Có thể nói việc thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam – VAMC được xem như một
động thái thiết thực và thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc xử lý nợ xấu trong hệ
thống các tổ chức tín dụng nói riêng, trong nền kinh tế Việt Nam nói chung. Khối lượng nợ xấu
hiện hữu giống như một cục máu đông làm tắt ngẽn dòng luân chuyển vốn của nền kinh tế, tác
động tiêu cực đến sự tăng trưởng, tiềm ẩn nguy cơ gây suy thoái kinh tế. Với quy mô nợ xấu
ngày càng gia tăng trầm trọng thêm, dường như những giải pháp xử lý nợ xấu thời gian qua của
bản thân các TCTD, cũng như của Chính phủ không còn phát huy hiệu quả và lâm vào bế tắc.
Trong tình thế hiện nay, công ty quản lý tài sản Việt Nam - VAMC được kỳ vọng sẽ là giải pháp
khả thi và triệt để nhằm xóa tan dần khối u nợ xấu của nền kinh tế, khi mà các TCTD không đủ
nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của mình và cơ sở pháp lý của Việt Nam
vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu so với các chuẩn mực thế giới. Một VAMC được thành lập với mục
tiêu, nhiệm vụ rõ ràng kèm theo cấu trúc chặt chẽ sẽ là tiền đề cho hy vọng mang lại hiệu quả
hoạt động cần thiết trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
37 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2474 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dự án thành lập công ty quản lý tài sản Việt Nam – VAMC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực tiễn từ sự hình thành và hoạt động của các AMC ở một số nước
trong khu vực Châu Á- Hàm ý cho Việt Nam
Phần lớn các AMC công tại các nước Đông Á trong thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực
(1997) đã được xây dựng theo mô hình đa mục tiêu: gấp rút bán, thanh lý nợ xấu đồng thời với
thực hiện tái cấu trúc. Tại Hàn Quốc, vai trò tái cấu trúc doanh nghiệp của KAMCO trong quá
trình giải quyết một danh mục nợ xấu khổng lồ là rất rõ ràng, cho dù nhiệm vụ mấu chốt được đề
ra ngay từ khi AMC này được thành lập là giải quyết nợ xấu trong nền kinh tế càng sớm càng tốt.
Tại Malaysia, mặc dù có một cơ quan riêng tập trung vào tái cấu trúc doanh nghiệp (CDRC),
nhưng AMC công tại quốc gia này là Danaharta đã vẫn tham gia một cách gián tiếp và trực tiếp
vào quá trình tái cơ cấu phức tạp này.
Tại các quốc gia khác trong khu vực Đông Á trong giai đoạn khủng hoảng này, danh mục
các nhiệm vụ chính của AMC được đúc kết từ kết quả của việc thực thi các chính sách đặt ra
ngay từ đầu khi thành lập. Tiêu biểu như Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng tại Indonesia (IBRC)
được thành lập ngay từ năm 1998 với mục tiêu ban đầu là tập trung hơn vào tái cấu trúc doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trước áp lực phải nhanh chóng thanh lý các khoản nợ xấu để tài trợ cho một
ngân sách ngày càng bị thâm hụt, cơ quan này đã phải tiến hành bán các khoản nợ xấu chưa được
tái cấu trúc kể từ đầu năm 2002. Tương tự, AMC tại Trung Quốc, sau bốn năm giành rất nhiều
thời gian và nguồn lực cho việc tái cấu trúc hàng trăm doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn (chiếm
khoảng 1/3 tổng giá trị các khoản nợ xấu được bốn AMC này mua) chủ yếu thông qua nghiệp vụ
biến các khoản nợ thành cổ phần tại các doanh nghiệp, bốn AMC công của Trung Quốc sau đó
đã tập trung hơn vào việc bán và thanh lý các khoản nợ xấu thông qua các công cụ khác nhau.
Trong khi đó tại Nhật Bản, do được xây dựng với vai trò là một cơ quan thu gom nợ xấu, AMC
công của quốc gia này (RCC) đã chỉ áp dụng một biện pháp chính là tập trung tối đa thu hồi các
khoản nợ xấu. Chỉ sau khoảng ba năm kể từ ngày thành lập thì vai trò tham gia vào việc tái cấu
trúc doanh nghiệp mới được thêm vào trong chức năng hoạt động của RCC.
2.1. Các loại mô hình công ty quản lý tài sản
Tại các quốc gia trên thế giới, có nhiều loại mô hình công ty mua bán nợ: Công ty do nhà
nước góp vốn hoặc công ty do tư nhân góp vốn. Đối với các công ty mua bán nợ tư nhân, một số
thì hoạt động độc lập, một số khác là công ty con của các ngân hàng hoặc đơn vị hoạt động trực
thuộc ngân hàng. Đối với các công ty xử lý nợ của nhà nước thì thường hoạt động khá hiệu quả
khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp lý đối với việc xử lý nợ vẫn còn yếu. Có
những lúc trên thị trường, các khoản nợ xấu không có người mua thì công ty xử lý nợ của nhà
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
19
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
nước có thể là nơi tiêu thụ các khoản nợ xấu nói này, và khi khung pháp lý cho việc xử lý nợ xấu
chưa được chặt chẽ thì công ty xử lý nợ của nhà nước có thể giúp rút ngắn được quy trình xử lý
nợ. Hơn nữa, việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng thông qua các công ty xử
lý nợ của nhà nước có thể tạo ra cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân hàng
tái cấu trúc lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình.
Xét ở một khía cạnh khác, việc thiết lập các công ty xử lý nợ tập trung của nhà nước đòi
hỏi Chính phủ phải đầu tư với số lượng vốn lớn. Điều này khiến nhiều quốc gia có khủng hoảng
nợ xấu miễn cưỡng thiết lập các tổ chức xử lý nợ tập trung này. Chẳng hạn, Thái Lan là nước
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ rất lớn trong năm 1997, song đến năm 2001 đất nước này
mới thành lập được công ty xử lý nợ tập trung. Thông thường, các công ty quản lý nợ tập trung
là những cơ hội cho việc can thiệp chính trị và nó cũng thiếu tính linh hoạt hành chính trong việc
quản lý các tài sản do có sự cấu kết bên trong giữa các bên liên quan. Nếu các công ty xử lý nợ
tập trung của nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thì chúng phát sinh chi phí hoạt động rất lớn
cũng như làm tiêu hao tài sản chưa được thanh lý và chưa được cơ cấu lại qua thời gian. Việc
thiếu nguồn nhân lực cũng là một trở ngại lớn cho thiết lập các công ty xử lý nợ tập trung.
