Dòng chảy bất tận của thương mại toàn cầu đang từng ngày từng giờ 
tác động vào từng ngõ ngách của mọi nền kinh tế lớn nhỏ trên thế giới, không 
riêng gì các quốc gia phát triển cao mà ngay cả những nước mới bước đầu hội 
nhập cũng không tránh được bị ảnh hưởng bởi những vận động, chuyển mình 
của nó. Các quốc gia muốn không bị lỗi nhịp trong cuộc đua tranh về kinh tế 
buộc phải tuân theo những quy luật tất yếu khách quan đang điều phối xu 
hướng phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Một trong những xu hướng phổ 
biến hiện nay đang thống lĩnh thị trường sản xuất, cung ứng của thế giới là xu 
hướng hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu. Với những lợi ích to lớn mang lại 
cho tất cả các thành viên tham gia, sự mở rộng của chuỗi giá trị dường như là 
một xu thế không thể cưỡng lại và vấn đề các nền kinh tế cần nghiên cứu hiện 
nay chỉ là làm thế nào để tham gia một cách có hiệu quả nhất vào hệ thống 
chuỗi đó. Đây quả là một bài toán khó đối với mọi quốc gia trong tình hình 
nền kinh tế thế giới đang bị chi phối bởi quá nhiều những tác nhân bên ngoài 
như chính trị, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc v.v
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 101 trang
101 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2839 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng may mặc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 là các công ty đa và xuyên 
quốc gia. Đặc biệt, những dự án đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng của ngành dệt 
và may sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh toàn ngành. 
Những cơ hội trên thực sự rất quý báu nếu chúng ta biết tận dụng triệt để nhằm 
nâng cao trình độ sản xuất toàn ngành, thiết lập các mối quan hệ với các chủ thể 
khác trong chuỗi, qua đó thâm nhập sâu hơn vào chuỗi. 
4. Thách thức 
Một khi đã trở thành một mặt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu, cũng là 
hội nhập sâu rộng hơn vào sân chơi toàn cầu, những áp lực cạnh tranh mà các 
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt là hết sức lớn. Số lượng các nước sản 
xuất, xuất khẩu sản phẩm dệt may trên thế giới đã lên tới con số 153, trong số 
đó có rất nhiều quốc gia đang phát triển đang cạnh tranh trực tiếp đến vị trí 
của Việt Nam trong chuỗi giá trị là các công đoạn sản xuất và gia công. Các 
doanh nghiệp Việt Nam nếu không tích cực tìm ra giải pháp nâng cao lợi thế 
cho mình sẽ nhanh chóng thất bại trong cuộc đua tranh này. 
Ngoài ra, một trong những thách thức lớn nhất đối với các doanh 
nghiệp Việt Nam là những rào cản phi thuế mà các quốc gia phát triển đặt ra 
nhằm bảo hộ nền sản xuất nội địa. Quốc gia phải chịu những điều kiện ngặt 
nghèo nhất phải kể đến Trung Quốc do tiềm năng phát triển và năng lực thâm 
nhập thị trường gần như không giới hạn. Việc bị áp dụng đồng thời hai cơ chế 
tự vệ thương mại không ngăn được việc sản phẩm may mặc Trung Quốc đang 
ồ ạt tràn vào và chiếm lĩnh các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU…Các 
66 
chuyên gia kinh tế trong lĩnh vực dệt may dự báo, đến năm 2010, thị phần của 
hàng dệt may Trung Quốc có thể chiếm đến 50% thị phần hàng dệt may thế 
giới. 
Còn đối với Việt Nam, việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đã 
giúp gỡ bỏ hàng rào thuế quan, chính sách hạn ngạch song những rào cản vô 
hình mà các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ dựng lên thì ngày một tinh vi 
và khó kiểm soát. Đó là các tiêu chuẩn về môi trường lao động SA 8000, các 
quy định về tiêu chuẩn hàng dễ cháy, chương trình trách nhiệm toàn cầu 
WRAP và trước mắt là cơ chế giám sát chống bán phá giá tại thị trường Hoa 
Kỳ v.v… thực sự gây khó khăn và làm tăng chi phí sản xuất của các doanh 
nghiệp may mặc Việt Nam lên rất nhiều. Việc tăng chi phí sản xuất không chỉ 
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp mà nó còn gây sức ép lên giá thành sản 
phẩm, buộc các doanh nghiệp phải tăng giá, làm giảm sức cạnh tranh. Để đối 
phó với tình hình này, các doanh nghiệp Việt Nam cần khẩn trương xác định 
rõ vai trò và thế mạnh của mình trong chuỗi, định hướng phát triển và để ra 
những giải pháp phù hợp. 
67 
CHƢƠNG III 
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM 
TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ HÀNG MAY MẶC TOÀN CẦU 
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH MAY MẶC VIỆT NAM 
1. Mục tiêu tổng quát 
Xác định được tầm quan trọng của ngành công nghiệp dệt may đến nền 
kinh tế đất nước, Chính phủ đã chỉ đạo cho các ban ngành phát triển ngành 
dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn 
về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều 
việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh 
tế khu vực và thế giới. Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra những 
mục tiêu cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn đối với tiến trình đẩy mạnh sản 
xuất hướng về xuất khẩu của ngành dệt may như sau: 
2. Mục tiêu cụ thể 
Bảng 3.1: Mục tiêu phát triển ngành may mặc Việt Nam 
Tốc độ tăng trƣởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 
 Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16 – 18 % 12 - 14 % 
 Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20 % 15 % 
Nguồn: trang web www.chinhphu.vn 
Dựa trên mục tiêu tăng trưởng này, Chính phủ đã quyết định các chỉ 
tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 
2015, định hướng đến năm 2020 như sau: 
68 
Bảng 3.2: Các chỉ tiêu trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam 
Chỉ tiêu Đơn vị tính 
Thực hiện 
2006 
Mục tiêu toàn ngành đến 
2010 2015 2020 
1. Doanh thu triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000 
2. Xuất khẩu triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000 
3. Sử dụng lao động Nghìn 
người 
2.150 2.500 2.750 3.000 
4. Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 
5. Sản phẩm chính: 
Bông xơ 1000 tấn 8 20 40 60 
Xơ, Sợi tổng hợp 1000 tấn - 120 210 300 
Sợi các loại 1000 tấn 265 350 500 650 
Vải triệu m2 575 1.000 1.500 2.000 
Sản phẩm may triệu SP 1.212 1.800 2.850 4.000 
Nguồn: trang web www.chinhphu.vn 
3. Định hƣớng phát triển 
3.1. Sản phẩm 
 Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may 
xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng 
cao hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Chú trọng công tác 
thiết kế thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, 
từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh 
việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu hội nhập 
trong ngành dệt may. Tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt may, đáp ứng 
nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. 
 Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất xơ sợi tổng 
hợp, nguyên phụ liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ để cung cấp 
cho các doanh nghiệp trong ngành. 
69 
 Xây dựng Chương trình sản xuất vải phục vụ xuất khẩu. Tập đoàn dệt 
may Việt Nam giữ vai trò nòng cốt thực hiện Chương trình này. 
