Đề tài Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước chính thức bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước và chỉ 5-6 năm sau đó, tức vào những năm đầu của thập kỷ 90, đã bắt đầu xuất hiện những ý tưởng về khả năng xây dựng thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Trong bối cảnh là giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nền kinh tế đất nước thiếu vốn nghiêm trọng, do vậy, vấn đề mấu chốt là làm thế nào để có thể huy động nguồn vốn trong nước và quốc tế để phát triển kinh tế, và câu chuyện về một thị trường chứng khoán cũng bắt đầu được nhen nhóm lên từ đó. Ngày 6/11/1993, Thống đốc ngân hàng nhà nước ra quyết định số 207/QĐ-TCCB thành lập ban Nghiên cứu Xây dựng và Phát triển thị trường vốn, do đồng chí Lê Văn Châu ( lúc đó là phó thống đốc NHNN) chỉ đạo, Đ/C Nguyễn Đoan Hùng (nay là phó chủ tịch UBCKNN) làm trưởng ban, Đ/C Vũ Bằng (nay là chủ tịch UBCKNN) và ĐC Vũ Thị Kim Liên (nay là phó chủ tịch UBCKNN) làm phó ban, có trách nhiệm nghiên cứu về thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán trên thế giới để tìm ra cách đi riêng cho VN. Đến tháng 4/1994, Chính phủ đã thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đồng thời xây dựng đề án thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam. Với đề án này, TTCK từng bước tiến dần đến hiện thực kinh tế Việt Nam, có hình hài và cấu trúc nhày càng đầy đủ và rõ nét. Ngày 20/7/1997, VN đã tuyên bố với thế giới sự thành lập Ủy ban chứng khoán nhà nước, do đồng chí Lê Văn Châu làm chủ tịch . Cũng trong ngày khai trương, số Tạp chí đầu tiên của UBCK đã được phát hành. Ngay sau đó, trong quá trình gấp rút chuẩn bị khung pháp lí cho sự ra đời của TTCK, có nhiếu ý kiến khác nhau về việc VN chỉ nên thành lập 1 trung tâm giao dịch hay 2 TTGD. Sở dĩ gọi là trung tâm GDCK mà không gọi là sở vì chúng ta vừa làm vừa thí điểm vừa rút kinh nghiệm, rồi sau đó mới có lộ trình chuyển từ trung tâm lên thành Sở GDCK. Vào thời điểm đó, thuật ngữ chứng khoán hay thị trường chứng khoán còn quá xa lạ với không chỉ người dân mà còn với cả doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp đã cổ phần hóa nhưng vẫn không biết niêm yết là gì, do đó việc tiếp theo là cần động viên các DN lên sàn niêm yết. Ban lãnh đạo UBCK đã phải đi đến từng tỉnh, thành phố để tuyên truyền và động viên các doanh nghiệp lên sàn. Lúc đầu có 14 công ty được UBCK tư vấn và chuẩn bị lên sàn nhưng gần đến ngày khai trương thị trường (tức 20/7/2000), chỉ có vẻn vẹn 2 công ty là REE (công ty cổ phần cơ điện lạnh) và SAM (Cty cổ phần Cáp và vật liệu viễn thông). Khoảng 5 năm sau, các doanh nghiệp đua nhau lên sàn. Đến năm 2006, thị trường CK mới thực sự phát triển mạnh mẽ, giá trị vốn hóa đã lên đến hơn 40% GDP- một con số mà các nhà lãnh đạo không ngờ tới. Cho đến nay, TTCK VN đã trải qua gần 11 năm sóng gió, quãn thời gian 10 năm không là dài so với lịch sử mấy trăm năm của TTCK thế giới. Người ta nói "vạn sự khởi đầu nan", chúng ta chỉ mới bắt đầu và điểm khởi đầu bao giờ cũng đầy những khó khăn, bỡ ngỡ, để vượt qua những khó khăn đó thì rất cần sự nỗ lực của các cá nhân, tập thể, toàn xã hội.

docx21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3761 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g biết niêm yết là gì, do đó việc tiếp theo là cần động viên các DN lên sàn niêm yết. Ban lãnh đạo UBCK đã phải đi đến từng tỉnh, thành phố để tuyên truyền và động viên các doanh nghiệp lên sàn. Lúc đầu có 14 công ty được UBCK tư vấn và chuẩn bị lên sàn nhưng gần đến ngày khai trương thị trường (tức 20/7/2000), chỉ có vẻn vẹn 2 công ty là REE (công ty cổ phần cơ điện lạnh) và SAM (Cty cổ phần Cáp và vật liệu viễn thông). Khoảng 5 năm sau, các doanh nghiệp đua nhau lên sàn. Đến năm 2006, thị trường CK mới thực sự phát triển mạnh mẽ, giá trị vốn hóa đã lên đến hơn 40% GDP- một con số mà các nhà lãnh đạo không ngờ tới. Cho đến nay, TTCK VN đã trải qua gần 11 năm sóng gió, quãn thời gian 10 năm không là dài so với lịch sử mấy trăm năm của TTCK thế giới. Người ta nói "vạn sự khởi đầu nan", chúng ta chỉ mới bắt đầu và điểm khởi đầu bao giờ cũng đầy những khó khăn, bỡ ngỡ, để vượt qua những khó khăn đó thì rất cần sự nỗ lực của các cá nhân, tập thể, toàn xã hội. II. Nội dung chính. 1. Nhà phát hành. Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán, gồm: chính phủ, doanh nghiệp, một số tổ chức khác như: quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian,.... 1.1. Doanh nghiệp. Thứ nhất, doanh nghiệp ngày càng tích cực tham gia TTCK thông qua việc niêm yết trên sàn. Những lợi ích từ việc niêm yết là rất lớn như: công ty dễ dàng huy động vốn hơn, quảng bá hành ảnh đến công chúng,......nhưng trên thực tế trong giai đoạn đầu, việc huy động các công ty lên sàn niêm yết vô cùng khó khăn. Trong giai đoạn 2001-2005, số lượng công ty niêm yết tăng chậm. Từ 2006, số lượng công ty niêm yết đã gia tăng đột biến, không chỉ những DNNN cổ phần hóa mà còn có cả những công ty mới thành lập, cty chuyển từ cty TNHH, công ty tư nhân thành công ty cổ phần. Dưới đây là số liệu doanh nghiệp niêm yết tại Sở GDCK Hà Hội và TP. HCM. (Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 HSX 2 11 20 22 26 32 104 125 34 53 HNX 6 81 96 57 Sang năm 2010 đã có trên dưới 500 công ty niêm yết. Thứ 2, doanh nghiệp có bước chuyển từ phương thức huy động vốn từ kênh truyền thống là ngân hàng sang huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Đối với các doanh nghiệp, huy động vốn qua ngân hàng là chủ yếu và tối quan trọng. Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng nhanh đặt ra nhu cầu lớn về vốn trung và dài hạn đặt ra áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng, đòi hỏi phải có một kênh huy động trung và dài hạn khác. Thị trường chứng khoán đã từng bước giải quyết nhu cầu vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. (Đơn vị: tỷ đồng) Năm Phát hành cổ phiếu Đấu giá cổ phần hóa Tổng 2005 813 4573 5386 2006 1858 14225 16113 2007 55846 49953 105799 2008 14341 7809 22150 2009 21724 2124 23848 Tổng 94582 78715 173297 (Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của UBCK) Có thể nói, từ chỗ các doanh nghiệp khi cần vốn chỉ nghĩ đến ngân hàng thì nay các doanh nghiệp có kênh mới huy động hiệu quả và năng động là TTCK. Thứ 3, xu hướng doanh nghiệp chuyển đổi và hướng đến mô hình công ty cổ phần. Rất nhiều doanh nghiệp đã nhận thấy và muốn tham gia TTCK, vì thế, nhiều công ty TNHH đã chuyển thành công ty cổ phần và công ty cổ phần thành công ty đại chúng (tức công ty đã phát hành CK ra công chúng). Một số doanh nghiệp sau khi đã trở thành công ty đại chúng có xu hướng đăng ký giao dịch trên sàn Upcom (Sàn GD Upcom thực chất là thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết được thành lập vào 24/6/2009) để chuẩn bị tập dượt cách giao dịch sau khi chuyển lên niêm yết trên Sở GD. Thứ 4, công tác quản trị điều hành tại các doanh nghiệp niêm yết công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, chú trọng đến quyền lợi của cổ đông. Đây thực sự là những tín hiệu đáng mừng đối với TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thông qua các quy định về công bố thông tin trên thị trường, hầu hết các công ty niêm yết đã minh bạch hoạt động tài chính, nỗ lực để đem lại kết quả sản xuất kinh doanh tốt, đem lại quyền lợi và cổ tức cao hơn cho cổ đông. Hơn 50% trong tổng số các công ty niêm yết có chỉ sổ EPS đạt trên 3000 đồng (một 1000 vốn cổ phần mang lại thu nhập trên 3000 đồng). 