góp phần làm cho hệ thống giá trị thị trường của tài sản trở nên công khai, minh bạch từ đó góp phần giải phóng và phát huy các nguồn lực, đưa các giá trị thực của nguồn lực trở thành động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
- Xây dựng hành lang pháp lý về thẩm định giá phù hợp với cơ chế thị trường có sự kiểm soát giá của Nhà nước và thông lệ các nước trong khu vực. Nâng cao vai trò, vị trí của thẩm định giá tài sản trong xã hội.
- Tăng cường vai trò quản lí Nhà nước đối với lĩnh vực thẩm định giá tài sản đi đôi với tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Đổi mới một cách cơ bản mô hình hoạt động của các loại hình kinh doanh dịch vụ tư vấn thẩm định giá tài sản, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ thẩm định giá tài sản. Hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp tư vấn thẩm định giá tài sản của Việt Nam có sức cạnh tranh cao, có uy tín trên thị trường trong nuớc và vươn ra thẩm định giá tài sản trên thị trường ở các nước trong khu vực ASEAN.
- Xây dựng và phát triển đội ngũ thẩm định viên về giá đạt trình độ được thừa nhận trong khu vực ASEAN. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến định giá tài sản phục vụ cho hoạt động.
- Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản.
3.3) Giải pháp cụ thể:
3.3.1) Xây dựng hàng lang pháp lý:
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thẩm định giá tài sản đồng bộ phù hợp với quy định của pháp luật về giá, Luật đất đai, Luật
kinh doanh bất động sản, Luật doanh nghiệp… không để xảy ra chống chéo, mâu thuẫn.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn các tiêu chuẩn về thẩm định giá.
- Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của cơ quan quản lí Nhà nước về thẩm định giá trong việc thiết lập hệ thống chính sách thẩm định giá, vai trò của doanh nghiệp thẩm định giá và cá nhân hành nghề thẩm định giá theo hướng vừa tăng cường vai trò quản lí, giám sát thống nhất của Bộ Tài chính trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản, vừa tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tôn trọng nguyên tắc độc lập, khách quan trong hành nghề của thẩm định viên.
- Triển khai xây dựng các quy định cho tổ chức hoạt động của hệ thống thông tin chung phục vụ hoạt động thẩm định giá trị tài sản.
- Từng bước nâng cao vai trò của Hội Thẩm định giá Việt Nam trong đề xuất xây dựng hành lang pháp lý, giám sát hành nghề đối với thẩm định viên về giá.
3.3.2) Quản lý Nhà nước:
- Quản lý nhà nước (Cục Quản lý giá- Bộ Tài chính kết hợp với Hội TĐGVN đưa ra các tiêu chuẩn yêu cầu kiến thức với từng trình độ của Thẩm định viên để các thẩm định viên phấn đấu). Hội TĐGVN kết hợp với Cục Quản lý giá Bộ Tài chính nghiên cứu tiêu chí và trình độ kiến thức để bổ nhiệm thẩm định viên về giá cao cấp, trung cấp, sơ cấp.
- Quản lý Nhà nước cần sớm thống nhất chỉ có Bộ Tài chính là đại diện cho nhà nước, quản lý thống nhất, tập trung hoạt động thẩm định giá không thể để tình trạng chồng chéo, phân tán nhiều Bộ quản lý thẩm định giá như hiện nay.
- Việc tổ chức thi và cấp Thẻ Thẩm định viên về giá nên sớm giao cho Hội Thẩm định giá Việt Nam là đợn vị duy nhất thực hiện việc này như thông lệ quốc tế, vì đây là hoạt động nghề nghiệp.
3.3.3) Đào tạo thẩm định viên về giá:
3.3.3.1) Đào tạo cử nhân thẩm định giá:
- Xây dựng chương trình cụ thể đào tạo cử nhân thẩm định giá.
