Đề tài Vai trò và vị trí của các khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc thu hút FDI

MỤC LỤC Mở đầu Phân tích Chương I : Lý luận chung về khu công nghiệp, khu chế xuất 1.Khái niệm 2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp 3. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam cho đến nay Chương II : Vai trò, vị trí các khu công nghiệp, chế xuất Việt Nam trong việc thu hút đầu tư FDI 1. Thực trạng thu hút FDI vào các KCN, KCX ở Việt Nam những năm qua 2. Vai trò của KCN, KCX trong thu hút FDI 3. Một số tồn tại trong các KCN, KCX Tài liệu tham khảo

docx18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3094 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò và vị trí của các khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc thu hút FDI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mở đầu Phân tích Chương I : Lý luận chung về khu công nghiệp, khu chế xuất 1.Khái niệm 2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp 3. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam cho đến nay Chương II : Vai trò, vị trí các khu công nghiệp, chế xuất Việt Nam trong việc thu hút đầu tư FDI Thực trạng thu hút FDI vào các KCN, KCX ở Việt Nam những năm qua Vai trò của KCN, KCX trong thu hút FDI Một số tồn tại trong các KCN, KCX Tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU Để đạt được mục tiêu năm 2020, nước ta trở thành nước công nghiệp ,thì phát triển khu công nghiệp ( KCN), khu chế xuất (KCX) là một trong những nhân tố quan trọng. Có thể nói đến nay, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngành công nghiệp Việt Nam cũng như trong nền kinh tế đất nước. Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua đã và đang có những kết quả khích lệ đối với kinh tế xã hội đất nước. Các KCN, KCX với quy hoạch đồng bộ ,cơ sở hạ tầng phát triển tốt ,hình thành các dịch vụ cần thiết và có thủ tục đơn giản đã thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và được đánh giá là một trong những chiến lược quan trọng trong chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, công nghệ tiên tiến. Trong những năm vừa qua các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn cả nước đã có những bước phát triển.Tuy nhiên, chúng vẫn còn gặp một số khó khăn cần có phương hướng và biện pháp khắc phục nhằm khai thác được những tiềm năng. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT 1. Khái niệm: 1.1. Khái niệm khu Công nghiệp: Khu công nghiệp là khu tập trung chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống ,do Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.Trong khu công nghiệp còn có doanh nghiệp chế xuất. Khu chế xuất là khu công nghiệp đặc biệt chỉ dành cho việc sản xuất, chế biến những sản phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài hoặc dành cho các loại doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất-nhập khẩu tại khu vực đó với các ưu đãi về các mức thuế xuất-nhập khẩu hay các ưu đãi về giá cả thuê mướn mặt bằng sản xuất, thuế thu nhập cũng như cắt giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. Khu chế xuất có vị trí, ranh giới được xác định từ trước, có các cơ sở hạ tầng như điện, nước, đường giao thông nội khu sẵn có và không có dân cư sinh sống. Điều hành, quản lý hoạt động chung của khu chế xuất thường do một Ban quản lý khu chế xuất điều hành. Theo quy chế về KCN và KCX thì 2 khu này co những điểm giống và khác nhau: - Giống nhau: cả hai khu này đều sản xuất hàng công nghiệp, phần lớn là hàng tiêu dùng, áp dụng cơ chế quản lí đơn giản, đặt ở vị trí thuận lợi cho nhà đầu tư và không có dân cư sinh sống trong khu vực này. - Khác nhau: KCX phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra còn đối với KCN, sản phẩm được bán một phần trên thị trường nội địa. Trong khu công nghiệp có các loại doanh nghiệp sau đây: Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.2. Đặc điểm khu công nghiệp: Về mặt pháp lý: các khu công nghiệp là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp của Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như: luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất. Về mặt kinh tế: khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp. Các nguồn lực của các nước sở tại ,của các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào một khu vực địa lý xác định ,các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ cấu, nhưng ngành mà mới sở tại ưu tiên ,cho phép đầu tư. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tạo thuận lợi cho việc sản xuất – kinh doanh hàng hóa các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường. 1.3. Các lĩnh vực được cho phép đầu tư trong khu công nghiệp: Trong các khu công nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. - Sản xuất gia công ,lắp ráp các sản phẩm công nghệ để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ. - Dịch vụ và hỗ trợ sản xuất công nghiệp. - Nghiên cứu triển khai khoa học – công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Các ngành công nghiệp nhà nước khuyến khích đầu tư là cơ khí, luyện kim, điện tử ,công nghệ thông tin, hóa chất, hóa dầu, và một số ngành khác … 2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp : 2.1. Vị trí địa lí: Trong 10 yếu tố thành công của KCN, KCX của hiệp hội các khu chế xuất thế giới thì có hai yếu tố thuộc về yếu tố địa lí và điều kiện tự nhiên.Đó là: Gần các tuyến giao thông đường bộ ,đường hàng không ,đường biển. Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động. Rõ ràng việc xây dựng các KCN, KCX ở các khu vực này sẽ tận dụng đầu vào sẵn có ,làm giảm chi phí vận chuyển ,có điều kiện mở rộng khu công nghiệp thành công. 2.2. Vị trí kinh tế- xã hội: Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị. Do đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, đội ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn giỏi. Do vậy hiện nay ở nước ta các KCN, KCX chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn để tận dụng các điều kiện sẵn có, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư , tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.3. Kết cấu hạ tầng: Đây là yếu tố (xuất phát điểm) có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn đầu tư vào các KCN, KCX. Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sự quan tâm là vị trí thì riêng với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng như : điện nước ,công trình công cộng khác như đường sá ,cầu cống …tác động trực tiếp đến giá thuế đất, ảnh hưởng tâm lí đầu tư. 2.4. Thị trường: Đối với các công ty nước ngoài ,mục tiêu đầu tư vào các KCN, KCX là tận dụng thị trường nước chủ nhà, đưa nguồn vốn và hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ đọng vốn ,đồng thời có thể tận dụng nguồn nhân công rẻ và thị trường rộng lớn . Nghiên cứu thị trường là một trong các hạng mục phải xem xét trong quá trình lập dự án nghiên cứu khả thi. 2.5. Vốn đầu tư nước ngoài: Trong khi các nướ đang phát triển gặp phải tình trạng thiếu vốn thì các công ty xuyên quốc gia đang có nguồn vốn lớn mong muốn có một môi trường đầu tư có lợi nhất song không phải ở bất kì đâu học cũng bỏ vốn đầu tư. 2.6. Yếu tố chính trị: Quan hệ chính trị tốt đẹp là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế .Thông thường những tác động này thể hiện ở: Việc giành cho các nước kém phát triển điều kiện ưu đãi về vốn ,đặc biệt là vốn ODA ,các khoản viện trợ không hoàn lại hay các khoản cho vay ưu đãi . Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên vật liệu , sản phẩm ,thiết bị công nghệ. Kí kết các hiệp ước thương mại giữa các Chính phủ cho phép các tổ chức kinh tế ,cá nhân, các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia. 3. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam cho đến nay: Ở Việt Nam, quy chế KCX được ban hành kèm theo Nghị định 322/HĐBT ngày 18/10/1991, quy chế KCN được ban hành kèm theo Nghị định 192/CP ngày 28/02/1994. Đồng thời còn có một số văn bản hướng dẫn điều kiện thành lập KCN, KCX do Bộ kế hoạch và đầu tư ban hành theo công văn số 7904 BKH/KVN ngày 08/02/1997. Ở Việt Nam, căn cứ vào quy mô và chức năng có các loại hình KCN, KCX sau: - KCN được thành lập trên khu khuôn viên đã có sẵn của một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Ở đây, vấn đề cần phải đặt ra là phải nâng cấp cơ sở hạ tầng kĩ thuật theo đúng kế hoạch mới và bảo vệ môi trường. - KCN được thành lập nhẳm đáp ứng nhu cầu di dời các nhà máy, xí nghiệp trong nội thành các đô thị lớn do nhu cầu chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường. - Các KCN nhỏ gắn với các nguồn nguyên liệu nông, lâm, thủy sản như ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng trungdu Bắc Bộ và duyên hải miền Trung. Ba loại hình trên hiện chiếm đến hơn nửa số lượng các KCN ở nước ta hiện nay Các KCN hiện đại, xây mới hoàn toàn,thuộc loại hình này hiện có 20 khu, trong đó có 13 khu (kể cả 3 KCX) do các công ty liên doanh nước ngoài đầu tư. Bảng 1: Các KCN, KCX tại Việt Nam STT Vùng Số lao động Số lượng đến 3/2004 Sô khu Diện tích (Ha) 1 Tp. Hồ Chí Minh 120.000 14 2.650 2 Đồng Nai 104.000 10 2.950 3 Bình Dương 38.000 8 1.500 4 Hà Nội 11.230 6 720 5 Hải Phòng 4.500 3 470 6 Đà Nẵng 28.020 3 1.000 7 Các địa phương khác 94.250 52 9.340 Tổng cộng 400.000 96 18.630 Nguồn: HVQHQT, Giáo trình Kinh tế đối ngoại, trang 269. Nếu không tính các KCN có trước 1975, trong hơn 12 năm (tính đến 3/2004) đã có 96 khu được thành lập, trong đó có 93 KCN, 3 KCX ( Tân Thuận, Linh Trung, Hải Phòng) với tổng diện tích trên 18.630 ha (không kể khu kinh tế Dung Quất 14.000 ha và khu kinh tế mở Chu Lai). Về quy mô, bình quân diện tích là 198ha/ khu, da động từ 100-300 ha với 70% diện tích đất dành cho việc bố trí các cơ sở công nghiệp, còn lại là dịch vụ hạ tầng và các dịch vụ khác. Khu lớn nhất là khu Phú Mỹ 1 với diện tích 954,4 ha, nhỏ nhất là khu Bình Chiểu tại Tp. Hồ Chí Minh với 28 ha. Trong năm 2004, chính phủ cho phép Bình Dương thành lập khu liên hợp công nghiệp- dịch vụ- đô thị với diện tích 4.300 ha. Ngoài ra, ở các tỉnh thành trong cả nước đã hình thành hơn 124 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 6.500 ha. Hiện còn khoảng 350 khu vực ở các tỉnh thành được đề nghị quy hoạch phát triển các KCN với tổng diện tích khoảng 35.000 ha. Về tình hình đầu tư tại các KCN được thể hiện trong bảng dưới đây: Bảng 2: Vốn đầu tư đăng kí tại các KCN, KCX: Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đăng kí Đầu tư XD CSHT KCN, KCX Trong đó: Dự án đầu tư nước ngoài: Dự án đầu tư trong nước: Dự án đầu tư sản xuất CN và dịch vụ trong KCN, KCX: Dự án đầu tư nước ngoài: Dự án đầu tư trong nước: 82 19 63 2.431 2.184 1.147 995 triệu USD 16.573 tỉ VND 10.386 triệu USD 57.382 nghìn tỉ VND Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Hiện có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào các KCN, KCX, trong đó, các quốc gia châu Á giữ vị trí quan trọng. Nếu căn cứ theo số dự án thì 7 nước và vùng lãnh thổ châu Á gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Malaysia đã chiếm đến hơn 80%. Về cơ cấu ngành, các dự án đầu