Tỷ lệ tổn thương do vật sắc nhọn của ĐD bệnh viện là rất cao (92%). Vì
vậy, trước mắt chúng tôi khuyến nghị bệnh viện cần nâng cao hiệu quả của công
tác phòng chống tai nạn thương tích cho ĐD. Đặc biệt, bệnh viện cần hết sức chú
trọng đến công tác xử lý sau phơi nhiễm để đảm bảo các ĐD được xử lý và theo
dõi kịp thời sau khi bị tổn thương. Nghiên cứu này chỉ ra đa phần là các tổn
thương là do bản thân ĐD gây ra (khi lấy thuốc, khi thu dọn dụng cụ, tách kim bẩn
và vứt kim vào hộp kháng thủng) vì vậy chúng tôi khuyến nghị các đợt tập huấn
nhằm nâng cao ý thức tự bảo vệ mình trong quá trình tiêm của điều dưỡng viên
cũng cần được tổ chức.
- Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra mối liên quan chặt chẽ giữ kiến thức và
thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị bệnh
viện chú trọng đến công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức cho điều
dưỡng viên. Chúng tôi cũng đề nghị các khóa đào tạo cần tập trung hơn vào điều
dưỡng viên có trình độ đào tạo thấp vì nghiên cứu này chỉ ra mối liên quan đồng
biến giữa trình độ đào tạo và thực hành TAT.
                
              
                                            
                                
            
 
             
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình tổn thương do vật sắc nhọn, kiến thức và thực hành tiêm an toàn của Điều dưỡng viên Bệnh viện Da Liễu Trung ương năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g rút thuốc chạm 
tay vào vùng vô khuẩn, 56% lưu kim trên lọ thuốc sau khi rút. Trong tiêm, việc thực 
hiện các quy định về giữ an toàn, quan sát người bệnh chỉ đạt mức trung bình và thấp. 
Đáng chú ý, hơn một nửa (57%) số ĐD dùng tay đậy nắp kim sau khi tiêm và 47% 
phân lập kim tiêm không đúng cách, 30% sử dụng dụng cụ chứa vật sắc nhọn không 
đúng quy cách. 
Theo một số khảo sát trước đây tại Việt Nam cho thấy sự hiểu biết về ý nghĩa 
Tiêm an toàn của Điều dưỡng-Hộ sinh (ĐD-HS) là khá cao đạt 100%, gần 95% ĐD-HS 
có hiểu biết về sự cần thiết phải rửa tay trong quy trình tiêm và xác định các nguyên tắc 
vùng vô trùng khi tiêm thuốc. Trên xe có hộp chứa vật sắc nhọn và hộp thuốc chống 
sốc khi đi tiêm đạt gần 100%. Tuy nhiên còn trên 30% ĐD-HS chưa xử lý ban đầu 
đúng khi bị vật sắc nhọn đâm.Tỷ lệ rút thuốc không đủ liều như sót thuốc, phụt thuốc 
khi đuổi khí chiếm gần 12%, hơn 20% ĐD-HS còn lưu kim tiêm trên lọ sau khi rút 
thuốc, hơn 50% ĐD-HS không quan sát bệnh nhân khi tiêm. Vấn đề xử lý rác thải, vật 
sắc nhọn sau khi tiêm được ĐD-HS cô lập rất tốt đạt 100% nhưng vẫn còn 1,3% ĐD-
HS dùng tay tháo lắp kim tiêm [9]. Phần lớn nhân viên có thái độ tuân thủ rửa tay tốt 
với 63,8% cho là luôn luôn và 31,4% cho là thường xuyên rửa tay khi có cơ hội. Tuy 
nhiên thực tế chỉ có 17,6% là luôn luôn tuân thủ việc rửa tay và 13,8% thường xuyên 
thực hiện khi có cơ hội. Kết quả khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ tuân thủ rửa tay của điều 
dưỡng cao hơn bác sỹ với tỷ lệ là 60,4% so với 49,6% [13]. 
Như vậy có thể thấy, các nghiên cứu ở đã công bố ở Việt Nam đa phần tập trung 
vào mô tả thực hành TAT của điều dưỡng viên chứ chưa đi sâu mô tả mối liên quan 
Thang Long University Library
13 
giữa thực hành và kiến thức tiêm an toàn. Ngoài ra, không có nhiều nghiên cứu đề cập 
đến các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành TAT của điều dưỡng viên. 
1.4.2. Thực trạng tiêm an toàn tại một số nƣớc trên thế giới 
 Năm 2012, Bolarinwa và cộng sự tiến hành quan sát ngẫu nhiên trực tiếp thực 
hành tiêm của nhân viên y tế (điều dưỡng, bác sỹ và kỹ thuật viên) tại 30 cơ sở khám 
chữa bệnh ban đầu tại Nigeria. Kết quả cho thấy báo cáo nhân viên y tế tại 86,7% số cơ 
sở khám chữa bệnh còn đóng nắp kim sau khi tiêm, 80% không rửa tay khi tiêm và 
66,7% số cơ sở có kim tiêm vương vãi trong khuôn viên [26]. Nhóm tác giả 
Rajasekaran công bố số thương tích bình quân trong 1 năm do kim tiêm trong nhân 
viên y tế tại Ấn Độ là 23.6, tương đương với gần hai lần trong 1 tháng [23]. Tại 
Canada, Walsh và Brophy khẳng định, 84.8% ĐD không lựa chọn vị trí tiêm bắp theo 
đúng hướng dẫn. Đa phần các vị trí tiêm được chọn dựa vào kinh nghiệm và thói quen 
của người tiêm mà chưa quan tâm thích đáng đến các biến chứng có thể có cho người 
bệnh [22]. 
Khảo sát của Costigliola, Frid, Letondeur và Strauss trên 634 ĐD tại 14 quốc gia 
châu Âu như Đan Mạch, Anh, Phần Lan, Nga, Thụy Điển cho thấy 32% điều dưỡng 
viên từng bị tổn thương do kim tiêm. Hơn một nửa số trường hợp bị thương là do vật 
sắc nhọn đã nhiễm dịch thể của người bệnh. Tuy nhiên, chỉ có 2/3 số các trường hợp 
được báo cáo và xử trí phù hợp. Sau khi tiêm, vẫn còn 17% số điều dưỡng viên không 
vứt ngay bơm và kim tiêm vào hộp chứa vật sắc nhọn mà để trên khay (5,9%), đậy lại 
nắp kim (7,1%) hay vứt kim vào thùng rác (1%). 29,5% bị thương trong khi đậy lại nắp 
kim sau khi tiêm, 13% bị thương trong quá trình tiêm, 16,1% bị thương trong quá trình 
vứt bơm kim vào hộp đựng vật sắc nhọn [28]. 
Một khảo sát tại Ả rập Saudi trên điều dưỡng viên và bác sỹ cho thấy tỷ lệ hiểu 
biết về nguy cơ lây truyền HIV, HBV and HCV của qua tiêm của bác sỹ cao hơn của 
điều dưỡng. Tuy nhiên, trong thực hành, số thương tổn do kim tiêm trung bình của bác 
sỹ (là 0,21/12 tháng) và của điều dưỡng (là 0,38/12 tháng) lại không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. Đáng chú ý, hanh tỷ lệ bác sỹ thực hiện hành vi đậy lại nắp kim hay 
bẻ kim tiêm sau khi tiêm cũng như bị tổn thương do các hành vi trên cao hơn hẳn điều 
dưỡng viên (p < 0,05) [24]. 
Khảo sát trên 5449 cán bộ y tế tại Mỹ năm 2010, nhóm tác giả Pugliese và cộng 
sự cho thấy chỉ có 79,6% số người được hỏi biết đến tiêm an toàn trước khi tham gia 
phỏng vấn. 29% số nhân viên thừa nhận thỉnh thoảng hoặc thậm chí luôn luôn sử dụng 
14 
xi lanh do người khác pha thuốc chuẩn bị sẵn cho để tiêm thuốc bệnh nhân chứ không 
trực tiếp tự tay pha thuốc. 30,4% nhân viên y tế đâm kim hơn một lần vào trong lọ 
thuốc đơn liều dùng cho người bệnh, 65,6% dùng lọ thuốc đa liều cho nhiều người 
bệnh [19]. 
Trong một khảo sát gần đây tại Nigeria, 55,7% số nhân viên y tế có kiến thức 
kém, 31,1% có kiến thức tốt và chỉ có 13,1% có kiến thức rất tốt về tiêm an toàn. Tuy 
nhiên, có tới 48,4% số người được hỏi có thực hành tốt và 47,5% có thực hành rất tốt 
về tiêm an toàn. Đáng chú ý, chỉ có 4,1% nhân viên y tế có thực hành tiêm an toàn ở 
mức kém. 86,2% và 55,3% có kiến thức về nguy cơ lây nhiễm HIV và HBV liên quan 
đến tiêm không an toàn. Một số biến chứng khác của tiêm không an toàn mà nhân viên 
y tế biết như liệt (45,7%), phản ứng thuốc (42,6%), áp xe (37,2%)[29]. 
