Đề tài Thực trạng mất cân đối trong hoạt động đầu tư quốc tế tại Việt Nam 2001 - 2010, giải pháp

Đây là những bài tiểu luận xuất sắc của lớp mình môn Đầu Tư Quốc Tế đã được cô Võ Thanh Thu - giảng viên ĐHKT TPHCM chấm Nhóm đề tài 2 : THỰC TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM ( Gồm 4 bài tiểu luận xuất sắc nhất - file word ) MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TRỰC TIẾP VÀO VIỆT NAM 1 1.1.Khái niệm 1 1.2.Các hình thức đầu tư 1 1.2.1 Các hình thức đầu tư trực tiếp . 1 1.2.2 Các hình thức đầu tư gián tiếp 2 1.2.3 Hình thức tín dụng quốc tế 2 1.3. Vai trò của đầu tư quốc tế đối với sự phát triển kinh tể của Việt Nam . 3 1.4. Những vấn đề đã và đang gặp phải trong quá trình thu hút đầu tư quốc tế của Việt Nam 6 1.5. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc thu hút FDI 7 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM . 11 2.1 Vài nét về sự hình thành và phát triển của luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam . 11 2.2. Tổng quan về tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam 1988 - 9/2010 . 20 2.2.1. Dự án FDI được cấp phép đầu tư từ 1988 đến 9/2010 . 20 2.2.2. Tình hình tăng vốn đầu tư (1988 - 9th/2010) . 22 2.2.3. Quy mô dự án . 23 2.3. Thực trạng mất cân đối trong hoạt động đầu tư quốc tế của Việt Nam . 24 2.3.1 Mất cân đối theo các hình thức đầu tư trực tiếp FDI . 24 2.3.1.1 Thực trạng . 24 2.3.1.2 Hậu quả 25 2.3.1.3 Nhân tố ảnh hưởng 25 2.3.1.4 Giải pháp 26 2.3.2 Mất cân đối theo ngành nghề . 26 2.3.2.1 Thực trạng 26 2.3.2.2 Hậu quả . 33 2.3.2.3 Nhân tố ảnh hưởng 33 2.3.2.4 Giải pháp 34 2.3.3 Mất cân đối theo địa bàn đầu tư 37 2.3.3.1 Thực trạng . 37 2.3.3.2 Hậu quả . 39 2.3.3.3 Nguyên nhân . 39 2.3.3.4 Giải pháp 39 2.3.4 Mất cân đối theo vốn đăng kí với vốn hiện thực 40 2.3.4.1 Thực trạng 40 2.3.4.2 Hậu quả 42 2.3.4.3 Giải pháp . 43 2.3.5 Mất cân đối giữa các dự án thâm dụng lao động với các dự án có hàm lượng công nghệ cao 43 2.3.5.1 Thực trạng . 43 2.3.5.2 Hậu quả . 46 2.3.5.3 Nhân tố ảnh hưởng 47 2.3.5.4 Giải pháp 48 2.3.6 Mất cân đối trong thu hút vốn đầu tư từ đối tác 48 2.3.6.1 Thực trạng 48 2.3.6.2 Hậu quả . 53 2.3.6.3 Giải pháp . 53 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 57 3.1. Những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc giải quyết tình trạng mất cân đối trong thu hút FDI . 57 3.2 Giải pháp chung khắc phục tình trạng mất cân đối trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 58 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU ˜™ Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời và thay đổi, bổ sung liên tục quá trình thu hút đầu tư nước ngoài Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, quá trình thu hút đầu tư, sự vận hành của các dự án đã làm nảy sinh vấn đề mất cân đối cần được khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Chính vì vậy mà nhóm chúng em chọn đề tài: “ Sự mất cân đối trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục ”. Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự mất cân đối trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đánh giá hậu quả mất cân đối và đề ra giải pháp.Các số liệu thống kê lấy từ năm 1988 đến tháng 9 năm 2010. Để hoàn thành đề tài này ngoài sự cố gắng của bản thân; nhóm còn nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của giáo viên bộ môn GS.TS.Võ Thanh Thu. Nhóm hy vọng bài tiểu luận này sẽ hữu ích cho mọi người. Chúc bạn thu được những kiến thức bổ ích.

docx155 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2982 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng mất cân đối trong hoạt động đầu tư quốc tế tại Việt Nam 2001 - 2010, giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư vào công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1986, công nghiệp chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ bé 27,7% trong tổng vốn FDI thì đến năm 1990 đã tăng lên 84,4%. Năm 1992 và 1993, tỷ trọng này có giảm đi nhưng vẫn giữ ở mức cao là 55,3% và 45,9%. Thời kỳ này, đa số đầu tư tập trung vào những ngành công nghiệp gia công tập trung nhiều lao động, kỹ thuật thấp hoặc trung bình, sản phẩm chủ yếu để tái xuất hoặc xuất khẩu như: công nghiệp thực phẩm, đồ uống, dệt, may mặc, giầy da, đồ chơi, xà phòng, thuốc tẩy, chế tạo vỏ container...Công nghiệp nhẹ và công nghiệp gia công lần lượt chiếm 58,34% và 30,54% đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp. Do kết cấu như trên nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp liên doanh thời kỳ 1986 - 1991 còn bị hạn chế. Năm 1994, chính phủ Trung Quốc có sự điều chỉnh kết cấu ngành nghề, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực dịch vụ và các ngành cơ sở nên lĩnh vực đầu tư được mở rộng, tuy nhiên, công nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo. Trọng điểm ngành nghề đã được Trung Quốc chuyển từ công nghiệp gia công sang các ngành tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật, thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý, từng bước có lựa chọn về mặt kỹ thuật cao. Các dự án theo quy định ưu tiên trong chính sách ngành nghề của Nhà nước về tái thiết và phát triển các ngành điện tử, máy móc, cơ khí và hoá dầu được hưởng nhiều ưu đãi. Nhờ chính sách điều chỉnh, FDI vào các ngành dịch vụ ngày càng tăng. Trung Quốc khuyến khích đầu tư vào những hoạt động tư vấn, bảo hiểm, lưu thông tiền tệ, ngoại thương, du lịch, thương nghiệp bán lẻ. Tới cuối năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập 148 cơ quan tài chính tiền tệ có vốn nước ngoài, 18 liên doanh bán lẻ, 2 liên doanh về mậu