 Xây dựng Chương trình phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây 
dựng các vùng trồng bông có tưới nhằm tăng năng suất và chất lượng bông xơ 
của Việt Nam để cung cấp cho ngành dệt. 
3.2. Đầu tư và phát triển sản xuất 
 Đối với các doanh nghiệp may: 
Từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao 
động nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Xây dựng các trung tâm thời trang, 
các đơn vị nghiên cứu thiết kế mẫu, các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu 
và thương mại tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành 
phố lớn. 
 Đối với các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất vải: 
Xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ sở 
hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu 
chuẩn môi trường theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dời và xây dựng 
mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều 
kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô nhiễm môi trường. 
 Xây dựng các vùng chuyên canh bông có tưới tại các địa bàn có đủ điều 
kiện về đất đai, thổ nhưỡng và khí hậu nhằm nâng cao sản lượng, năng suất và 
chất lượng bông xơ. 
3.3. Bảo vệ môi trường 
 Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến 
lược phát triển ngành dệt may và các quy định pháp luật về môi trường. 
 Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. 
Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp dệt may có hệ thống xử lý 
70 
nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có 
nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp. 
 Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành dệt may, 
khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo 
ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn 
SA 8000. 
 Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may 
theo hướng thân thiện với môi trường. 
 Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. 
 Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập 
kinh tế quốc tế. 
II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG CHUỖI 
GIÁ TRỊ TOÀN CẦU HÀNG MAY MẶC 
Như đồ thị thể hiện chuỗi giá trị hàng may mặc (hình 9) đã thể hiện, 
ngành may mặc Việt Nam hiện đang nằm ở khâu dưới cùng tức là khu vực 
sản xuất, cũng là khâu sản xuất ra lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong toàn 
chuỗi. Mọi cố gắng nhằm nâng cao khối lượng giá trị gia tăng tạo ra tại Việt 
Nam đều đồng nghĩa với một sự di chuyển sang trái hoặc sang phải dọc theo 
đồ thị chuỗi giá trị, tức là đi về khâu thượng nguồn hay hạ nguồn của quá 
trình sản xuất sản phẩm. Nếu đi về hướng thượng nguồn tức là chúng ta phải 
lưu tâm đến các công đoạn thiết kế mẫu mã sản phẩm, hoặc mở rộng vùng 
nguyên liệu cung ứng, phát triển nguyên liệu mới, giảm giá thành các yếu tố 
đầu vào v.v…Còn nếu ưu tiên phát triển theo hướng thứ hai thì những nỗ lực 
marketing, xúc tiến thương mại, bán hàng và quảng bá thương hiệu cần đặt 
lên hàng đầu. Trong tình hình hiện nay, Chính phủ đã xác định giải pháp cho 
việc nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi toàn cầu là phải phát triển về cả 
hai hướng nêu trên, tuy nhiên, đối với mỗi hướng đi, phát triển như thế nào, 
ưu tiên cái gì, đầu tư theo hướng nào v.v…là những vấn đề cần được đưa ra 
71 
bàn thảo và nghiên cứu một cách kỹ lưỡng trên cơ sở phân tích năng lực cạnh 
tranh ngành. Giải pháp đưa ra thì có nhiều, nhưng có thể tóm gọn vào một số 
nội dung chính sau đây: 
1. Các giải pháp thuộc trách nhiệm của Chính phủ 
1.1. Điều chỉnh cơ chế chính sách ngành dệt may nhằm nâng cao năng lực 
thâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu 
Ngành may mặc, với vị trí quan trọng sống còn trong nền kinh tế Việt 
Nam hiện nay, rất cần được sự đầu tư thích đáng của Chính phủ về nhiều 
phương diện: xây dựng chiến lược phát triển trong dài hạn, điều chỉnh cơ chế 
chính sách cho phù hợp với tình hình mới, đẩy mạnh đầu tư và kêu gọi đầu tư 
v.v… 
Về việc xây dựng chiến lược phát triển quốc gia, chính phủ nên tập hợp 
các ý kiến tham vấn, đóng góp của các Bộ, ngành liên quan, tham khảo các 
gợi ý, phân tích từ các chuyên gia nước ngoài để đưa ra một chương trình 
hành động hợp lý và thực sự có hiệu quả. 
Chính phủ cần cân nhắc đến các vấn đề mang tính dài hạn như sẽ định 
vị Việt Nam như thế nào trong chuỗi giá trị toàn cầu tương lai, và xa hơn, sự 
đầu tư cho ngành may mặc hiện nay sẽ đặt nền móng cho sự phát triển ngành 
nào tiếp theo. Sự phối kết hợp giữa các ngành cũng cần được quan tâm. 
Những ngành có liên hệ mật thiết với ngành may mặc như ngành khai 
khoáng, ngành lâm nghiệp, nông nghiệp v.v… cần được phối hợp đầu tư một 
cách có hiệu quả. Ngành may mặc với đặc trưng là một ngành sử dụng nhiều 
lao động, nhưng đồng thời cũng cần sử dụng một lượng lớn các nguyên phụ 
liệu thô, vì vậy, việc phối hợp hoạt động trên bình diện vĩ mô cần phải mở 
rộng khả năng tạo việc làm cho người lao động, sử dụng tiết kiệm và hợp lý 
các nguồn tài nguyên thiên nhiên. 
72 
Ngoài ra, Chính phủ cần cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực 
thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, 
đơn giản hoá các thủ tục. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, 
chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại. Điều này rất có ý nghĩa trong 
việc giảm bớt chi phí giao dịch và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư 
nước ngoài. 
1.2. Đầu tư và kêu gọi đầu tư vào ngành cung ứng nguyên phụ liệu 
Hiện nay, nguyên phụ liệu và dệt đang là hai khâu yếu nhất trong ngành 
dệt may. Sự thiếu chủ động trong hai khâu này không những làm cho các 
doanh nghiệp sản xuất không chủ động được về nguyên liệu đầu vào mà còn 
làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia do không giảm thiểu được chi phí. Vì 
sự phát triển lâu dài của ngành may mặc Việt Nam, nhất thiết phải cần xây 
dựng một chính sách đầu tư thích đáng cho những khâu thượng nguồn này. 
Tuy nhiên, so với ngành may, ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn, rủi 
ro đi kèm cũng nhiều mà hiệu quả trực tiếp lại không cao do đó khiến các 
doanh nghiệp nước ngoài ngần ngại khi đầu tư xây dựng. Chính phủ cần có 
chính sách kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực này nhằm tăng thêm 
giá trị gia tăng của may mặc Việt Nam trong chuỗi giá trị. Các dự án đầu tư 
cần được chú trọng vào việc phát triển các vùng trồng bông, trồng dâu, nuôi 
tằm, sản xuất xơ nhân tạo, các nguyên phụ liệu, hóa chất… để tiến tới sản 
xuất thay thế nhập khẩu. Cần đẩy mạnh phát triển các vùng nguyên liệu, các 
làng sản xuất, tập trung phát triển các ngành sản xuất nguyên phụ liệu, đổi 
mới máy móc thiết bị cho ngành may. Điều này vô cùng cần thiết và phải 
được ưu tiên thực hiện. 