 Một số yếu tố có liên quan đến kiến thức về tiêm an toàn như tuổi (p = 0,005), 
giới (0,022) và thâm niên công tác (p < 0.000). Cụ thể, kiến thức liên quan đến tiêm an 
toàn tang dần theo tuổi và thâm niên công tác. Kiến thức của nhân viên nữ tốt hơn của 
nam. Tuy nhiên, tuổi và giới không có liên quan gì đến thực hành tiêm an toàn của 
nhân viên y tế. Ngược lại, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa năm công tác và 
số thực hành tiêm an toàn (P = 0.043). 
Phần lớn (68.9%) nhân viên y tế sử dụng găng trong quá trình tiêm nhưng chỉ có 
3.3% sử dụng thường xuyên. 78.7% rửa tay với xà phòng và nước sau khi tiếp xúc với 
người bệnh. Khi bị tổn thương, chỉ có 81,1% nhân viên y tế băng kín vết thương của 
mình trước khi tiêm cho người bệnh, 16,4% chỉ thực hiện thỉnh thoảng và 2,5% không 
bao giờ thực hiện. 23% nhân viên thừa nhận thường xuyên đậy lại nắp kim sau khi tiêm 
và 40% thỉnh thoảng thực hiện hành vi đó [29]. 
Li và cộng sự đánh giá kiến thức và thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế tại 
Trung Quốc [21]. Kết quả từ 468 nhân viên cho thấy nhân viên y tế tại tuyến thôn bản 
có kiến thức về tiêm an toàn thấp hơn hẳn nhân viên y tế ở tuyến trên (P < 0.001). Tỷ lệ 
thực hành tiêm không an toàn là 6,2%. Bốn yếu tố liên quan đến thực hành tiêm không 
an toàn là trình độ đào tạo thấp, kiến thức kém, cho rằng AIDS là bệnh không nguy 
hiểm và tin rằng người bệnh chấp nhận dùng chung bơm kim tiêm. 
Thang Long University Library
15 
CHƢƠNG 2 
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang 
2.2. Thời gian 
Nghiên cứu được thực hiện từ ngày 01/07/2012 đến 31/07/2012 
2.3. Địa điểm 
Nghiên cứu được tiến hành tại toàn bộ 4 khoa lâm sàng thuộc Bệnh viện Da Liễu 
Trung ương, bao gồm: 
 Khoa Khám bệnh 
 Khoa Điều trị các bệnh da nữ giới và trẻ em 
 Khoa Điều trị các bệnh da nam giới 
 Khoa Laser Phẫu thuật và điều trị bệnh Phong. 
2.4. Đối tƣợng nghiên cứu 
Điều dưỡng viên của 4 khoa lâm sàng tại Bệnh viện Da Liễu Trung ương. 
2.5. Tiêu chuẩn lựa chọn 
- Là nhân viên chính thức đang làm việc tại các khoa của Bệnh viện Da Liễu 
Trung ương. 
- Có làm công tác chuyên môn, tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân và thực hiện các 
thủ thuật tiêm truyền. 
2.6. Cỡ mẫu 
Tổng số điều dưỡng viên là nhân viên chính thức trực tiếp chăm sóc người bệnh 
hiện tại của bệnh viện Da Liễu Trung ương là 50. Tất cả các điều dưỡng viên này đều 
được mời tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ đồng ý tham gia nghiên cứu là 100% 
2.7. Công cụ thu thập số liệu 
Công cụ nghiên cứu là các bảng câu hỏi soạn sẵn để điều dưỡng tự trả lời, gồm 3 
16 
phần: 
2.7.1. Phần thông tin chung: bộ công cụ này do nghiên cứu viên tự thiết kế nhằm thu 
thập các thông tin cá nhân về người bệnh như tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm công 
tác, số mũi tiêm trong ngày làm việc, tình hình tai nạn thương tích, tình huống tai nạn 
thương tích do vật sắc nhọn trong năm vừa qua 
2.7.2. Phần thông tin đánh giá kiến thức tiêm của ngƣời bệnh: 
Phần này bao gồm 24 câu hỏi về kiến thức liên quan đến tiêm an toàn. Nội dung 
của các câu hỏi do nghiên cứu viên thiết kế dựa trên tài liệu hướng dẫn Tiêm an toàn 
của Bộ Y tế. Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng điền khuyết (câu 1, 6, 7), chọn 1 
trong 4 (câu 2, 3, 4, 5) và đúng/sai (câu 8-24). Điều dưỡng trả lời đúng được điểm, trả 
lời sai không được điểm. Tổng điểm kiến thức là 28 điểm (một số câu hỏi điền khuyết 
có trọng số điểm cao hơn 1: câu 1: 3 điểm, câu 6, 7: 2 điểm). Mức độ kiến thức được 
chia ra như sau: 
 Kém: 0 – 7 điểm 
 Khá: 8 – 14 điểm 
 Tốt: 15 – 21 điểm 
 Rất Tốt: 22 – 28 điểm 
2.7.3. Phần thông tin liên quan đến thực hành 
Phần này bao gồm 18 câu hỏi về các thực hành hàng ngày của điều dưỡng viên 
khi tiến hành tiêm. Nội dung câu hỏi được xây dựng dựa trên tài liệu hướng dẫn tiêm 
an toàn của Bộ Y tế. 
Để trả lời câu hỏi, điều dưỡng viên lựa chọn mức độ thường xuyên mà mình thực 
hiện hành vi nào đó, ví dụ “quan sát sắc mặt của bệnh nhân trong quá trình tiêm” hay 
“Dùng tay ấn đẩy xi lanh vào trong hộp kháng thủng khi hộp gần đầy”. Mức độ thường 
xuyên thực hiện hành vi được chia ra 5 mức độ: “không bao giờ”, “thỉnh thoảng”, 
“thường xuyên”, “rất thường xuyên” và “luôn lôn”. Với các hành vi đúng, nếu thực 
hiện “luôn luôn”, điều dưỡng sẽ được 4 điểm, không bao giờ thực hiện sẽ được 0 điểm. 
Ngược lại, với các hành vi sai, nếu thực hiện “luôn luôn”, điều dưỡng sẽ được 0 điểm 
Thang Long University Library
17 
và không bao giờ thực hiện sẽ được 4 điểm. 
Tổng điểm cho 18 câu hỏi là 72 điểm. Mức độ kiến thức được phân loại làm 4 
loại: kém, khá, tốt và rất tốt: 
 0 - 18: Kém 
 19 – 36: Khá 
 37 – 54: Tốt 
 55 – 72: Rất tốt 
- Căn cứ theo định nghĩa tiêm an toàn, 18 câu hỏi của phần thực hành được xây 
dựng làm 2 phần: 1) nội dung thực hành giữ an toàn cho người bệnh (8 câu) và 2) nội 
dung thực hành giữ an toàn cho bản thân và cộng đồng (10 câu). 
 Các thực hành giữ an toàn cho người bệnh gồm 8 câu. Điểm tối thiểu: 0 điểm 
và điểm tối đa là 32 điểm. Phân loại thực hành theo mức độ điểm như sau: 
0 - 8: Kém 
9 – 16: Khá 
17 – 24: Tốt 
25 – 32: Rất tốt 
 Các thực hành giữ an toàn cho bản thân và cộng đồng bao gồm 10 câu. Điểm 
tối thiểu là 0 điểm và điểm tối đa là 40 điểm. Phân loại thực hành theo mức độ điểm 
như sau: 
0 – 10: Kém 
11 – 20: Khá 
21 – 30: Tốt 
31 – 40: Rất tốt 
18 
2.8 Biến số: 
STT Tên biến Định nghĩa Loại biến 
1 Kiến thức về tiêm 
an toàn 
Là hiểu biết của điều dưỡng viên về các 
nội dung liên quan đến tiêm an toàn 
Liên tục 
2 Thực hành về tiêm 
an toàn 
Là mức độ thường xuyên của các thực 
hành theo hướng dẫn tiêm an toàn của 
Bộ y tế mà điều dưỡng viên thực hiện 
trước, trong, và sau quá trình tiêm 
Liên tục 
3 Thực hành tiêm an 
toàn cho người 
bệnh 
Là mức độ thường xuyên của các thực 
hành nhằm giữ an toàn cho người bệnh 
theo hướng dẫn tiêm an toàn của Bộ y tế 
mà điều dưỡng viên thực hiện trước, 
trong, và sau quá trình tiêm 
Liên tục 
4 Thực hành tiêm an 
toàn cho bản thân 
và cộng đồng 
Là mức độ thường xuyên của các thực 
hành nhằm giữ an toàn cho bản thân và 
cộng đồng theo hướng dẫn tiêm an toàn 
của Bộ y tế mà điều dưỡng viên thực 
hiện trước, trong, và sau quá trình tiêm 
Liên tục 
5 Tổn thương do vật 
sắc nhọn 
Là số lần và tình huống tổn thương của 
điều dưỡng viên do vật sắc nhọn liên 
quan đến tiêm gây ra trước, trong và sau 
quá trình tiêm. 