dịch đối ngoại. Hoạt động của các ngân hàng và các công ty bảo hiểm cũng đã phục vụ đắc lực cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn các ngân hàng này huy động được đã lên tới 3 tỷ USD tiền gửi và đã cho vay gần 30 tỷ USD, trong đó trên 90% là cho vay trong nước. Trung Quốc cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tiền tệ và ngoại thương. Đầu tư vào bất động sản tăng cực kỳ nhanh, tỷ lệ so với tổng số từ 6,9% năm 1986 lên 30,6% và 39,3% trong các năm 1992 và 1993. Trong năm 1994, nhiều dự án bất động sản phải chịu thua lỗ nặng nề. Đến nửa đầu năm 1995, tỷ lệ vốn đầu tư vào ngành này chỉ còn 26 %. Nông nghiệp thu hút được ít vốn đầu tư nhất với mức tỷ lệ bình quân trên tổng lượng FDI là dưới 3%. Gần đây, nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp mà tỷ trọng đầu tư vào ngành này có xu hướng tăng lên, đạt 5% vào năm 1995. Bài học kinh nghiệm rút ra qua thực tiễn thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc: a) Kinh nghiệm phát triển các loại hình và lĩnh vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Về loại hình đầu tư: Nếu trong những năm 1980, hình thức thu hút đầu tư chủ yếu là liên doanh liên kết, xây dựng các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc thông qua hình thức ODA thì đến những năm 1990 Trung Quốc đã chú trọng hơn tới loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán.Các giải pháp cụ thể như sau: -Tăng cường phát hành trái phiếu quốc tế. Hiện nay, hơn 90% lượng phát hành trái phiếu quốc tế của Trung Quốc là trái phiếu với mức lãi suất cố định, chủ yếu tập trung tại các thị trường như Tokyo, Hongkong. -Tích cực khai thác kênh thu hút nước ngoài thông qua đầu tư chứng khoán. Một mặt, các doanh nghiệp Trung Quốc tích cực thăm dò, tiếp cận con đường giao dịch trên các thị trường nước ngoài để mở rộng phát hành trái phiếu quốc tế; mặt khác, từng bước mở rộng phát hành cổ phiếu B (cổ phiếu phát hành bằng USD ở Thượng Hải và bằng HKD ở Thâm Quyến cho các nhà đầu tư nước ngoài). -Đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đi vay cho phát triển, Trung Quốc chủ trương phải căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế, tình hình thu chi quốc tế, khả năng đồng bộ và khả năng trang trải nợ nần, sử dụng hợp lý nguồn vốn vay của cơ quan tiền tệ quốc tế và chính phủ nước ngoài, đảm bảo chi tiêu vay vốn nước ngoài chủ yếu giới hạn trong phạm vi an toàn, thiết thực, phòng ngừa rủi ro nợ nước ngoài. Về lĩnh vực đầu tư: -Mở rộng lĩnh vực đầu tư có vốn nước ngoài trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm , thông tin, điện tử, mậu dịch đối ngoại, mậu dịch đối nội... hướng tới hoàn thiện kết cấu của các ngành nghề; khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, các ngành công nghiệp cơ sở, kết cấu hạ tầng... -Cải thiện dần bố cục các khu vực đầu tư, hướng dẫn đầu tư, khuyến khích đầu tư vào miền Đông và miền Tây Trung Quốc đặc biệt các dự án về kết cấu hạ tầng và dự án kỹ thuật cao. -Tích cực tìm tòi, sử dụng vốn ngoại trung và dài hạn với nhiều phương thức thu mua, sáp nhập, sử dụng quỹ đầu tư, quỹ chứng khoán,v.v... b) Đổi mới chính sách nhằm tạo lập môi trường kinh doanh cho phát triển và sử dụng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm các chính sách về ưu tiên đầu tư, tạo lập kết cấu hạ tầng, hoàn thiện luật pháp và cải cách chính sách tài chính, giá cả. Một là, ưu tiên phát triển vùng, lãnh thổ: -Việc phát triển và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc được thực hiện trên cơ sở Bộ luật Đầu tư hợp tác quốc tế ban hành tháng 7/1979. Trong quá trình thực hiện, chính phủ Trung Quốc đã chú ý hướng nguồn đầu tư nước ngoài vào từng vùng lãnh thổ thông qua chính sách ưu tiên phát triển riêng biệt. Nghĩa là, áp dụng chính sách ngay trong một nước, cùng một thời điểm nhưng môi trường đầu tư có sự khác biệt lớn. +Trong những năm 1980, hướng ưu tiên phát triển tập trung vào các thành phố duyên hải. +Từ những năm 1990 đến nay, hướng ưu tiên vào các thành phố ven sông, ven biên giới và trong nội địa, nhất là vào miền Tây Trung Quốc. Biện pháp và chính sách chủ yếu mà chính phủ Trung Quốc áp dụng là xây dựng kết cấu hạ tầng và mở rộng quyền quyết định việc nới lỏng đầu tư cho chính quyền địa phương. Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp đặc biệt như: Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng, các tuyến đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng... Từ năm 1999, để thực hiện chiến lược hướng trọng điểm về miền Trung và miền Tây, chính phủ Trung Quốc đưa ra danh mục các ngành sản xuất, sản phẩm có ưu thế và tiềm năng để phát triển về môi trường, năng lượng, nguồn nhân lực, sản xuất, kỹ thuật, và thị trường của 20 tỉnh, khu tự trị trong khu vực để kêu gọi đầu tư nước ngoài.Tăng thêm ưu đãi, cũng như một số danh mục hạn chế đầu tư và hạn chế cổ phần của đầu tư nước ngoài ở khu vực khác sẽ được nới rộng tại miền Trung và Miền Tây. Gia tăng nguồn vốn tín dụng để xây dựng kết cấu hạ tầng, công trình bảo vệ môi trường trọng điểm ở các tỉnh miền Trung và miền Tây. Khuyến khích các nhà đầu tư ở miền Đông Trung Quốc tái đầu tư vào miền Trung và miền Tây Ưu tiên lựa chọn một số hạng mục về nông nghiệp, thủy lợi, giao thông, năng lượng, nguyên vật liệu và bảo vệ môi trường để kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các tỉnh miền Trung và miền Tây. Hai là chính sách hỗ trợ về tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ba là chủ động trong quy hoạch sử dụng vốn đầu tư nước ngoài và tăng hiệu quả làm việc của các cấp chính quyền địa