Ngược lại, do ít chịu sự chi phối trong quá trình ra quyết định, các công ty xử lý nợ tư nhân
thường linh hoạt trong quản lý hơn các công ty quốc doanh. Đối với các đơn vị trực thuộc ngân
hàng hay các công ty con của ngân hàng, việc cơ cấu nợ cũng dễ dàng hơn nhiều, do các đơn vị
này đã có sẵn hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ và các con nợ. Nếu các công ty xử lý nợ tư
nhân này có đủ nguồn nhân lực có kỹ năng và kinh nghiệm trong việc quản lý các khoản nợ xấu,
thì họ có thể làm gia tăng giá trị của các khoản nợ này. Kết quả là, họ sẽ bán ở mức cao hơn. Tuy
nhiên, nếu môi trường pháp lý có khuynh hướng ủng hộ các con nợ, thì các công ty xử lý nợ tư
nhân có thể phải gặp rắc rối trong các cuộc thương thảo về cơ cấu nợ. Việc này sẽ làm phát sinh
chi phí hoạt động, đặc biệt trong các trường hợp mà việc trì hoãn có thể dẫn đến làm thất thoát
hoặc hư hỏng các tài sản đang chờ xử lý. Trong khi đó, các công ty xử lý nợ quốc doanh có thể
bỏ qua dễ dàng các thiếu sót về khung pháp lý thông qua các quyền hạn đặc thù. Đặc biệt, ở các
quốc gia đang phát triển, công ty xử lý nợ quốc doanh có thể quản lý tốt quá trình kiểm soát các
nguồn hơn là các công ty tư nhân.
Một bất lợi khác đối với các công ty xử lý nợ tư nhân (đặc biệt nếu đó là một công ty con
của ngân hàng) là điều mà các ngân hàng mẹ có thể sử dụng nó để che đậy các vấn đề về nợ xấu
bằng cách chuyển hết nợ sang công ty xử lý nợ của mình ở các mức giá giả tạo cao hơn. Hậu quả
là, do giá chuyển đổi cao sẽ ít hoặc không phản ánh các khoản thua lỗ của ngân hàng, nên việc
mua lại nợ xấu bởi các công ty con của ngân hàng có thể xem tương đương với một khoản cứu
trợ tài chính của các cổ đông ngân hàng. Hoặc, nếu các cổ đông ngân hàng và công ty xử lý nợ là
như nhau thì quá trình chuyển giao tài sản sẽ trở thành một cuộc tái cấu trúc ngân hàng hình
thức, được thực hiện duy nhất chỉ để đáp ứng các điều khoản pháp lý nào đó đối với tỷ lệ nợ xấu,
nhưng chưa giải quyết được các vấn đề của hệ thống ngân hàng. Nếu không được giám sát chặt
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
20
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
chẽ thông qua các báo cáo được kiểm toán thì các nhà quản lý ngân hàng có thể lại tiếp tục tài trợ
các hoạt động rủi ro cao.
2.2. Một số điểm nổi bật của các công ty xử lý nợ ở châu Á
Trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính ở châu Á, Chính phủ các nước như: Indonesia,
Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành lập các công ty quản lý tài sản (AMCs) tập trung để
xử lý nợ, thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Các quốc gia này đã thiết lập Cơ
quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia (IBRA), Tổ chức xử lý nợ quốc gia Malaysia
(DANAHARTA) và Công ty Quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO). Riêng Thái Lan ban đầu chỉ
thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài chính (FRA) để xử lý các vấn đề của các công ty tài chính. Đến
năm 2001, Thái Lan mới chính thức thành lập Công ty quản lý tài sản (TAMC).
Đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ ở châu Á là được Chính phủ tài trợ vốn và tổ chức
tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào ngân hàng. Điều này có lẽ là do tính chất
đặc thù có hệ thống về các vấn đề ngân hàng và quy mô nợ xấu. Trong trường hợp của 4 quốc
gia (Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc) bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính
năm 1997, Chính phủ các nước này đã áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản cho vay có vấn
đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Mô hình AMC tập trung mang tính khả thi cao
do nhiều ngân hàng không đủ nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của mình
thông qua các đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp lý so
với các chuẩn mực thế giới vẫn còn nghèo nàn lạc hậu trong các quốc gia này cũng góp phần tạo
ra sự cần thiết phải có AMCs tập trung. AMC ở các nước châu Á chỉ hoạt động trong một số
năm nhất định nào đó. Ngoại trừ KAMCO của Hàn Quốc cho phép gia hạn thời gian hoạt động,
IBRA đã chấm dứt hoạt động năm 2004, DANAHARTA năm 2005 và TAMCO năm 2011. Với
thời gian hoạt động có giới hạn, thời gian bổ nhiệm các vị trí quản lý tại các công ty xử lý nợ
cũng theo nhiệm kỳ, việc xử lý tài sản cũng được xác định rõ, vì thế, chi phí mà Chính phủ chi
tiêu cho các công ty xử lý nợ cũng bị hạn chế. Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền
hạn đặc biệt để cắt giảm các thủ tục pháp lý (ngoại trừ KAMCO). Ví dụ, trường hợp của
DANAHARTA - có quyền xử lý tất cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không cần phải xin
phép các chủ tài sản. TAMCO cũng sử dụng quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải ngồi
vào bàn đàm phán cho việc thanh toán các khoản nợ vay của mình. KAMCO thì không có thể
hiện rõ đặc quyền của mình, có thể một phần là do cơ sở pháp lý của Hàn Quốc hoàn thiện hơn
cơ sở pháp lý của các nước còn lại.
Liên quan đến việc lựa chọn tài sản để xử lý, AMC có những chiến lược riêng cho mình.
IBRA tiếp nhận tất cả các khoản nợ xấu của ngân hàng mà không có sự lựa chọn nào trước cả.
Việc này là do IBRA thực hiện theo chỉ định của Chính phủ trong chương trình hỗ trợ các ngân
hàng vượt qua khủng hoảng, bao gồm hỗ trợ thanh khoản, tái cấu trúc ngân hàng, xử lý nợ xấu,
và ổn định các cổ đông ngân hàng. Các tài sản được mua lại với mức giá trị đủ, nhưng Chính phủ
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
21
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
sẽ gánh phần thua lỗ cho ngân hàng. KAMCO không có các tiêu chí đặc thù đối với tài sản được
mua lại nhưng nó sẽ mua lại các tài sản ở mức giá chiết khấu cao (Tháng 11/2003, mức giá chiết
khấu bình quân của KAMCO khoảng 64%). Cụ thể, KAMCO đưa ra một mức giá chiết khấu cho
các khoản nợ xấu thông thường tương đương 40% của tổng giá trị tài sản được thế chấp, 3% của
mệnh giá nếu các khoản cho vay không có tài sản thế chấp; trong khi đó, các khoản nợ xấu đặc
biệt sẽ được định giá bằng phương pháp hiện giá thuần của dòng tiền dự án. Ngược lại,
DANAHARTA và TAMC hạn chế mua lại các khoản nợ xấu có giá trị ghi sổ tối thiểu lần lượt là
5 triệu Ringgit Malaysia và Bt 5 triệu Baht Thái Lan. Hơn nữa, hai công ty quản lý nợ này định
giá nợ xấu theo giá thị trường nhưng sẽ thương lượng phần lãi hoặc lỗ với các định chế tài chính.
Đối với DANAHARTA, giá trị thu hồi vượt mức trên chi phí mua lại cộng với chi phí phân bổ
trực tiếp sẽ được chia theo tỷ lệ 80:20, trong đó, 80% thuộc về các định chế tài chính. Trong
trường hợp có lãi, TAMCO và ngân hàng trước hết chia 20% lợi nhuận có liên quan đến giá
chuyển nhượng, phần còn lại sẽ thuộc về ngân hàng nhưng cũng không được vượt quá giá trị
chuyển nhượng. Trong trường hợp thua lỗ thì cả 2 đều phải gánh chịu nhưng ngân hàng phải
chịu 30% của mức giá chuyển nhượng.