Liên tục (số lần tổn 
thương) 
Phân loại (tình 
huống tổn thương, 
vật gây tổn thương) 
6 Thâm niên công 
tác 
Là thời gian điều dưỡng viên làm việc 
trong lâm sàng tính từ khi tốt nghiệp 
Liên tục 
7 Trình độ đào tạo Là trình độ bằng điều dưỡng cao nhất mà 
điều dưỡng viên đạt được, gồm: sau đại 
học, đại học, cao đẳng, và trung học 
Thứ hạng 
8 Số lần và thời gian 
được tập huấn về 
tiêm an toàn 
Là số lần và tổng thời giant ham dự các 
khóa tập huấn chính thức về tiêm an toàn 
mà điều dưỡng viên đã được tham gia 
Liên tục 
Thang Long University Library
19 
2.9. Phƣơng pháp thu thập số liệu 
Phỏng vấn gián tiếp: nhân viên trong mẫu nghiên cứu được phát và tự điền vào 
bản đánh giá kiến thức và thực hành tiêm an toàn. Nghiên cứu viên là người duy nhất 
đi thu thập số liệu. Quy trình thu thập số liệu như sau: 
- Nghiên cứu viên liên hệ với các khoa để sắp xếp lịch phỏng vấn. Mỗi khoa được 
phỏng vấn trong một ngày. 
- Phỏng vấn được tiến hành sau buổi giao ban buổi sáng tại các khoa. Sau khi kết 
thúc giao ban, các điều dưỡng viên được mời ở lại để tiến hành phỏng vấn. 
- Nghiên cứu viên giới thiệu mục đích tiêu cứu, khẳng định các thông tin nhận 
diện cá nhân và khoa phòng của điều dưỡng đều được giữ kín, và mời các điều dưỡng 
viên tham gia nghiên cứu. 
- Các điều dưỡng đồng ý tham gia nghiên cứu được sắp xếp chỗ ngồi cách xa phù 
hợp trong quá trình trả lời câu hỏi. 
- Nghiên cứu viên phát bộ câu hỏi và giành 15phút để các điều dưỡng viên trả lời. 
Nghiên cứu viên có mặt liên tục trong phòng để đảm bảo các điều dưỡng viên không 
bàn bạc trao đổi khi trả lời câu hỏi. 
- Kết thúc thời gian trả lời, nghiên cứu viên thu lại các bộ câu hỏi, kiểm tra lại để 
đảm bảo các thông tin cần thiết được điền đầy đủ và hoàn thành quá trình thu thập số 
liệu tại khoa đó. 
2.10. Các sai số có thể có và cách khắc phục: 
- Sai số nhớ lại: nghiên cứu hỏi điều dưỡng viên về tai nạn thương tích trong năm 
vừa qua. Kết quả thu được có thể sai lạc do điều dưỡng viên nhớ không chính xác về số 
lần, tình huống xảy ra tai nạn. 
Cách khắc phục: Nghiên cứu viên giành thời gian thích hợp, giữ trật tự phòng 
phỏng vấn để điều dưỡng tập trung nhớ lại chính xác các tai nạn đã xảy ra. 
- Sai số ảnh hưởng của vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu đánh giá về vấn đề thực 
hành chuyên môn nên điều dưỡng viên có thể có căng thẳng hoặc trả lời không đúng 
với thực hành hàng ngày của mình. 
20 
Cách khắc phục: Nghiên cứu viên khẳng định trước khi thu thập số liệu với các 
điều dưỡng viên tham gia nghiên cứu rằng kết quả nghiên cứu không nhằm đánh giá thi 
đua, xếp hạng thực hành của điều dưỡng viên cũng như khoa phòng. Kết quả nghiên 
cứu đều được báo cáo chung theo nhóm, nghiên cứu không thu thập thông tin nhận 
diện cá nhân của điều dưỡng. 
Nghiên cứu viên sắp xếp các điều dưỡng viên ngồi cách xa nhau trong quá trình 
trả lời bộ câu hỏi để đảm bảo điều dưỡng viên hoàn toàn thấy thoải mái và an toàn 
trong quá trình trả lời. 
- Sai số do điều dưỡng viên thảo luận, trao đổi trong quá trình trả lời phần nội 
dung kiến thức về tiêm an toàn: điều dưỡng viên có thể trao đổi, thảo luận về câu trả lời 
liên quan đến phần kiến thức tiêm an toàn dẫn đến kết quả đánh giá không phản ánh 
thực tế kiến thức của người trả lời. 
Cách khắc phục: Nghiên cứu viên sắp xếp các điều dưỡng viên ngồi cách xa nhau 
phù hợp trong quá trình trả lời. Nghiên cứu viên có mặt trong phòng suốt thời gian các 
điều dưỡng viên trả lời để đảm bảo giữ trật tự. 
2.11. Phƣơng pháp xử lý số liệu 
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS. Thống kê mô tả (giá trị trung 
bình, phương sai, tỷ lệ phần trăm) được sử dụng để mô tả đặc điểm nhóm nghiên cứu 
và các biến số. Hệ số tương quan (Spearman’s Rho) được sử dụng để đánh giá mối liên 
quan giữa các biến số. Mức ý nghĩa thống kê sử dụng là 0.05 
2.12. Đạo đức trong nghiên cứu 
- Nghiên cứu được tiến hành dưới sự cho phép của Khoa Điều dưỡng – Trường 
đại học Thăng Long và Viện Da liễu trung ương. 
- Các điều dưỡng viên được quyền từ chối tham gia nghiên cứu hoặc dừng trả lời 
các câu hỏi của nghiên cứu mà không cần giải thích lý do. 
- Tất cả các thông tin thu thập được chỉ được sử dụng cho mục đích của nghiên 
cứu này. Mọi thông tin nhận diện cá nhân người trả lời đều được bảo vệ và giữ kín. Chỉ 
nghiên cứu viên và giảng viên hướng dẫn được tiếp cận với phiếu trả lời và các dữ liệu 
liên quan. 
Thang Long University Library
21 
CHƢƠNG 3 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Khảo sát của tôi được tiến hành từ ngày 01/07/2012 đến ngày 31/07/2012 tại 4 
khoa lâm sàng của Bệnh viện Da Liễu Trung ương bao gồm: Khoa Khám bệnh, Khoa 
Điều trị các bệnh da nữ giới và trẻ em (Khoa D2), Khoa Điều trị các bệnh da nam giới ( 
Khoa D3), Khoa Laser Phẫu thuật và điều trị bệnh Phong ( Khoa D1). Tổng cộng tất cả 
có 50 Điều dưỡng được chọn vào trong nghiên cứu. Tỉ lệ chấp nhận trả lời phỏng vấn 
là 100%. 
3.1. Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu: 
3.1.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu: 
Bảng 3.1: Đặc điểm của nhóm nghiên cứu 
Biến số Số lƣợng (n) Tỷ lệ (%) 
Khoa 
Khoa D1 13 26,0 
Khoa D2 15 30,0 
Khoa D3 13 26,0 
Khoa KB 9 18,0 
 Giới tính 
Nữ 41 82,0 
Nam 9 18,0 
Tuổi 
20 – 30 29 58,0 
31 – 40 9 18,0 
41 – 50 6 12,0 
51 – 60 6 12,0 
 Trình độ 
Trung học 41 82,0 
Cao đẳng 4 8,0 
Đại học 5 10,0 
Thâm niên 
công tác 
≤ 5 năm 25 50,0 
5 – ≤ 10 năm 8 16,0 
10 – ≤ 15 năm 4 8,0 
15 - ≤ 20 năm 2 4,0 
> 20 năm 11 22,0 
22 
Nhận xét: 
- Tổng số ĐD trong mẫu nghiên cứu là 50, trong đó Khoa khám bệnh gồm 9 nhân 
viên chiếm 18%, Khoa Laser Phẫu thuật và điều trị bệnh phong gồm 13 nhân viên 
chiếm 26%, Khoa điều trị các bệnh da nữ giới và trẻ em gồm 15 nhân viên chiếm 30%, 
Khoa điều trị các bệnh da nam giới gồm 13 nhân viên chiếm 26%. 
- ĐD nữ giới có 41 người, nam giới có 9 người như vậy nữ giới gần gấp 5 lần 
nam giới (82% ở nữ so với 18% ở nam). 
- Về tuổi tác khoảng từ 23 – 60 tuổi, trong đó lứa tuổi từ 20-30 có 29 người chiếm 
58%, từ 31-40 có 9 người chiếm 18%, từ 41-50 và 51-60 đều có 6 người và cùng chiếm 
12%. Như vậy lứa tuổi từ 20-30 chiếm trên 50% tổng số điều dường trong nghiên cứu 
này. 
- Về trình độ chuyên môn của ĐD phần lớn là Điều dưỡng trung học (n=41, 
chiếm 82%), Điều dưỡng cao đẳng chiếm 8% (n=4) và có 5 Cử nhân Điều dưỡng ( 
chiếm 10%). 
- Về thâm niên công tác tại Bệnh viện Da Liễu Trung ương, thâm niên của ĐD 
ĐD dưới 5 năm chiếm tỉ lệ cao nhất 50% ( n=25), thâm niên trên 20 năm chiếm 22% ( 
n=11). 