phương: Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (2001-2005), trên quan điểm nâng cao chất lượng và cải thiện kết cấu sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc hướng vào thu hút kỹ thuật tiên tiến,. Lĩnh vực thu hút chuyển mạnh từ việc lấy công nghiệp gia công là chính sang lĩnh vực dịch vụ. Phương thức thu hút đầu tư nước ngoài từ đồng thời lấy FDI là chính sang nhiều hình thức thu hút đầu tư; xóa bỏ những điều khoản thẩm duyệt hành chính mà chuyển sang lấy quy phạm pháp luật, hướng dẫn và giám sát tài chính. Bốn là hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.2      Kinh nghiệm  ấn Độ Chiến lược thu hút FDI của các công ty xuyên quốc gia lớn Trước đây, ấn Độ được coi là quốc gia thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính sách độc quyền sáng chế lỏng lẻo để rập mẫu các hàng hoá phương Tây, khiến các TNC thường không tập trung nhiều ở ấn Độ. Tuy nhiên, hiện nay, ấn Độ đang có những thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai ở một số ngành nghề, đặc biệt là những ngành đang rất phát triển như ô tô, dược phẩm và sản phẩm phần mềm nên các TNC đã bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào ấn Độ. Để tạo ra sự khác biệt về lợi thế cạnh tranh với các nước châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc, vốn có nhiều lợi thế về lao động dồi dào và rẻ, ấn Độ không chọn tài nguyên hay lao động giản đơn mà sử dụng tri thức là “chất xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển kinh tế. ấn Độ tập trung vào công nghệ thông tin, dịch vụ văn phòng, tài chính ngân hàng, nghiên cứu và chế tác dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của ấn Độ trong năm 2004 lên đến 17,2 tỷ USD, tăng 35% so với năm trước. Để có thể thực hiện được định hướng đó, ấn Độ đã áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp với nhu cầu thời đại. Hàng năm, ấn Độ đào tạo được khoảng hơn 3 triệu cử nhân, trong số đó nhiều người có trình độ chuyên môn cao về kỹ thuật, kinh doanh hay y học. Số trường kỹ thuật tính đến năm 2004 đã lên tới khoảng 1.600 trường. Nhờ lợi thế về tiếng Anh, lao động ấn Độ tiếp thu rất nhanh các ngành khoa học phương Tây, thích ứng nhanh với những đòi hỏi mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử. Hiện nay, một số công ty tin học của ấn Độ dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như dịch vụ khai thác. Chính những biện pháp trên, tổng số vốn FDI vào ấn Độ trong những năm gần đây liên tục tăng, đạt 4,3 tỷ USD năm 2003; 5,3 tỷ USD năm 2004 và 6,0 tỷ USD năm 2005 đạt tốc độ tăng trưởng là 12% năm. Đặc biệt đầu tư FDI vào ấn Độ chủ yếu từ các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn trên thế giới, đồng thời cũng là nguồn cung cấp FDI chính cho thế giới. Theo kết quả các cuộc điều tra hàng năm của Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD), trong hai năm trở lại đây, theo đánh giá của các TNC, ấn Độ là một địa điểm đầu tư lý tưởng nhất trên thế giới. Trên thực tế, các TNC đầu tư vào ấn Độ nhiều hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới đã có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc là 33 công ty. Theo thống kê của Liên đoàn các phòng công nghiệp và thương mại của ấn Độ (FICCI), 70% các công ty đầu tư vào ấn Độ làm ăn có lãi và con số này đang không ngừng tăng lên. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến ấn Độ tin rằng trong tương lai, số TNC đầu tư vào ấn Độ sẽ tăng mạnh. Ưu tiên phát triển khu vực kinh tế tư nhân Khu vực tư nhân ấn Độ trong những năm qua phát triển nhanh là nhờ chính sách kinh tế mới của ấn Độ. Nội dung chính của chính sách này là giảm thiểu vai trò của công nghiệp quốc doanh từ 17 ngành xuống còn 8 ngành; khuyến khích đầu tư tư nhân vào các ngành sản xuất; ban hành các luật chống độc quyền và cho phép tư bản được di chuyển tự do, tư bản nước ngoài có thể làm chủ 51% vốn đầu tư. Đây là một đặc điểm rất khác của ấn Độ so với các nước đang phát triển khác trong khu vực châu á. ấn Độ đặc biệt chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Điều này được thể hiện rõ khi đầu tư trong nước của khu vự tư nhân tăng 16% năm 2001 – 2002; 17,3% năm 2002 – 2003 và 17,4% năm 2003 – 2004. Đa số các công ty lớn của ấn Độ là các công ty tư nhân và các công ty này đều có khả năng cạnh tranh với các công ty lớn của thế giới trong các lĩnh vực như dược phẩm, phần mềm... ấn Độ hiện đang được coi là “phòng thực nghiệm khoa học kỹ thuật cao của thế giới”. Trong số 200 công ty nhỏ tốt nhất trên thế giới theo bình chọn của tạp chí FORBES năm 203, ấn Độ có 13 công ty, trong khi đó Trung Quốc chỉ có 4 công ty (đều ở Hồng Kông). 2.3. Kinh nghiệm Thái Lan Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Thái Lan nhấn mạnh đén 2 yếu tố then chốt là nguồn nhân lực và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Chính phủ Thái Lan khẳng định đặt ưu tiên phát triển SME và hỗ trợ các doanh nghiệp này về công nghệ thông tin, tài chính và quản lý, đồng thời giúp tăng cường năng lực cạnh tranh của SME trong thương mại quốc tế, thâm nhập thị trường mới. Một số chuyên gia Mỹ và Nhật Bản được mời đến Thái Lan làm cố vấn. Thái Lan đã tham khảo các mô hình thành công của SME ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Các doanh nghiệp SME hiện chiếm 90% tổng số nhà hoạt động kinh doanh trong nước của Thái Lan. Các doanh nghiệp này cần phải cải tiến hoạt động, bớt dựa vào nhà nước đồng thời hợp tác chặt chẽ với ngành giáo dục nhằm đào tạo người lao động có tay nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường. a) Coi trọng công tác hoạch định và thực thi chính sách bảo đảm, khuyến