Vụ Kế hoạch – Tài chính phối hợp với các đơn vị liên quan xây
dựng tổng hợp kinh phí triển khai các hoạt động thống kê, kinh phí
tiến hành các cuộc điều tra, kinh phí mua sắm phương tiện đi lại,
trang thiết bị làm việc còn thiếu cho các đơn vị; quy định bổ sung
hoàn thiện cơ chế tài chính phù hợp với tính chất chuyên ngành của
hoạt động thống kê để thống nhất áp dụng từ năm 2013.Công việc
này cần hoàn thành trong năm 2013.
Vụ Hợp tác quốc tế kêu gọi và phối hợp cùng Vụ Kế hoạch – Tài
chính bố trí các nguồn kinh phí của các nhà tài trợ quốc tế, nguồn
cho vay ODA của các nước, các tổ chức tài chính thông quan các
chương trình phát triển số liệu thống kê của Bộ, cũng như dựa trên
những sáng kiến trong các chương trình hiện có và các hoạt động
tăng cường năng lực thống kê của Đề án “Đổi mới đồng bộ hệ thống
các chỉ tiêu thống kê” và trong Chiến lược phát triển thống kê Việt
Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm huy động thêm nguồn lực bổ sung
cho kinh phí thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động về
thống kê của Bộ, ngành.
60 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện cơ chế chia sẻ thông tin ngành lao động - Thương binh và xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản mềm) và đăng tải trên
mục số liệu thống kê ngành tại MOLISA.
Các số liệu thu thập, cập nhật từ thông tin quản lý của các đơn vị
thuộc Bộ mới chỉ được chia sẻ trên eMOLISA (trang mạng nội bộ) chưa
chia sẻ rộng rãi cho mọi đối tượng có nhu cầu.
3. Hạn chế và nguyên nhân trong việc thu thập và chia sẻ thông
tin ngành
3.1. Hạn chế của việc thu thập và chia sẻ thông tin ngành
3.1.1. Hạn chế của thu thập thông tin
Hạn chế về yêu cầu thông tin (nội dung và hình thức):
- Thông tin số liệu chưa đầy đủ, việc cung cấp thông tin số còn
chưa đúng thời gian quy định, nhiều số liệu không chính xác, chưa
đáp ứng được yêu cầu thông tin số liệu trong quản lý.
- Số liệu, thông tin có độ chính xác thấp do thiếu cập nhật, trùng
lặp và còn nhiều mâu thuẫn giữa các đơn vị với nhau.
- Số liệu thống kê thường chỉ được thu thập để phục vụ cho yêu
cầu chỉ đạo riêng của từng cơ quan đơn vị. Do đó không mang tính
hệ thống, không đáp ứng nhu cầu sử dụng chung, rất khó tổng hợp.
Hạn chế về phương pháp thu thập thông tin:
33
- Việc thu thập thông tin chủ yếu còn thủ công thông qua hệ
thống sổ sách, báo cáo từ các cơ quan cấp dưới lên các cơ quan cấp
trên.
- Số liệu điều tra thống kê thu thập thường chỉ được sử dụng ở
dạng thô, chưa qua qui trình ước tính. Vì vậy độ tin cậy thấp.
Hạn chế về xử lý và lưu trữ thông tin:
- Số liệu được lưu giữ tản mạn, ít có tác dụng trong lĩnh vực
phân tích và dự báo.
- Các CSDL lưu trữ rời rạc, khó tích hợp được với nhau thành
CSDL chung của Bộ, ngành do các đơn vị sử dụng nhiều phần mềm,
do nhiều công ty khác nhau cung cấp hoặc tư vấn. Các phần mềm
quản lý phần nhiều dựa trên công nghệ cũ, chưa có quy định chung
về chuẩn xây dựng CSDL của Bộ, ngành;
- Hầu như chưa có hệ thống CSDL gốc ban đầu (về lao động;
dạy nghề; người có công; trẻ em; đối tượng xã hội khác) từ cấp cơ sở
(xã/phường/thị trấn; trường nghề; doanh nghiệp). Nếu có, thì các
CSDL này còn tản nạn, chưa có tính hệ thống, do vậy việc tích hợp
vào CSDL chung của Bộ, ngành sẽ không thực hiện được. Đặc biệt
là CSDL BHXH phục vụ cho công tác nghiên cứu hoạch định chính
sách của Bộ (cần có sự phối hợp chặt chẽ với BHXHVN để thu thập
thông tin này). Các chỉ tiêu đánh giá về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em cần phối hợp với các Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch và các Bộ hữu quan khác để thu thập.
3.1.2. Hạn chế của chia sẻ thông tin
3.1.2.1. Hạn chế về chất lượng của thông tin chia sẻ
- Thông tin số liệu chưa đầy đủ, việc chia sẻ thông tin số còn
chưa đúng thời gian quy định;
- Số liệu, thông tin chia sẻ chưa chính xác, thiếu cập nhật;
- Số liệu còn trùng lặp và còn nhiều mâu thuẫn giữa các đơn vị
với nhau;
- Số liệu không có tính hệ thống;
3.1.2.2. Hạn chế về cách thức chia sẻ thông tin
Đối với các đơn vị có chức năng thu thập và chia sẻ thông tin,
thống kê:
34
- Vụ KHTC hàng năm chủ trì và xuất bản ấn phẩm Niêm giám
thống kê trong đó tập hợp các chỉ tiêu thống kê ngành do các đơn vị
cung cấp, tuy nhiên các chỉ tiêu thường không đầy đủ, thiếu chính
xác.