Chính phủ cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài 
nước đầu tư phát triển ngành dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất 
khẩu, xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên 
liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà 
73 
đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt 
thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Xây dựng các khu công 
nghiệp chuyên ngành dệt may có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp 
nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả 
năng đào tạo. Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong 
đó chú trọng xây dựng vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu bông 
cho ngành dệt, sợi. Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại 
Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung 
ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, 
xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp 
ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao 
và giá nhập khẩu hợp lý. 
Một giải pháp khác đối với việc nâng cao khả năng cung ứng nguyên 
phụ liệu của Việt Nam là việc phát huy tối đa năng lực sản xuất những mặt 
hàng nguyên liệu mà ta có thế mạnh. Chúng ta có một nguồn nguyên liệu rất 
quý giá đó là lụa tơ tằm và các sản phẩm gấm. Đây là một loại nguyên liệu 
không phải nước nào cũng có thể sản xuất được và ta sẽ có lợi thế rất lớn nếu 
biết cách phát triển mặt hàng này. Chúng ta hiện đã xây dựng được một số 
thương hiệu có giá trị như gấm Thái Tuấn, Khaisilk v.v… rất có giá trị xuất 
khẩu. Việc đầu tư vào những sản phẩm nguyên liệu có thế mạnh này không 
chỉ giúp gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm may mặc mà còn đóng góp vào 
việc nâng cao tầm quan trọng của ngành dệt Việt Nam trong chuỗi giá trị may 
mặc toàn cầu. 
1.3. Nâng cao nguồn vốn đầu tư cho ngành may mặc 
 Vốn cho đầu tư phát triển: 
Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, Chính phủ cần thúc đẩy ngành 
dệt may Việt Nam huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài 
nước thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty 
74 
liên kết, cổ phần hoá các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư 
nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị 
trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay 
thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ. 
 Vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực và xử lý môi 
trường: 
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các 
Viện nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành dệt may Việt Nam để tăng 
cường cơ sở vật chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn 
nhân lực cho ngành dệt may theo nguyên tắc phù hợp với các cam kết quốc tế 
mà Việt Nam đã tham gia. Nhà nước cho doanh nghiệp dệt may được vay vốn 
tín dụng nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi trường để thực hiện các dự 
án xử lý môi trường. 
2. Các giải pháp thuộc quyền hạn của Bộ, ngành 
Ngày 1 tháng 12 năm 2005, Nhà nước đã thành lập Tập đoàn dệt may 
Việt Nam (Vinatex) nhằm khai thác nguồn lực tổng hợp của ngành may mặc 
nói riêng và ngành dệt may nói chung để đẩy mạnh xuất khẩu, tuy nhiên, các 
cơ quan chức năng cần phải xây dựng cơ chế phù hợp để hoạt động của tập 
đoàn có hiệu quả, đặc biệt là cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân của người Chủ 
tịch và Tổng giám đốc điều hành trong các hoạt động kinh doanh, quyền hạn 
cụ thể phải được quy định rõ ràng. Có vậy mới tạo ra những điểu kiện cần 
thiết cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược xuất khẩu tại từng doanh 
nghiệp và tập đoàn nói chung. 
2.1. Nâng cao năng lực thiết kế thời trang toàn ngành 
Để gia tăng sự thâm nhập của Việt Nam trong chuỗi giá trị hàng may 
mặc thế giới, việc nâng cao năng lực thiết kế thời trang cũng là một nhiệm vụ 
quan trọng. Thiết kế thời trang là một trong những công đoạn tạo ra nhiều giá 
75 
trị gia tăng nhất trong toàn bộ chuỗi giá trị, đặc biệt, giá trị vô hình do thương 
hiệu tạo ra là vô cùng lớn. Hiện nay, Trung Quốc có tới 30 viện nghiên cứu về 
lĩnh vực thiết kế thời trang. Đây thực chất là những tổ chức hoạch định chiến 
lược phát triển ngành may mặc với nhiệm vụ tìm hiểu thị trường thế giới cũng 
như tiến hành những nghiên cứu khoa học để đưa ra những dự báo về mẫu 
mã, chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của từng thị trường. 
Còn tại Việt Nam, số lượng Viện nghiên cứu thời trang ít ỏi cộng với 
sự yếu kém về năng lực thực sự chưa phát huy được vai trò là người định 
hướng cho xu thế thời trang Việt. 
Chúng ta hiện chưa có được một thương hiệu may mặc nào đáng kể 
trên thị trường thế giới mà phần lớn chỉ xuất khẩu dưới tên của những thương 
hiệu khác. Việc đầu tư phát triển thương hiệu may mặc là hết sức cần thiết 
nhưng việc này cần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về chiến lược tiếp 
cận thị trường nước ngoài bởi việc đầu tư cho thương hiệu tiêu tốn một lượng 
lớn kinh phí mà rủi ro đi kèm lại cao. Thương hiệu là một yếu tố được quyết 
định bởi tâm lý khách hàng mà khách hàng thường có xu hướng lựa chọn 
những thương hiệu đã có từ lâu đời của các hãng may mặc lớn trên thế giới. 
Các doanh nghiệp Việt Nam sinh sau đẻ muộn khó có cơ hội chen chân được 
vào hệ thống thương hiệu này. 
 Trong ngắn hạn, Việt Nam nên chọn giải pháp tận dụng sức mạnh của 
những thương hiệu mạnh có sẵn. Trong ngành may mặc hiện nay thì công ty 
may An Phước đã liên minh rất thành công với Piere Cardin để sản xuất 
những mặt hàng có chất lượng cao do hợp đồng mua bán giấy phép lisences 
mang lại. Nhờ vậy, giá của một chiếc áo sơmi hiệu Piere Cardin có thể bán 
với giá cao gấp đôi giá của chiếc áo sơmi dán nhãn An Phước. Đây là một 
trường hợp điển hình của Việt Nam về việc kết hợp thương hiệu để tạo thêm 
gía trị gia tăng cho mình. 
76 
2.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho tiến trình gia 
nhập chuỗi giá trị 
Đối với một ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, những 
chính sách, cơ chế liên quan đến lao động cần được xem xét triển khai một 
cách thân trọng và đúng hướng. Trên cơ sở những chiến lược phát triển do 
Chính phủ đề ra, Bộ, ngành cần xây dựng một cơ chế đào tạo nghề cho lực 
lượng lao động của ngành dệt may một cách hợp lý. Triển khai Chương trình 
đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam theo các nội dung sau: 
 Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, 
cán bộ bán hàng chuyên ngành dệt may, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành 
nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm. 
 Mở các khoá đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản 
xuất, kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến 
thức về tiêu chuẩn nguyên liệu, sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường và lao 
động). 
 Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá 
đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào 
tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. 
 Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo 
chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán 
bộ ra nước ngoài để đào tạo. 
 Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may, xây dựng 
Trường Đại học dệt may và thời trang để tạo cơ sở vất chất cho việc triển khai 
các lớp đào tạo. 
 Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân 
thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may nhằm cung cấp 
đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội dệt may Việt Nam và Tập đoàn dệt may 
77 
Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và ngoài 
nước triển khai Chương trình đạo tạo nguồn nhân lực cho ngành. 
Kinh nghiệm của các nước và lãnh thổ trên thế giới có công nghệ dệt 
may phát triển, đặc biệt là các nước và lãnh thổ trong khu vực Châu Á – Thái 
Bình Dương như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonexia, Phillipin, 
Malayxia… là đều có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho ngành may 
mặc. Một số nước có sử dụng nhiều lao động trong công nghiệp may mặc như 
Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan… đều có chương trình quản lý nguồn nhân lực 
và đầu tư vào nguồn nhân lực để kịp với tốc độ đầu tư vào máy móc thiết bị 
và công nghệ. Việt Nam cũng cần đề ra những giải pháp hợp lý để giải quyết 
vấn đề này. 
Trước hết, chúng ta cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực tiên 
phong bằng cách cử từng nhóm cán bộ có trình độ sang học tập, tiếp thu công 
nghệ tiên tiến và các biện pháp quản lý, phân công lao động của các quốc gia 
phát triển. Những nhóm cán bộ này khi trở về sẽ là hạt nhân cho sự phát triển 
đội ngũ lao động của ngành. Bằng cách tham gia vào các khâu quản lý, nhóm 
nhân lực chất lượng cao một mặt sẽ làm nâng cao hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp, mặt khác sẽ tiếp tục đào tạo nên đội ngũ lao động chất lượng 
cao cấp hai đảm nhiệm những công việc đơn giản hơn. Công việc này tiếp 
diễn theo từng cấp sẽ góp phần nâng cao đáng kể chất lượng đội ngũ lao động 
toàn ngành. 
Song song với nó, Bộ, ngành cần lên kế hoạch xây dựng một hệ thống 
các trường đào tạo đại học, cao đẳng để đào tạo nên các cán bộ trong lĩnh vực 
thiết kế thời trang, cán bộ chuyên nghiên cứu xu hướng thời trang và thị hiếu 
người tiêu dùng của các nước Hoa Kỳ, EU…Thiết lập các trường dạy nghề 
đào tạo công nhân tay nghề cao để đảm bảo cung cấp cho ngành dệt may một 
lực lượng lao động có chất lượng đáp ứng được tiêu chuẩn thế giới. Giá trị 
sức lao động cũng là một thành tố đóng góp vào giá trị cuối cùng của sản 
78 
phẩm vì thế nếu chất lượng lao động được cải thiện đồng nghĩa với lượng giá 
trị tạo ra bởi người công nhân đó cũng tăng cao hơn. Đây thực sự là một giải 
pháp hết sức quan trọng không chỉ bởi sự đóng góp mang tính bền vững của 
nó mà còn bởi những giá trị về mặt xã hội mà nó tạo ra. 
2.3. Đầu tư phát triển công nghệ tiên tiến, hiện đại cho ngành dệt may 
Bộ, ngành dệt may cần tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành 
dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tìm giải pháp nâng cao năng 
lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và 
sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu. Ngoài ra, cần hỗ trợ cho các doanh 
nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu triển khai các tiến bộ 
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh 
nghiệp dệt may Việt Nam. 
Bên cạnh đó, Bộ, ngành cần tổ chức đánh giá mức độ tiếp cận công 
nghệ thông tin trong quản lý sản xuất và hoạt động tiếp thị của các doanh 
nghiệp dệt may Việt Nam, cụ thể là về các mảng: trang bị phần cứng (mức độ 
trang bị phần cứng để nối mạng, lưu trữ và quản lý dữ liệu tập trung), sử dụng 
thư điện tử và áp dụng thương mại điện tử (xây dựng trang web với tên miền 
riêng để quảng bá, giao dịch và mua bán) và áp dụng phần mềm trong quản lý 
kinh doanh (như phần mềm kế toán, quản lý nhân sự, tiền lương, thiết kế kỹ 
thuật, quản lý sản xuất, quản lý kho v.v…) từ đó phối hợp với các viện khoa 
học kỹ thuật, bộ khoa học và công nghệ để nâng cao năng lực công nghệ 
thông tin cho các doanh nghiệp. 
Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các 
nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai 
các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần 
mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm dệt may. 
79 
Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt 
may phù hợp và hài hoà với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và 
thông lệ quốc tế cũng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Bộ, ngành cần hỗ 
trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may, 
hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt May trong quản lý chất lượng và khắc phục 
các rào cản kỹ thuật. 
Ngoài ra, một số hoạt động sau cũng cần được lưu tâm nhằm phát triển 
hệ thống hạ tầng công nghệ phục vụ ngành dệt may: 
 Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái dệt may và Trung tâm phát triển 
các mặt hàng vải trong giai đoạn 2008-2010. 
 Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành dệt may, nâng cao chất lượng của 
trang thông tin điện tử. 
 Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển 
giao công nghệ trong ngành dệt may. 
2.4. Nghiên cứu và phát triển những nguồn nguyên phụ liệu mới 
Như chúng ta đã phân tích ở trên, hiện nay năng lực sản xuất và cung 
ứng của ngành dệt Việt Nam vẫn còn ở mức rất thấp. Chúng ta mới chỉ sản 
xuất được những loại vải cơ bản, với chất lượng ở mức trung bình, mẫu mã 
chưa đặc sắc, độc đáo. Phát triển ngành dệt đang được xác định là một trong 
những ưu tiên hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam để chúng ta có đủ năng 
lực tham gia vào những phân đoạn khác của chuỗi giá trị. Tuy nhiên, phát 
triển ngành dệt là một công việc đòi hỏi một sự đầu tư về vốn, công nghệ, thời 
gian rất lớn, cần phải có sự tham gia và góp sức của nhiều thành phần kinh tế 
khác nhau. Vậy trước mắt, chúng ta cần đề ra những giải pháp mang tính tạm 
thời để hỗ trợ phần nào cho sự phát triển ngành dệt. Phát triển những nguồn 
nguyên liệu mới, độc đáo chính là một hướng đi. Nước ta hiện nay đang co 
một nguồn nguyên liệu thế mạnh hết sức độc đáo và quý giá, rất được người 
tiêu dùng các nước phương Tây đón nhận, đó là lụa, gấm, và các sản phẩm từ 
80 
nguyên liệu này. Những sản phẩm từ lụa, gấm, từ chiếc áo sơmi, váy, áo dài 
đến các sản phẩm cà vạt, khăn quảng, túi xách v.v… đều có thể dùng để xuất 
khẩu với giá trị mang lại rất lớn. Do đó, Bộ và ngành dệt may Việt Nam cần 
hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống, đưa ra những biện pháp nhằm 
quảng bá những sản phẩm này rộng rãi hơn tới đông đảo người tiêu dùng và 
các đối tác nước ngoài. 