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng nội dung giảng dạy chuyên ngành thẩm định giá thống nhất, đưa việc giảng dạy về thẩm định giá thành chương trình giáo dục chính thức (tức là phải được đào tạo chính quy tại một số trường đại học thuộc khối kinh tế đảm nhận) theo hướng sau: 2 năm đầu sinh viên khoa thẩm định giá sẽ đựơc học theo chương trình chung theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hai năm cuối sinh viên khoa thẩm định giá phải học các môn học theo quy định về chuyên ngành thẩm định giá và tiến hành thực tập tại các doanh nghiệp thẩm định giá.
Nội dung đào tạo tại các môn chuyên ngành thẩm định giá ở các trường đại học cụ thể là :
A. Môn cơ bản bao gồm:
- Kinh tế học.
- Đầu tư, tài chính.
- Nguyên lý cơ bản về thẩm định giá.
- Pháp luật áp dụng trong hoạt động thẩm định giá.
- Nguyên lý cơ bản về hình thành giá cả thị trường.
- Tin học.
- Ngoại ngữ.
B. Môn cơ sở (chuyên ngành TDG) bao gồm:
- Thẩm định giá bất động sản.
- Thẩm định giá máy móc, thiết bị.
- Thẩm định giá dự án.
- Thẩm định giá giá trị doanh nghiệp.
- Thẩm định giá tài sản sở hữu trí tuệ.
- Quản lý cơ sở dữ liệu.
- Những phương pháp thẩm định giá tài sản.
- Kỹ năng phân tích và lập báo cáo thẩm định giá.
3.3.3.2) Về bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn:
- Cần sửa đổi quy định hiện hành về bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức chuyên ngành về thẩm định giá, quy định việc thi và cấp thẻ hành nghề (chứng chỉ hành nghề) về thẩm định giá. Không nên giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức bồi dưỡng cấp chứng chỉ hành nghề định giá bất động sản như hiện nay.
- Cần phải tập trung việc bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn về chuyên ngành thẩm định giá về một đầu mối và giao cho các cơ quan chuyên ngành thực hiện.
- Chương trình, nội dung bồi dưỡng đào tạo ngắn hạn phải được tiêu chuẩn hóa và áp dụng thống nhất trong cả nước.
- Định kỳ tổ chức cập nhật các kiến thức về tài chính, thẩm định giá… Cập nhật kiến thức hàng năm khoảng từ 3 đến 5 ngày ( Hội TĐGVN kết hợp với Cục Quản lý giá- Bộ Tài chính).
- Xậy dựng và từng bước chuẩn hóa trình độ Thẩm định viên về giá theo hướng:
+ Cao cấp
+ Trung cấp
+ Sơ cấp
3.3.4) Ngân hàng dữ liệu:
Xây dựng các ngân hàng dữ liệu về giá cả, các loại hàng hoá thông qua các chương trình phần mềm để lưu trữ. Ngân hàng dữ liệu gồm các thông tin về giá cả bất động sản ở nhiều tỉnh, thành và hàng hóa chuyên dùng như: giá thuốc, gạo, thiết bị y tế, vật liệu xây dựng, thiết bị trường học, .v.v..
Về cơ bản và lâu dài nên giao cho Cục Quản lý giá kết hợp với Hội TĐGVN xây dựng ngân hàng dữ liệu phục vụ cho hoạt động thẩm định giá. Ngân hàng dữ liệu này phải theo mô hình kinh doanh tự trang trải, nhưng trong một số năm đầu rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt tài chính, có như vậy mới làm được.
3.3.5) Hợp tác quốc tế:
Giai đoạn 2008-2020 cũng là giai đoạn nước ta đã chính thức gia nhập WTO, nền kinh tế nói chung và nghề thẩm định giá muốn phát triển phải tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kiến thức, kinh nghiệm các quốc gia, tổ chức thẩm định giá ở một số nước đã phát triển nghề thẩm định giá như:
- IVSV (Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế).
- WAVO (Hiệp hội các tổ chức thẩm định thế giới).
- RICS (Viện khảo sát chuyên nghiệp Hoàng gia Anh).
- IAAO (Hiệp hộ các nhà thẩm định quốc tế - định giá vì mục đích thuế).