3.1.2. Số mũi tiêm trong ngày và trong 1 ca trực đêm 
Bảng 3.2: Số mũi tiêm trong ngày và trong 1 ca trực đêm (n=50) 
Biến số 
Giá trị 
trung bình 
SD Khoảng 
Số lượng 
(n) 
Tỷ lệ 
(%) 
Số mũi 
tiêm trong 
ngày 
 23,82 18,29 0-60 
≤ 10mũi 14 28,0 
11 – 20mũi 11 22,0 
21 – 30mũi 9 18,0 
31 – 40mũi 10 20,0 
≥ 41 mũi 6 12,0 
Số mũi tiêm trong 1 ca 
trực đêm 
3,64 1,65 0-8 
Thang Long University Library
23 
Nhận xét: 
- Số mũi tiêm trong ngày một ĐD cần thực hiện trung bình là 23,82 mũi 
tiêm/ngày làm việc, trong đó ĐD tiêm dưới 10 mũi tiêm/ngày có 14 người ( chiếm 
28%), tiêm 31-40mũi/ngày có 10 người chiếm 20% và, đáng chú ý là có 6 người phải 
tiêm trên 41 mũi tiêm/ngày (12%). 
- Số mũi tiêm trong 1 ca trực đêm của ĐD trung bình là 3,64 mũi tiêm/ca trực 
đêm. 
3.1.3. Thực trạng cung cấp kiến thức tiêm an toàn tại BV Da Liễu TƢ 
Bảng 3.3: Tình hình tập huấn về tiêm an toàn của Điều dƣỡng 
Biếnsố Số lƣợng (n) Tỷlệ (%) 
Đƣợc tập huấn về 
tiêm an toàn 
Chưa từng 3 6,0 
Đã từng 47 94,0 
 1 lần 17 34,0 
2 lần 14 28,0 
3 lần 14 28,0 
4 lần 2 4,0 
Thời gian đƣợc tập huấn (n = 47) 
1 ngày 29 58,0 
2 ngày 16 32,0 
3 ngày 2 4,0 
Nhận xét: 
- Trong tổng số 50 ĐD tham gia nghiên cứu có 3 ĐD chưa từng tham gia tập huấn 
về tiêm an toàn chiếm 6,0%. 47 ĐD đã từng tham gia tập huấn (chiếm 94%) trong đó 
có 17 ĐD được tham gia tập huấn 1 lần chiếm 34%, và chỉ có 4% số ĐD được tập huấn 
4 lần ( n=2). 
- Thời gian tập huấn gồm nhiều nhóm bao gồm tập huấn 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày. 
Trong đó số ĐD được tham gia tập huấn 1 ngày là chủ yếu chiếm 58% (n=29), tập 
huấn 2 ngày có 16 người ( chiếm 32%) và số ĐD được tham gia tập huấn 3 ngày chỉ có 
2 người chiếm 4%. 
24 
3.2. Tình hình tổn thƣơng do vật sắc nhọn khi tiêm của Điều dƣỡng trong năm 
2012. 
3.2.1. Tỷ lệ thƣơng tích do vật sắc nhọn khi tiêm 
Bảng 3.4: Tỷ lệ thƣơng tích do vật sắc nhọn khi tiêm trong năm vừa qua (n=50) 
Biến số Số lượng (n) Tỷ lệ (%) 
Không bị thương do vật sắc nhọn 4 8,0 
Có bị thương do vật sắc nhọn 46 92,0 
Nhận xét: 
Trong năm vừa qua tỷ lệ ĐD không bị thương do vật sắc nhọn chiếm 8,0% (n=4). 
46 người đã từng bị thương do vật sắc nhọn (chiếm 92,0%). 
Bảng 3.5: Số lần bị thƣơng trong quá trình tiêm trong năm vừa qua (n=46) 
Giá trị 
trung bình 
S
D 
Khoảng Số lƣợng (n) 
Tỷlệ 
(%) 
Sốlần 7.1 .8 0 -25 
≤ 5 20 43,5 
6 – 10 14 30.4 
11 – 15 6 13,0 
16 – 20 4 8,7 
> 20 2 4,4 
Nhận xét: 
- Số lượng ĐD bị thương ít hơn 5 lần trong năm vừa qua chiếm 43,5% (n=20), từ 
6-10 lần chiếm 30,4% (n=14). Có 4,4% số người được hỏi cho biết đã bị thương trên 
20 lần (n=2). 
3.2.2. Vật gây thƣơng tích trong quá trình tiêm 
Bảng 3.6: Vật gây thƣơng tích liên quan đến tiêm 
Vật gây thƣơng tích Số lần gây thƣơng tích Tỷ lệ (%) 
Do kim vô khuẩn 108 30,6 
Do kim nhiễm 28 7,9 
Do vỏ thuốc/lọ nước cất 217 61,5 
Thang Long University Library
25 
Nhận xét: 
Trong tổng số thương tích được báo cáo, số lần gây thương tích do kim vô khuẩn 
là 108 lần ( 30,6%), do kim nhiễm là 28 lần (7,9%) và nhiều nhất là do vỏ thuốc/lọ 
nước cất là 217 lần (61,5%). 
Bảng 3.7: Số điều dƣỡng bị thƣơng do kim vô khuẩn (n=50) 
Số lần bị thƣơng Số điều dƣỡng viên bị thƣơng Tỷ lệ (%) 
Khôngbị 9 18,0 
Bị* 41 82,0 
1 lần 13 26,0 
2 lần 11 22,0 
3 lần 6 12,0 
4 lần 1 2,0 
≥ 5 lầntrởlên 10 20,0 
Người bị ít nhất: 1 lần, người bị nhiều nhất: 6 lần 
Nhận xét: 
- Với tổng số 50 ĐD tham gia nghiên cứu thì năm vừa qua số lượng ĐD bị 
thương do kim vô khuẩn chiếm 82% (n=41) còn số ĐD không bị thương chỉ chiếm 
18% (n=9). 
- Trong số 41 ĐD bị thương do kim vô khuẩn thì có 13 ĐD chỉ bị thương 1 lần 
(26%), bị thương 2 lần chiếm 22% và trên 5 lần chiếm 20% (n=10). 
Bảng 3.8: Số điều dƣỡng bị thƣơng do kim nhiễm (n=50) 
Số lần bị thƣơng Số điều dƣỡng viên bị thƣơng Tỷlệ (%) 
Khôngbị 32 64,0 
Bị 18 36,0 
1 lần 11 22,0 
2 lần 4 8,0 
3 lần 3 6,0 
Nhận xét: 
- ĐD không bị thương do kim nhiễm chiếm 64,0% (n=32) và ĐD bị thương do 
kim nhiễm chiếm 36,0% (n=18). 
26 
- Trong số 18 ĐD bị thương do kim nhiễm trong năm vừa qua thì có 11 ĐD ĐD 
bị thương 1 lần chiếm 22%, bị thương 2 lần có 4 ĐD (8,0%) và bị thương 3 lần có 3 
ĐD ( 6,0%). 
Bảng 3.9: Số điều dƣỡng bị thƣơng do vỏ lọ thuốc, lọ nƣớc cất (n=50) 
Số lần bị thƣơng Số điều dƣỡng bị thƣơng Tỷ lệ (%) 
Khôngbị 6 12.0 
Bị* 44 88,0 
1 7 14.0 
2 8 16.0 
3 4 8.0 
5 14 28.0 
≥ 6 lần 11 22,0 
* Người bị ít nhất: 1 lần, người bị nhiều nhất: 20 lần. 
Nhận xét: 
- Số ĐD không bị thương do vỏ lọ thuốc, lọ nước cất chiếm 12,0% (n=6). 
- Số ĐD bị thương do vỏ lọ thuốc, lọ nước cất chiếm 88,0% (n=44), trong đó ĐD 
ĐD bị thương 1 lần có 7 người ( 14,0%), bị thương 2 lần có 8 người (16,0%), bị 
thương 5 lần có 14 người (28,0%) và bị thương trên 6 lần có 11 người (22,0%). 
Bảng 3.10: Tình huống bị thƣơng 
Tình huống bị thƣơng 
Số điều dƣỡng 
bị thƣơng (n) 
Tỷlệ 
(n/46)* 
Khi lấy thuốc 45 97,8 
Khi đâm, rút kim ra khỏi người bệnh nhân 14 30,4 
Khi tách kim bẩn ra khỏi xi lanh để vứt vào hộp kháng 
thủng 
10 21,7 
Khi vứt kim, xi lanh vàohộp kháng thủng 10 21,7 
Khi thu dọn, vệ sinh dụng cụ 34 73,9 
 * Số điều dưỡng viên bị thương: 46 (theo bảng 4) 
Nhận xét: 
- Trong tổng số 46 ĐD bị thương trong năm vừa qua thì số ĐD bị thương trong 
khi lấy thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất là 97,8% ( n=45), bị thương trong khi thu dọn vệ 
sinh dụng cụ chiếm 73,9% (n=34) , khi đâm rút kim ra khỏi người bệnh nhân là 30,4% 
Thang Long University Library
27 
(n=14), khi tách kim bẩn ra khỏi xilanh và khi vứt kim xilanh vào hộp kháng thủng 
cùng chiếm 21,7% (n=10). 