Nhìn chung, cả 4 công ty quản lý nợ cũng có các chiến lược xử lý nợ riêng của mình.
KAMCO đã nhờ sự giúp đở của các chuyên gia nước ngoài trong việc quản lý tài sản và xử lý nợ
thông qua các công ty liên doanh. DANAHARTA đã sử dụng các đối tác đặc biệt hoặc các nhà
quản trị có chuyên môn để quản lý các loại tài sản đặc thù, thực hiện theo chiến lược của
Securum – một công ty xử lý nợ của Thụy Điển trong đầu những thập niên 1990. Ngược lại,
IBRA và TAMCO rất cẩn trọng đối với các chuyên gia nước ngoài. TAMCO ưu tiên cho các
công ty của Thái Lan thực hiện xử lý và quản lý các loại tài sản nào đó, trong khi đó, IBRA hầu
như dựa vào các ngân hàng địa phương để giúp thu hồi và quản lý các khoản nợ vay thương mại.
2.3. Hiệu quả của các công ty quản lý tài sản
Bằng chứng cho thấy rằng AMCs hoạt động tương đối có hiệu quả. Klingebiel (2000) sử
dụng dữ liệu của các công ty quản lý nợ và chỉ ra rằng AMCs nói chung xử lý nợ nhanh hơn các
đơn vị tái cấu trúc tài sản. Klingebiel cũng cho rằng, một số các điều kiện như là sự độc lập về
chính trị, đủ vốn, khung pháp lý hoàn thiện, nguồn nhân lực phát triển thì rất cần thiết và quan
trọng đối với tính hiệu quả của AMC. Kết quả khảo sát của các công ty quản lý nợ hoạt động
trong các năm qua như sau: Về tỷ lệ xử lý nợ xấu (tỷ lệ tài sản được xử lý theo giá trị ghi sổ của
tài sản mua lại), tỷ lệ này càng cao thì hoạt động của AMCs càng hiệu quả hơn, bởi lẽ, các tài sản
chưa được xử lý thường tốn chi phí cao hơn, vì thế chi phí hoạt động của AMC và của chính phủ
cũng cao hơn. Tỷ lệ thu hồi tiền mặt là tỷ số của tiền mặt được thu hồi so với giá trị ghi sổ của tài
sản mua lại hoặc giá trị tài sản được xử lý. Tỷ số này càng cao thì chất lượng xử lý nợ của các
công ty quản lý tài sản càng tốt hơn.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
22
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
2.4. Công ty quản lý tài sản và hành vi rủi ro đạo đức – Trường hợp Thái Lan
Các hoạt động cho vay của ngân hàng bị ảnh hưởng bởi khả năng chuyển giao nợ xấu đến
AMC. Hơn nữa, nó còn bị ảnh hưởng bởi các điều khoản và điều kiện của việc chuyển giao như
vậy. Nếu các ngân hàng chuyển giao hết nợ xấu ở mức chi phí thấp thì việc này có thể dẫn đến
hành vi rủi ro đạo đức tại các công ty quản lý tài sản tư nhân và các công ty quản lý tài sản nhà
nước.
Đối với AMCs tư nhân: Khi nợ xấu tăng và tín dụng ngân hàng bị co rút lại thì việc cơ cấu
lại nợ xấu sẽ đặt một gánh nặng trên vai của các nhà quản lý ngân hàng. Trong trường hợp này,
việc chuyển giao nợ xấu ra khỏi ngân hàng cho thấy tính hiệu quả của việc xử lý nợ xấu và tạo
điều kiện thuận lợi để tín dụng mới tăng trưởng. Ở Thái Lan, giai đoạn 1998 - 2001, 12 AMC tư
nhân được thành lập. Mười trong số đó là những công ty con được dùng để mua lại các khoản nợ
xấu từ các ngân hàng tư nhân mẹ. Hai công ty còn lại được dùng để mua lại các khoản nợ từ các
ngân hàng khác. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy, hầu hết các ngân hàng mẹ này đã không
chuyển giao nợ xấu với số lượng lớn đến AMC. Điều này là do nợ xấu được chuyển giao vẫn còn
được phản ánh trong các báo cáo tài chính hợp nhất của ngân hàng mẹ. Cho dù nợ xấu không còn
trong báo cáo tài chính của ngân hàng mẹ thì trái phiếu được dùng để mua lại các khoản nợ xấu
cũng có rủi ro liên quan đến sự thành công hay thất bại của các công ty con trong việc xử lý các
khoản nợ xấu này. Vì vậy mà các ngân hàng tư nhân ít có động lực để chuyển giao nợ xấu.
Đối với AMCs nhà nước: Từ năm 1998- 2002, ở Thái Lan đã thành lập 4 AMCs để xử lý
nợ xấu của 5 ngân hàng thương mại quốc doanh. Mục tiêu duy nhất của việc chuyển giao tài sản
là tái cấp vốn cho các ngân hàng này hơn là tối đa hóa việc phục hồi lại giá trị của nợ xấu. Quỹ
Phát triển các Định chế tài chính (FIDF) sở hữu các công ty quản lý tài sản và đảm bảo trái
phiếu được dùng để mua nợ xấu từ các ngân hàng thương mại nhà nước. Quyết định giá cả và
tiêu chí lựa chọn nợ xấu không đến nỗi quá khắt khe, song phần lớn là dựa vào nhu cầu tái cấp
vốn của các ngân hàng và không dựa vào chất lượng của tài sản. Điều này cho thấy các ngân
hàng có thể ung dung tự tại đối với việc thành lập các AMCs này. Việc chuyển giao nợ xấu đến
AMCs đã không tạo ra các động lực cho các ngân hàng để xem xét và điều chỉnh hành vi cho
vay của mình, bởi lẽ, không có hình phạt nào được áp dụng cho việc chuyển giao này. Ngoài ra,
do AMCs Nhà nước không bị đòi hỏi phải công bố thông tin nên không có khả năng phân tích
tính hiệu quả của việc xử lý nợ xấu.
Đối với công ty quản lý tài sản cho các loại hình ngân hàng (TAMC): Khoảng cuối năm
2000, nợ xấu trong toàn hệ thống vẫn còn rất cao và tiến trình cơ cấu lại nợ vẫn còn chậm chạp.
Đảng chính trị đã thắng trong cuộc bầu cử đã ban hành Nghị định khẩn cho việc thành lập
TAMC vào tháng 6/2001.Tương tự như AMC quốc doanh, TAMC thanh toán các khoản nợ xấu
bằng trái phiếu do TAMC phát hành có kỳ hạn 10 năm và được FIDF bảo lãnh phát hành. Nhưng
vào thời điểm đó, giá chuyển nhượng được xác định dựa trên giá trị tài sản thế chấp hơn là nhu
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
23
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
cầu tái cấp vốn của ngân hàng. Các động lực rủi ro đạo đức từ TAMC dường như không có ý
nghĩa, do các bên liên quan chia sẻ lợi nhuận và rủi ro với nhau. Nếu có xảy ra thì rủi ro đạo đức
có thể đến từ các trường hợp sau: Thứ nhất, nếu ngân hàng có thông tin nội gián rằng là các
khoản nợ xấu chắc chắn sẽ mất vốn do hầu hết các khoản thua lỗ đều do TAMC gánh chịu, ngân
hàng chỉ chịu 30% của giá chuyển nhượng. Thứ hai, nếu chiến lược tái cấu trúc của TAMC
không nghiêm và áp đặt ít tổn thương lên vai người vay. Tóm lại, có 3 mức độ khác nhau về rủi
ro đạo đức thông qua 3 cơ chế: AMC quốc doanh có rủi ro đạo đức cao nhất, tiếp đến là TAMC,
và sau cùng là các công ty AMC tư nhân.