- Trung tâm Thông tin chia sẻ dữ liệu liên quan đến ngành trên
website Molisa từ các số liệu báo cáo thống kê hành chính. Trung
tâm Thông tin cũng thu thập thêm các số liệu báo cáo khác có liên
quan tới ngành dựa trên các cuộc điều tra khảo sát hàng năm của
Tổng cục Thống kê và số liệu thống kê liên quan đến lĩnh vực ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội của các nước khác trên thế giới
như lao động việc làm, giảm nghèo. Tuy nhiên, việc cung cấp mới
chỉ dừng lại ở việc liệt kê cung cấp các bảng biểu, chưa theo tính hệ
thống cụ thể gây khó khăn cho người dùng tin, đồng thời số liệu chưa
mang tính cập nhật cao.
Đối với các đơn vị QLNN:
Các đơn vị QLNN chia sẻ thông tin chu yếu bằng văn bản thông
qua hình thức hành chính, một số đơn vị cũng đã cung cấp các số
liệu thống kê thuộc lĩnh vực đơn vị phụ trách trên website của đơn
vị, tuy nhiên còn rất sơ sài và số liệu cũ, không mang tính cập nhật.
3.1.2.3. Hạn chế của Hệ thống thông tin ngành
Hệ thống thông tin thống kê ngành LĐTBXH chưa đầy đủ, chưa
thống nhất, chưa chuẩn hóa, Hệ thống số liệu thống kê của ngành
mới chỉ được nhập và quản lý một cách thủ công (trên máy tính riêng
lẻ) bằng MsWord, MsExel. Chưa được tin học hóa cao; Chưa xây
dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu ban đầu phục vụ cho việc tích hợp
báo cáo chung chỉ tiêu thống kê Bộ, ngành; Việc triển khai ứng dụng
CNTT vào các cuộc điều tra thống kê còn ít, thông tin gốc từ phiếu
điều tra còn nhiều khiếm khuyết phải điều chỉnh trong các biểu tổng
hợp, độ chính xác số liệu chưa đủ độ tin cậy; Khâu chuẩn hóa thông
tin để triển khai ứng dụng CNTT còn thấp do Hệ thống sổ sách ghi
chép ban đầu (đăng ký hành chính) chỉ tiêu, hệ thống biểu mẫu (đặc
biệt là các chế độ báo cáo) về cơ bản chưa được chuẩn hóa, còn thiếu
nhiều bảng danh mục chuẩn, gây khó khăn cho việc ứng dụng
CNTT.
35
3.2. Nguyên nhân của hạn chế hoạt động thu thập và chia sẻ
thông tin ngành
3.2.1. Chưa hoàn thiện cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin ngành
Trong hoạt động của các đơn vị, nhiệm vụ thu thập thông tin là
công việc thường xuyên, bắt buộc phục vụ công tác theo dõi, giám
sát đánh giá các hoạt động quản lý nhà nước của chính các đơn vị đó.
Cơ chế thu thập, chia sẻ thông tin trong các cơ quan nhà nước chưa
hoàn thiện thể hiện:
Về các quy định của công tác thống kê:
Luật Thống kê và được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/1/2004.
Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2004 Hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê về đối tượng cung cấp
thông tin, hệ thống chỉ tiêu, bảng phân loại, chế độ báo cáo, điều tra
thống kê, công bố và sử dụng thông tin thống kê, ứng dụng khoa học,
công nghệ vào hoạt động thống kê, tổ chức thống kê.
Quy định của hoạt động thống kê nhà nước, được cụ thể trong
quy định thống kê các Bộ, ngành, theo đó các đơn vị QLNN có
nhiệm vụ tổng hợp báo cáo thống kê cơ sở, thực hiện các báo cáo
thống kê tổng hợp theo nhiệm vụ Bộ trưởng giao.
Việc thực hiện nhiệm vụ thống kê của ngành LĐTBXH được
quy định bởi Thông tư số 30/2011/TT-LĐTBXH ngày 24 tháng 10
năm 2011 của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH về Ban hành hệ thống chỉ
tiêu thống kê ngành Lao động – Thương binh và Xã hội. Trong đó có
những quy định: Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội gồm tập hợp những chỉ tiêu thống kê phản
ánh kết quả chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước ngành Lao động
– Thương binh và Xã hội nhằm phục vụ việc đánh giá, dự báo tình
hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước và của ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội trong từng thời kỳ; đáp ứng nhu cầu thông
tin thống kê của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng thông tin
của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.
36
Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Lao động – Thương binh và Xã
hội được quy định chi tiết về: (1) Chỉ tiêu Thống kê quốc gia thuộc
trách nhiệm Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thu thập, tổng hợp;
(2) Chỉ tiêu thống kê do Bộ ban hành. Trong đó, chia làm 2 nhóm chỉ
tiêu: nhóm chỉ tiêu Bộ công bố và nhóm chỉ tiêu phục vụ quản lý.