3.3. Kiến thức và thực hành tiêm an toàn của Điều dƣỡng viên Bệnh viện Da Liễu 
Trung Ƣơng 
Bảng 3.11. Kiến thức về tiêm an toàn (n = 50) 
Điểm trung bình chung về kiến thức: 18,3 ± 3,6 (khoảng: 9 – 25 điểm) 
Xếp loại Số điều dƣỡng viên Tỷ lệ phần trăm 
Kém 0 0 
Khá 8 16.0 
Tốt 36 72.0 
Rất tốt 6 12.0 
Tổng 50 100 
Nhận xét: 
Kết quả đánh giá chung cho thấy các ĐD có kiến thức tốt về tiêm an toàn với 
điểm trung bình kiến thức là 18,3 ± 3,6. Đáng chú ý, không có ĐD nào có kiến thức 
kém, trong khi có 6 (12%) ĐD có kiến thức rất tốt về tiêm an toàn. 
Bảng 3.12. Điểm tổng thực hành tiêm an toàn 
Điểm trung bình chung về thực hành tiêm an toàn: 46,6 ± 6,5, khoảng: 28 – 35 điểm 
Xếp loại Số điều dƣỡng viên Tỷ lệ phần trăm 
Kém (0 – 18) 0 0 
Khá (19 – 36) 2 4,0 
Tốt (37 – 54) 41 82,0 
Rất tốt (55 – 72) 7 14,0 
Tổng 50 100 
Nhận xét: 
Kết quả đánh giá chung về thực hành cho thấy ĐD có thực hành tiêm an toàn tốt 
(điểm trung bình: 46,6 ± 6,5). Bảng 12 cho thấy, không có ĐD nào có thực hành kém; 
82% số ĐD có thực hành tiêm an toàn tốt và 14% thực hành tiêm an toàn rất tốt. 
28 
Các bảng 13, 14 sau đây trình bày thực hành tiêm an toàn của ĐD ở các nội dung 
giữ an toàn cho người bệnh, cho bản thân và cộng đồng. 
Bảng 3.13. Điểm thực hành tiêm an toàn cho ngƣời bệnh 
Điểm trung bình chung: 23,4 ± 3,3, khoảng 14 – 30 điểm. 
Xếp loại Số điều dƣỡng viên Tỷ lệ phần trăm 
Kém (0 – 8 điểm) 0 0 
Khá (9 – 16) 1 2,0 
Tốt (17 – 24) 29 58,0 
Rất tốt (25 – 32) 20 40,0 
Tổng 50 100 
Nhận xét: 
Thực hành tiêm an toàn trên phương diện giữ an toàn cho người bệnh của ĐD 
ĐDrất tốt, điểm trung bình chung là 23,4 ± 3,3. 58% có thực hành tốt và 40% có thực 
hành rất tốt. 
Bảng 3.14. Điểm thực hành tiêm an toàn cho bản thân và cộng đồng 
Điểm trung bình chung thực hành tiêm an toàn cho bản thân và cộng đồng: 25,8 
 5,4, khoảng: 14 – 38 điểm 
Xếp loại Số điều dƣỡng viên Tỷ lệ phần trăm 
Kém (0 – 10) 0 0 
Khá (11 – 20) 9 18,0 
Tốt (21 – 30) 28 56,0 
Rất tốt (31 - 40) 13 26.0 
Tổng 50 100 
Nhận xét 
ĐD có thực hành tốt ở nội dung bảo đảm an toàn cho bản thân và cộng đồng. 26% 
có thực hành rất tốt. Tuy nhiên, có 09 ĐD (18%) có thực hành được xếp vào loại khá. 
3.4. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành tiêm an toàn và một số yếu tố của 
Điều dƣỡng 
Thang Long University Library
29 
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa kiến thức, thực hành tiên an toàn (TAT) và một số yếu tố (Spearman Rho’ test) 
* p < 0,05; ** p < 0,01 
Kiến 
thức về 
TAT 
Thực 
hành 
TAT nói 
chung 
Thực 
hành TAT 
cho người 
bệnh 
Thực 
hành 
TAT cho 
bản thân 
và cộng 
đồng 
Số mũi 
tiêm 
trong 
ngày làm 
việc 
Số mũi 
tiêm 
trong 
một 
đêm 
trực 
Số 
thương 
tích do 
vật sắc 
nhọn 
Thâm 
niên 
công 
tác 
Tổng 
thời gian 
được tập 
huấn về 
TAT 
Số lần 
được 
tập 
huấn 
về 
TAT 
Trình 
độ đào 
tạo 
Kiến thức về TAT 1,0 
Thực hành TAT nói chung 0,42** 1,0 
Thực hành tiêm an toàn cho 
người bệnh 
0,25 0,80
**
 1.0 
Thực hành TAT cho bản 
thân và cộng đồng 
0,49
**
 0,82
**
 0,38
**
 1,0 
Số mũi tiêm trong ngày làm 
việc 
0,06 -0,39
**
 -0,39
**
 -0,25 1,0 
Số mũi tiêm trong một đêm 
trực 
-0,16 -0,45
**
 -0,39
**
 - 0,32
*
 0,47
**
 1,0 
Số thương tích do vật sắc 
nhọn 
0,09 -0,20 -0,29
*
 -0,02 0,67
**
 0,52
**
 1,0 
Thâm niên công tác 0,19 0,15 0,09 0,12 -0,29
*
 -0,42
**
 -0,15 1,0 
Tổng thời gian được tập 
huấn về TAT 
0,23 0,11 -0,008 0,15 - 0,17 -0,34
*
 -0,10 0,75
**
 1,0 
Số lần được tập huấn về 
TAT 
0,25 0,15 0,06 0,13 -0.17 -.425
**
 -0.17 0,81
**
 0,88
**
 1,0 
Trình độ đào tạo 0,26 0,28* 0,17 0,27 0,12 -0,04 -0,09 0,05 0,21 .10 1,0 
30 
Nhận xét: 
Bảng 15 cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa kiến thức và thực hành TAT (r 
= 0,42, p < 0,01). Số mũi tiêm liên quan nghịch biến với thực hành TAT chung (r 
= - 0,39, p < 0,01) và an toàn cho người bệnh (r = - 0,39, p < 0,01) nhưng không 
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê nào với thực hành an toàn cho bản thân và 
cộng đồng. Đáng chú ý, không tìm thấy mối liên quan nào giữa số lần được tập 
huấn cũng như tổng thời gian được tập huấn với kiến thức và thực hành TAT 
nhưng trình độ đào tạo liên quan đồng biến với thực hành TAT chung của ĐD (r = 
0,28, p < 0,01). 
Thang Long University Library
31 
CHƢƠNG 4 
BÀN LUẬN 
4.1. Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu: 
Nghiên cứu được tiến hành với 50 ĐD tại toàn bộ 4 khoa lâm sàng thuộc 
Bệnh viện Da Liễu Trung ương, bao gồm: 
 Khoa Khám bệnh 
 Khoa Điều trị các bệnh da nữ giới và trẻ em 
 Khoa Điều trị các bệnh da nam giới 
 Khoa Laser Phẫu thuật và điều trị bệnh Phong. 
Trong đó tỷ lệ Điều dưỡng nữ giới gần gấp 5 lần nam giới ( 82% nữ giới so 
với 18% ở nam giới). Điều này phù hợp với tình hình nhân sự ở đa số các bệnh 
viện và nhân lực ở bệnh viện Da liễu Trung ương. Phần lớn là nhân lực trẻ nên 
thâm niên công tác dưới 5 năm chiếm tỷ lệ khá cao 50%. 
Về trình độ chuyên môn của Điều dưỡng, phần lớn là ĐD trung học (n=41) 
chiếm 82% và có 5 ĐD đại học chiếm 10%. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình 
hình nhân lực của bệnh viện Da liễu Trung ương. ĐD làm công tác chuyên môn tại 
các khoa đa số là ĐD trung học. Viện có 5 cử nhân Điều dưỡng nhưng đa số là ĐD 
trẻ có thâm niên công tác dưới 5 năm. 
Số mũi tiêm trong ngày ĐD cần thực hiện trung bình là 23,82 mũi tiêm/ngày 
làm việc là con số quá lớn về nguy cơ cho người bệnh, điều dưỡng và cộng đồng. 
Theo nghiên cứu của Hội ĐD Việt Nam thực hiện tại 8 BV điểm các tỉnh phía Bắc 
trung bình có 10 mũi tiêm/ĐD/ngày. Người bệnh được tiêm 2-3 mũi tiêm/ ngày 
chiếm tới 47%, 26% số người bệnh được tiêm 4-5 mũi/ngày và có 6,3% số người 
bệnh tiêm tới 5 mũi/ngày [11]. Kết quả này không thực sự đáng ngạc nhiên khi đối 
chiếu với tình trạng quá tải và thiếu số lượng điều dưỡng viên như hiện nay tại 
bệnh viện Da liệu trung ương. Rõ ràng, với 50 ĐD lâm sàng phân bổ cho 110 
giường bệnh và phòng khám, nếu trừ đi số nhân viên ra trực, số lượng điều tỷ lệ 
điều dưỡng viên/bệnh nhân là rất nhỏ. Ngoài ra, thực tế lâm sàng cho thấy, số 
lượng thuốc tiêm được các bác sỹ kê cho bệnh nhân là rất lớn. Rất có thể, các yếu 
32 
tố trên đây góp phần làm cho số lượng mũi tiêm trong một ngày làm việc của điều 
dưỡng viên rất cao. Chúng tôi cho rằng, số lượng mũi tiêm cần phải được hạn chế. 