1.2. Chính phủ. Chính phủ cũng là một chủ thể phát hành quan trọng trên TTCK. Chứng khoán do chính phủ phát hành trên TTCK gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc,... Đối tượng chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Ngoài ra còn có các DN lớn, quỹ đầu tư, cá nhân có vốn. Năm 2008, 42 % nguồn vốn TPCP huy động qua TTCK. Trong giai đoạn 2000-2002, TPCP là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên SGDCK Tp.HCM, tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn này, TPCP tương đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp, với khoảng 2% giá trị TPCP niêm yết. Giai đoạn 2004-2007, giá trị trái phiếu niêm yết so với GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP. Trong thời gian gần đây, do biến động của lãi suất, việc phát hành TPCP không được như mong muốn, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81% vào cuối năm 2009. Năm 2010, TPCP nội địa 495 mã , quy mô mỗi mã chỉ 330 tỷ. Về lãi suất TPCP: Năm 2005, lãu suất TPCP là 6.5% cho đợt phát hành thứ nhất, 6.6% cho đợt phát hành thứ hai. Năm 2007,  Nghị quyết 7/2007/NQ-CP ngày 1/6/2007 và Nghị quyết 54/2007/NQ-CP của Chính phủ, lãi suất được ấn định là không quá 7%/năm với thời hạn 10 năm. Năm 2009, lãi suất TPCP là 8%, năm 2010 là 12% và 12.1%. Trong tháng 3/2011 có 3 đợt phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) thì cả 3 đợt đều không thành công. Đợt 1 bán được 145/6.000 tỷ đồng, đợt 2 được 139/6.000 tỷ đồng, đợt 3 được 30/3.000 tỷ đồng. Số trái phiếu ít ỏi bán được trong đợt 3 thuộc kỳ hạn 10 năm, lãi suất 11,5%/năm (mức trần cao nhất của trái phiếu được Bộ Tài chính ấn định trong suốt 18 tháng qua). Mới đây, vào 29/9/2011 cũng đã diễn ra đợt phát hành TPCP với 1000 tỷ đồng cho kỳ hạn 3 năm và 1000 tỷ cho kỳ hạn 5 năm tại sàn HNX. Nhìn chung, việc phát hành TPCP trên TTCK có những điểm đáng lưu ý: - Quy mô phát hành nhỏ, các loại hình nhà đầu tư còn nhỏ hẹp (chủ yếu là các NHTM). - Việc xác định lãi suất chỉ đạo trong các phiên đấu thầu trên các sàn đôi khi chưa căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội đất nước, không phản ánh chính xác tình hình thị trường. 1.3. Các tổ chức khác. 1.3.1. Ngân hàng thương mại. Các NHTM có thể tham gia trực tiếp vào thị trường với tư cách là chủ thể phát hành cổ phiếu của mình để tạo nguồn vốn mới khi thành lập hoặc bổ sung thêm trong quá trình hoạt động để đáp ứng nhu cầu về vốn do NHNN quy định. Tính đến hết năm 2010, đã có 39 NHTMCP, 5 TCTD nhà nước, hơn 40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tính đến nay, cả 2 sàn chứng khoán HOSE và HNX đã có 6 ngân hàng tham gia niêm yết cổ phiếu gồm: STB, VCB, CTG, EIB, ACB, SHB. Trong năm 2010, có nhiều NHTM tổ chức phát hành giấy tờ có giá như: - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát hành giấy tờ có giá dài hạn năm 2010 với tổng mệnh giá 10.000 tỉ đồng, trong đó VNĐ là 7.000 tỉ đồng và bằng USD (3.000 tỉ đồng quy đổi); riêng người mua giấy tờ có giá bằng ngoại tệ không bao gồm các tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng). - Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VIETBANK) được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép phát hành giấy tờ có giá dài hạn năm 2010 với tổng mệnh giá 1.500 tỉ đồng. Nói chung về việc huy động vốn của NHTM thông qua phát hành chứng khoán thì một vấn đề nổi bật và đáng chú ý là Nghị định 141/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của CP, theo đó, mức vốn pháp định tối thiểu của các NHTM là 3000 tỷ đồng. Do đó, ban quản trị các NHTM nếu muốn tiếp tục hoạt động phải gấp rút tăng vốn hoặc là sẽ phải sáp nhập vào NHTM khác lớn hơn. Các ngân hàng khi đó đều đề ra kế hoạch tăng vốn và nhiều ngân hàng đã phát hành cổ phiếu ra thị trường để tăng vốn điều lệ, các NH khi đó đã cung cấp 1 lượng lớn cổ phiếu với độ rủi ro thấp, làm phong phú hàng hóa cho TTCK. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng thu hút thêm các cổ đông mới là các tổ chức tài chính ngân hàng lớn, mạnh, có uy tín trên thế giới tham gia đầu tư lâu dài, hỗ trợ kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. NHTM Cổ đông chiến lược nước ngoài Tỷ lệ sở hữu Á Châu Standard Charted APR Ltd Standard Charted Bank (Hong Kong) Limited 8.81 6.09 AB bank Maybank 20.00 Eximbank Sumitomo Mitsu Banking Corporation 15.07 Habubank Deutsche Bank 10.00 Oricombank BNP Paribas 15.00 Sacombank Australia And New Zealand banking Group Limited 10.00 Techcombank HSBC 20.00 VPbank Oversea Chinese Banking Corporation Ltd 15.00 (Nguồn: Website và báo cáo thường niên của các NHTM) ` Ngoài ra còn có quỹ đầu tư, quỹ đại chúng,....cũng tham gia phát hành chứng khoán trên TTCK. 2. Nhà đầu tư. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. 