Tương tự như ngành sản xuất nguyên liệu, ngành sản xuất phụ liệu may 
mặc cũng cần một hướng đi tương tự. Chúng ta hiện chưa sản xuất được 
nhiều loại phụ liệu đẹp, kiểu cách, màu sắc phong phú, tinh xảo mà phần lớn 
phải nhập khẩu. Tuy nhiên, chúng ta lại có được những nguồn nguyên liệu tự 
nhiên dùng trong các sản phẩm thủ công rất phong phú như: vỏ dừa, sò, ốc, đá 
màu, đất sét, gỗ v.v…Người lao dộng Việt Nam vốn rất khéo tay, nếu chúng 
ta có thể lợi dụng được những nguồn nguyên liệu rẻ tiền và sẵn có này để tạo 
nên những phụ liệu độc đáo cho trang phục, lợi ích mà chúng ta thu được sẽ 
rất lớn. Thứ nhất, giải pháp này sẽ giải quyết được phần nào vấn đề việc làm 
cho nhiều người lao động phổ thông Việt Nam. Thứ hai, những nguồn nguyên 
liệu này nếu không được sử dụng sẽ trờ nên vô ích và lại tạo gánh nặng cho 
việc xử lý rác thải. Thứ ba, phương pháp này giúp giải quyết một phần nhu 
cầu của ngành may mặc về phụ liệu mà hiện chúng ta đang phải nhập khẩu 
phần lớn. Cuối cùng, sự tìm tòi của chúng ta trong việc tận dụng những nguồn 
nguyên liệu sẵn có này để chế tác nên những sản phẩm phụ liệu có giá tị chắc 
chắn sẽ được đối tác nước ngoài đánh giá cao và có thể đặt hàng chúng ta sản 
xuất hàng loạt để xuất khẩu. Như vậy, phương pháp này đã đưa được ngành 
sản xuất phụ liệu Việt Nam thâm nhập được vào hệ thống sản xuất phụ liệu 
của thế giới, qua đó mở rộng vị trí và nâng cao vai trò của chúng ta trong 
chuỗi giá trị toàn cầu đối với sản phẩm may mặc. 
81 
3. Các giải pháp thuộc vai trò của Hiệp hội dệt may 
Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) thành lập ngày 14 tháng 11 năm 
1999 bao gồm tất cả các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt 
Nam với tổng số hội viên lên tới 455. Hiệp hội dệt may ra đời đã hỗ trợ rất 
lớn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong thời gian qua, cung cấp 
thông tin thị trường cho các doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh tốt đẹp về 
ngành dệt may Việt Nam, đại diện cho các hội viên khi đàm phán với các đối 
tác nước ngoài v.v… Là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, 
Hiệp hội dệt may có hai vai trò chủ yếu sau đây: 
3.1. Thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành dệt may 
Với vai trò là người liên kết hoạt động của tất cả các doanh nghiệp dệt 
may trong nước, Hiệp hội cần phối hợp với các Bộ, ngành tìm ra những giải 
pháp thỏa đáng nhằm nâng cao tính liên kết giữa các doanh nghiệp dệt may 
Việt Nam. Thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn quá non yếu 
khi bước chân ra thị trường may mặc toàn cầu. Từng doanh nghiệp một không 
có một chút cơ hội nào cạnh tranh với các hãng có tên tuổi. Vì vậy, các doanh 
nghiệp Việt Nam cần liên kết lại để tạo nên một sức mạnh lớn hơn. Việc liên 
kết không chỉ có ý nghĩa cho việc xây dựng các thương hiệu riêng mà trong 
tình thế hiện nay, điều này còn giúp nâng cao năng lực đáp ứng các đơn đặt 
hàng số lượng lớn từ các đối tác nước ngoài. Năng lực đáp ứng nhanh các đơn 
hàng thường được thể hiện thông qua một số tiêu chí sau: thời gian giao hàng 
tối thiểu kể từ lúc bắt đầu nhận đơn đặt hàng đến khi giao hàng xuống cảng, 
khả năng nhận các lô hàng nhỏ, số lượng và thời gian giao hàng theo yêu cầu 
đột xuất của khách hàng. Khả năng đáp ứng nhanh đơn đặt hàng phụ thuộc rất 
nhiều vào mức độ trang bị phương tiện sản xuất, quy mô nhân công 
v.v…Nhưng do các doanh nghiệp may mặc Việt Nam phần lớn đều có quy 
mô vừa và nhỏ, trang bị thấp kém, ít lao động nên nhiều khi nhận được một 
hợp đồng gia công béo bở mà đành phải từ chối vì năng lực sản xuất không 
82 
đáp ứng được trong khi các doanh nghiệp may mặc Trung Quốc có quy mô 
sản xuất lớn đáp ứng rất tốt yêu cầu của khách hàng nước ngoài. 
Vì vậy, vai trò của Hiệp hội là phải thường xuyên tổ chức, xúc tiến sự 
liên kết theo chiều ngang này bằng các hình thức như: tổ chức các buổi gặp 
mặt, giới thiệu các doanh nghiệp, cùng tọa đàm giải quyết các vấn đề chung 
như giải pháp nâng cao sức cạnh tranh, giải pháp đối phó với việc bị kiện bán 
phá giá, các tiêu chuẩn chất lượng thế giới… 
3.2. Kiến nghị cơ chế, chính sách và thúc đẩy mở cửa thị trường, chống các 
biện pháp phi thuế trong thương mại quốc tế 
Là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp dệt may toàn ngành trước các 
cơ quan nhà nước và đại diện của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường 
quốc tế, Hiệp hội cần phát huy vai trò của mình và có tiếng nói mạnh mẽ 
trong việc kiến nghị cơ chế chính sách đối với nhà nước nhằm hoàn thiện môi 
trường kinh doanh tại Việt Nam và thúc đẩy mở của thị trường nhằm xây 
dựng các điều kiện thương mại quốc gia bình đẳng so với các nước khác cho 
ngành dệt may Việt Nam cũng như phản đối các biện pháp phi thuế quan hạn 
chế xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt 
động của các tổ chức quốc tế như Hiệp hội dệt may Đông Nam Á (AFTEX), 
Hiệp hội các nước xuất khẩu hàng dệt thế giới (ITCB), Hiệp hội các nhà sản 
xuất hàng may mặc thế giới (IAF), Hiệp hội các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ (USA 
ITA), v.v.. để vận động và bảo vệ quyền lợi của ngành dệt may Việt Nam 
trong thương mại quốc tế. 
Bên cạnh đó, Hiệp hội cần tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương 
mại quốc tế, chuẩn bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước 
nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các 
doanh nghiệp trong ngành để tham gia soạn thảo, đàm phán và giải quyết các 
tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng thương mại quốc tế. Điều này ngày 
83 
càng trở nên quan trọng trong tình hình những vụ kiện Việt Nam bán phá giá 
thường xuyên xảy ra như hiện nay. 
4. Các giải pháp đối với doanh nghiệp 
Doanh nghiệp chính là những chủ thể trực tiếp tham gia vào hệ thống 
sản xuất nội địa và thế giới, là người quyết định vị trí của may mặc Việt Nam 
trong chuỗi giá trị may mặc quốc tế, do vậy những giải pháp cho các doanh 
nghiệp phải thật sự cụ thể và sát thực, bám sát những định hướng của Chính 
phủ và sự chỉ đạo của các Bộ, ngành liên quan. 