Theo WHO, 70% số lượng mũi tiêm được kê là không cần thiết vì có thể được 
thay bằng thuốc uống [25]. Rõ ràng là, việc các bác sỹ hạn chế số lượng mũi tiêm 
sẽ giúp tiết kiệm chi phí điều trị, vật tư tiêu hao, giảm bớt nguy cơ phơi nhiễm cho 
cả người tiêm lẫn bệnh nhân. 
Trong tổng số 50 ĐD tham gia nghiên cứu có 3 Điều dưỡng chưa từng tham 
gia tập huấn về TAT chiếm 6,0%. 47 ĐD đã từng tham gia tập huấn (chiếm 94%) 
trong đó có 17 ĐD được tham gia tập huấn 1 lần chiếm 34%, và 28% số ĐD được 
tập huấn 2 lần ( n=14). Đây là con số thống kê phù hợp với kết quả của công tác 
đánh giá TAT tại Bv Hà Đông năm 2012 là 91,7% đã được tập huấn, có 26% đã 
tập huấn 2 lần [12]. Như vậy công tác tập huấn về TAT đã và đang được thực hiện 
tốt trong toàn ngành Y tế. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy, người có 
tổng thời gian lâu nhất được học về TAT mới chỉ được tập huấn trong 02 ngày. Vì 
vậy, chúng tôi cho rằng công tác tập huấn và đào tạo liên tục về TAT cần phải 
được liên tục thực hiện. 
4.2. Tình hình tổn thƣơng do vật sắc nhọn khi tiêm của Điều dƣỡng trong 
năm 2012. 
Trong số 50 ĐD tham gia nghiên cứu có tới 46 người chiếm 92% người đã 
từng bị thương do vật sắc nhọn, trong đó có 43,5% người đã từng bị chấn thương 
dưới 5 lần. Như vậy, cứ 10 điều dưỡng viên thì có 9 ĐD tại bệnh viện Da liễu 
trung ương bị tổn thương do vật sắc nhọn liên quan đến tiêm trong năm vừa qua. 
Con số này cao hơn rất nhiều lần so với báo cáo của Phan Văn Tường và các cộng 
sự tại bệnh viện Hà Đông. Theo đó, số Điều dưỡng viên đã từng bị chấn thương 
chỉ chiếm 37,6%, có 36.6% người đã từng bị chấn thương tới 2-3 lần [12]. Đây là 
thực tế rất đáng báo động. Mặc dù do đặc thù, bệnh nhân điều trị tại bệnh viện là 
các bệnh nhân mắc bệnh ngoài da là chủ yếu. Tỷ lệ bệnh truyền nhiễm có thể thấp 
hơn so với các đơn vị khác. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, lãnh đạo bệnh viện rất 
Thang Long University Library
33 
cần quan tâm đến thực trạng tổn thương do vật sắc nhọn liên quan đến tiêm vì vì 
đó là nguy cơ tổn hại sức khỏe rất lớn đến điều dưỡng viên. 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận số tổn thương trung bình do vật sắc nhọn 
liên quan đến tiêm trong năm vừa qua ở các ĐD là 7.1 lần. Nguyên nhân thương 
tích chủ yếu là do vỏ lọ thuốc/lọ nước cất, chiếm 61,5%. So sánh với nghiên cứu ở 
nước ngoài mà chúng tôi tìm thấy, số lần tổn thương của ĐD ở bệnh viện da liễu 
trung ương ít hơn khá nhiều. Nhóm tác giả Rajasekaran công bố số thương tích 
bình quân trong 1 năm do kim tiêm trong nhân viên y tế tại Ấn Độ là 23.6, tương 
đương với gần hai lần trong 1 tháng [23]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Rajasekaran 
và cộng sự tiến hành tại nhiều bệnh viện, bao gồm cả các cơ sở khám chữa bệnh 
ban đầu. Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại 01 bệnh viện và là bệnh viện 
tuyến trung ương. Có thể thấy, nhóm nghiên cứu của nghiên cứu này đồng nhất và 
có năng lực tốt, kiến thức và thực hành cập nhật do được làm việc ở tuyền trung 
ương. Chúng tôi cho rằng sự khác biệt về địa điểm và đối tượng nghiên cứu là lý 
do dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về số lượng thương tích hàng năm giữa nghiên 
cứu này và nghiên cứu của Rajasekaran. 
Trong tổng số 46 ĐD bị thương trong năm vừa qua thì số ĐD bị thương 
trong khi lấy thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất là 97,8% ( n=45), bị thương trong khi thu 
dọn vệ sinh dụng cụ chiếm 73,9% (n=34) , khi đâm rút kim ra khỏi người bệnh 
nhân là 30,4% (n=14), khi tách kim bẩn ra khỏi xilanh và khi vứt kim xilanh vào 
hộp kháng thủng cùng chiếm 21,7% (n=10). Theo báo cáo đánh giá của Phạm Đức 
Mục và các cộng sự năm 2005 các công việc của 529 ĐD-HS khi bị tai nạn rủi ro 
thì khi chuẩn bị thuốc chiếm 40,54%, thu dọn dụng cụ sau tiêm 17,03%, đáng chú 
ý là tháo kim tiêm 12,79%, cọ rửa dụng cụ 5,41% và dùng tay đậy nắp kim sau khi 
tiêm 3,78%. Như vậy tỷ lệ các tình huống bị thương của ĐD bệnh viện Da Liễu 
trong năm 2012 đều cao hơn hẳn [10]. Có thể thấy, ở nghiên cứu này chúng tôi 
nghiên cứu chỉ trên 50 ĐD, có điều dưỡng viên bị tổn thương nhiều lần và 20% bị 
tổn thương từ 5 lần trở lên. Mỗi lần tổn thương có tình huống tổn thương khác 
nhau. Đây có thể là nguyên nhân làm cho tỷ lệ tổn thương ở nghiên cứu này cao 
34 
hơn nghiên cứu của Phạm Đức Mục. Tuy nhiên, các số liệu trên đây lại một lần 
nữa khẳng định thực trạng tiêm an toàn tại bệnh viện Da Liễu trung ương là rất 
đáng quan tâm. 
 Đáng chú ý, 73,9% ĐD bị tổn thương khi thu dọn dụng cụ. Tỷ lệ bị thương 
khi tách kim bẩn ra khỏi xilanh và khi vứt kim xilanh vào hộp kháng thủng cùng 
chiếm 21,7%. Đây là các tổn thương do các dụng cụ nhiễm. Phơi nhiễm với máu 
dịch cơ thể là nguy cơ dẫn đến lây bệnh qua đường máu và cần có xử lý phù hợp, 
khác biệt hoàn toàn so với các tổn thương không phơi nhiễm. Vì vậy, chúng tôi 
cho rằng, các ĐD cần phải được tập huấn kỹ càng về các biện pháp phòng, tránh 
tổn thương do vật sắc nhọn. Bên cạnh đó, hệ thống theo dõi thương tổn, xử lý sau 
phơi nhiễm cũng như việc cung cấp các trang thiết bị bảo hộ phù hợp cho điều 
dưỡng viên là điều hết sức cấp thiết. 
4.3. Thực trạng kiến thức, thực hành của Điều dƣỡng về tiêm an toàn 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều dưỡng viên tại bệnh viện Da liễu trung 
ương có kiến thức và thực hành liên quan đến TAT trung bình ở mức tốt. 16% có 
kiến thức khá và không có ai có kiến thức kém. Kết quả này cao hơn kết quả trong 
nghiên cứu của Omorogbe và cộng sự [29]. Theo nhóm tác giả này, 55,7% số nhân 
viên y tế có kiến thức kém, 31,1% có kiến thức tốt và chỉ có 13,1% có kiến thức 
rất tốt về tiêm an toàn. Sự khác biệt này có thể do khác nhau về địa điểm nghiên 
cứu. Omorogbe và cộng sự khảo sát tại nhân viên y tế rộng khắp Nigeria trong khi 
nghiên cứu này tiến hành tại bệnh viện tuyến trung ương. Bên cạnh đó, mặc dù là 
nước đang phát triển nhưng Việt Nam vẫn có những ưu thế về kinh tế và chất 
lượng sống, chất lượng dịch vụ y tế hơn Nigeria – một trong những nước nghèo 
nhất thế giới. Do đó, có thể thấy rằng kiến thức của điều dưỡng viên ở nghiên cứu 
này cao hơn ở nghiên cứu của Omorogbe là hợp lý. 
Mặc dù bộ công cụ đánh giá và tiêu chuẩn xếp loại kiến thức ở nghiên cứu 
này khác với nghiên cứu của Phan Văn Tường, nhìn chung có thể thấy kiến thức 
về tiêm an toàn của điều dưỡng viên trong nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu của 
Phan Văn Tường và cộng sự [12]. Theo nhóm tác giả này, trong số 109 ĐD được 
Thang Long University Library
35 
hỏi, tỷ lệ bị xếp loại không đạt về kiến thức liên quan đến tiêm an toàn là 17,4%. 