2.1. Nhà đầu tư trong nước. 2.1.1. Nhà đầu tư cá nhân. - Tiềm lực tài chính: Với một nhà đầu tư cá nhân, nguồn vốn đầu tư có thể là vốn tự có, vốn đi vay (thường dưới 1 năm). Việc đi vay vốn ngắn hạn đi đầu tư trung và dài hạn trên TTCK gây cho nhà đầu tư nhiều áp lực, trong giai đoạn cuối 2007, đầu năm 2008, áp lực trả nợ đã buộc nhiều nhà đầu tư phải bán tháo, góp phần đẩy thị trường vào thế đi xuống. Tiếp nữa, khi đầu tư, nhà đầu tư cá nhân thường dùng tất cả số tiền mình có để mua cổ phiếu và không có dự phòng rủi ro, thậm chí chỉ mua một cổ phiếu thay vì một danh mục đầu tư, với mong muốn thu được khoản lợi nhuận “càng nhiều càng tốt”. Khi dành được lợi nhuận, họ dành rất nhiều vào tiêu dùng. - Chiến lược đầu tư: Nhiều nhà đầu tư thường không các định đầu tư dài hạn, nên thường có tư duy kiếm lời nhanh chóng dẫn đến hành động "lướt sóng", nhưng khi thị trường đi xuống thì hay bán tống bán tháo, "bỏ của chạy lấy người". - Đánh giá hiệu quả: Nhiều nhà đầu tư cá nhân thường thiếu thông tin chính xác khi đầu tư. Họ hay căn cứ vào tin đồn, hơn nữa, họ cũng gặp khó khăn trong việc đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp để quyết định đầu tư, dẫn đến việc xác định giá trị cổ phiếu có nhiều sai lầm. - Dẫn dắt thị trường: Thực tế, trong hơn 300.000 tài khoản chứng khoán được mở, số vốn của nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ trọng lớn so với vốn của các tổ chức, nhưng các nhà đầu tư cá nhân hay theo dõi hành động của các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các quỹ đầu tư nước ngoài. Chính vì hay dõi theo nhà đầu tư tổ chức, nên khả năng “bị dẫn dắt” là điều không thể tránh khỏi. 2.2. Nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Do nhiều nguyên nhân mà bài viết chỉ đề cập đến NHTM và cty chứng khoán. Đặc điểm chung: - Tiềm lực tài chính: Nhà đầu tư có tổ chức huy động vốn từ nhiều cổ đông với mục đích đầu tư trung và dài hạn (thường là 5 năm) nhằm thu lợi nhuận. Họ thường xác định lợi nhuận kỳ vọng, khi mức lãi từ danh mục đầu tư đó đạt được. thường thì họ bán ngay. Hơn nữa, nhà đầu tư có tổ chức bao giờ cũng dành một phần vốn để dự phòng rủi ro, họ "cắt lỗ" bằng cách bán từ từ chứ không như nhà đầu tư cá nhân cắt lỗ bằng bán vội, bán gấp, bán bằng mọi giá. Hơn nữa, các nhà đầu tư có tổ chức dành lợi nhuận cho hoạt động tái đầu tư. - Nhà đầu tư có tổ chức có chiến lược dài hạn với mong muốn đạt lợi nhuận kỳ vọng đã đặt ra. - Khả năng đánh giá giá trị cổ phiếu tốt, khả năng tạo lập thị trường khiến họ dễ mua được cổ phiếu với giá hời. 2.2.1. Ngân hàng thương mại. Trong những năm gần đây, khi mà TTCK ngày càng phát triển với số lượng hàng hóa đa dạng và phong phú thì khoản mục đầu tư CK là một trong những vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Đối với các NHTM, tỷ lệ chứng khoán nợ chiếm phần lớn như tín phiếu NHNN, TPCP, công trái, .......Đầu tư vào các giấy tờ này có độ rủi ro thấp và trong trường hợp cần thiết các loại giấy tờ có giá này có thể được đem đi cầm cố, thế chấp, chiết khấu, đem giao dịch trên thị trường mở để rút tiền về đảm bảo thanh khoản cho NH. Chính vì vậy, NHTM đầu tư vào các chứng khoán nợ với mục đích thanh khoản nhiều hơn là lợi nhuận. Trong năm 2009, 2 ngân hàng có số vốn đầu tư vào chứng khoán nhiều nhất là Vietinbank (CTG) và Vietcombank (VCB) với số vốn lần lượt là 39.279 tỷ đồng và 33.066 tỷ đồng còn NHTMCP Sài Gòn Hà Nội khiêm tốn nhất với 4.892 tỷ đồng. Khi xem xét báo cáo tài chính của các NHTM, không ít các nhà đầu tư có những tiên đoán sai lầm về những khoản lỗ lớn từ các khoản mục đầu tư chứng khoán hàng ngàn tỷ đồng của các NHTM, ảnh hưởng đến giá và thanh khoản của nhiều cổ phiếu ngân hàng, có ngân hàng cổ phiếu đóng băng không giao dịch. Trong khi đó, phần lớn chứng khoản đầu tư của NHTM như đã nói ở trên là chứng khoán nợ nhằm mục đích thanh khoản, các CK này không có rủi ro về giá và không bị ảnh hưởng bới thị trường cổ phiếu. 2.2.2. Công ty tài chính. Công ty tài chính có thể mua vào hoặc bán ra các chứng khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết. Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất của CTCK Việt Nam trong nâng cao lợi nhuận. Hoạt động đầu tư này của CTCK đã được nêu rõ trong quy chế hoạt động của CTCK số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17/6/2004. Lợi nhuận của một số CTCK năm 2007 và năm 2008 Công ty Năm 2007 Năm 2008 CTCK Kim Long (KLS) 126 -347,4 CTCK Rồng Việt (VDSC) 43 -100 CTCK Bảo Việt (BVSC) 215 -452,86 CTCK Hải Phòng (HPC) 20 -119,8 CTCK Sài Gòn (SSI) 864 +252,5 Nguồn: UBCKNN Tài sản chủ yếu của các công ty chứng khoán là chứng khoán đầu tư (ngắn hạn và dài hạn). Giá trị danh mục đầu tư đi xuống cùng với thị trường là nguyên nhân chính dẫn đến việc thua lỗ của các công ty chứng khoán trong năm 2008. Năm 2009, nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của TTCK và mức độ thanh khoản tăng nhanh, cùng với việc các cty chứng khoán thực hiện nhiều DV hỗ trợ, kết quả kinh doanh của nhiều cty chứng khoán đã cải thiện. Tỷ lệ chứng khoán đầu tư/tổng vốn đầu tư tại các công ty chứng khoán lớn đều mức lớn. Tại SSI khoảng 80%, BVSC khoảng 40%, HPC (55%), KLS (53%), ACBS (76%), Thăng Long (26%)… Bảng dưới đây đề cập đến kết quả kinh doanh của một số công ty chứng khoán đã niêm yết trên 2 sàn HOSE và HNX. Cơ cấu vốn ở các công ty chứng khoán năm 2009. (Đơn vị: Tỷ đồng) Nguồn: Tổng hợp từ HOSE và HNX Cơ cấu vốn ở các công ty chứng khoán. Mã CK Tiền và TĐ tiền Đầu tư TCNH Tổng TSLĐ ĐTTC dài hạn Tổng tài sản Vay ngắn hạn Vay dài hạn Vốn góp Vón CSH Tiền/ Nợ ngắn hạn TSLĐ/ Nợ NH Vốn vay/ Tài Vốn vay/ Vốn Sở hữu nước ngoài ÂGR 473 166 6.075 4.364 10.533 7.156 2.000 1.200 1.376 0.84 0.85 0.87 6.65 0.67% BVS 476 757 1.318 0 1.777 524 0 722 1.253 2.51 2.52 0.29 0.42 6.77% CTS 498 299 1.072 2 1.120 N/A N/A 790 852 2.23 2.17 0.17 0.31 0.14% HCM 827 300 2.024 21 2.090 N/A N/A 395 1.548 3.48 3.75 - - 44.60% HPC 71 108 328 88 464 59 0 310 396 5.32 4.84 0.13 0.15 1.68% KLS 1.348 301 2.029 290 2.342 N/A N/A 1.000 1.508 2.44 2.44 - - 2.96% SHS 271 183 790 32 834 185 0 411 446 2.03 2.04 0.22 0.41 3.08% SSI 2.650 1.372 4.738 2.132 7.077 N/A N/A 1.533 4.849 2.58 2.54 0.03 0.05 44.78% VIX 121 198 348 88 453 N/A N/A 302 336 2.98 2.96 - - 0.00% WSS 39 245 290 141 440 N/A N/A 366 400 7.33 7.32 - - 6.03% Ngành 677 293 1901 716 2.713 N/A N/A 703 1.296 3.17 3.14 0.17 0.80 11.03% Nhìn vào bảng cơ cấu vốn có thể thấy, hầu hết các công ty chứng khoán đều tập trung vào đầu tư ngắn hạn, liên quan đến các hoạt động tự doanh. Nhìn chung, các công ty chứng khoán đều có các khoản đầu tư dài hạn ít hơn so với nguồn vốn dài hạn (vốn vay dài hạn và vốn chủ sở hữu), điều này cho thấy các công ty sử dụng vốn khá an toàn. Ngoại trừ trường hợp AGR sử dụng cả vốn ngắn hạn cho hoạt động đầu tư dài hạn. Nếu chất lượng và tính thanh khoản của các khoản đầu tư dài hạn không tốt, khi gặp các biến động thị trường, AGR có thể phải chịu rủi ro lớn. 2.2. Nhà đầu tư nước ngoài. * Giai đoạn 1997-2002: Do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ Châu Á năm 1997-1998 nên làn sóng đầu tư vào châu Á (gồm cả trực tiếp và gián tiếp) đều giảm, Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Trong 1998-2002, không những không có một quỹ đầu tư mới nào được thành lập mà quỹ đầu tư trước đó lại đua nhau rút vốn, trong số 7 quỹ hoạt động tại Việt Nam thì có đến 5 quỹ rút hoạt động khỏi Việt Nam, một quỹ thu hẹp quy mô đến 90%, riêng chỉ còn quỹ Enterprise Investment Fung là còn hoạt động tại Việt Nam. * Giai đoạn 2003 tới nay: Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mới thực sự được xem là hồi phục và ngày càng tăng lên cùng với sự cải thiện môi trường đầu tư, sự ra đời của các Sở GDCK, cổ phần hóa doanh nghiệp, nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các DNNN trong các DN cổ phần hóa từ 30% lên 49% ,..... Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tăng dần qua các năm và đột biến trong năm 2006-2007 do chính sách cổ phần hóa DNNN, chủ trương hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam,.... cùng với sự phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam. Theo thống kê của ANZ, tổng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam từ 2001-2006 đạt 12 tỷ đồng và 2007 đạt 5.7 tỷ đồng. Cùng với đó, lĩnh vực hoạt động của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có sự thay đổi. Nếu như các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việ Nam trong thời gian đầu chủ yếu là các quỹ mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam với khung pháp lý chưa hoàn thiện, khu vực KT tư nhân chưa phát triển, cơ hội đầu tư ít thì những quỹ sau này được thành lập do các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy tiềm năng lớn của TTCK Việt Nam cùng với chính sách cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên, sang tới 2008 và 2009, trước những khó khăn của kinh tế Việt Nam, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có dấu hiệu chậm lại và thậm chí đảo chiều trong nửa đầu 2008. Tuy nhiên, sang 2009, quy mô vốn ĐT gián tiếp nước ngoài rút khỏi TTCK đã giảm và có xu hướng quay trở lại từ quý II/2009. Tính đến hết 2009, đã có 12439 2009 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có 1149 tài khoản là của tổ chức đầu tư nước ngoài (quỹ đầu tư + tổ chức khác). Mặc dù nhà đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 1.5% số nhà đầu tư tham gia TTCK, tuy nhiên khối lượng giao dịch chiếm tới 20-25%. 3. Cơ quan quản lý. 3.1. Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC). Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường chứng khoán (TTCK) trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm. Đến 2004, Chính phủ đã quyết định chuyển Ủy Ban chứng khoán vào Bộ tài chính theo Nghị định 66/2004/NĐ-CP. UBCKNN thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Về nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu tổ chức, lãnh đạo của Ủy Ban có thể tham khảo tại NĐ 66/2004/NĐ-CP. * Có nên tách ủy ban CKNN ra khỏi Bộ tài chính? Bộ tài chính là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính (ngân sách, thuế, lệ phí và phí, dự trữ nhà nước, tài sản nhà nước, các quỹ tài chính NN, đầu tư tài chính, tài chính DN, HTX, kinh tế tập thể), hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập, giá, chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ tài chính; Bộ thực hiện đại diện phần vốn chủ sở hữu của nhà nước tại các doanh nghiệp. Theo đó, Bộ vừa là tổ chức phát hành trên thị trường, vừa là tổ chức kinh doanh, vừa là CQ quản lý nhà nước đối với thị trường. Khi "vừa đá bóng, vừa thổi còi" thì tất yếu mâu thuẫn lợi ích sẽ phát sinh: việc quy định giá tối thiểu cao hơn nhiều giá trị thực của cổ phiếu trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được hiểu là Bộ đã lạm dụng thị trường để bán quá đắt cổ phiếu DNNN cổ phần hóa, gây tổn hại tới quyền lợi nhà đầu tư. Hơn nữa, Bộ vẫn áp thuế đối vơi thu nhập từ cổ tức của cổ đông, trong khi đó, cổ tức là 1 phần của lợi nhuận sau thuế, nếu như vậy thì nhà đầu tư (cổ đông) bị đánh thuế 2 lần. Sau hơn 10 năm hoạt động, UB CKNN đã có đủ điều kiện vật lực, nhân lực để có thể hoạt động độc lập, vì vậy, việc tách ra là một điều cần thiết. 3.2. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam (VASB) VASB được thành lập ngày 11/6/2003, tính đến đầu năm 2011 có 67 thành viên chính thức là các CTCK, công ty quản lý quỹ và 3 hội viên liên kết là các tổ chức tín dụng. Hiện VASB đã thực hiện hợp tác với 4 hiệp hội chứng khoán tại Đài Loan, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Úc. Hiệp hội có vai trò là cầu nối giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với các cơ quan quản lý nhà nước và công chúng đầu tư, tham gia tích cực và đóng góp ý kiến vào việc ban hành các cơ chế, chính sách của các cơ quản lý nhà nước nhằm góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Từ đầu năm 2011 đến nay, tình hình hoạt động của TTCK liên tục giảm sút nghiêm trọng (ngày 28/05/2010 HOSE đạt 512.99 điểm, HNX 166,71 điểm; sau 01 năm: HOSE còn 387.44 điểm, HNX 69.23 điểm, Hiệp hội đã trình lên Chính phủ các kiến nghị sau: 1. Chính phủ cần sớm có giải pháp cứu thị trường chứng khoán Việt nam trong thời kỳ khó khăn này. Trước mắt: • Xin tạm thời ngừng việc đánh thuế thu nhập cá nhân từ cho các nhà đầu tư chứng khoán, coi đây là một ngành huy động vốn phục vụ trực tiếp cho sản xuất-kinh doanh, hỗ trợ đắc lực cho chủ trương kiềm chế lạm phát và thắt chặt tín dụng. • Là một ngành hết sức nhạy cảm, nếu đổ bể là một hệ lụy dây chuyền, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo từ Ban Tư tưởng văn hóa, Bộ Thông tin tuyên truyền …. Trong việc đăng tải và đưa tin cần hết sức cẩn trọng, đảm bảo an ninh tài chính Quốc gia. 2. Chính phủ cần có ý kiến chỉ đạo Bộ Tài chính, ủy ban Chứng khoán Nhà nước sớm đưa ra các giải pháp cứu thị trường, trong đó: • Để xử lý nhanh đối phó kịp thời với thị trường, đề nghị phân cấp cho ủy ban Chứng khoán Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn những văn bản mang tính nghiệp vụ như mua bán chứng khoán trong ngày, mở tài khoản của các nhà đầu tư, quy định trần cho vay… • Trước tình hình thị trường như hiện nay đề nghị 02 Sở giao dịch Hà nội và TP. Hồ Chí Minh giảm 50% tất cả các loại phí mà các Sở đang thu của các công ty chứng khoán thành viên, nhằm giảm bớt khó khăn trong thời gian này. • Bỏ việc thu phí lưu ký chứng khoán đối với các nhà đầu tư vừa mới được ban hành. 3. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cơ quan quản lý tạo sự đồng thuận và hỗ trợ cho ngành chứng khoán phát triển, chính sách của từng ngành không nên mang tính cục bộ mà phải đảm bảo tính tổng thể chung của nền kinh tế, đối với thanh tra giám sát là cần thiết; Tuy nhiên, trước tình hình hiện nay khi phát hiện vi phạm cần có sự chỉ đạo và tập trung tháo gỡ từ Trung Ương. Nhìn chung, VASB hiện vẫn chưa phát huy được vai trò tích cực đối với các thành viên, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, "huynh đệ tương tàn" đang xảy ra không chỉ trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà trong cả LV cung cấp dịch vụ tài chính tại VN. Luật hiện tại không có quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Hiệp hội KDCK nên cần có những quy định về vấn đề này. 3.3. Sở giao dịch. SGDCK là thị trường giao dịch CK được thực hiện tại 1 địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch hoặc thông qua hệ thống máy tính. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Theo Quyết định 559/QĐ/TTg ngày 11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Trung Tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, được chuyển đổi là Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (SGDCK TP.HCM). Ngày 7/1/2008, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động Công ty TNHH Một thành viên cho Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE). HOSE có sự tự chủ cao hơn rất nhiều so với mô hình Trung tâm trực thuộc UB Trung tâm Giao dịch CK TPHCM (HOSTC) chuyển đổi thành Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM (Hochiminh Stock Exchange – HOSE) theo mô hình cty TNHH 1 thành viên Sở giao dịch Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2005 là đơn vị sự nghiệp có thu, với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Ngày 24/6, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) chính thức chuyển thành Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), được gắn liền với sự kiện khai trương thị trường giao dịch chứng khoán các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) sau nhiều năm chuẩn bị. Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu có hai Sở tại hai đầu Nam – Bắc. 4. Tổ chức cung ứng dịch vụ. 4.1. Công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp, chính phủ luôn có nhu cầu đánh giá một cách khách quan về tình hình hoạt động, triển vọng phát triển tương lai, vị thế tín dụng để đưa ra các quyết định đầu tư, mua bán và sáp nhập, tài trợ tín dụng hay hợp tác, cung ứng hàng hóa. Do đó, xếp hạng tín nhiệm là một nhu cầu câp thiết. Xếp hạng tín nhiệm là việc phân loại, sắp xếp một đối tượng trên cơ sở đo lường rủi ro tín dụng. * Chức năng chính: là phân tích, xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tín dụng, các DN; đồng thời, đánh giá và xếp hạng cổ phiếu, trái phiếu DN. * Hoạt động: - Công ty cung cấp thông tin cho các đối tượng. Cụ thể, đối với các tổ chức tín dụng, Cty hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc ra quyết định cấp tín dụng, giám sát và đánh giá khách hàng, kiểm soát rủi ro một cách hiệu quả hơn; đối với với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán, Cty giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh đối chiếu kỹ càng trước khi ra quyết định đầu tư cuối cùng, giảm bớt rất nhiều rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán; giúp cho các Công ty chứng khoán lựa chọn một danh mục đầu tư tốt nhất đối với các công ty quản lý quỹ, các công ty chứng khoán trong việc quản lý danh mục đầu tư và các dịch vụ tư vấn đầu tư; bênh cạnh đó, tạo điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. - Công ty giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở để đưa ra những giải pháp thích hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế. - Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đây là một kênh thông tin quan trọng để tìm hiểu về đối tác và môi trường kinh doanh tại Việt Nam để có được những kế hoạch kinh doanh hiệu quả, ít rủi ro. - Công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam còn giúp các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng hình ảnh và mức tín nhiệm của mình trong sản xuất, kinh doanh, đánh giá được năng lực hoạt động của doanh nghiệp cũng như giúp các doanh nghiệp hiểu rõ đối tác của mình, từ đó có những quyết định hợp tác, giao dịch an toàn, hiệu quả. * Thực trạng ở việt nam Tại Việt Nam, vai trò của hoạt động đánh giá và xếp hạng về doanh nghiệp được khẳng định rất rõ, trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, thông tin về các doanh nghiệp đang thiếu một cách trầm trọng. Khi chưa có đầy đủ thông tin, thì chưa thể có được sự “minh bạch, lành mạnh” đáng mong muốn.  Trong bối cảnh đó, Hồ sơ 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500 Profiles) phiên bản 2009, do Báo VietNamNet, Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (VNR) và Viện Nghiên cứu đổi mới truyền thông Hoa Kỳ (IIM) đồng phát hành, là một cố gắng đáng ghi nhận nhằm nâng cao chất lượng của nguồn thông tin và những đánh giá xếp hạng bước đầu các doanh nghiệp lớn Việt Nam. VNR500 Profiles phiên bản 2009 còn được bổ sung các thông tin hỗ trợ hoạt động marketing cho doanh nghiệp như cập nhật địa chỉ và các vị trí lãnh đạo, nhân sự chủ chốt trong doanh nghiệp được giới thiệu và xếp hạng. Ngoài ra, VNR500 Profiles với song ngữ Việt-Anh sẽ góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh sự hiện diện trên thị trường quốc tế, cả về xuất khẩu và đầu tư quốc tế. VNR500 Profiles được quảng bá rộng rãi ở nước ngoài, thông qua hệ thống của Viện Nghiên cứu đổi mới truyền thông Hoa Kỳ, sẽ giúp doanh nghiệp  định vị vị thế của mình trong tầm quan sát của các đối tác đầu tư và kinh doanh quốc tế, mang đến nhiều cơ hội hợp tác làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam có chiến lược vươn ra sân chơi toàn cầu. Để xếp hạng tín nhiệm thì có các: Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam. Ví dụ: Báo cáo thường niên Chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2010, Báo cáo năm 2011 sẽ đi sâu phân tích, đánh giá, xếp hạng tín nhiệm những lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế Việt Nam dựa trên những phương pháp đã được giới thiệu trong Báo cáo năm 2010, đúng theo lộ trình mà Ban Biên soạn đã dự liệu từ 2 năm trước. Báo cáo này được đánh giá là tài liệu nghiên cứu hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách cũng như cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Báo cáo năm 2011 xoay quanh 5 chủ đề chính: -      Tổng quan những nét nổi bật tình hình kinh tế trong năm; khái quát tình hình thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ - ngân hàng năm 2010 và một số chỉ tiêu phản ánh tính dễ tổn thương của khu vực tài chính ở Việt Nam. -     Phân tích chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2010 - 2011. Phần này đã định vị được nền kinh tế Việt Nam đang ở