khích đầu tư với các thủ tục đầu tư thông thoáng, dễ dàng, tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư. b) Có những ưu đãi về thuế để khuyến khích đầu tư Ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các mức độ khác nhau là một công cụ mà rất nhiều nước đưa ra để cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Thái Lan cũng là một trong những nước như vậy. -Để kích thích các đối tác nước ngoài hăng hái đầu tư, chính phủ Thái Lan đã xác định mức bình thường của thuế thu nhập lợi tức doanh nghiệp là 30%. Các tổ chức, hiệp hội thanh toán từ 2-10% tổng thu nhập kinh doanh, tùy thuộc vào loại hình hoạt động kinh doanh. Các công ty vận tải quốc tế phải thanh toán 3% tiền bán vé hoặc doanh thu vận tải... riêng đối với VAT được áp dụng ở mức 7% tùy theo các giai đoạn sản xuất kinh doanh. -Ngoài ra, chính phủ Thái Lan còn ký hiệp định tránh đánh thuế trùng với hơn 40 nước nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào Thái Lan. -Các doanh nghiệp đầu tư vào vùng đặc biệt được hưởng các chính sách ưu đãi bổ sung như: giảm 50% thuế lợi tức kể từ khi có thu nhập hoặc kết thúc thời hạn miễn giảm thuế thu nhập, giảm 25% chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng , xây dựng nhà xưởng từ lợi nhuận ròng. -Để nâng cao sức cạnh tranh : Chính phủ Thái Lan đã miễn thuế nhập khẩu thiết bị đối với 61 hoạt động (trước kia không miễn); miễn thuế lợi tức 8 năm đối với 19 ngành công nghiệp phụ trợ. c) Bổ sung để hoàn thiện các thủ tục đầu tư d) Phát triển cơ sở hạ tầng và giảm các chi phí liên quan đến đầu tư. 3) Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Từ thực tiễn hơn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau: Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công. Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện. Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại. Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước. III-GIÁI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI 1) Giải pháp chung để thu hút đầu tư Các giải pháp chủ yếu: Nhóm giải pháp về quy hoạch: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách: Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch. - Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga) - Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: - Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. - Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính:  - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. Một số giải pháp khác: - Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. 2) Giải pháp riêng cho từng mất cân đối cụ thể 2.1-Mất cân đối theo hình thức đầu tư: a) Hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp: Giải pháp: Vướng mắc lớn nhất mà các nhà đầu tư nước ngoài gặp phải khi ra quyết định đầu tư vào Việt Nam có thể nói đến là hệ thống hành chính. Vì thế phải tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư cao hơn và có chất lượng hơn. Để thu hút thêm vốn FII thời gian tới, các cơ quan quản lý cần tập trung cải thiện quy trình, thủ tục đầu tư như: giảm thiểu thời gian, thủ tục đăng ký mã số giao dịch; quy định rõ về thông tin cần công bố, tài liệu phải công chứng...  Ngoài ra, cũng cần tạo nguồn cung chất lượng cao cho thị trường chứng khoán, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho toàn thị trường và đặc biệt là phải ổn định chính sách tiền tệ, nhằm đảm bảo tỷ giá đồng Việt Nam không biến động nhiều trong thời gian tới. Thành lập quỹ mở tại Việt Nam. Trong thời kỳ hậu khủng hoảng, các NĐT nước ngoài đang tái cấu trúc danh mục đầu tư, bởi vậy, khi cho phép thành lập quỹ mở, dòng vốn FII có cơ hội chảy vào mạnh hơn. Trên thế giới, quỹ mở rất phổ biến, chiếm hơn 90% loại hình kinh doanh quỹ. Việc cho phép thành lập và đưa quỹ mở vào hoạt động sẽ góp phần làm tăng thanh khoản cho thị trường chứng khoán, tăng sức cầu cho thị trường. Trong định hướng thu hút vốn FII thời gian tới, chúng ta đặc biệt khuyến khích các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài có uy tín, có năng lực tài chính và chuyên môn cao tham gia đầu tư vào lĩnh vực cùng ngành tại Việt Nam. Theo lộ trình thực hiện cam kết mở cửa thị trường chứng khoán, sẽ tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề nhất định (trong đó có ngành kinh doanh chứng khoán) mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần để thu hút đầu tư nước ngoài. Việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý dòng vốn FII có thể thực hiện thông qua kiểm soát nguồn vốn này từ đầu vào, bên cạnh việc quy định tỷ lệ sở hữu tối đa của NĐT nước ngoài tại các DN trong nước. Trong tương lai, tỷ lệ này nên mở rộng tối đa 100% đối với các ngành nghề thông thường căn cứ vào Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng cho NĐT nước ngoài. Cùng với việc dỡ bỏ các quy định liên quan đến hạn chế sở hữu ở các DN trong nước theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có thể nghiên cứu áp dụng kinh nghiệm của Trung Quốc trong cấp hạn ngạch đầu tư vào cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên TTCK như là phương tiện thay thế để quản lý nguồn vốn này. Việc rút vốn trên TTCK nhất thiết phải thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Việc nâng cao năng lực giám sát TTCK của cơ quan quản lý cũng sẽ được tăng cường, trong đó, tiến tới áp dụng mô hình giám sát đa cấp, để kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, cũng như theo dõi được xu hướng vận động của dòng vốn FII. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển trong khu vực, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) cho phát triển thị trường vốn gặp thách thức với việc đổ vào nhanh và rút ra cũng nhanh sẽ gây tác động xấu tới thị trường. Vì vậy việc dự báo, phân tích dòng đầu tư sẽ giúp Chính phủ kiểm soát, chủ động đưa ra các chính sách sát thực giảm thiểu rủi ro tài chính, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn đầu tư này và giúp Việt Nam lượng hoá được những tác động của dòng đầu tư gián tiếp đối với việc phát triển thị trường vốn. Thực tế, Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua 49% cổ phần trong các DN thay vì 30% như trước đây là tín hiệu tốt hấp dẫn FII tăng lên trong thời gian tới. Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài khác dự tính sẽ tăng 100% vào năm 2012 là sức hấp dẫn mới thu hút dòng vốn này đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam mạnh hơn. Tuy nhiên, để hấp dẫn và kiểm soát rủi ro với dòng vốn này, theo bà Phạm Thị Thanh Bình, Viện kinh tế và Chính trị thế giới, Việt Nam cần đưa ra các nhóm giải pháp. Theo đó , Việt Nam cần nới lỏng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài như nhiều nước trong khu vực đã làm, nhất là trong ngành ngân hàng. Bên cạnh đó, Việt Nam cần mở rộng thêm nhiều ngành nghề hấp dẫn các nhà đầu tư gián tiếp và đẩy mạnh hơn nữa tốc độ cổ phần hoá DN nhà nước, tăng cường tính minh bạch của thị trường chứng khoán, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Đồng thời, cần mở cửa thu hút FII bằng cách ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các Quỹ đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, dòng vốn FII cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn định, tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần được quan tâm.Không thể quá hạn chế cũng không thể quá mở đến mức ko kiểm soát được “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng – miễn là bắt được chuột” b) Theo các hình thức đầu tư trực tiếp: i) Đối với hình thức kinh doanh trên cơ sở hợp đồng: +Về phía nhà nước: -Việc cung cấp các dịch vụ viễn thông hiệu quả, hiện đại và kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của VN. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài rất cần thiết cho việc cung cấp những dịch vụ này và phát triển kỹ năng quản lý dịch vụ của ta.Việc duy trì hình thức hợp doanh trong lĩnh vực khai thác dịch vụ viễn thông (Internet, điện thoại nội hạt và quốc tế), dịch vụ chuyển phát thư, hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình, nhằm đảm bảo an ninh trong giai đoạn trước mắt là cần thiết. -Vấn đề đặt ra là sửa đổi những quy định về hình thức hợp doanh đã lỗi thời và không còn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài +Về phía nhà đầu tư nước ngoài: -Cần xác định hình thức kinh doanh trên cơ sở hợp đồng là bước đệm để có thể thâm nhập vào thị trường VN, tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh có hiệu suất sinh lời cao mà theo lộ trình sẽ mở cửa trong tương lai.Để giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư cần nghiên cứu, đề xuất mô hình thích hợp với dự án của mình trong việc kết hợp kinh doanh trên cơ sở hợp đồng với việc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. ii) Đối với hình thức liên doanh: +Về phía nhà nước: -Cần có cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ VN làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh có sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo những người được đưa vào có đủ năng lực bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và bên VN, tiếp thu được công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. -Để tăng tính hấp dẫn cho hình thức liên doanh, cần tạo dựng hành lang pháp lý thông thoáng trong lĩnh vực dịch vụ du lịch lữ hành, dịch vụ đại lý tàu biển, dịch vụ vận tải đường biển, đường không v.v... +Về phía nhà đầu tư nước ngoài: -Nghiên cứu kỹ đối tác liên doanh trước khi đi tới ký kết hợp đồng liên doanh. -Đặt mục đích làm ăn lâu dài ở VN và phải biết tôn trọng đối tác VN -Muốn liên doanh thành công phải đạt được các yêu cầu sau: üChia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư üTận dụng được những cơ sở và tiện ích sẵn có của đối tác trong nước üThực hiện được việc chuyển giao công nghệ cho VN üKhi đàm phán với đối tác VN nên đề xuất phương án lựa chọn nhân sự thật khách quan, tuyển người điều hành liên doanh không phụ thuộc vào bất kỳ bên nào. iii) Đối với hình thức 100% vốn nước ngoài: +Về phía nhà nước: -Tạo điều kiện để phát triển đặt biệt là dưới hình thức công ty cổ phần tham gia vào thị trường chứng khoán VN. Khuyến khích hơn nữa bằng đòn bẩy kinh tế thông qua sự hỗ trợ của nhà nước đối với các dự án 100% vốn nước ngoài sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới;v.v... -Vấn đề đặt ra là các tập đoàn xuyên quốc gia thường lợi dụng hình thức đầu tư này để chiếm lĩnh thị trường tạo dựng thế độc quyền của mình. Để ngăn chặn tình trạng các công ty xuyên quốc gia lũng đoạn và giành thị trường trong nước, cần sớm đưa Luật cạnh tranh vào nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thực thi các biện pháp chống hoạt động “chuyển giá” của các doanh nghiệp. +Về phía nhà đầu tư nước ngoài: -Nên tận dụng cơ hội hiện nay, VN là một điểm đến an toàn trên thế giới đối với các nhà đầu tư, cần mạnh dạn thực hiện các ý tưởng đầu tư của mình tại VN. iiii) Đối với hình thức BOT: +Về phía nhà nước: -Chính phủ cần hỗ trợ tích cực các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư theo hình thức BOT thông qua việc lựa chọn và công bố một cách rộng rãi danh mục thiết thực các dự án kết cấu hạ tầng thu hút đầu tư theo hình thức này. Tổ chức đấu thầu quốc tế rộng rãi lựa chọn chủ đầu tư đối với các dự án đầu tư theo hình thức BOT. -Cần ban hành các hợp đồng mẫu về BOT và các hợp đồng phụ khác như hợp đồng mua bán sản phẩm đầu ra, hợp đồng mua, bán nguyên, nhiên liệu đầu vào liên quan đến dự án đầu tư BOT, tạo thuận lợi cho việc đàm phán và ký kết hợp đồng. -Cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư triển khai nhanh các dự án, đưa công trình vào hoạt động trước thời hạn quy định trong hợp đồng , cho phép hưởng ưu đãi trong thời gian vượt tiến độ +Về phía nhà đầu tư nước ngoài: -Đầu tư theo hợp đồng BTO, BOT, BT là hình thức ít bị rủi ro nhất ở VN vì những rủi ro phát sinh ngoài tầm kiểm soát của nhà đầu tư đều do chính phủ gánh chịu.Tuy nhiên trước khi quyết định đầu tư theo hình thức này, nhà đầu tư cần khẳng định chắc chắn khả năng tài chính cho dự án, không nên trông chờ vào hỗ trợ của chính phủ. -Những lĩnh vực đang có nhu cầu lớn về BOT là: xây dựng nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống xử lý nước thải và chất thải công nghiệp, đường giao thông, cơ sở hạ tầng đô thị...Tuy nhiên việc tiếp cận thông tin dự án là trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư do đó để khắc phục các nhà đầu tư cần thường xuyên liên lạc với cơ quan chính phủ như Bộ công nghiệp, Bộ giao thông vận tải, Bộ kế hoạch và đầu tư để tìm hiều nhu cầu thu hút đầu tư và thông tin về các dự án kêu gọi đầu tư theo hình thức BOT. 2.2 Mất cân đối theo ngành nghề Giải pháp: -Rà soát lại sự trùng lặp về thể chế và chính sách đầu tư đối với nông nghiệp-phát triển nông thôn, những vấn đề riêng của ngành như thú y, thuốc, lâm nghiệp, bảo vệ thực vật...với những giải pháp cụ thể sau: Một là, cần sớm khắc phục những nguyên nhân hạn chế vừa qua. Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, nâng cao tính tiên liệu, minh bạch, đơn giản hoá thủ tục cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng nông nghịêp, nông thôn. Sử dụng hợp lý các nguồn vốn khác để khuyến khích dòng chảy FDI. Hai là, nhóm giải pháp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng FDI trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích về ưu đãi hỗ trợ đầu tư, phát triển thị trường, chính sách đất đai, phát triển vùng nguyên liệu, phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện hiệu quả công tác quản lý, sử dụng FDI. Ba là, nhóm giải pháp của các hiệp hội ngành hàng: tham mưu cho Bộ, địa phương về xây dựng quy hoạch vùng và cơ cấu sản phẩm, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực hoạt động, tăng cường vai trò trong giải quyết tranh chấp thương mại. Bốn là, nhóm giải pháp của các doanh nghiệp: nâng cao năng lực hoạt động của doanh nghiệp, tích cực tham gia chương trình xúc tiến đầu tư của ngành, chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu. => Chính sách thu hút đầu tư cần phải “cẩn trọng” tránh tình trạng dòng chảy FDI ồ ạt đổ vào công nghiệp, dịch vụ mà lại “bỏ rơi” nông-lâm-ngư-nghiệp. 2.3 Mất cân đối theo địa bàn đầu tư Giải pháp: (1)Có thể nói, sự bất cập về cơ sở hạ tầng đang là một rào cản lớn đối với môi trường đầu tư. Trong những năm gần đây, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là nhu cầu hết sức cấp bách của Việt Nam và là một trong những ưu tiên hàng đầu Chính phủ Việt Nam. Nhiều công trình lớn trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, năng lượng, cảng, phát triển đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp do Chính phủ đầu tư đã, đang và sẽ phát huy hiệu quả, mở ra nhiều cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. (2) Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo, đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và chất lượng lao động cho xã hội. Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu CNH, HĐH của vùng, gắn với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của từng địa bàn. (3) Cần có sự phối hợp và ưu tiên đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng khung của vùng; trong đó ưu tiên hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên kết với tất cả các vùng. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang bị phân tán theo 63 địa phương. Cần xác định các lợi thế của vùng kinh tế. Trên cơ sở đó có kế hoạch thu hút vốn FDI theo quy hoạch vùng, theo lợi thế của vùng kinh tế chứ không phải là lợi thế của từng địa phương trong vùng. Các địa phương phải liên kết chặt chẽ với nhau. Đồng thời, nên thiết kế một cơ quan chuyên trách để gắn kết lợi ích của  từng vùng kinh tế. Các địa phương trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển của mình, cần phải đặc biệt lưu tâm hơn đến yếu tố liên kết trong vùng và giữa các vùng, tạo lên sức mạnh cộng hưởng trong đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, để thu hút các nhà đầu trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư vào các dự án hạ tầng quan trọng, hiện Chính phủ Việt Nam đang xây dựng quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), trong đó sẽ các cơ chế ưu đãi cụ thể và các điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi tham gia vào các dự án đặc thù này. Các nhà đầu tư rất cần sự hỗ trợ của chính quyền các địa phương trong việc nhanh chóng hoàn thành thủ tục đăng ký, thực hiện đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các kế hoạch đầu tư được triển khai đúng tiến độ. Sở Kế hoạch và Đầu tư tại từng địa bàn cần chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan rà soát và xây dựng chuỗi quy trình thủ tục hành chính áp dụng cho nhà đầu tư, từ khi khảo sát lập dự án, đăng ký đầu tư đến khi dự án triển khai và