2.5. Hàm ý cho Việt Nam
Các mô hình quản lý tài sản và kinh nghiệm áp dụng các mô hình nói trên trong việc xử lý
nợ xấu ở các nước châu Á sau khủng hoảng tài chính năm 1997 là cơ sở hình thành ý tưởng mô
hình thích hợp xử lý nợ có hiệu quả cho Việt Nam. Qua kinh nghiệm xử lý nợ của AMCs ở Thái
Lan cho thấy, AMC có vốn sở hữu nhà nước có hành vi rủi ro đạo đức cao nhất. Tuy nhiên, trong
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì mô hình quản lý tài sản quốc doanh vẫn là ưu tiên
lựa chọn. Khi khung pháp lý để xử lý nợ xấu vẫn còn chưa mạnh thì quy trình xử lý nợ có thể
được rút ngắn và rất phù hợp đối với các khoản nợ xấu mang tính hệ thống. Đồng thời, khi thị
trường mua bán nợ ế ẩm thì AMC quốc doanh sẽ là nơi lý tưởng để tiêu thụ nợ xấu ngân hàng.
Hơn nữa, khi Chính phủ mua lại nợ xấu của ngân hàng thông qua các AMC quốc doanh thì
Chính phủ có thể dễ dàng áp đặt các điều kiện cần thiết cho việc tái cấu trúc các ngân hàng có tỷ
lệ nợ xấu cao. Ngoài ra, kết quả hoạt động kinh doanh của 4 AMC quốc doanh ở Indonesia,
Malaysia, Hàn Quốc, và Thái Lan cũng chỉ ra rằng các tỷ số xử lý nợ xấu và tỷ số thu hồi tiền
mặt tương đối cao trong các AMC quốc doanh.
Đối với Việt Nam, lựa chọn, áp dụng phương thức nào để xử lý nợ xấu vẫn là vấn đề còn
bỏ ngỏ. Tuy nhiên, dù áp dụng phương thức nào trước hết cần có đánh giá toàn diện về khả năng
thực hiện các biện pháp để tái cấu trúc và xử lý nợ xấu, trong đó bao gồm các vấn đề sau:
- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc thực hiện tái cấu trúc và xử lý nợ xấu. Hiện
nay, cơ sở pháp lý cho hoạt động của công ty quản lý tài sản và hoạt động chúng khoán hóa chưa
có. Trong một số trường hợp, có thể phải cân nhắc tới việc ban hành một đạo luật khẩn cấp cho
hoạt động của AMC.
- Chính phủ có thể cân nhắc việc thành lập công ty AMC nhưng xác định rõ mục tiêu chỉ để thực
hiện tái cấu trúc và xử lý nợ xấu. Trong đó, cơ sở của nguồn vốn hoạt động và lộ trình hoạt động
của công ty cần được làm rõ.
- Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cần được triển khai đồng bộ với xử lý nợ xấu bao gồm những
nội dung liên quan đến kiểm kê, đánh giá các khoản nợ, mua bán nợ xấu và đóng cửa các ngân
hàng yếu kém, đồng thời hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng tốt.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
24
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
- Phát triển thị trường trái phiếu, mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ngân hàng.
Đây được coi là kênh huy động vốn hữu hiệu trong thời điểm nguồn lực nội tại của ngân hàng
trong nước gặp khó khăn.
- Cần xây dựng mạng an toàn tài chính quốc gia, trong đó có phân định trách nhiệm và cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa các thành viên như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Ủy ban Giám sát
Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi.
Việc xử lý nợ xấu của Việt Nam hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia trên thế
giới đã thực hiện. Tuy nhiên, việc vận dụng các kinh nghiệm trên phải tính đến điều kiện cụ thể
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như: kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định, hoạt động cho
vay phần lớn dựa trên tài sản bảo đảm là bất động sản, trong khi thị trường này chưa thể phục hồi
ngay, xử lý nợ xấu không được gây tổn thất lớn cho Chính phủ và bản thân các ngân hàng. Với
kinh nghiệm của các nước ở châu Á trong xử lý nợ xấu trên và những hàm ý cho Việt Nam, đó
chính là nền tảng quan trọng để Việt Nam đưa ra cho mình giải pháp phù hợp trong bối cảnh
hiện nay.
3. Từ ý tưởng đến thực tế thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam -
VAMC
Vào cuối T6-2012, VAMC được biết đến với tên gọi: Công ty mua bán tài sản quốc gia
được đề xuất thành lập. Quy mô vốn dự kiến là 500 tỷ đồng. Phương án thành lập VAMC được
cho là giải pháp duy nhất cho vấn đề nợ xấu. Công ty này, theo định hướng của Chính phủ, sẽ là
100% vốn Nhà nước và có toàn quyền quyết định giá mua lại đối với các khoản nợ. Nếu NH nào
không đồng tình, NHNN sẽ có biện pháp xử lý. Việc có cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua nợ
hay không, cũng sẽ được cân nhắc trong nghị định hướng dẫn về VAMC sắp tới.
Vào tháng 1-2013, NHNN tiết lộ đề án thành lập VAMC đã được NHNN và các cơ quan có
liên quan xây dựng xong và đã được trình Chính phủ vào cuối tháng 12/2012. Về cơ bản đã hoàn
thành giai đoạn lấy ý kiến của các Bộ ngành liên quan. NHNN vẫn đang cố gắng bố trí thời gian
để có thể báo cáo Bộ chính trị ngay trong tháng 1 - 2013
Tháng 3-2013, NHNN có tờ trình về việc thành lập VAMC và trình Chính phủ thảo luận
trong phiên họp thường kỳ của tháng. Tuy nhiên, tờ trình của NHNN và dự thảo nghị định chưa
được thông qua. Tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ vào chiều ngày 29/3, Bộ trường - Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam đã xác nhận điều này và cho biết các thành viên
Chính phủ nhận thấy còn một số điểm cần yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và
Ngân hàng Nhà nước thống nhất thêm. Một trong những mối quan tâm của đa phần các thành
viên Chính phủ là khi Công ty quản lý tài sản này ra đời thì việc xử lý nợ xấu chỉ mới dừng lại
giữa các ngân hàng với nhau. Điều mà xã hội quan tâm là tác động của nó đến nợ thực sự giữa
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
25
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
doanh nghiệp và ngân hàng như thế nào. Ông Đam nói và cho biết dự thảo nghị định sẽ tiếp tục
được thảo luận ở kỳ họp Chính phủ tháng 4/2013.
Ngày 25-3, NHNN có quyết định số 644/QĐ-NHNN về việc thành lập Ban trù bị thành lập
Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) gồm 18 thành viên (08 người của NHNN, 05 người
của BIDV, 02 người của SHB, 01 người của LienVietPostBank, 01 người của VPBank và 01
người của VietAbank). Ban trù bị có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng và trình các cơ quan có
thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan đến cơ chế
vận hành, tổ chức, hoạt động của Công ty quản lý tài sản Việt Nam.