đâu trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đồng thời chỉ rõ năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam có điểm gì tiến bộ hơn so với năm trước. -     Phân tích, đánh giá năng lực và vị thế của một số ngành định hướng xuất khẩu ở cấp độ doanh nghiệp. -     Phân tích năng lực tài chính và chỉ số tiến bộ công nghệ của 100 doanh nghiệp lớn và ngân hàng Việt Nam. Ở phần này, Báo cáo đi sâu vào phân tích, đánh giá năng lực tài chính, kết quả kinh doanh cũng như các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh và chỉ số tiến bộ công nghệ của 100 doanh nghiệp lớnvà ngân hàng. -   Xếp hạng tín nhiệm 596 doanh nghiệp đang niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam. 4.2. Công ty chứng khoán. Môi giới Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty. Trong trường hợp khách hàng của công ty chứng khoán mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty chứng khoán có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Tiền hoa hồng môi giới thường được tính phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch. Tùy theo quy định cua mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau như sau: Môi giới dịch vụ (Full Service Broker) Là loại môi giới có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán, giữ hộ cổ phiếu, thu cổ tức, cho khách hàng vay tiền, cho vay cổ phiếu để bán trước, mua sau và nhất là có thể cung cấp tài liệu, cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư. Môi giới chiết khấu ( Discount Broker) Là loại môi giới chỉ cung cấp một số dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán. Đối với môi giới loại này thì khoản phí và hoa hồng nhẹ hơn môi giới toàn dịch vụ vì không có tư vấn, nghiên cứ thị trường. Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành Đây là những nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của một Sở giao dịch, làm việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. 4.1.4. Môi giới độc lập Môi giới độc lập (Independent Broker) chính là các môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng hay thù lao theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại Sở giao dịch (sàn giao dịch) giống như các công ty chứng khoán thành viên. Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch. 4.1.5. Nhà môi giới chuyên môn Các sở giao dịch chứng khoán thường quy định mỗi loại chứng khoán chỉ được phép giao dịch tại một điểm nhất định gọi là quầy giao dịch (Post), các quầy này được bố trí liên tiếp quanh sàn giao dịch (floor). Trong quầy giao dịch có một số nhà môi giới được gọi là nhà môi giới chuyên môn hay chuyên gia. Các chuyên gia này chỉ giao dịch một số loại chứng khoán nhất định. Nhà môi giới chuyên môn thực hiện 2 chức năng chủ yếu là thực hiện các lệnh giao dịch và lệnh thị trường. Thị phần môi giới chứng khóan của các công ty đầu năm 2011 Sở GDCK Hà Nội thông báo về thị phần Môi giới chứng khoán của các CTCK thành viên quý I/2011 như sau: 1.   Mười (10) CTCK Môi giới CP lớn nhất trên HNX trong Qúy I/2011: STT Tên CTCK Thị phần MGCP (%) 1 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long 8,908% 2 Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDirect 6,270% 3 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh 5,590% 4 Công ty Cổ phần Chứng khoán Hòa Bình 4,799% 5 Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT 3,777% 6 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 3,622% 7 Công ty TNHH Chứng khoán ACB 3,590% 8 Công ty TNHH Chứng khoán NH Đông Á 2,882% 9 Công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam 2,540% 10 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sacombank 2,365% 2.     Mười (10) CTCK Môi giới TP lớn nhất trên HNX trong Quý I/2011: STT Tên CTCK Thị phần MGTP (%) 1 Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt 42,322% 2 Công ty TNHH Chứng khoán NH Ngoại Thương 19,313% 3 Công ty Cổ phần Chứng khoán NH Đầu tư và Phát triển VN 13,516% 4 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 5,780 5 Công ty Cổ phần Chứng khoán NH Nông Nghiệp & PTNT VN 4,854% 6 Công ty TNHH Chứng khoán ACB 3,669% 7 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sacombank 2,946% 8 Công ty TNHH Chứng khoán NH TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 1,835% 9 Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí 1,750% 10 Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT 1,594% Thị phần môi giới chứng khoán đầu năm 2011 có những thay đổi: 10 công ty chứng khoán có thị phần môi giới lớn nhất chiếm 51,59% thị phần tại sàn HOSE và 44,34% thị phần tại HNX trong quý 1/2011. Theo công bố của Sở  Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE), trong quý 1, SSI giữ vị trí số 1 với 11,74% thị phần môi giới. Đây là một mức khá cao so với mức 11,61% mà SSI đạt được trong quý 4/2010 và cao hơn hẳn mức 9,37% mà TLS đã đạt được khi ở vị trí số 1 trong quý I/2010. Với 8,58% thị phần, TLS  xuống thứ 2. HSC thứ 3 với 6,38% thị phần, giảm mạnh so với mức 8,71% thị phần mà HSC đạt được trong quý IV/2010. Vị trí thứ 4, thứ 5 và thứ 6 không có sự biến đổi so với quý trước khi Công ty Chứng khoán Sacombank (SBS), Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) và Công ty Chứng khoán FPT (FPTS) lần lượt nắm 4,98%, 4,8% và  3,51% thị phần. Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) vươn lên vị trí thứ 7 khi tăng thị phần lên 3,02% thay vì mức 2,5% trong quý 4/2010. Công ty Chứng khoán VPBank (VPBS) đạt 2,97% thị phần, xếp thứ 8, Công ty Chứng khoán Hòa Bình, chiếm 2,87% thị phần, vị trí thứ 9, và cuối cùng là Công ty Chứng khoán VnDirect (VNS) với 2,74% thị phần. Mất vị trí số 1 tại sàn HOSE, nhưng Chứng khoán Thăng Long vẫn giữ được vị trí số 1 về thị phần môi giới tại sàn HNX với 8,908% thị phần. Kết quả này giảm đáng kể so với mức thị phần 9,715% của quý 4/2010 và mức 11,94% của quý 1/2010. VNS đã vượt qua nhiều đối thủ để chiếm vị trí số 2 với 6,27% thị phần. HSC xuống vị trí thứ 3. Bám ngay sau HSC là Chứng khoán Hòa Bình với 4,799% thị phần. FPTS và SSI giữ vị trí thứ 5 và 6 với thị phần lần lượt là 3,777% và 3,622%. ACBS giữ vị trí thứ 7 với 3,59%, Chứng khoán Đông Á chiếm 2,882% thị phần. Không có mặt trong top 10 ở  sàn HOSE, nhưng Chứng khoán Quốc tế vẫn giữ được vị trí thứ 9 tại HNX với 2,54% thị phần. SBS đứng cuối bảng xếp hạng với 2,365% thị phần. Quản lý danh mục đầu tư - Theo Luật chứng khoán Việt Nam có hiệu lực từ 01/01/2007, chỉ có công ty quản lý quỹ mới được phép quản lý danh mục đầu tư. Như vậy, sau khi luật này có hiệu lực thì các công ty chứng khoán phải rút lại nghiệp vụ này. Tư vấn đầu tư Đây là một mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu tương đối cao cho công ty chứng khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải ký hợp đồng với tổ chức được tư vấn và liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết. Hoạt động này tương đối đa dạng bao gồm: + Xác định giá trị doanh nghiệp: là việc định giá các tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp trước khi chào bán chứng khoán. + Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: tùy theo điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp như tình hình tài chính, chiến lược phát triển của công ty… mà xác định loại chứng khoán phát hành là cổ phiếu hay trái phiếu. + Tư vấn chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiêp…: khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác, họ tìm đến các công ty chứng khoán để nhờ trợ giúp về các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành sao cho phù hợp và đỡ tốn chi phí… + Tư vấn đầu tư chứng khoán: là việc các chuyên viên tư vấn sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để tư vấn cho nhà đầu tư về thời điểm mua bán chứng khoán, loại chứng khoán mua bán, thời gian nắm giữ, tình hình diễn biến thị trường, xu hướng giá cả… Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CtyCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt Bảo lãnh phát hành Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây). Công ty Khối lượng bảo lãnh Giá bảo lãnh (đồng) Vốn chủ sở hữu của Cty CK (tỷ đồng) Hình thức bảo lãnh Số hợp đồng bảo lãnh Giá trị bảo lãnh (triệu đồng) BVSC 5.314 33.500 150 Chắc chắn 1 178 ACBS 880.000 67.000 250 Chắc chắn 1 58.960 Cty CK Thăng Long 108.758 451.000 120 Chắc chắn 2 49.050 Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không. Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này. Lưu kí chứng khoán: Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán.: là công việc đầu tiên để các chứng khoán có thể giao dịch trên thị tường tập trung – việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán – được thực hiện thông qua các thành viên lưu ký của thị trường giao dịch chứng khoán. - Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rẩt cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại Sở giao dịch chứng khoán. Vì vậy, lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại Sở giao dịch đươc diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng. Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán như rủi ro bị hỏng, rách, thất lạc chứng chỉ chứng khoán… 4.3. Công ty kiểm toán. Sự phát triển mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam và cùng với xu thế chung của nền kinh tế. Hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn tham gia vào quá trình thực hiện chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần nhằm đa dạng hóa sở hữu cũng như tăng tính thanh khoản trên thị trường. Đây là một xu thế tất yếu và phù hợp. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là các doanh nghiệp nên lựa chọn công ty kiểm toán nào để đặt niềm tin. Sự kiện chênh lệch số liệu chưa từng có của Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (mã chứng khoán: VCG) trước và sau kiểm toán đã tạo kỷ lục về chỉ số tài chính cơ bản trên thị trường chứng khoán Việt Nam: VCG hiện có P/E vào khoảng 1.636,6 lần với EPS chỉ là 31 đồng/CP. Hay như Công ty cổ phần Bóng đèn Điện Quang (mã chứng khoán: DQC) sau kiểm toán, lợi nhuận giảm 42%... Những tranh cãi, giải trình khá rắc rối nhưng những vụ việc này một lần nữa cho thấy vai trò của các CTKT. Điều 15 và 16 Luật Chứng khoán quy định, báo cáo tài chính năm của các tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức niêm yết, tổ chức kinh doanh chứng khoán... phải được kiểm toán bởi tô chức kiểm toán được chấp thuận. Tổ chức kiểm toán được chấp thuận là CTKT độc lập thuộc danh mục các CTKT được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận kiểm toán theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định. Sở dĩ có quy định này là vì thông tin trên thị trường chứng khoán rất nhạy cảm, tác động lớn đến lợi ích của công chúng nên yêu cầu về tính công khai, minh bạch thông tin của doanh nghiệp là rất cần thiết. Báo cáo tài chính đã kiểm toán là một trong những thông tin quan trọng để nhà đầu tư căn cứ vào đó xem xét hoạt động của doanh nghiệp thông qua tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Báo cáo tài chính được kiểm toán sẽ nâng cao tính minh bạch, công khai của thông tin, cũng như đảm bảo trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan, góp phần quan trọng trong việc lành mạnh hóa môi trường đầu tư. Để kiểm toán được minh bạch, nhà đầu tư và cổ đông phải được quyền chọn CTKT, để báo cáo tài chính đó sẽ nói lên đầy đủ tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó và nhà đầu tư căn cứ vào đó để quyết định nên giữ hay bán cổ phiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không biết có phải do trình độ của cổ đông kém, hay do họ không có thời gian tìm hiểu từng CTKT nên tại các ĐHCĐ, hầu hết các công ty niêm yết, công ty đại chúng đều đưa sẵn một danh sách các CTKT để ĐHCĐ chọn. Chưa thấy một công ty niêm yết nào để cổ đông đề xuất CTKT rồi đưa ra đại hội biểu quyết. Nhiều nhà đầu tư dí dỏm ví việc này giống như một người dẫn bạn bè vào nhà hàng sang trọng và hỏi bạn uống gì cứ kêu thoải mái: trà đá hay nước lọc? Nhiều ĐHCĐ cũng đưa ra một bản danh sách CTKT khá dài, nhưng lại không giới thiệu từng công ty mạnh, yếu như thế nào, uy tín ra sao. Họ chỉ yêu cầu ĐHCĐ biểu quyết ủy quyền cho HĐQT để chọn CTKT. Nếu ĐHCĐ thông qua việc ủy quyền này, như vậy cũng là hợp pháp và cũng không ai thắc mắc. Trong khi đó, các cổ đông là quỹ đầu tư nước ngoài có một yêu cầu là chọn CTKT nước ngoài để bảo đảm tính minh bạch cao. Không phải họ xem thường trình độ kiểm toán của CTKT Việt Nam, mà là họ ngại tính “dễ dãi” hay “nặng tình cảm” của kiểm toán viên với các doanh nghiệp. Do đó, dù biết việc chọn công ty nước ngoài kiểm toán sẽ làm tăng thêm giá trị của báo cáo tài chính nhưng ít công ty niêm yết dám làm để vừa lòng cổ đông. Điều đáng trách là HĐQT không phân tích cho nhà đầu tư biết vì sao chọn CTKT trong nước. Chẳng hạn, giải thích thêm đây là CTKT có uy tín, nhiều kinh nghiệm kiểm toán trong ngành này, hoặc chi phí có thấp hơn. Thật ra, nếu có tranh cãi về chọn CTKT thì phần thắng cũng thuộc về HĐQT- những cổ đông lớn chiếm tỷ lệ cổ phần cao nhất. Năm 2009, nhà đầu