tư và các khu này chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc, chế biến gỗ,…) và công nghiệp thực phẩm. Đây là những ngành thu hút nhiều lao động và có tỉ lệ xuất khẩu cao. Ngoài ra cũng có các dự án công nghiệp nặng, chủ yếu là điện, điện tử, VLXD, hóa chất, sắt thép, cơ khí,…Tuy nhiên, số lượng các dự án vào các ngành này chưa nhiều. Bảng 3: 10 quốc gia, vùng lãnh thổ đứng đầu về đầu tư vào các KCN, KCX STT Quốc gia- Vùng lãnh thổ Số dự án Vốn đầu tư (USD) 1 Nhật Bản 165 1.836.213.919 2 Đài Loan 433 1.593.245.617 3 Hàn Quốc 156 1.485.479.857 4 Singapore 86 724.687.606 5 British Virgin Islands 55 669.206.181 6 Hồng Kông 67 559.917.384 7 Thái Lan 34 418.813.530 8 Hoa Kỳ 47 385.134.372 9 Cayman Islands 4 360.184.730 10 Malaysia 44 290.364.733 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam Về tình hình lắp đầy KCX, KCN: trong cả nước hiện đã có 45% tổng diện tích các KCN. KCX được cho thuê. Có một số khu đã được lấp đầy như: KCN Biên Hòa II, KCX Linh Trung I, KCN Việt Nam- Singapore giai đoạn I, Thăng Long giai đoạn I, Phú Tài, Hòa Hiệp,…Tuy nhiên, cũng có một số khu tuy đã có quyết định thành lập từ 4-7 năm mà việc triển khai dự án cũng chỉ mới ở bước chuẩn bị, hoặc tỉ lệ lấp đầy rất thấp như: KCX Hải Phòng, KCN Cát Lái cụm IV (Tp. HCM), KCN Sài Đồng A (HN), KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc), KCN Đình Vũ (Hải Phòng). CHƯƠNG II VAI TRÒ, VỊ TRÍ CÁC KCN, KCX VIỆT NAM TRONG VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ FDI TRONG NHỮNG NĂM QUA. 1. Thực trạng thu hút FDI vào các KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm qua: Có thể nói trong những năm gần đây, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã dần trở thành vị trí trung tâm trong việc thu hút FDI vào Việt Nam. Không những thế còn luôn hướng tới sự cân bằng giữa thu hút đầu tư và bảo vệ môi trường bền vững. Đặc biệt là các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Giang, Hải Phòng (tổng vốn đầu tư vào các KCN như sau: FDI là l,588 tỷ USD và DDI là 12.735 tỷ đồng, đạt xấp xỉ 2,4 tỷ USD, Tính luỹ kế từ khi các doanh nghiệp trong các KCN đi vào hoạt động đến tháng 12/2008, tổng số nộp ngân sách đạt trên 64 triệu USD và khoảng 1.500 tỷ đồng.-năm 2008), Vĩnh Long , bà rịa-Vũng tàu, Khu công nghiệp Dung Quất thuộc thành phố Đà Nẵng- Năm 2008, đứng trước những khó khăn thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước ta nói chung và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của KKT Dung Quất nói riêng, tình hình đầu tư phát triển tại KKT Dung Quất vẫn tiếp tục có những chuyển biến tích cực, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào KKT và hoạt động SXKD của các doanh nghiệp trong KKT vẫn trụ vững và có bước phát triển tích cực..Đặc biệt phải kể đến Bình Dương, Bình Dương là tỉnh có tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao nhất, số lượng KCN nhiều nhất, một trung tâm công nghiệp phát triển của cả nước, không kể hai KCN Việt Nam-Singapore I, II, riêng các KCN thuộc phạm vi quản lý của tỉnh đến nay gồm có 27 KCN, trong đó hiện có 24 KCN đang hoạt động. Lũy kế đến 30/6/2009, tại các KCX, KCN thành phố HCM có 1.161 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,49 tỷ USD. Trong đó, đầu tư nước ngoài 466 dự án, vốn đầu tư đăng ký 2,64 tỷ USD; đầu tư trong nước 695 dự án, vốn đầu tư đăng ký 27.753,66 tỷ đồng. Suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, trong những tháng đầu năm 2009, tình hình thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước tại các KCX, KCN của thành phố HCM giảm sút so với cùng kỳ năm 2008, do các nhà đầu tư không mạnh dạn đầu tư vì gặp khó khăn về vốn và thị trường tiêu thụ. Trong 10 dự án có quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006 phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD. Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7 tỷ USD. Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại tỉnh này. Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD. Như vậy, tính từ trước đến nay, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút gần 2.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký trên 20 tỷ USD. Đối với các chuyên gia, kết quả nổi bật về thu hút FDI của các khu công nghiệp trong năm 2006 không phải là điều gì quá ngạc nhiên. Theo họ, đó chính là sự nối tiếp thành quả của những năm trước, và điều này càng thêm khẳng định một dự báo trước đó rằng các khu công nghiệp sẽ là viên nam châm "hút" nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam. Cộng với quyết định của Thủ tướng phê quyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, với mục tiêu hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt công nghiệp quốc gia, viên nam châm này sẽ được tiếp thêm một năng lượng lớn. Nhiều ý kiến cũng cho rằng với việc Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), sẽ có nhiều cơ hội hơn được tạo ra cho nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó các khu công nghiệp càng trở nên hấp dẫn hơn, làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng mạnh cả về nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Không chỉ thu hút vốn trực tiếp, sắp tới, với việc lên sàn giao dịch chứng khoán, các khu công nghiệp còn có thế mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Các khu công nghiệp phía Nam của các địa phương: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tp.HCM, và Đồng Nai vẫn là những đơn vị thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất của cả nước, với 205 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,9 tỷ USD, chiếm 73% số dự án và 76% số vốn thu hút mới trong các khu công nghiệp trên cả nước (tính trong 11 tháng đầu năm). Những tỉnh, thành phố này cũng thuộc diện danh sách các địa phương thu hút trên 100 triệu USD trong năm 2006. 2. Vai trò của KCN, KCX trong thu hút FDI: Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp ( FDI) có vai trò then chốt để thực hiện công nghiệp hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Nam châm dung để hút nguồn vốn này chính là KCN, KCX, nhưng để làm tốt điều đó cũng có phần không nhỏ của nhà nước. 2.1.Vai trò của nhà nước: 2.1.1. Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư Môi trường pháp lý có vai trò quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Thể chế chính trị ổn định, hệ thống pháp luật đồng bộ, thủ tục đầu tư đơn giản và nhiều chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Nhà nước ta không ngừng cải thiện môi trường pháp lý để thu hút FDI nhưng điều kiện vẫn còn hạn chế. 2.1.2. Đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư: Thủ tục đầu tư đơn giản, với những hướng dẫn cụ thể tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ở Thái Lan có Luật xúc tiến thương mại quy định rõ ràng cơ quan nào, ngành nào có nhiệm vụ gì trong việc xúc tiến đầu tư. Trung Quốc thực hiện phân cấp, phân quyền, nâng cao quyền hạn nhiều hơn cho các tỉnh, thành phố, khu tự trị trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Nhà nước cho phép mỗi tỉnh, thành phố, khu tự trị có những đặc quyền trong quản lý, phê chuẩn dự án đầu tư..vai trò của nhà nước trong lĩnh vực này cũng hết sức quan trọng. 2.1.3. Công khai các kế hoạch phát triển kinh tế: Thái Lan thực hiện tốt công tác quy hoạch và công khai các kế hoạch phát triển đất nước từng giai đoạn, ngắn và trung hạn. Trung Quốc cũng công bố rộng rãi và tập trung hướng dẫn đầu tư nước ngoài vào các ngành được khuyến khích phát triển. 