Ở từng khoa phòng, tỷ lệ kiến thức không đạt khác nhau. Một số khoa có tỷ lệ đạt 
100% (khoa Mắt, Cấp cứu) nhưng có một số khoa chỉ đạt 25% (khoa Răng Hàm 
Mặt). Đây là một tín hiệu đáng mừng ở bệnh viện Da Liệu và rất cần được phát 
huy. Việc thường xuyên tập huấn, đào tạo lại về TAT sẽ giúp củng củng cố kiến 
thức cho điều dưỡng viên, từ đó nâng cao thực hành tiêm an toàn trong hoạt động 
chăm sóc hàng ngày. 
Theo Đoàn Thị Anh Lê và cộng sự [8] điều dưỡng viên có kiến thức tốt về 
quy trình thực hành tiêm nhưng lại thiếu kiến thức về vô khuẩn trong thực hành 
tiêm. Mặc dù nghiên cứu này không phân tích sâu từng nội dung kiến thức của 
điều dưỡng viên để so sánh các lĩnh vực kiến thức trong TAT, kết quả nghiên cứu 
của Đoàn Thị Anh Lê là một gợi ý cho lãnh đạo bệnh viện Da Liễu trung ương khi 
thiết kế nội dung các chương trình tập huấn TAT cho nhân viên bệnh viện. Kiến 
thức về vô khuẩn và thực hành vô khuẩn cần hết sức được chú trọng. Thực hành 
của điều dưỡng cũng cần được giám sát và uốn nắn để đảm bảo vô khuẩn trong 
thực hành tiêm. 
Ở nghiên cứu này, kết quả đánh giá chung về thực hành cho thấy điều dưỡng 
viên có thực hành TAT tốt (điểm trung bình: 46,6 ± 6,5), 82% số điều dưỡng viên 
có thực hành TAT và 14% thực hành TAT rất tốt. Kết quả này tương đương với 
kết quả của Omorogbe và cộng sự [29]. Ở nghiên cứu của Omorogbe, 48,4% số 
người được hỏi có thực hành tốt và 47,5% có thực hành rất tốt về TAT. Đáng chú 
ý, có 4,1% nhân viên y tế có thực hành TAT ở mức kém[29]. Có thể thấy, thực 
hành TAT của điều dưỡng viên bệnh viện da liễu trung ương khá đồng đều. Không 
có điều dưỡng viên nào thực hành ở mức kém, trong khi ở nghiên cứu của 
Omorogbe, có 4,1% thực hành ở mức kém. Lý do có thể vì, như đã bàn luận ở 
trên, nhóm nghiên cứu của Omorogbe đa dạng hơn nhóm nghiên cứu của nghiên 
cứu này. 
 Đánh giá các thực hành cụ thể dưới góc độ bảo vệ an toàn cho bản thân và 
cộng đồng và bảo vệ an toàn cho người bệnh, nghiên cứu này cho thấy thực hành 
36 
trên phương diện giữ an toàn cho người bệnh của điều dưỡng viên rất tốt, điểm 
trung bình chung là 23,4 ± 3,3. 58% có thực hành tốt và 40% có thực hành rất tốt. 
Các thực hành giữ an toàn cho người bệnh mà chúng tôi hỏi điều dưỡng viên bao 
gồm quan sát sắc mặt người bệnh trong khi tiêm, 3 kiểm tra 5 đối chiếu, lưu kim 
lấy thuốc trong lọ, hay yêu cầu người bệnh nghỉ ngơi 15 phút sau khi tiêm 
Nhìn chung, kết quả về thực hành giữ an toàn cho người bệnh tại nghiên cứu 
này cao hơn so với kết quả của các nghiên cứu đã công bố tại Việt Nam. Ví dụ, 
theo Đoàn Thị Anh Lê, việc thực hiện việc thực hiện các quy định về giữ an toàn, 
quan sát người bệnh trong khi tiêm của điều dưỡng viên tại Thành phố Hồ Chí 
Minh chỉ đạt mức trung bình và thấp. Có thể thấy rằng, tiêm là một thủ thuật xâm 
lấn có rất nhiều nguy cơ đối với người bệnh. Vì vậy, thực hành giữ an toàn cho 
người bệnh là thực hành quan trọng trong số 3 vấn đề an toàn của TAT (an toàn 
cho người bệnh, cho người tiêm và cho cộng đồng). Do đó, kết quả nghiên cứu 
này là một tín hiệu rất đáng khích lệ trong thực hành của điều dưỡng viên tại bệnh 
viện Da liễu trung ương. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong hoàn cảnh mà số 
lượng mũi tiêm được tiến hành rất nhiều tại bệnh viện. 
Tuy nhiên, điều đáng buồn là thực hành liên quan đến giữ an toàn cho bản 
thân và cộng đồng của điều dưỡng chưa thực sự cao. Kết quả nghiên cứu này chỉ 
ra 26% điều dưỡng viên có thực hành rất tốt ở nội dung bảo đảm an toàn cho bản 
thân và cộng đồng. Tuy nhiên, có 09 điều dưỡng viên (18%) có thực hành được 
xếp vào loại khá. Đối chiếu với thực hành bảo đảm an toàn cho người bệnh, chỉ có 
01 điều dưỡng xếp loại khá trong nội dung này. Có thể thấy, việc thực hành kém 
về nội dung bảo đảm an toàn cho bản thân là nguy cơ rất lớn đến sức khỏe của 
điều dưỡng viên. 
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát về thực trạng tổn thương 
do vật sắc nhọn mà nghiên cứu này ghi nhận. Cụ thể, số lần bị thương trung bình 
là 7,1 lần. Số lượng ĐD bị thương ít hơn 5 lần trong năm vừa qua chiếm 43,5% 
(n=20), từ 6-10 lần chiếm 30,4% (n=14) và có 4,4% số người được hỏi cho biết đã 
bị thương trên 20 lần (n=2). Theo Phan Văn Tường, các trường hợp tổn thương 
Thang Long University Library
37 
của điều dưỡng chủ yếu là do yếu tố chủ quan từ phía người tiêm như sơ suất 
(75,6%) hay vô tình (7,3%) [12]. Đây là một thực trạng rất đáng báo động. Chúng 
tôi khuyến cáo lãnh đạo bệnh viện tập trung pháp đào để điều dưỡng viên có kiến 
thức và ý thức tự bảo vệ bản thân trước tổn thương do vật sắc nhọn trong quá trình 
tiêm. Ngoài ra, hệ thống cảnh báo nguy cơ, theo dõi và xử lý sau phơi nhiễm, cung 
cấp trang thiết bị bảo hộ cũng cần được thiết lập và vận hành tốt để bảo vệ sức 
khỏe nhân viên. 
Rất nhiều thực hành sai đe dọa đến an toàn của bản thân người tiêm đã được 
các nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận. Ví dụ, theo Đoàn Thị Anh Lê và 
cộng sự [8], hơn một nửa (57%) số ĐD được quan sát dùng tay đậy nắp kim sau 
khi tiêm và 47% phân lập kim tiêm không đúng cách, 30% sử dụng dụng cụ chứa 
vật sắc nhọn không đúng quy cách. Costigliola, Frid, Letondeur và Strauss khẳng 
định vẫn còn 17% số điều dưỡng viên không vứt ngay bơm và kim tiêm vào hộp 
chứa vật sắc nhọn mà để trên khay (5,9%), đậy lại nắp kim (7,1%) hay vứt kim 
vào thùng rác (1%) [28]. Omorogbe mô tả, khi bị tổn thương, chỉ có 81,1% nhân 
viên y tế băng kín vết thương của mình trước khi tiêm cho người bệnh, 16,4% chỉ 
thực hiện thỉnh thoảng và 2,5% không bao giờ thực hiện. 23% nhân viên thừa 
nhận thường xuyên đậy lại nắp kim sau khi tiêm và 40% thỉnh thoảng thực hiện 
hành vi đó. Vì vậy, chúng tôi khuyến cáo các đơn vị tổ chức tập huấn tiêm an toàn 
cho nhân viên y tế cần hết sức nhấn mạnh các hành vi trên để điều dưỡng viên có 
ý thức tránh, loại bỏ trong thực hành hằng ngày. 
4.4. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành của Điều dƣỡng 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa kiến 
thức và thực hành tiêm an toàn (r = 0,42, p < 0,01). Kết quả này hoàn toàn phù 
hợp với nghiên cứu của Li và cộng sự [21]. Khảo sát trên 468 nhân viên y tế tại 
Trung Quốc, nhóm nghiên cứu của Li khẳng định có mối liên quan chặt chẽ giữa 
kiến thức và thực hành tiêm an toàn (p < 0.05). Theo chúng tôi, kết quả này hoàn 
toàn hợp lý. Rõ ràng là, kiến thức đóng một vai trò rất quan trọng trong hành vi 
đúng của con người. Nói cách khác, khi kiến thức tốt, thực hành của điều dưỡng 
38 
viên sẽ đúng. Vì vậy, chúng tôi khuyến cáo bên cạnh các biện pháp hành chính, 
chế tài, cung cấp trang thiết bị dụng cụ, bệnh viện cần thường xuyên tổ chức các 
đợt tập huấn để nâng cao kiến thức về tiêm an toàn của điều dưỡng viên. 