4.1. Đầu tư thích đáng cho các hoạt động nghiên cứu thị trường 
Hoạt động nghiên cứu thị trường (market research) tại các doanh 
nghiệp nước ngoài được đánh giá là một trong những hoạt động quan trọng 
nhất. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, người sản xuất hiểu được quy mô 
thị trường, thị hiếu tiêu dùng và đánh giá được sự biến chuyển của thị hiếu 
trong tương lai. Nhờ có hoạt động nghiên cứu thị trường mà doanh nghiệp 
mới xác định được mặt hàng chủ lực để lên kế hoạch kinh doanh trong ngắn 
hạn và dài hạn. Việc đánh giá sai hay đánh giá chưa hết những vấn đề liên 
quan đến thị trường là nguyên nhân cơ bản của những chiến dịch bán hàng 
thất bại vì vậy hoạt động này được đầu tư một lượng kinh phí, nhân lực và 
thời gian rất lớn tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, các 
doanh nghiệp may mặc của Việt Nam do không có đủ các điều kiện cần thiết 
để nghiên cứu thị trường cả trong và ngoài nước cho nên việc tiến hành xuất 
khẩu chủ yếu là cố gắng xuất khẩu những gì mình có chứ chứ chưa có những 
biện pháp phát hiện những nhu cầu thực tế trên thị trường để có thể sản xuất 
những hàng hóa, những mẫu mã đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường. 
Các doanh nghiệp cần phải thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại 
đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…Hệ thống 
mạng thương mại cần thiết phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết 
lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời chú trọng thiết lập nhiều đầu 
84 
mối trên sân nhà của mình, đặc biệt là sử dụng các công ty luật của nước 
ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn pháp luật cho hoạt động xuất khẩu. 
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tùy theo khả năng nên tham gia các hội 
chợ thương mại quốc tế. Hội chợ cung cấp phương tiện cho một nhà sản xuất 
được triển lãm và chứng minh các đặc tính sản phẩm cho khách hàng. Hội 
chợ là cơ hội tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam giới thiệu sản phẩm của 
mình tới các một số lượng lớn các doanh nghiệp trong một khoảng thời gian 
ngắn và không gian nhỏ, thay thế rất nhiều các nỗ lực tìm kiếm bạn hàng theo 
phương pháp khác bởi tại đây, những doanh nghiệp có nhu cầu sẽ tự tìm đến 
với hội chợ, tất cả những việc doanh nghiệp Việt Nam cần làm là chuẩn bị 
một cách tốt nhất để quảng bá được thương hiệu và chất lượng sản phẩm của 
mình. Thực tế là có rất nhiều các đơn đặt hàng và hợp đồng đã được ký kết 
trong khuôn khổ các hội chợ thương mại quốc tế. 
4.2. Nâng cao các nỗ lực tiếp cận thị trường 
Yếu tố tiếp cận thị trường ngày càng trở nên quan trọng trong lĩnh vực 
xuất khẩu hàng dệt may bởi cùng một chất lượng như nhau nhưng sản phẩm 
có tiếp cận thị trường uy tín, được nhiều người tiêu dùng biết đến, có thể bán 
giá cao hơn. Hơn nữa, xu thế hội nhập còn có những đòi hỏi khắt khe hơn đối 
với tiếp cận thị trường sản phẩm như tiêu chuẩn quản lý môi trường sản xuất 
ISO-14000, tiêu chuẩn trách nhiệm với xã hội và người lao động, thương mại 
công bằng…Vì vậy, mỗi doanh nghiệp may mặc cần coi trọng việc thiết kế 
mặt hàng với mẫu mốt phù hợp. Đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị 
một phong cách và nhãn hiệu lâu dài và các bộ sưu tập theo từng mùa như 
phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hàng dệt may lớn trên 
thế giới. 
Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, tiếp cận thị trường sản 
phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty 
không những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Đối với 
85 
doanh nghiệp, tiếp cận thị trường là một công cụ để marketing hiệu quả nhất, 
đem lại nhiều lợi thế cạnh tranh: giúp khách hàng nhận thức tốt hơn, đầy đủ hơn 
về sản phẩm, dịch vụ, góp phần giành được và duy trì niềm tin của khách hàng, 
giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn, giảm thiểu các ảnh hưởng của 
đối thủ cạnh tranh, các tác động xấu trong điều kiện khủng hoảng thị trường và 
là sự đảm bảo tốt về lợi thế trong đàm phán, hợp tác kinh doanh. Tiếp cận thị 
trường mạnh còn là cơ sở để phát triển các cơ hội quảng bá và duy trì nét riêng 
và được bảo vệ về mặt pháp lý trước các hành vi xâm hại. 
4.3. Tiết kiệm chi phí, tối đa hóa hiệu quả hoạt động 
Hiệu quả là một vấn đề hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất 
của mọi doanh nghiệp, không riêng gì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 
Tuy nhiên, đối với một quốc gia chủ yếu hoạt động trong khâu sản xuất như 
Việt Nam, vấn đề tăng hiệu quả trong toàn bộ chu trình sản xuất dường như là 
tất cả đối với sự phát triển của doanh nghiệp đó, đây cũng là nội dung của 
phương pháp nâng cấp theo quy trình đã được trình bày ở trên. 
Trong khi bộ, ngành đang nỗ lực tìm các giải pháp thúc đẩy sự phát 
triển của ngành, bản thân các doanh nghiệp cũng cần tự mình tìm cách nâng 
cao sức cạnh tranh của mình bằng những những nỗ lực giảm thiểu chi phí sản 
xuất như chi phí điện, nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất, chi phí vận 
chuyển, chi phí quản lý v.v…Các chi phí này có thể được giảm bớt bằng việc 
phối hợp đồng bộ các hoạt động của dây chuyền, tận dụng tối đa năng suất 
máy móc, thiết bị, phân công lao động một cách khoa học và hợp lý. Bên cạnh 
đó, các nguồn nguyên vật liệu cũng cần được sử dụng một cách tiết kiệm và 
hiệu quả, cố gắng quay vòng tận dụng những nguyên vật liệu thừa để tạo thêm 
giá trị gia tăng và giảm bớt chi phí đầu vào. Các chi phí cố định này nếu giảm 
thiểu được có thể giúp tăng năng suất lao động lên từ 20 đến 30% so với hiện 
nay. Tiết kiệm được các khoản chi phí này cũng đồng nghĩa với việc giảm 
được chi phí sản xuất, giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận. Khoản lợi 
86 
nhuận tăng thêm này nếu được sử dụng vào những hoạt động nghiên cứu thị 
trường, phát triển sản phẩm mới, hoặc đầu tư cho công nghệ hiện đại sẽ đóng 
góp rất lớn vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và ngành dệt may 
Việt Nam nói chung. 
4.4. Chuyển đổi hình thức kinh doanh sang phương thức kinh doanh trực 
tiếp (FOB) 
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và tiến trình toàn cầu hóa 
nhanh chóng kéo theo sự thay đổi của hệ thống quản lý chuỗi cung cấp với xu 
hướng cắt giảm các công đoạn trung gian từ nhà sản xuất tới khách hàng. 