Vào ngày 13-4-2013, VAMC được xác định thành lập để xử lý vấn đề nợ xấu trong các
TCTD tại Việt Nam. Từ khi đề xuất thành lập được đưa ra đến nay (T4-2013) đã được gần 01
năm và VAMC vẫn chưa chính thức được thành lập cũng như đi vào hoạt động theo mong mỏi
của không ít người. Và theo đại diện của Văn phòng Chính phủ, không nên coi VAMC là đũa
thần giải quyết mọi vấn đề mà chỉ nên coi đây là biện pháp hữu hiệu nhất xử lý nợ xấu. Chính vì
chưa tạo được lòng tin đối với một số thành viên của Chính phủ nên sớm nhất một tháng nữa
mới có thể ra nghị định về VAMC.
Ngày 27/6/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Quyết định số
1459/QĐ-NHNN về việc thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản
của các tổ chức tín dụng Việt Nam (Công ty VAMC). Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 09/7/2013. Theo Quyết định này, căn cứ Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 15/01/2013
của Chính phủ và Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Thống
đốc NHNN quyết định thành lập Công ty VAMC nhằm xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng hợp lý cho nền kinh tế.
PHẦN IV: MÔ TẢ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM –
VAMC
1. Tổ chức – quản trị - điều hành VAMC
Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) là doanh nghiệp đặc thù, được tổ chức dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do Nhà nước sở hữu 100% với vốn điều
lệ là 500 tỷ đồng và chịu sự quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Trụ
sở chính của VAMC đặt tại Hà Nội và được phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại
một số tỉnh, thành phố lớn trực thuộc Trung ương sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
NHNN sẽ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch và các Hội đồng thành viên (không quá 7 người); Ban
Kiểm soát (không quá 3 người); Tổng Giám đốc và một số Phó Tổng Giám đốc của VAMC.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
26
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
2. Phương thức hoạt động VAMC
2.1. Nguyên tắc hoạt động
Công ty Quản lý tài sản Viet Nam (VAMC) hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:
Lấy thu bù chi và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Công khai, minh bạch trong hoạt động mua, xử lý nợ xấu.
Hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.
2.2. Quyền và Nghĩa vụ của VAMC
Quyền của VAMC:
Yêu cầu tổ chức tín dụng bán nợ, khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ bên bảo đảm và
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các thông tin, tài liệu về tổ chức và
hoạt động của khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm; thông tin, tài liệu về
các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu đã được bán cho Công ty Quản
lý tài sản;
Đề nghị tổ chức tín dụng bán các khoản nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản;
Tham gia quá trình cơ cấu lại khách hàng vay sau khi góp vốn, mua cổ phần tại khách
hàng vay;
Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm
theo quy định của pháp luật; thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý, thu hồi nợ;
Đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, cơ quan bảo vệ pháp luật hoàn tất các thủ
tục, hồ sơ pháp lý về tài sản bảo đảm và phối hợp, hỗ trợ trong quá trình thu giữ tài sản
bảo đảm và thu hồi, xử lý nợ, tài sản bảo đảm;
Đề nghị hưởng một tỷ lệ trên số tiền thu hồi các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài
sản mua bằng trái phiếu đặc biệt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước sau khi thống
nhất với Bộ Tài chính;
Các quyền khác của chủ nợ, bên nhận bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ của VAMC:
Bảo toàn và phát triển vốn được Nhà nước giao;
Thực hiện kiểm toán độc lập hàng năm;
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
27
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
Thực hiện việc đăng ký hợp đồng mua bán quyền đòi nợ theo quy định của pháp luật về
giao dịch bảo đảm;
Chịu trách nhiệm giải trình trước cơ quan quản lý nhà nước, công chúng về tình hình hoạt
động;
Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Điều lệ và quy định của pháp luật.
2.3. Các hoạt động VAMC tham gia
Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm;
Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần
của khách hàng vay;
Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã được Công
ty Quản lý tài sản thu nợ;
Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có liên quan đến
khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và bảo đảm tiền
vay;
Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản;
Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần;
Tổ chức bán đấu giá tài sản;
Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín dụng;
Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Công ty Quản lý tài sản sau khi
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
2.4. Hoạt động mua nợ xấu của VAMC
2.4.1. Phương thức mua nợ xấu
Về phương thức mua nợ xấu, VAMC mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị ghi sổ
bằng trái phiếu đặc biệt do công ty phát hành. Ngoài ra, VAMC còn mua nợ xấu của tổ chức tín
dụng theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt (vốn điều lệ, các quỹ
trích lập, các nguồn huy động khác,...). Theo phương thức thứ nhất, VAMC mua nợ xấu của tổ
chức tín dụng theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc khách hàng vay chưa trả đã được khấu trừ số tiền
dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng cho khoản nợ xấu đó. Còn với phương thức thứ hai,
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
28
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
VAMC mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường trên cơ sở thỏa thuận và giá trị
khoản nợ xấu được đánh giá lại. Trong trường hợp này, VAMC sẽ đánh giá lại giá trị khoản nợ
xấu trên cơ sở khả năng thu hồi vốn và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; khi cần thiết, VAMC
có thể thuê tổ chức tư vấn định giá khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm. Tổ chức tín dụng bán nợ
phải có trách nhiệm cung cấp cho VAMC các thông tin, tài liệu về số dư nợ gốc và toàn bộ số lãi
phải trả khách hàng vay chưa thanh toán.
Tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên hoặc một tỷ lệ nợ xấu khác do Ngân hàng
Nhà nước quy định không bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản được Ngân hàng Nhà nước
xem xét, áp dụng các biện pháp sau đây:
Tiến hành thanh tra hoặc yêu cầu tổ chức tín dựng thuê công ty kiểm toán hoặc tổ chức
định giá độc lập đánh giá lại chất lượng và giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ
của tổ chức tín dụng đó; chi phí kiểm toán, định giá do tổ chức tín dụng thanh toán;
Trên cơ sở kết quả thanh tra, định giá và kiểm toán độc lập, tổ chức tín dụng phải bán nợ
xấu cho Công ty Quản lý tài sản để đảm bảo tỷ lệ nợ xấu của tổ chức tín dụng ở mức an
toàn; thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và tuân thủ các tỷ lệ an toàn theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước; cơ cấu lại tổ chức tín dụng theo phương án được Ngân hàng Nhà
nước phê duyệt.
Việc mua bán nợ xấu được lập thành hợp đồng và tổ chức tín dụng bán nợ phải thông báo
bằng văn bản cho khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm trong vòng 10
ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng mua bán nợ để biết và thực hiện nghĩa vụ với
Công ty Quản lý tài sản.
Điều kiện đểVAMC mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt
Khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản, trong đó không dưới 65% tổng giá trị tài sản bảo
đảm là bất động sản, bao gồm cả bất động sản hình thành trong tương lai;
Khoản nợ, tài sản bảo đảm phải hợp pháp; khoản nợ chưa được dùng để bảo đảm cho
nghĩa vụ khác của tổ chức tín dụng; tài sản bảo đảm của khoản nợ không có tranh chấp;
Khoản nợ, tài sản bảo đảm của khoản nợ có hồ sơ;
Khách hàng vay còn tồn tại;
Khách hàng vay có số dư nợ gốc vào thời điểm bán nợ không thấp hơn 3 tỷ đồng đối với
khách hàng vay là tổ chức và không thấp hơn 1 tỷ đồng đối với khách hàng vay là cá
nhân.