- ASA (Hiệp hội các thẩm định viên Mỹ- định giá tài sản hữu hình và máy móc).
- IRWWA (Hiệp hội R.O.W quốc tế - thẩm định giá trị thực tế).
- FIABCL (tổ chức tài sản hữu hình quốc tế).
- Các Hiệp hội khoa học liên quan gồm có Hiệp hội tài sản hữu hình quốc tế, Hiệp hội tài sản hữu hình châu Phi, Hiệp hội tài sản hữu hình châu Á và Hiệp hội tài sản hữu hình Thái Bình Dương.
- Ngoài ra, các tổ chức thẩm định chính của nước ngoài có nhiều kinh nghiệm là các tổ chức của Australia, Canada, Hồng Kông, Singapore, Nam Phi, Thái Lan…
- Tăng cường tổ chức các hội nghị khu vực và quốc tế giúp thúc đẩy ngành thẩm định giá Việt Nam. Các nhà khoa học địa phương, các cơ quan chức năng và các chuyên gia có thể hợp tác chặt chẽ với các nước khác.
* Nội dung hợp tác quốc tế về thẩm định giá tập trung vào một số lĩnh vực sau:
- Trợ giúp việc xây dựng hành lang pháp lý về hoạt động thẩm định giá.
- Trợ giúp xây dựng nội dung, chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn để giảng dạy tại các trường đại học và các cơ sở đào tạo ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá.
- Các chuyên gia và giảng viên về khoa thẩm định giá nước ngoài trực tiếp giảng dạy ở các trường đại học ở Việt Nam.
- Mở các lớp học với thời gian từ 1- 2 tuần ( mỗi năm ít nhất là 2 lớp với số lượng học viên từ 15- 20 người) để bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ thẩm định giá cho các giảng viên của Việt Nam theo từng thời kỳ.
- Tổ chức các lớp do giảng viên nước ngoài thực hiện cho các thẩm định viên Việt Nam để tăng cường chất lượng thẩm định giá tại Việt Nam. ( Mỗi năm mở từ 2-3 lớp với số lượng thẩm định viên tham gia học khoảng 25-30 người).
- Đào tạo thẩm định viên Việt Nam tại nước ngoài mỗi năm 2-3 đợt, mỗi đợt 20 thẩm định viên.
- Đi khảo sát nghiên cứu thực tế và hoạt động thẩm định giá tại nước ngoài; mỗi năm 2 đợt, mỗi đợt từ 15- 20 ngày và mỗi ngày 15-20 người.
- Trợ giúp phần mềm, ứng dụng tin học trong thẩm định giá và xây dựng Trung tâm dữ liệu phục vụ cho hoạt động thẩm định giá.
KẾT LUẬN
Thẩm định giá là một công cụ thiết thực và hiệu quả nhằm hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch của Nhà nước, không thể thiếu được trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại khách quan trong đời sống xã hội của các nước phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, như là một phần mềm của hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho kinh doanh, thanh toán, kiểm toán và các kĩnh vực khác, nó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia, là một dịch vụ có tính chuyên nghiệp rất cần thiết trong nền kinh tế.
Thẩm định giá ở Việt Nam tuy mới bắt đầu nhưng đã đem lại những kết quả nhất định trong việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân và đáp ứng được nhu cầu của mọi thành phần kinh tế trong giai đoạn phát triển và hội nhập, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia. Vì vậy hoạt dộng thẩm định giá cần thiết phải được xây dựng và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành Thẩm định giá.
- Tài liệu ôn thi cấp thẻ Thẩm định viên về giá môn: Các nguyên tắc và phương pháp thẩm định giá.
- Pháp lệnh giá ngày 10/5/2002.
- Luật kinh doanh bất động sản ngày 12/7/2006.
- Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá.
- Quyết định số 87/2008/QĐ- BTC về quy chế đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá.
- Quyết định số 55/2008/QĐ- BTC về việc ban hành quy chế thi, cấp, sử dụng và quản lý thẻ thẩm định viên về giá
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay.doc