Thực tế cho thấy hầu hết các nhà nhập khẩu và công ty bán lẻ đều muốn giao 
dịch trực tiếp đặt hàng với các nhà sản xuất cuối cùng theo phương thức mua 
đứt bán đoạn. Khác với hình thức kinh doanh gia công có mẫu mã thiết kế và 
nguồn nguyên phụ liệu do khách hàng chỉ định, hình thức kinh doanh trực tiếp 
FOB cho phép các doanh nghiệp chủ động chào hàng, tìm kiếm nguồn nguyên 
liệu và do đó, giảm bớt khâu trung gian, cho phép doanh nghiệp thu được hiệu 
quả sản xuất cao hơn. Tuy nhiên, để có thể thành công theo phương thức này, 
doanh nghiệp cần phát triển đội ngũ chuyên gia bán hàng am hiểu kỹ thuật, 
nắm bắt được nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thủ tục xuất nhập khẩu và có 
khả năng đàm phán giao dịch. Doanh nghiệp cần tổ chức sản xuất và giao 
hàng đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, tránh tối đa các rủi ro bị khách hàng 
hủy bỏ đơn hàng vì thực hiện sai hợp đồng hoặc chậm giao hàng. Phương 
thức kinh doanh trực tiếp này là một hình thức tất yếu mà các doanh nghiệp 
Việt Nam cần đối mặt và làm quen để thay thế dần phương thức sản xuất gia 
công truyền thống vốn tồn tại rất nhiều hạn chế. Hình thức này một mặt làm 
tăng sự chủ động, tích cực của các doanh nghiệp Việt Nam, mặt khác nó đem 
lại lượng giá trị gia tăng nhiều hơn, phân khúc hoạt động rộng hơn hình thức 
gia công xuất khẩu, qua đó làm tăng đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp. 
87 
4.5. Cần tìm hiểu và nắm chắc các cam kết của Việt Nam trong quá trình 
hội nhập kinh tế quốc tế 
Các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính phủ liên 
quan để đảm bảo luôn có đầy đủ các thông tin cần thiết về các cam kết hội 
nhập liên quan. Ngoài ra, cơ chế này cũng rất cần thiết để các doanh nghiệp 
kịp thời thông báo cho các cơ quan chính phủ những vấn đề khó khăn trong 
quá trình hoạt động thương mại quốc tế để có biện pháp giải quyết phù hợp. 
Đặc biệt, ngoài việc thực hiện những cam kết khu vực AFTA, cam kết WTO, 
ngành dệt may cần phải theo dõi những biến động và tín hiệu từ thị trường 
Hoa Kỳ và thị trường Trung Quốc. Đây là hai thị trường lớn có ảnh hưởng 
trực tiếp đến ngành dệt may Việt Nam. 
Ngoài ra, các biện pháp bảo hộ mới liên quan đến ngành dệt may ngày 
càng trở nên khắt khe hơn, tinh vi và phức tạp hơn như: yêu cầu về dư lượng 
thuốc trừ sâu trong sợi thiên nhiên, các hóa chất cấm sử dụng trong nhuộm 
vải, in hoa…những quy định về bao bì, nhãn mác, những yêu cầu về điều kiện 
lao động tại công xưởng, xí nghiệp, tiết kiệm điện, nước, bảo vệ môi 
trường…Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải thường xuyên nắm chắc 
thông tin trên, theo dõi xu thế trong việc áp dụng điều kiện chống bán phá giá 
và bảo vệ khẩn cấp đối với hàng dệt may, từ đó chủ động phối hợp với các cơ 
quan chức năng ngăn ngừa và ứng phó với những vấn đề tranh chấp, kiện 
tụng có thể xảy ra. Đây cũng là một vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp 
Việt Nam nên lưu ý để quá trình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu được 
suôn sẻ, tránh bớt được những rắc rối và tốn kém không cần thiết. 
88 
KẾT LUẬN 
Dòng chảy bất tận của thương mại toàn cầu đang từng ngày từng giờ 
tác động vào từng ngõ ngách của mọi nền kinh tế lớn nhỏ trên thế giới, không 
riêng gì các quốc gia phát triển cao mà ngay cả những nước mới bước đầu hội 
nhập cũng không tránh được bị ảnh hưởng bởi những vận động, chuyển mình 
của nó. Các quốc gia muốn không bị lỗi nhịp trong cuộc đua tranh về kinh tế 
buộc phải tuân theo những quy luật tất yếu khách quan đang điều phối xu 
hướng phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Một trong những xu hướng phổ 
biến hiện nay đang thống lĩnh thị trường sản xuất, cung ứng của thế giới là xu 
hướng hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu. Với những lợi ích to lớn mang lại 
cho tất cả các thành viên tham gia, sự mở rộng của chuỗi giá trị dường như là 
một xu thế không thể cưỡng lại và vấn đề các nền kinh tế cần nghiên cứu hiện 
nay chỉ là làm thế nào để tham gia một cách có hiệu quả nhất vào hệ thống 
chuỗi đó. Đây quả là một bài toán khó đối với mọi quốc gia trong tình hình 
nền kinh tế thế giới đang bị chi phối bởi quá nhiều những tác nhân bên ngoài 
như chính trị, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc v.v… 
Sự hùng mạnh của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu, các công ty đa và 
xuyên quốc gia chính là yếu tố quan trọng số một đối với việc phân tích và dự 
báo xu hướng biến động cũng như những ảnh hưởng có thể phát sinh của 
chuỗi giá trị toàn cầu. Với vai trò đầu tàu, các chủ thể này đang lèo lái các 
liên kết yếu hơn là các thị trường mới phát triển, đang và chậm phát triển, 
phối hợp các liên kết đó lại tạo nên một hệ thống chuỗi hết sức tinh vi, phức 
tạp và phát huy tối đa hiệu quả chuyên môn hóa. Còn ở vị trí những quốc gia 
đi sau, sự tham gia vào cơ cấu chuỗi chính là một lối thoát cho họ khi mà nền 
kinh tế thế giới đã phát triển quá vượt bậc, tạo ra hàng loạt những rào cản gia 
nhập đối với những nền kinh tế non yếu. 