Điều kiện để VAMC mua nợ xấu bằng giá trị thị trường
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
29
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
Các khoản nợ đáp ứng các điều kiện để được mua bằng trái phiếu đặc biệt;
Được đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ: Các khoản nợ được đánh giá
lại theo giá trị thị trường trên cơ sở khả năng thu hồi vốn và tài sản bảo đảm của khoản
nợ; giá mua nợ không cao hơn giá trị thị trường hoặc giá trị đánh giá lại của khoản nợ;
Tài sản bảo đảm của khoản nợ có khả năng phát mại: Tài sản bảo đảm hợp pháp, có đầy
đủ giấy tờ hợp lệ, đã được bàn giao hoặc cam kết bàn giao cho tổ chức tín dụng để xử lý
và loại tài sản đang được giao dịch trên thị trường;
Khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ: Khách hàng vay có phương án
sản xuất, kinh doanh và phương án trả nợ khả thi.
2.4.2. Đặc điểm trái phiếu đặc biệt của VAMC
Trái phiếu đặc biệt của VAMC được phát hành bằng VNĐ, thời hạn tối đa 5 năm và lãi
suất 0%; Có thể sử dụng để vay tái cấp vốn NHNN. Theo Nghị định về thành lập, tổ chức và
hoạt động của Công ty Quản lý tài sản (VAMC) vừa được Chính phủ ký ban hành, VAMC sẽ
mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo 2 phương án trong đó có phương án mua theo giá trị ghi sổ
bằng trái phiếu đặc biệt do công ty phát hành.
Sử dụng để vay tái cấp vốn NHNN
Trái phiếu đặc biệt được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu
điện tử; mệnh giá bằng giá mua của khoản nợ xấu; được phát hành bằng VNĐ, thời hạn tối đa 5
năm và lãi suất 0% và có thể sử dụng để vay tái cấp vốn NHNN. VAMC phát hành trái phiếu đặc
biệt theo phương án phát hành đã được NHNN chấp thuận. NHNN quy định cụ thể việc cho vay
tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt, mức cho vay tái cấp vốn so với mệnh giá trái phiếu đặc
biệt. NHNN trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức lãi suất cho vay tái cấp vốn. NHNN
cũng sẽ quy định cụ thể việc phát hành trái phiếu này của VAMC.
Trích lập dự phòng rủi ro 20% mỗi năm
Tổ chức tín dụng sở hữu trái phiếu đặc biệt phải trích lập dự phòng rủi ro hàng năm đối với
trái phiếu đặc biệt vào chi phí hoạt động theo tỷ lệ không thấp hơn 20% mệnh giá trái phiếu
trong thời hạn của trái phiếu đặc biệt để tạo nguồn xử lý nợ xấu khi được mua lại từ VAMC.
Ngoài ra, tổ chức tín dụng phải sử dụng trái phiếu đặc biệt để mua lại theo giá trị ghi sổ các
khoản nợ xấu được VAMC mua bằng trái phiếu đặc biệt nhưng chưa được xử lý hoặc thu hồi
toàn bộ vào thời điểm trái phiếu đến hạn.
VAMC thanh toán tiền được hưởng trên số thu hồi nợ
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
30
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
Việc thanh toán trái phiếu đặc biệt và mua lại các khoản nợ xấu được VAMC mua bằng trái
phiếu đặc biệt sẽ được xử lý trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày số tiền dự phòng rủi ro đã trích lập
cho trái phiếu đặc biệt không thấp hơn với giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu liên quan
hoặc 5 ngày sau khi trái phiếu đến hạn. Theo đó, tổ chức tín dụng bán nợ phải hoàn trả dư nợ vay
tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt liên quan cho NHNN. Trong trường hợp khoản nợ chưa
thu hồi được đầy đủ, tổ chức tín dụng mua lại các khoản nợ xấu từ VAMC theo giá trị ghi sổ số
dư nợ gốc, trả lại trái phiếu đặc biệt liên quan đến khoản nợ đó cho VAMC và được VAMC
thanh toán số tiền được hưởng trên số tiền thu hồi nợ. Nếu khoản nợ được thu hồi đầy đủ thì tổ
chức tín dụng bán nợ trả lại trái phiếu đặc biệt cho VAMC và được VAMC thanh toán số tiền thu
hồi nợ được hưởng.
Sau khi đã nhận lại các khoản nợ xấu từ VAMC, tổ chức tín dụng sử dụng số tiền dự phòng
rủi ro đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt tương ứng để xử lý rủi ro đối với khoản nợ này, đồng
thời tiếp tục hạch toán tài khoản ngoại bảng để theo dõi.
2.5. Hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC
2.5.1. Các biện pháp xử lý nợ xấu của VAMC
Thực hiện các quyền của chủ nợ, bên nhận bảo đảm đối với khách hàng vay, bên có nghĩa
vụ trả nợ, bên bảo đảm nhằm thu hồi nợ, tài sản bảo đảm.
Tổ chức đôn đốc, yêu cầu trả nợ, thu nợ từ khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ và bên
bảo đảm.
Thực hiện cơ cấu lại khoản nợ xấu, hỗ trợ khách hàng vay.
Thỏa thuận với khách hàng vay về việc chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần để tham
gia cơ cấu lại tài chính và hoạt động của khách hàng vay.
Thu nợ bằng nhận chính tài sản bảo đảm của khoản nợ; thu hồi, thu giữ và xử lý tài sản
bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Bán nợ cho các tổ chức, cá nhân.
Khởi kiện khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ, bên bảo đảm ra Tòa án.
Nộp đơn yêu cầu Tòa án tiến hành các thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá
sản đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ và đối với bên có nghĩa vụ trả nợ,
bên bảo đảm không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
2.5.2. Cơ cấu lại nợ xấu, hỗ trợ khách hàng vay
Sau khi nhận được thông báo của tổ chức tín dụng về việc bán khoản nợ cho VAMC, khách
hàng vay sẽ xây dựng phương án tự cơ cấu lại về tổ chức, hoạt động, tài chính và kế hoạch trả nợ
gửi trực tiếp hoặc qua bưu điện đến VAMC đề xuất áp dụng một hoặc một số biện pháp cơ cấu
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
31
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
lại nợ. Trong trường hợp đánh giá phương án tự cơ cấu lại của khách hàng vay hiệu quả và khả
thi, VAMC quyết định điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn thời hạn trả nợ phù hợp với điều kiện
sản xuất, kinh doanh và kế hoạch trả nợ của khách hàng vay. Nếu phương án tự cơ cấu lại của
khách hàng vay hiệu quả và khả thi nhưng đang gặp khó khăn tạm thời về tài chính, Công ty
Quản lý tài sản quyết định việc giảm hoặc miễn toàn bộ số lãi đã quá hạn thanh toán mà khách
hàng vay chưa có khả năng trả nợ.
Về việc cơ cấu lại nợ nhằm hỗ trợ khách hàng vay, VAMC sẽ thực hiện các biện pháp như sau:
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, thời hạn trả nợ phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của
khách hàng vay.