2.1.4. Hệ thống pháp luật đồng bộ,đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư: Hàn Quốc chú trọng xây dựng hệ thống luật đồng bộ, đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài được hưởng mức lợi nhuận thỏa đáng. Trung Quốc thể hiện sự quan tâm đến những quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài bằng cách thường xuyên bổ sung, sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, đảm bảo tính thực thi nghiêm túc. Những hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hay áp đặt thuế sai quy định đối với các doanh nghiệp nước ngoài bị xử lý nghiêm khắc.Nhiều quy định được xóa bỏ để phù hợp với pháp luật kinh doanh quốc tế như tỷ lệ nội địa hóa, cân đối ngoại tệ. Nhà nước cần phải mở rộng phạm vi ngành nghề tạo sự đa dạng trong hoạt động đầu tư. 2.1.5. Giảm thuế, ưu đãi tài chính tiền tệ: Thu nhiều nhất lợi nhuận từ dự án luôn là mục đích hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư như giảm thuế, ưu đãi tiền tệ, cho vay ngoại tệ...nhằm thu hút nhiều nhất nguồn vốn FDI vào các nước. Việt Nam cần cân nhắc kĩ trong vấn đề này để tạo điều kiện thuận lợi cho FDI cũng như không bị những thiệt hại cho quốc gia. 2.1.6 .Cho phép nhà đầu tư hoạt động trên thị trường tài chính: Cần mở cửa đầu tư nước ngoài tham gia các hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, sát nhập và mua lại các công ty trong nước, giao dịch ngoại hối.... Doanh nghiệp FDI cần đượcđược cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối, mở tài khoản ngoại tệ, vay vốn từ các ngân hàng nếu được bảo lãnh bởi các cổ động nước ngoài. Ngoài ra, còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước như các ngân hàng (ngoại trừ các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng đến kinh tế và an ninh quốc gia). 2.1.7. Xây dựng cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận tiện cho việc buôn bán và giao lưu quốc tế luôn là yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư. Các nước Châu Á như Thái Lan , Trung Quốc, Hàn Quốc đã thấy được tiềm năng thu hút nguồn vốn FDI từ yếu tố này. Chính vì vậy, họ đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà xưởng, đường giao thông, viễn thông, dịch vụ...nhằm tạo môi trường hấp dẫn và dễ dàng cho các nhà đầu tư khi hoạt động trên đất nước mình. Thái Lan chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng: hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ thống sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, kho bãi hiện đại, thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch. Nước này cũng xây dựng thành công hệ thống viễn thông, bưu điện, mạng internet thông suốt cả nước phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế. Việt Nam cần tăng cường cải thiện cơ sở hạ tầng vì nó là vấn đề then chốt quyết dịnh thu hút FDI nước ngoài. 2.2. Vai trò của KCN, KCX: 2.2.1. Thu hút FDI của KCN,KCX tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế: Đối với Việt Nam, để tăng trưởng và phát triển kinh tế, đòi hỏi phải có một lượng đầu tư rất lớn. Vốn trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX là rất quan trọng vì nó phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước. Theo ngân hàng thế giới(WB), các dự án thực hiện trong KCN, KCX do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh vời nước ngoài thực hiện (24%do liên doanh với nước ngoài, 33% do các nhà đầu tư nứơc ngoài, 43%do đầu tư trong nước). Do vậy, KCN, KCX đã góp phần đáng kể trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho nước chủ nhà. 2.2.2.Vai trò thu hút công nghệ: Việc tiếp thu công nghệ và kĩ năng là mục đích là các nước đang và kém phát triển rất quan tâm. Tình trạng lạc hậu về công nghệ của các nước này làm cho hy vọng thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX công nghệ sẽ được chuyển giao. Bởi vì để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trườngnội địa và thế giới, nhà đầu tư thường đưa vào KCN, KCX những công nghệ tương đối hiên đại và cả những công nghệ tiên tiến, hiện đại cảu thế giới.Mặc dù trong các KCN, KCX , người ta chủ yếu thực hiện sản xuất hàng tiêu dung, gia công lắp ráp, nhưng thực ra, quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra dưới nhiều hình thức:đào tạo công nhân nước chủ nhà sử dụng máy móc, công nghệ sản xuất. Nhờ đó chúng ta có thể học tập được phương thức sản xuất và cả kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. 2.2.3. KCN, KCX thu hút FDI tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa: Nhờ tác động của vốn, khoa học công nghệ do đầu tư nước ngoài mang lại đã làm cho cơ cấu kinh tế được chuyển dịch. Hướng chuyển dịch là tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp: số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào KCN, KCX sẽ thu hút được một lượng lao động lớn , giải quyết được công ăn việc làm cho nước sở tại. Ngoài ra, KCN, KCX còn góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tê cho đất nước. Theo thống kê của WEPZA (Hiệp hội KCN, KCX thế giới): một KCN, KCX diện tích khỏang 100ha, cần đầu tư 50triệu USD cho cơ sở hạ tầng trong 20 năm sẽ tạo việc làm cho 10000 lao động. Từ đó tạo ra hàng xuất trị giá 100 triệu USD/năm và 100triệu USD/năm thông qua thu nhập gián tiếp ngoài KCN, KCX. Như vậy tính bình quân mỗi một công nhân trong KCN hay KCX tạo ra giá trị 5000-10000USD/năm. Thực tế đã có rất nhiều nước tiến hành CNH, HĐH đất nước thành công nhờ một phần không nhỏ vào kết quả họat động của KCN, KCX. Trung Quốc thời bắt đầu mở cửa đã chọn các tỉnh Duyên Hải xây dựng hàng loạt các KCN, KCX tập trung đã biến các vùng đất không có khả năng sản xuất nông nghiệp thành trung tâm công nghiệp, đô thị , từ đó mở rộng hơn vào nội địa. Bên cạnh đó, Hàn Quốc từ cuối thập kỉ 60 đã xây dựng hàng loạt các KCN, KCX cùng các thành phố mới, các tập đòan công nghiệp lớn lên từ đó…Nhật Bản,Đài Loan thành công trong các khu CN cao tạo ra các đột phá về công nghệ thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển, chiếm vị trí hàng đầu thế giới nhưcác sản pẫm điện tử, tin học, viễn thông, chế tạo xe hơi, luyện kim… Tại Việt Nam, vào đầu thập kỉ qua đã hình thành một số KCN, KCX. Hành công bước đầu và quá trình phát triển lớn mạnh cảc các KCN, KCX đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường CNH, HĐH đất nước. 2.2.4. Góp phần mở rộng đầu tư quốc tế: Ngày nay trên thế giới không chỉ diễn ra sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư mà còn diễn ra cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đi đầu tư. Xu hướng đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy, đầu tư trực tiếp vào KCN, KCX cũng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước chủ nhà với các nước, lãnh thổ của chủ đầu tư. 3. Một số tồn tại trong KCN, KCX: KCN là đầu mối quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và FDI, nếu như vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong giai đoạn 1994-1997 thì vài năm gần đây việc thu hút đầu tư vào các KCN có chiều hướng giảm dần. Tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX năm 2003 giảm hơn cùng kỳ năm trước xuất phát từ các nguyên nhân và một số tồn tại:  - Việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp không theo một quy hoạch thống nhất, hầu như địa phương nào cũng có các khu công nghiệp với