tư không mấy hài lòng về trường hợp CTKT của Gemadept (GMD) khi GMD thông báo điều chỉnh lợi nhuận năm 2008 từ lỗ sang lãi. Theo họ, cổ đông chính là người trả tiền cho kiểm toán, nhưng kiểm toán đã không làm hết trách nhiệm, khiến họ không tiếp cận đầy đủ và chính xác tình hình tài chính doanh nghiệp nên phải bán tháo cố phiếu ở mức giá dưới 20.000 đồng/CP (tháng 2/2009). Tất nhiên, không thể loại trừ việc giảm giá là do tác động của mặt bằng chung, nhưng rõ ràng, sau khi thông tin về việc hạch toán lợi nhuận tại Gemadept Vũng Tàu được công bố lại sau đó, giá cổ phiếu GMD đã tăng khá mạnh, khiến những nhà đầu tư đã bán hết cổ phiếu GMD càng thêm tiếc. Hay mới đây nhất, trong vụ việc hủy phát hành 7 triệu cổ phiếu ra công chúng của CTCP Dược phẩm Viễn Đông (mã chứng khoán: DVD) nhiều người đã đặt câu hỏi về vai trò, trách nhiệm của 2 công ty kiểm toán kiểm toán báo cáo tài chính năm 2008 và 2009 A&C và Ernst &Young. Người ta đặt ra câu hỏi liệu rằng nguyên nhân là do ban lãnh đạo DVD cố tình làm sai, giả mạo số liệu và sổ sách và công ty kiểm toán đưa ra những nhận định kiểm toán do bị qua mặt, không đánh giá được đúng tình hình (khi đó, về mặt pháp lý, công ty kiểm toán không chịu một chế tài nào cụ thể) hay đã có sự móc nối giữa 2 công ty kiểm toán trên với Ban lãnh đạo DVD? Nhà đầu tư hiện nay rất "sợ" kiểm toán không đánh giá được các yếu tố có thể tác động làm thay đổi lợi nhuận, vì như vậy sẽ gián tiếp tạo cơ hội cho doanh nghiệp “điều khiển” giá cổ phiếu do liên tục công bố lời lỗ thất thường. III. Kết luận 1. Thành tựu. a. Quy mô và hàng hóa của thị trường. Quy mô thị trường có xu hướng phát triển mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh thu hút vốn trung và dài hạn cho sự nghiệp CNH-HĐH. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Mức vốn hóa (tỷ) 1664 2542 2410 3874 9356 221156 494547 219774 614692 643401 Tỷ lệ vốn hóa (%) 0.34 0.48 0.39 0.63 1.11 22.7 43.23 18.08 55.00 32.495 Tốc độ tăng (%) 33.44 52.76 -5.19 60.75 141.51 2263.79 123.62 -55.56 179.69 4.67 (Nguồn: UBCKNN). b. Về xây dựng các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường: Tính đến đầu năm 2011, UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 102 công ty chứng khoán, với các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư. Trong hơn 10 năm qua, từ chỗ chỉ có 4 công ty chứng khoán thì nay đã có trên 100 công ty CK với địa bàn hoạt động ngày càng mở rộng. Đồng thời các công ty này ngày càng chú trọng năng lực quản trị, nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ. Ủy ban CK cũng chỉ định Ngân hàng BIDV làm ngân hàng thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước noài, UBCKNN đã cấp phép cho 6 ngân hàng nước ngoài thực hiện lưu ký chứng khoán cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, 38 tổ chức kiểm toán độc lập được chấp thuận làm nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính cho các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán. c. Khung pháp lý ngày càng hoàn thiện. Năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán. Trên cơ sở Nghị định 14 hướng dẫn thi hành Luật CK 2006, Bộ tài chính còn ban hành các văn bản hướng dẫn như: thông tư về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng; quy chế giám sát các giao dịch chứng khoán; quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán, quy chế đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ;.... d. Quản lý thị trường: Công tác quản lý nhà nước và điều hành thị trường chứng khoán tương đối linh hoạt, bảo đảm TTCK vận hành ổn định, không để xảy ra đổ vỡ, xáo trộn lớn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động quản lý và giám sát TTCK lấy trọng tâm là bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư; các chính sách của UBCK đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng bước áp dụng thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán (IOSCO). 2. Hạn chế a. Hàng hóa còn thiếu và yếu Chất lượng của các doanh nghiệp niêm yết chưa cao, thể hiện ở: + Chất lượng quản trị doanh nghiệp nói chung, bao gồm cả quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính, quản trị nhân sự,....còn thấp. Nguồn nhân lực đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt như HĐQT, ban giám đốc ... có trình độ chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của loại hình doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên Sở GDCK. Quản trị tài chính còn nhiều vấn đề, trong đó có tình trạng doanh nghiệp sản xuất nhưng lại đầu tư tài chính lớn,.......rất phức tạp và chưa được quản lý hiệu quả. + Nhiều doanh nghiệp niêm yết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,, quy mô vốn thấp, chất lượng kinh doanh chỉ đạt mức trung bình, cơ hội mở rộng và phát triển không cao. Chính vì vậy, vấn đề huy động huy động vốn qua TTCK của các DN niêm yết còn nhiều hạn chế. + Nhiều doanh nghiệp có chất lượng tốt, doanh nghiệp hàng đầu nền kinh tế chưa muốn tham gia thị trường niêm yết (CTCP Hàng tiêu dùng Masan – Masan Consumer; CTCP Cồn rượu Hà Nội - Halico; CTCP May Sông Hồng; CTCP Cồn; CTCP Bia Sài Gòn Bình Tây (Sabibeco);.....). + Chưa đánh gia một cách trung thực, chính xác chất lượng doanh nghiệp niêm yết: Chất lượng hoạt động thu thập, xử lý thông tin, nhất là công tác kế toán của các DN Việt Nam nói chung, doanh nghiệp niêm yết nói riêng chưa tốt. Chất lượng công tác kiểm toán chưa cao, chưa đánh giá một cách chính xác chất lượng của doanh nghiệp niêm yết. b. Hệ thống quản lý chưa hoàn thiện. Do là thị trường đang trong quá trình xây dựng và phát triển nên điều nay là không thể tránh khỏi. Sonh hệ thống quản lý lại lại thay đổi khá nhiều và nhanh trong thời gian ngắn nên cho thấy mức độ hoàn thiện thấp và khả năng dự báo còn thấp. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh: + Hệ thống luật pháp liên tục được thay đổi, sửa đổi, bổ sung song cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện. Còn nhiều quy định cần phải sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. + Hệ thống quản lý chưa ổn định, UBCKNN khi mới thành lập là cơ quan độc lập, mới được sáp nhập vào Bộ tài chính song lại có những ý kiến tách ra độc lập. c. Cấu trúc thị trường chưa hợp lý: + Ngoài 2 Sở GDCK là HOSE và HNX, nước ta còn có các thị trường giao dịch khác được hình thành tự phát: Hoạt động giao dịch thứ cấp tại các công ty chứng khoán. Hoạt động của thị trường OTC còn nhiều bất cập về tính minh bạch và độ rủi ro.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam.docx
Luận văn liên quan