Áp dụng lãi suất của khoản nợ đã mua phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng vay
và điều kiện thị trường.
Giảm một phần hoặc miễn toàn bộ số lãi đã quá hạn thanh toán mà khách hàng vay chưa
có khả năng trả nợ.
Chẳng hạn, sau khi mua các khoản nợ của tổ chức tín dụng, VAMC có văn bản đề nghị 4
NHTM nhà nước, ngân hàng TMCP mà Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ (Ngân hàng
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam,
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam -
Vietcombank) cung cấp thông tin về mức lãi suất cho vay đối với từng kỳ hạn các ngân hàng
đang áp dụng tại thời điểm mua nợ. Và VAMC có trách nhiệm điều chỉnh mức lãi suất đang áp
dụng đối với khoản nợ đã mua về mức không cao hơn mức lãi suất cho vay bình quân tương ứng
theo từng kỳ hạn của các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng TMCP mà Nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ.
2.5.3. Xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu
Tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua được xử lý theo thỏa thuận của các
bên. Nếu không có thỏa thuận thì tài sản bảo đảm được bán đấu giá theo các phương thức sau:
Bán đấu giá qua tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
Công ty quản lý tài sản (VAMC) bán đấu giá.
Công ty Quản lý tài sản lựa chọn, quyết định phương thức bán tài sản bảo đảm phù hợp
với các quy định của pháp luật và bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch.
Công ty Quản lý tài sản có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc bán đấu giá tài sản
bảo đảm cho bên sở hữu tài sản bảo đảm không muộn hơn 10 ngày làm việc trước ngày tổ chức
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
32
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
bán đấu giá. Kết quả đấu giá, hợp đồng bán tài sản của VAMC cho bên mua tài sản là căn cứ xác
định nghĩa vụ tài chính, công chứng, chứng thực, làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản bảo đảm và chấm dứt quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của bên bảo đảm hoặc
bên sở hữu tài sản. Trong trường hợp VAMC bán đấu giá tài sản bảo đảm có đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng thì người nhận chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định
của pháp luật về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. Trong trường hợp pháp luật quy
định việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải có sự đồng ý bằng văn bản của chủ
sở hữu, hợp đồng mua bán tài sản giữa chủ sở hữu tài sản hoặc người phải thi hành án với người
mua tài sản về việc xử lý tài sản bảo đảm thì hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp được dùng
thay thế cho các loại giấy tờ này.
2.5.4. Xử lý tiền thu hồi từ các khoản nợ mua bằng trái phiếu đặc biệt
Sau khi trừ đi các chi phí có liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm, số tiền thu hồi nợ thông
qua việc bán nợ, xử lý tài sản bảo đảm, khách hàng vay trả nợ, bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán
được sử dụng để thanh toán các nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ.
Công ty Quản lý tài sản (VAMC) được hưởng theo tỷ lệ (khoảng 2%) trên số tiền thu hồi các
khoản nợ được mua bằng trái phiếu đặc biệt. Số tiền thu hồi nợ được VAMC gửi tại tổ chức tín
dụng bán nợ dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn và không được rút trước thời điểm thanh toán
trái phiếu. Đến khi thanh toán trái phiếu đặc biệt, VAMC sẽ thanh toán số tiền thu hồi nợ cho tổ
chức tín dụng bán nợ sau khi trừ đi số tiền mà VAMC được hưởng.
Đối với việc thanh toán trái phiếu đặc biệt và mua lại các khoản nợ, trong thời hạn 5 ngày
làm việc kể từ ngày số tiền dự phòng rủi ro đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt không thấp hơn
với giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ liên quan hoặc trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ
ngày trái phiếu đặc biệt đến hạn, tổ chức tín dụng bán nợ phải hoàn trả dư nợ vay tái cấp vốn bảo
đảm bằng trái phiếu đặc biệt liên quan cho Ngân hàng Nhà nước.Trong trường hợp khoản nợ
chưa thu hồi được đầy đủ, tổ chức tín dụng mua lại các khoản nợ từ VAMC theo giá trị ghi sổ số
dư nợ gốc, trả lại trái phiếu đặc biệt liên quan đến khoản nợ đó cho VAMC và được VAMC
thanh toán số tiền được hưởng trên số tiền thu hồi nợ. Nếu như khoản nợ thu hồi được đầy đủ thì
tổ chức tín dụng bán nợ trả lại trái phiếu đặc biệt cho VAMC và được VAMC thanh toán số tiền
thu hồi nợ được hưởng.
3. Kỳ vọng tích cực về hiệu quả của VAMC đối với việc xử lý nợ xấu
VAMC được lập ra với mục đích chính là hỗ trợ các ngân hàng tốt mà đang gặp phải rắc
rối vì tình hình nợ xấu. Việc giải quyết nợ xấu này sẽ giúp cho các ngân hàng tốt tạm thời loại bỏ
các khoản nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán, giúp ngân hàng cải thiện hình ảnh trong mắt nhà
đầu tư và tiếp tục thu hút nguồn vốn từ các đối tác muốn rót vốn vào mà còn e ngại về nợ xấu
của ngân hàng.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
33
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
VAMC mua các khoản nợ xấu, nhất là những khoản liên quan đến bất động sản, theo giá trị
sổ sách và trả về một loại trái phiếu đặc biệt. Ngân hàng có thể sử dụng trái phiếu này để thế
chấp vay vốn tại Ngân hàng nhà nước, giúp cải thiện khả năng thanh khoản của ngân hàng. Mặt
khác việc mua các khoản nợ xấu bằng giá trị sổ sách làm cho bất động sản vẫn giữ nguyên được
giá trị ban đầu.
VAMC giúp hệ thống ngân hàng giải quyết nhanh các khoản nợ xấu. Khi không còn khoản
nợ xấu trên bảng cân đối kế toán, ngân hàng sẽ không cần phải trích lập dự phòng rủi ro từ các
khoản nợ xấu, làm giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro, thúc đẩy việc tăng trưởng tín dụng.
4. Những vấn đề đáng lo ngại về VAMC
Sau năm năm nếu VAMC vẫn chưa xử lý được món nợ thì lại trả về cho Ngân hàng. Như
vậy, VAMC chỉ tạm thời giữ nợ xấu cho ngân hàng, điều này sẽ không tạo động lực thúc đẩy
VAMC xử lý rốt ráo các khoản nợ xấu.
Với số vốn điều lệ chỉ vỏn vẹn 500 tỉ đồng so với quy mô nợ xấu được ước lượng lên đến
hàng trăm ngàn tỉ đồng, phương án dùng trái phiếu đặc biệt để mua lại nợ xấu là điều VAMC
muốn hướng tới. Tuy nhiên, rủi ro khi cầm trái phiếu này trong tay cũng không nhỏ. Các ngân
hàng sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro hằng năm đối với trái phiếu này với tỉ lệ không thấp hơn
20% mệnh giá. Việc trích lập dự phòng nhằm tích lũy nguồn lực để xử lý khoản nợ xấu, nếu đến
kỳ đáo hạn mà VAMC không thu hồi được nợ và chuyển ngược lại cho ngân hàng. Cơ chế này sẽ
làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng, buộc các ngân hàng phải hoạt động hiệu quả hơn gấp
bội. Đây có thể là thách thức lớn cho các ngân hàng nếu tăng trưởng kinh tế trong các năm tới
không phục hồi mạnh mẽ.