chức năng tương tự nhau nên không tận dụng được những lợi thế so sánh, dẫn tới tình trạng cạnh tranh nhau gay gắt, thậm chí có tình trạng chèn lấn để thu hút đầu tư. - Thiếu sự phối hợp giữa các KCN, giữa các địa phương trong các vùng. Các KCN thường phát triển riêng rẽ, đầu tư tất cả các hạng mục công trình, kể cả xây dựng các cụm dân cư, đầu tư tốn kém, giảm hiệu quả hoạt động của các KCN. - Việc chọn địa điểm xây dựng các khu công nghiệp là việc làm nghiêm túc song chưa tuân theo các nguyên tắc. Ở nhiều nơi có quá nhiều khu công nghiệp dẫn tới sự cạnh tranh khốc liệt của những nhà đầu tư về lựa chọn địa điểm, dẫn tới tốn kém xây dựng kết cấu hạ tầng và chôn vốn vào kết cấu hạ tầng lâu và lớn, hiệu quả khu công nghiệp bị giảm sút. - Các khu công nghiệp còn bất cập về cơ cấu ngành nghề, về đầu tư chiều sâu. Chất lượng các dự án đầu tư thu hút chưa cao, chất lượng KCN không ngang tầm khu vực. - Sự phát triển các KCX, KCN đang là cấp thiết, bức xúc, song sự phát triển đang gặp nhiều khó khăn trở ngại, khó khăn chủ yếu vẫn nằm trong khâu đất đai, đền bù. Theo ban quản lý các KCN, KCX, đầu tư vào các KCN giảm nguyên nhân chính là do các KCN không có sẵn đất để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư do thiếu quỹ đất, mặc dù khách hàng không nhiều, trong khi quỹ đất còn nhiều nhưng lại không khai thác được do giá đền bù giải tỏa tăng mạnh, giá san lấp mặt bằng lớn. Mặt khác giá thuê đất lrong KCN, KCX khá cao, giá cả đất đai của các thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất ở TP. HCM cao gấp 4-6 lần ở Trung Quốc, gấp 6 lần Thái Lan. - Ở Việt Nam nguyên nhân chính sụt giảm nguồn vốn đầu tư, kể cả FDI vào các KCN còn là do chưa đáp ứng tốt các nhu cầu về dịch vụ cơ sở hạ tầng. Tiến độ thi công cơ sở hạ tầng chưa bảo đảm, dịch vụ cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được, điện, nước, điện thoại không ổn định ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong các KCN. - Các KCN được lập quá nhiều, chiếm diện tích đất khá lớn trong quỹ đất hạn hẹp của nước ta, tổng 1 số đất cho thuê chỉ bằng 45% diện tích có thể sử dụng. Nhiều KCN thành lập cách nay 2-3 năm, thậm chí 4-5 năm mà chưa có khách đến thuê: KCX Hải Phòng, KCN Sài Đồng A Hà Nội, KCN Kim Hoa Vĩnh Phúc là những thí dụ. Diện tích đất nông nghiệp bị giảm khá nhiều như ở Bình Dương trong 2 năm (2000-2002) giảm mất 3.642 ha. - Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển các KCN, KCX. Các dự án đầu tư thu hút vào các KCN ở các địa phương có nhu cầu lớn về cán bộ quản lý người Việt Nam giỏi, công nhân tay nghề cao, kỷ luật lao động tết, song đa số các nơi không đáp ứng được. - Cơ chế quản lý các KCN còn nhiều bất cập, chưa làm rõ cơ chế quản lý, mối quan hệ giữa các cơ quan liên quan vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ, chậm ban hành sửa đổi bổ sung quy chế KCN, KCX. - Chính sách thuế tài chính còn nhiều tồn tại, chẳng hạn chính sách KCX của Việt Nam ra đời cách đây 10 năm ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư. ở các nước doanh nghiệp đầu tư vào KCX được bán hàng sản xuất vào nội địa thì Việt Nam lại buộc doanh nghiệp trong KCX phải xuất khẩu 100%. Doanh nghiệp nội địa đưa hàng vào KCX gia công khi nhận hàng ra phải đóng thuế như hàng nhập khẩu, kết quả là doanh nghiệp trong KCX ít nhận được hàng gia công từ nội địa, còn doanh nghiệp nội địa thích nhập khẩu. Tài liệu tham khảo - Tài liệu giảng dạy Kinh tế đối ngoại của Khoa Kinh Tế.. - Các tài liệu trên mạng: -Bài luận của các khóa trước -Website Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxVai trò và vị trí của các khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc thu hút FDI.docx
Luận văn liên quan