Số mũi tiêm liên quan nghịch biến với thực hành tiêm an toàn chung (r = - 
0,39, p < 0,01) và an toàn cho người bệnh (r = - 0,39, p < 0,01). Kết quả này hoàn 
toàn phù hợp. Thực tế cho thấy, khi áp lực công việc quá lớn, số mũi tiêm nhiều, 
thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng sẽ bị ảnh hưởng. Nghiên cứu của Phan Văn 
Tường cho thấy, các khoa phòng có tỷ lệ điều dưỡng viên thực hành TAT kém là 
những khoa phòng có số mũi tiêm nhiều như khoa cấp cứu hay răng hàm mặt. 
Ngược lại, khoa Nhi có số mũi tiêm/ngày thấp nhất, tỷ lệ tiêm an toàn đạt cao nhất 
[12]. Do đó, chúng tôi khuyến cáo các cấp quản lý cần có biện pháp hạn chế số 
mũi tiêm, bố trí nhân lực đầy đủ để giảm tải. Ngoài ra, nhân viên cũng cần được 
giáo dục ý thức chấp hành TAT để đảm bảo các mũi tiêm vẫn được thực hiện đúng 
trong điều kiện áp lực công việc cao. 
Đáng chú ý, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan nào giữa số lần được tập 
huấn cũng như tổng thời gian được tập huấn với kiến thức và thực hành TAT 
nhưng trình độ đào tạo liên quan đồng biến với thực hành tiêm an toàn chung của 
điều dưỡng (r = 0,28, p < 0,01). Kết quả này khác với kết quả của Omorogbe và 
cộng sự. Theo nhóm tác giả này một số yếu tố có liên quan đến kiến thức về TAT 
gồm tuổi (p = 0,005), giới (0,022) và thâm niên công tác (p < 0.000). Cụ thể, kiến 
thức liên quan đến TAT tăng dần theo tuổi và thâm niên công tác. Kiến thức của 
nhân viên nữ tốt hơn của nam. Tuy nhiên, tuổi và giới không có liên quan gì đến 
thực hành tiêm an toàn của nhân viên y tế. Ngược lại, có mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa năm công tác và số thực hành tiêm an toàn (P = 0.043). Theo chúng 
tôi, do cỡ mẫu của nghiên cứu này còn nhỏ nên chưa phát hiện được các mối liên 
quan có ý nghĩa thống kê. 
Thang Long University Library
39 
CHƢƠNG 5 
KẾT LUẬN 
5.1. Tình hình tiêm và chấn thƣơng do vật sắc nhọn tại Bệnh viện Da Liễu 
Trung ƣơng 
- Kết quả khảo sát 50 ĐD cho thấy số mũi tiêm trong ngày một điều dưỡng viên 
cần thực hiện trung bình là 23,82 mũi tiêm/ngày làm việc. Trong đó, đáng chú ý là 
có 6 (12%) người phải tiêm trên 41 mũi tiêm/ngày. 
- 92% điều dưỡng bị chấn thương do vật sắc nhọn trong năm vừa qua. Nguyên 
nhân nhiều nhất là do vỏ lọ thuốc/lọ nước cất chiếm 61,5%, tổn thương do kim vô 
khuẩn chiếm 30,6% và do kim nhiễm chiếm 7,9%. 
- Tình huống bị thương cho Điều dưỡng trong năm qua chiếm tỷ lệ cao nhất là khi 
Điều dưỡng lấy thuốc 97,8% (n=45), bị thương trong khi thu dọn vệ sinh dụng cụ 
chiếm 73,9% (n=34), khi đâm rút kim ra khỏi người bệnh nhân là 30,4% (n=14), 
khi tách kim bẩn ra khỏi xilanh và khi vứt kim xilanh vào hộp kháng thủng cùng 
chiếm 21,7% (n=10). 
5.2.Thực trạng kiến thức và thực hành của Điều dƣỡng viên về tiêm an toàn 
- Các Điều dưỡng viên có kiến thức tốt về TAT. Không có ĐD nào có kiến thức 
kém, trong khi có 6 (12%) ĐD có kiến thức rất tốt về TAT. 
- Thực hành TAT nói chung của các ĐD ở mức tốt. Không có ĐD nào có thực 
hành kém, 82% số ĐD có thực hành TAT tốt và 14% thực hành TAT rất tốt. Việc 
tuân thủ các thực hành TAT nhằm giữ an toàn cho người bệnh của ĐD rất tốt. Tuy 
nhiên, việc thực hiện các hành vi nhằm giữ an toàn cho bản thân của điều dưỡng 
viên chưa thực sự cao với 09 điều dưỡng viên (18%) có thực hành được xếp vào 
loại khá. 
5.3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn tại Bệnh 
viện Da Liễu Trung ƣơng 
Kiến thức có liên quan khá chặt chẽ với thực hành TAT của điều dưỡng (r = 
0,42, p < 0,01). Số mũi tiêm phải thực hiện càng nhiều thì thực hành TAT nói 
chung và an toàn cho người bệnh của điều dưỡng càng kém với hệ số tương quan 
40 
đều là - 0,39 (p < 0,01). Không tìm thấy mối liên quan nào giữa số lần được tập 
huấn cũng như tổng thời gian được tập huấn với kiến thức và thực hành TAT 
nhưng trình độ đào tạo liên quan đồng biến với thực hành TAT chung của điều 
dưỡng (r = 0,28, p < 0,01). 
Thang Long University Library
41 
CHƢƠNG 6 
KIẾN NGHỊ 
Từ các kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi xin được phép đưa ra một số 
kiến nghị như sau: 
- Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng mũi tiêm trong một ngày làm việc 
của ĐD là rất lớn và có mối liên quan rõ ràng giữa thực hành TAT với số lượng 
mũi tiêm mà ĐD phải thực hiện. Vì vậy, để bảo vệ cả người bệnh lẫn nhân viên y 
tế, chúng tôi khuyến nghị bệnh viện có giám sát phù hợp để hạn chế việc kê đơn 
thuốc tiêm không cần thiết. Ngoài ra, từ thực tế lâm sàng cho thấy, chúng tôi 
khuyến nghị các bác sỹ khi kê đơn có thể phân bổ thời gian sử dụng thuốc trong 
ngày hợp lý để giảm áp lực về số lượng mũi tiêm vào buổi sáng. Các biện pháp 
nhằm giảm tải bệnh nhân, tăng cường số lượng ĐD để giảm áp lực công việc cho 
điều dưỡng viên cũng cần được xem xét. 
- Tỷ lệ tổn thương do vật sắc nhọn của ĐD bệnh viện là rất cao (92%). Vì 
vậy, trước mắt chúng tôi khuyến nghị bệnh viện cần nâng cao hiệu quả của công 
tác phòng chống tai nạn thương tích cho ĐD. Đặc biệt, bệnh viện cần hết sức chú 
trọng đến công tác xử lý sau phơi nhiễm để đảm bảo các ĐD được xử lý và theo 
dõi kịp thời sau khi bị tổn thương. Nghiên cứu này chỉ ra đa phần là các tổn 
thương là do bản thân ĐD gây ra (khi lấy thuốc, khi thu dọn dụng cụ, tách kim bẩn 
và vứt kim vào hộp kháng thủng) vì vậy chúng tôi khuyến nghị các đợt tập huấn 
nhằm nâng cao ý thức tự bảo vệ mình trong quá trình tiêm của điều dưỡng viên 
cũng cần được tổ chức. 
- Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra mối liên quan chặt chẽ giữ kiến thức và 
thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị bệnh 
viện chú trọng đến công tác đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức cho điều 
dưỡng viên. Chúng tôi cũng đề nghị các khóa đào tạo cần tập trung hơn vào điều 
dưỡng viên có trình độ đào tạo thấp vì nghiên cứu này chỉ ra mối liên quan đồng 
biến giữa trình độ đào tạo và thực hành TAT. 
42 
- Các nghiên cứu tiếp theo cần tiến hành đánh về vai trò của các yếu khác 
như điều kiện cơ sở vật chất, khoa phòngtrong thực hành tiêm an toàn của điều 
dưỡng viên. Ở nghiên cứu này, do điều kiện về nguồn lực cũng như vị trí công tác 
của nghiên cứu viên còn hạn chế, chúng tôi không thể sử dụng phương pháp tiến 
cứu và theo dõi trực tiếp thực hành tiêm của điều dưỡng viên. Chúng tôi cho rằng 
đây là hạn chế rất lớn nhưng không thể tránh khỏi ở nghiên cứu này. Vì vậy, 
chúng tôi khuyến nghị các nghiên cứu tiếp theo sử dụng các biện pháp quan sát, 
đánh giá khách quan có nhận định chính xác hơn về thực hành TAT của đối tượng 
nghiên cứu. 
Thang Long University Library
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 b00158_328.pdf b00158_328.pdf