Yêu cầu để được VAMC mua nợ quá khắt khe
Theo như các điều kiện để món nợ được bán cho VAMC quy định tại Thông tư 53, có một
số ý kiến cho rằng VAMC chỉ mua những khoản nợ chưa thực sự xấu, các NHTM hoàn toàn có
thể tự mình thu hồi các khoản này. Trong khi, các ngân hàng cần nhất là giải quyết được những
khoản nợ xấu thực sự.
Có thể làm tăng cung tiền
Đằng sau việc VAMC phát hành trái phiếu xử lý nợ xấu, các NHTM có thể dùng trái phiếu
này vay tái cấp vốn từ NHNN. Về lâu dài một lượng tiền được NHNN bơm ra chắc chắn sẽ làm
tăng cung tiền, gây ra lạm phát.
Nguồn tài trợ cho chi phí xử lý nợ xấu chưa rõ ràng
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
34
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
Để giải quyết tận gốc vấn đề nợ xấu thì phương án mua lại khoản nợ theo giá thi trường trả
bằng tiền mặt là khả dĩ nhất. VAMC phải nỗ lực để bán được khoản nợ thu hồi vốn trong khi
ngân hàng có thể xử lý dứt điểm nợ xấu tập trung vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên với số
vốn điều lệ quá ít ỏi so với quy mô nợ xấu của toàn hệ thống phương án này rất khó thực hiện.
Nguyên nhân là do khó xác định được giá thị trường của nợ xấu cũng như không có đủ nguồn
vốn để mua dứt nợ nếu không được cấp vốn từ NHNN hay có sự đầu tư từ các nhà đầu tư bên
ngoài đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề này vẫn đang trong quá trình xây dựng quy
trình hướng dẫn.
Về năng lực và pháp lý
Do các lĩnh vực hoạt động của VAMC quá rộng và phức tạp, lại được thành lập trong một
thời gian quá ngắn, kinh nghiệm chỉ được tham khảo từ một số mô hình nước ngoài mà điều kiện
khác hẳn Việt Nam, nhiều chuyên gia đang lo lắng về năng lực xử lý nợ xấu của VAMC. Theo
NHNN, đến nay VAMC đã xây dựng được bộ máy với những cán bộ có năng lực trình độ, có
kinh nghiệm nhiều năm trong ngành ngân hàng, đặc biệt có thâm niên trong mảng tín dụng, xử lý
nợ. Tuy nhiên, với số lượng lớn các TCTD, số lượng đồ sộ các khoản nợ xấu, số lượng cán bộ
nhỏ nhoi đó của VAMC hoàn toàn không thể đáp ứng được, nhất là với chỉ tiêu xử lý 50.000-
70.000 tỷ đồng từ nay đến hết năm 2013.
Một nỗi lo khác là hành lang pháp lý cho các hoạt động mua bán nợ, xử lý tài sản thế chấp
đòi hỏi phải có sự thay đổi một số các quy định pháp luật lại không thuộc quyền Bộ Tài chính,
thậm chí phải cần đến Quốc hội. Những sự thay đổi này cần đến những khoảng thời gian vô hạn,
trong đó yêu cầu xử lý nợ xấu đang nóng, thậm chí rất nóng. Ở nhiều quốc gia, giải quyết nợ xấu
phải cần đến một đạo luật đặc biệt, mà Việt Nam chưa có. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều khi cả
người cho vay lẫn người vay đều đồng thuận bán tài sản trả nợ nhưng vướng các quy định pháp
lý nợ vẫn nằm yên, tài sản thì để thời gian ăn mòn.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
35
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
PHẦN V: KẾT LUẬN
Có thể nói việc thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam – VAMC được xem như một
động thái thiết thực và thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc xử lý nợ xấu trong hệ
thống các tổ chức tín dụng nói riêng, trong nền kinh tế Việt Nam nói chung. Khối lượng nợ xấu
hiện hữu giống như một cục máu đông làm tắt ngẽn dòng luân chuyển vốn của nền kinh tế, tác
động tiêu cực đến sự tăng trưởng, tiềm ẩn nguy cơ gây suy thoái kinh tế. Với quy mô nợ xấu
ngày càng gia tăng trầm trọng thêm, dường như những giải pháp xử lý nợ xấu thời gian qua của
bản thân các TCTD, cũng như của Chính phủ không còn phát huy hiệu quả và lâm vào bế tắc.
Trong tình thế hiện nay, công ty quản lý tài sản Việt Nam - VAMC được kỳ vọng sẽ là giải pháp
khả thi và triệt để nhằm xóa tan dần khối u nợ xấu của nền kinh tế, khi mà các TCTD không đủ
nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu khổng lồ của mình và cơ sở pháp lý của Việt Nam
vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu so với các chuẩn mực thế giới. Một VAMC được thành lập với mục
tiêu, nhiệm vụ rõ ràng kèm theo cấu trúc chặt chẽ sẽ là tiền đề cho hy vọng mang lại hiệu quả
hoạt động cần thiết trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Xung quanh việc ra đời và hoạt động của VAMC, bên cạnh những kỳ vọng tích cực về khả năng
xử lý nợ xấu, vẫn còn tồn tại những lo ngại về nguồn vốn để xử lý nợ, về vấn đề pháp lý, và
những “tác dụng phụ” của hoạt động VAMC đến sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng nhìn chung,
VAMC chính là phương án tối ưu nhất đối với Việt Nam trong hoàn cảnh và điều kiện nợ xấu
chồng chất hiện nay, để vực dậy nền kinh tế vốn dĩ đã bị chìm trong suy thoái dưới ảnh hưởng
chung của kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay.
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
36
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị định 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty quản lý tài sản
của các tổ chức tín dụng Việt Nam
(
=detail&document_id=167568 )
Dự thảo Thông tư Quy định về việc mua, bán, xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản
của các TCTD Việt Nam (Website: www.sbv.gov.vn )
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
Quyết định 780/QĐ-NHNN
Thông tư 02/2013/TT-NHNN
Báo cáo số 104/BC-NHNN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia www.nfsc.gov.vn
www.vietstock.vn
www.vneconomy.vn
PGS.TS Vũ Công Ty, Học viện tài chính“Giải pháp nào cho bài toán nợ xấu Việt
Nam”, Tạp chí tài chính, số 11, 2012.
Standard Chartered, “Vietnam – Navigating macro landscape”, 2013
Maybank Kim Eng, “Vietnam Strategy”, 2013
Ủy ban kinh tế Quốc hội, “Kinh tế Việt Nam năm 2013: TÁI CƠ CẤU KINH TẾ - MỘT
NĂM NHÌN LẠI”, nhà xuất bản Tri Thức, 2013
Moody’s, “Global credit research”, 2012
Vietcombank Securities, “Báo cáo triển vọng kinh tế vĩ mô & thị trường chứng khoán 6
tháng cuối năm 2013”, 2013
DỰ ÁN THÀNH LẬP CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN VIỆT NAM – VAMC
37
NHÓM 2 – TCDN ĐÊM 4 – K22 GV: PGS.TS TRƯƠNG QUANG THÔNG
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_hoan_chinh_vamc_final_1412.pdf