kết thúc hoạt động trên địa bàn. Cần nỗ lực vượt qua khó khăn chung để nắm bắt cơ hội, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững; chia sẻ và luôn đồng hành cùng nhà đầu tư.Thêm vào đó, UBND ở các tỉnh thành cần hỗ trợ nhà đầu tư trong tổ chức thực hiện giải phóng mặt bằng, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp cho nhà đầu tư các thông tin cần thiết trong quá trình đầu tư và tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh. 2.4 Mất cân đối giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện Giải pháp: Thực tế này đặt ra vấn đề làm thế nào thu hút được những dự án FDI có chất lượng. Chất lượng FDI được đo lường bằng mức độ phù hợp của từng dự án với cơ cấu kinh tế của cả nước, của từng vùng lãnh thổ và từng địa phương. Muốn vậy, cần chủ động lựa chọn, sàng lọc các dự án đầu tư cũng như các đối tác đầu tư, không nên phụ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài cả về ý tưởng hình thành dự án, quy mô vốn đầu tư, diện tích đất sử dụng... Ðể ngăn chặn tình trạng xin cấp phép để "chiếm đất", cần thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, cân nhắc kỹ về tỷ suất đầu tư trên diện tích đất. Làm được điều này, các bộ, ngành cần nâng cao vai trò trong khâu thẩm tra, thẩm định dự án bằng cách tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý FDI. Các đầu mối quản lý FDI tại các địa phương cũng cần thường xuyên rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn để có hướng xử lý kịp thời đối với từng loại dự án, kiên quyết thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của những dự án FDI chậm triển khai. Việc giải ngân vốn FDI từ đầu năm đến nay có nhiều tín hiệu khả quan. Tuy nhiên, một số chuyên gia kinh tế cũng lưu ý rằng, cần xác định rõ trong số vốn FDI thực hiện đó thì bao nhiêu phần trăm là vốn nước ngoài và bao nhiêu phần trăm là vốn trong nước. Bởi không loại trừ trường hợp, có nhà đầu tư nước ngoài đăng ký dự án trong lĩnh vực bất động sản với số vốn lên tới 3 - 4 tỷ USD, nhưng vốn họ mang vào Việt Nam không nhiều, chỉ khoảng 20 đến 30%, còn lại là vay ngân hàng trong nước, huy động vốn trong nước theo hình thức hợp đồng góp vốn. Như vậy, cần có sự kiểm tra cụ thể các dự án, có biện pháp chấn chỉnh để việc thu hút và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài đúng mục đích và hiệu quả. - Song song với việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án, để tránh tình trạng chậm giải ngân, tiếp tục rà soát những dự án, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản có vốn lớn. Tiến hành rà soát thực trạng của các dự án trên từng địa bàn để phân loại và có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các dự án trọng điểm, có tác động đến địa phương và khu vực sẽ được ưu tiên hỗ trợ trước. Ngoài ra khi rà soát lại tình hình triển khai các dự án trên địa bàn để phân loại các dự án. Đối với các dự án nào thuộc về lỗi của chúng ta liên quan tới giao đất, thủ tục hành chính, phê duyệt quy hoạch thì chúng ta phải sớm khắc phục. -Nếu nguyên nhân chậm xuất phát từ khâu thủ tục, Sở sẽ phối hợp với doanh nghiệp chủ động tháo gỡ. Ngược lại, những trường hợp “đăng ký để đó”, sẽ xem xét để thu hồi giấy phép. -Nhà đầu tư đã sẵn sàng về vốn và vì các dự án đầu tư vào việt Nam đã nằm trong chuỗi kinh doanh toàn cầu của nhà đầu tư và nằm trong kế hoạch kinh doanh của họ trên thị trường quốc tế, khi có mặt ở Việt Nam, việc chậm giao đất trong xử lý thủ tục hành chính liên quan thủ tục triển khai của họ thì đó là lỗi phía chúng ta, việc này chúng ta hoàn toàn có thể xử lý được. Chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư thực hiện được nhanh chóng, sớm mang lại hiệu quả và đúng như các nhà đầu tư mong đợi "Phải đẩy mạnh cải tiến các thủ tục, phải phóng mặt bằng... để thúc đẩy việc giải ngân các nguồn tiền này” -Tuy nhiên, về lâu dài "chúng ta vẫn phải nỗ lực để tháo các "nút cổ chai" về hạ tầng, nhân lực và tiếp tục cải cách hành chính". Đây là những vấn đề đã được đặt ra từ lâu nhưng không thể cải thiện trong một sớm một chiều do có liên quan đến điều hành chính sách vĩ mô. Đặc biệt, vấn đề cơ sở hạ tầng vẫn chưa theo kịp tiến độ phát triển đầu tư, ảnh hưởng tới tâm lý của nhà đầu tư. Việc chưa chuẩn bị sẵn sàng về đất đai (nhất là các dự án lớn cần mặt bằng sản xuất rộng) cũng như việc giải phóng mặt bằng, đền bù, di dời và tái định cư dân khu vực đầu tư còn nhiều bất cập đã hạn chế việc tiếp nhận các dự án mới cũng như đẩy nhanh tiến độ đã được cấp gi y chứng nhận. Bên cạnh đó, vấn đề nguồn nhân lực cũng đang là tháchấthức lâu dài vì ở thời điểm này, các dự án cần vài trăm ngàn công nhân lại không thể đáp ứng ngay được... Giải quyết được các "nút thắt" này thì không lo gì các nỗ lực giải ngân của chúng ta không thực hiện được. -Đó là các giải pháp về thủ tục hành chính như cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa; rà soát các dự án để có ngay hình thức xử lý phù hợp, tránh tình trạng đất để quá 1 năm không đưa vào sử dụng theo quy định của Luật Đất đai; hoặc hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư... 2.5 Mất cân đối giữa các dự án thâm dụng lao động với các dự án có hàm lượng công nghệ cao. Giải pháp: Hạn chế các dự án thâm dụng lao động giá trị gia tăng thấp mà đã đến lúc tập trung vào các dự án có hàm lượng công nghệ cao thông qua chính sách của nhà nước, và quan trọng hơn hết là nâng cao trình độ tay nghề của lực lượng lao động. “Ngành sản xuất gia công, thâm dụng lao động, sẽ không còn lợi thế cạnh tranh trong những năm tiếp theo”. -Việt Nam trong tương lai gần cần thu hút một lượng lớn FDI vào lĩnh vực