89 
Việt Nam cũng là một trong số những quốc gia hội nhập khá muộn vào 
thị trường thế giới, và cũng giống như những quốc gia đang phát triển khác, 
Việt Nam đang mang trong mình những kỳ vọng to lớn vào việc bắt kịp với 
những nền kinh tế phát triển. Dệt may, với những lợi thế so sánh sẵn có, là 
một ngành hứa hẹn nhiều cơ hội để Việt Nam nâng cao được tiềm năng kinh 
tế cũng như sức ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện 
giờ ngành vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống còn bỏ ngỏ thiếu sự đầu tư thích 
đáng. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự ý thức được mình đang 
ở đâu trong hệ thống sản xuất toàn thế giới, vẫn thiếu một sự chủ động cần 
thiết để hội nhập mà chỉ bằng lòng với vị trí của một người làm thuê cho các 
công ty lớn mạnh hơn. Mặt khác, những định hướng của Chính phủ dường 
như vẫn chưa có một tầm nhìn chiến lược và dài hơi, chưa đủ sức dẫn đường 
cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đây là những vấn đề cốt yếu đang 
gây trở ngại cho tiến trình quốc tế hóa của Việt Nam vì vậy chúng cần được 
xem xét và phân tích một cách nghiêm túc và thấu đáo. Một nỗ lực thay đổi 
ngay lúc này đây không còn là quá sớm để giúp cho ngành dệt may Việt Nam 
không trở thành kẻ thất thế trước đà tăng trưởng và tốc độ bứt phá của những 
quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Ấn Độ, Hongkong v.v… 
Đứng trước tình hình này, điều Việt Nam cần làm là khẩn trương nhìn 
nhận lại mình, đánh giá một cách nghiêm túc những mặt mạnh, mặt yếu của 
mình, lợi dụng triệt để các lợi thế so sánh mà mình có được, tích cực giảm 
thiểu các tác động bất lợi đối với sự phát triển toàn ngành dệt may nói riêng 
và nền kinh tế nói chung. Những biện pháp đưa ra cần phải được thực hiện 
nghiêm túc cùng với công tác kiểm tra, đánh giá tình hình thực tế một cách 
thường xuyên liên tục, kết hợp với các hình thức khen thưởng cũng như răn 
đe, xử phạt nghiêm khắc. Vấn đề hiệu quả phải được đặt lên hàng đầu trong 
mọi hoạt động bao gồm từ hoạt động sản xuất, cung ứng đến việc quản lý, vận 
hành. Chính phủ cũng như người quản lý, người lao động phải luôn nỗ lực đổi 
90 
mới, nâng cao năng lực sản xuất cũng như điều hành quản lý, đóng góp có 
hiệu quả vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước và công cuộc đổi mới của 
toàn xã hội. 
Thời điểm Việt Nam hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới mới 
diễn ra không lâu, trong thời gian tới nhất định những tác động nhiều mặt của 
hội nhập sẽ còn ảnh hưởng nhiều đến hướng đi và tốc độ phát triển kinh tế của 
nước ta. Bên cạnh những cơ hội có thể thấy trước mắt cũng tiểm ẩn nhiều rủi 
ro khó dự báo trước. Việt Nam có thể hội nhập trở thành một quốc gia có 
tiếng nói quan trọng và sức ảnh hưởng trên thị trường quốc tế, hay sẽ lỗi nhịp 
mãi mãi chỉ là kẻ đi sau, làm công cho những nước phát triển hơn, tất cả phụ 
thuộc vào nỗ lực trỗi dậy của mọi thành phần kinh tế vào thời điểm quan 
trọng này. 
91 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt 
1. (30/11/2005), Xu hướng phát triển công nghiệp Đông Á và vị trí của 
Việt Nam trong bản đồ công nghiệp Đông Á, trang web bộ công thương. 
2. Bộ công thương Trung tâm thông tin thương mại (9/5/2008), Tình 
hình thị trường thế giới và triển vọng, 
3. Bộ Công thương (11/1/2008), Diễn đàn thương mại và đầu tư Việt 
Nam sau khi gia nhập WTO, Hà Nội. 
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển 
khai hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đối với thương 
mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
5. Bùi Thu Thủy (2004), Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của doanh 
nghiệp nhỏ và vừa Việt nam-Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ Kinh 
tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 
6. Giản Tư Trung (6/11/2006), 80 triệu hay 8 tỷ, trang web 
www.vietbao.com 
7. Hà Linh (12/6/2007), Chuỗi cung ứng Việt Nam đang ở đâu, trang 
web www.vietbao.com 
8. Hiệp hội dệt may Việt Nam (2006), Đánh giá năng lực cạnh tranh 
của ngành dệt- may Việt Nam sau Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, 
tr 12-13. 
9. Hiệp hội dệt may Việt Nam (2007), Báo cáo đánh giá tình hình 
thương mại hàng may mặc thế giới năm 2007 và dự báo tình hình 2008. Đồng 
thời đưa ra chiến lược tìm nguồn cung cấp cho các nhà nhập khẩu, Tạp chí 
Birnbaun. 
92 
10. Lê Thị Hải Quỳnh (2005),Thâm nhập thị trường thế giới thông qua 
chuỗi giá trị toàn cầu, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 
11. Lê Thị Thu Hương (2005), Tác động của việc hết hiệu lực hiệp định 
hàng dệt may đến các nước và giải pháp đối với Việt Nam, Luận văn thạc sỹ 
Kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 
12. Michael F.Martin, Chuyên gia phân tích Kinh tế chính trị Châu Á 
các vấn đề ngoại giao, quốc phòng và thương mại, Báo cáo trước Quốc hội 
của nhóm nghiên cứu phục vụ Quốc hội (CRS) (7/10/2007), Thương mại dệt 
may giữa Mỹ với Trung Quốc và thế giới: Xu hướng kể từ khi chấm dứt quota, 
tr 6-12. 
13. Michael Martin, Chuyên gia phân tích thương mại và tài chính 
Châu Á, Hiệp hội dệt may Việt Nam (27/11/2007), Báo cáo nghiên cứu 
ngành dệt may Việt Nam của Hoa Kỳ, tr 25-29. 
14. Nguyễn Thị Thanh Lịch (2003), Vai trò của các công ty đa và 
xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới và khả năng tham gia của Việt Nam 
vào hệ thống các công ty đa và xuyên quốc gia trên thế giới, Luận văn thạc sỹ 
Kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 
15. Nguyễn Viết Lâm (4/5/2007), Tạo giá trị cho khách hàng, khởi 
nguồn cho quá trình xây dựng thương hiệu mạnh của doanh nghiệp-P3, trang 
web www.crmvietnam.com 
16. Vũ Thị Hạnh (2007), Chuỗi giá trị toàn cầu và việc tham gia của 
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học ngoại 
thương, Hà Nội.Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2006), Doanh 
nghiệp Việt Nam 2006, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr 83-85. 
17. Các trang web: www.chinhphu.vn 
 www.icra.in 
 www.globalvalue.com 
93 
Tài liệu tiếng Anh 
1. Gary Gereffi, Olga Memedovic United Nations Industrial 
Development Organization, The global apparel value chain. What prospects 
for Upgrading by Developing countries, pp 2-4. 
2. Khalid Nadvi, John Thoburn (2003), Vietnam in the global garment 
and textile value chain: implication for firms and workers. 
3. Khalid Nadvi, John Thoburn, Bui Tat Thang, Nguyen Thi Thanh Ha, 
Nguyen Thi Hoa, Dao Hong Le (2003), Challenges to Vietnamese firms in the 
world garment and textile value chain, and the implications for alleviating 
poverty, Novara, Italya. 
4. Raphael Kaplinsky, Mike Morris (2000), A handbook for value 
chain, pp 8-10. 
5. Richard P.Appelbaum, Edna Bonacich, Katie Quan (2005), The end 
of apparel quotas: A faster race to the bottom?, University of Califonia, Santa 
Barbara. 
6. Stephanie Barrientos (May 2007), Global products systems and 
Decent work, Switzerland. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4210_4142.pdf 4210_4142.pdf