chế tạo, ngoài ra cần có những chính sách kiên quyết để cải thiện nền công nghiệp phụ trợ còn yếu kém, nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm, tham gia vào nấc thang cao hơn trong  chuỗi giá trị toàn cầu. -Cần thắt chặt hơn nữa những quy định về vốn FDI, hướng những dòng vốn về phía sản xuất công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và nên từ chối những dự án khai thác tài nguyên quá mức, ô nhiễm môi trường và sử dụng công nghệ lỗi thời. Tỷ trọng các dự án thâm dụng lao động, khai thác môi trường... -Quan tâm nhiều hơn đến công tác thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chất lượng, đặc biệt chú trọng thu hút các dự án đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia. Hạn chế việc thu hút các dự án thâm dụng lao động, gia công giá trị gia tăng thấp và các ngành công nghiệp công nghệ lạc hậu. Chú trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các dự án cải thiện, nâng cao sức cạnh tranh xuất khẩu của tỉnh. Hỗ trợ thúc đẩy sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa công nghệ hiện đại. -Tập trung đầu tư cho nguồn nhân lực. Trong giai đoạn ban đầu để thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài, nước ta đã chấp nhận những dự án thâm dụng lao động, để tạo việc làm cho một lượng lớn lao động. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại đặt nước ta vào yêu cầu cần phải lựa chọn những dự án có hàm lượng chất xám cao, công nghệ kỹ thuật cao và không thâm dụng lao động. Chọn lọc để hướng dòng vốn FDI vào những lĩnh vực quan trọng như công nghiệp phụ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Các ngành khác cũng nhận được sự ưu tiên là chế biến nông sản, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ngành sản xuất tiết kiệm năng lượng và các ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn. Để thực hiện được điều này phụ thuộc rất nhiều vào địa phương trong bối cảnh phân cấp mạnh mẽ về cấp phép đầu tư. Thu hút FDI có định hướng và chọn lọc đòi hỏi công tác xúc tiến đầu tư phải được đổi mới, nâng cao chất lượng, hướng vào đối tác là các tập đoàn xuyên quốc gia, các đối tác nắm công nghệ nguồn, coi trọng các dự án gắn với chuyển giao công nghệ, thân thiện môi trường. Bên cạnh việc chọn lọc và nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư, thu hút FDI phải gắn chặt với quá trình tái cấu trúc kinh tế; thu hút FDI hướng vào những ngành nghề, sản phẩm cụ thể, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác tối đa tiềm năng và hiệu quả của nguồn vốn này. Để làm được điều này cần xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút FDI gắn với các loại quy hoạch khác như quy hoạch vùng, quy hoạch ngành... 2.6 Mất cân đối trong thu hút đầu tư từ các nước: Giải pháp : -Về các chính sách cụ thể riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư chiến lược từ các nước đối tác lớn, các công ty đa quốc gia, có tiềm năng lớn về công nghệ và thị trường, những đối tượng thực sự có khả năng đóng góp cho chúng ta đạt được những mục tiêu, yêu cầu nêu trên. Mặt khác cũng cần có những quy định rõ ràng về pháp lý để ngăn chặn những luồng đầu tư không mong muốn. Đây cần được coi là một định hướng quan trọng trong chiến lược cơ cấu và chính sách kinh tế đối ngoại mới, đòi hỏi có sự tự tin, có cách làm mạnh dạn, khôn ngoan, sẵn sàng vượt khỏi các khuôn khổ chính sách bình thường để tạo bước ngoặt cần thiết trong thu hút FDI. Thực hiện điều này đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng các đối tượng bên ngoài, nhận diện lợi ích thực thụ của mỗi bên để đánh giá, so sánh, chọn lựa và có cách đối xử thông minh, phù hợp thậm chí với từng đối tượng. Cũng cần có sự thống nhất về nhận thức và phối hợp hành động tốt giữa các cơ quan, đơn vị và cá nhân liên quan trong khi thực hiện chủ trương này. Các cấp tham gia quyết định và thực hiện các dự án FDI, đặc biệt ở các địa phương, rất cần được nâng cao trình độ và năng lực thẩm định, giám sát và làm việc với các đối tượng FDI đặc biệt này. -Việc lựa chọn đối tác chiến lược có lẽ cần căn cứ vào thực tiễn đầu tư của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam. Những nền kinh tế có các nhà đầu tư FDI kinh doanh hiệu quả tại Việt Nam, đóng góp nhiều thuế thu nhập tại Việt Nam cần được coi là các đối tác chiến lược trong công tác hút đầu tư của Việt Nam. -Cần có sự thay đổi toàn diện về chiến lược thu hút và phát triển doanh nghiệp FDI. Khi tiệm cận dần tới ngưỡng là nước có thu nhập trung bình, Việt Nam có lẽ cần có sự chủ động cao hơn trong việc thu hút và lựa chọn đầu tư. Chiến lược xúc tiến đầu tư (promotion) cần được thay bằng chiến lược hấp dẫn đầu tư (attraction). Tức là, Việt Nam cần chủ động và có tiêu chí lựa chọn kỹ càng hơn các đối tác chiến lược và các nhà đầu tư chiến lược. Tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư cao hơn và có chất lượng hơn. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ phù hợp với điều kiện đầu tư hiện đại. Giới thiệu, quảng cáo môi trường đầu tư rộng rãi ra bên ngoài là rất cần thiết và được nhiều nước chú trọng. Hàng năm Việt Nam cần phải tổ chức các đoàn cấp chính phủ đi các nước hoặc tham gia các diễn đàn kinh tế khu vực và quốc tế để giới thiệu, quảng bá môi trường đầu tư của mình nhằm vận động đầu tư nước ngoài. Tại các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các đối tác, các thành viên của đoàn thường thông báo cho các nhà đầu tư về các cơ hội đầu tư của nước mình và trả lời những câu hỏi mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchinh thuc 2007.docx
  • docxde tai 2 toan tap.docx
Luận văn liên quan