Các chỉ tiêu đều được xác định rõ về: mã chỉ tiêu; tên chỉ tiêu;
phân tổ chủ yếu; nguồn số liệu; kỳ công bố hay báo cáo; cơ quan
chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện công tác thống kê Bộ LĐTBXH
còn chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện như:
- Khái niệm, nội dung, phạm vi, phương pháp tính, nguồn số liệu
của các chỉ tiêu thống kê ngành đã ban hành tại Thông tư này;
- Chế độ báo cáo thống kê và chế độ ghi chép ban đầu, hồ sơ
hành chính phục vụ công tác thống kê ngành;
- Chương trình, quy trình điều tra Thống kê của Bộ, ngành;
- Quy chế về công bố và sử dụng thông tin thống kê ngành.
Việc quy định trách nhiệm thực hiện chỉ tiêu thống kê chưa quy
định cụ thể trách nhiệm của các Sở LĐTBXH cấp tỉnh, Phòng
LĐTBXH cấp huyện mà chỉ có trách nhiệm của các đơn vị QLNN
thuộc Bộ, như vậy khó thực hiện được các chỉ tiêu vì các chỉ tiêu của
ngành phải được tổng hợp từ cấp xã/phường đến huyện/quận và đến
tỉnh/TP.
Về các quy định quản lý thông tin ngành:
Việc thực hiện thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin quản lý
ngành cũng được quy định bởi Quyết định số 937/QĐ-LĐ-TBXH
ngày 22 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH ban hành
kèm theo Quy chế hoạt động thông tin quản lý của Bộ, quy định về
trách nhiệm thu thập thông tin của các đơn vị (điều 5 về thu thập
thông tin): (1.) Các đơn vị có trách nhiệm thu thập, xử lý, tổng hợp
thông tin và cung cấp cho Trung tâm Thông tin các loại thông tin
được quy định tại Phụ lục kèm theo Quy chế này; (2.) Đối với báo
cáo thống kê hành chính, các đơn vị thu thập, xử lý, tổng hợp thông
tin theo hệ thống chỉ tiêu thống kê thuộc lĩnh vực lao động, người có
37
công và xã hội theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội.
Tuy nhiên, việc phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị hiện
nay hầu như chưa cơ chế thống nhất và hữu hiệu, các đơn vị chưa
chú trọng việc thực hiện nhiệm vụ của mình (quy định trong Quyết
định số 937/QĐ-LĐTBXH) nên hiêu quả thu thập và chia sẻ thông
tin ngành chưa cao.
Chưa thực sự có cơ chế xã hội hóa trong thu thập và chia sẻ
thông tin:
Để có được thông tin theo nhu cầu, người dùng tin phải bỏ chi
phí nhất định cho người cung cấp tin, tuy nhiên cơ chế này không là
chính chức mà mới chỉ là các quan hệ cá nhân. Trong các chương
trình, đề án, đề tài hầu như chưa có chi phí mua thông tin sử dụng,
các đơn vị cung cấp thông tin cũng chưa có quy định về phí, mức phí
phải trả cho việc chia sẻ thông tin.
3.2.2. Chưa có cơ cấu, tổ chức bộ máy thu thập và chia sẻ thông tin
ngành từ cơ sở đến trung ương phù hợp
Trong văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các đơn vị QLNN thuộc Bộ, ngành đều quy định các
đơn vị có nhiệm vụ thu thập thông tin quản lý trong lĩnh vực của đơn
vị mình và có trách nhiệm báo cáo thống kê theo quy định. Tuy
nhiên, hầu như tất cả các đơn vị QLNN từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, các
đơn vị nhà nước thuộc Bộ không có bộ phận chuyên trách về thông
tin, thống kê.
Theo quy định chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ, Vụ
Kế hoạch - Tài chính có trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác
thống kê; Trung tâm Thông tin có nhiệm vụ xây dựng các cơ sở dữ
liệu, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ tổ chức các cuộc điều tra
thống kê của Bộ, ngành; các đơn vị thuộc Bộ có nhiệm vụ tổng hợp
và báo cáo thống kê; các Sở LĐTBXH có nhiệm vụ tổ chức thu thập
số liệu thống kê trong phạm vi địa phương mình quản lý. Như vậy,
Bộ chưa có đơn vị (cấp Vụ hoặc Cục) độc lập có chức năng nhiệm
vụ thực hiện công tác thông tin thống kê, chỉ có Phòng Kế hoạch -
Thống kê thuộc Vụ Kế hoạch - Tài chính thực hiện chức năng quản
38
lý nhà nước về công tác thống kê, các đơn vị quản lý nhà nước khác
của Bộ phần lớn chưa có bộ phận chuyên trách công tác thống kê.
Nên các chỉ tiêu thống kê được theo dõi, thu thập, tổng hợp bởi cán
bộ làm công việc khác kiêm nhiệm ở các bộ phận chuyên môn khác
không phải bộ phận thống kê;
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chỉ quản lý theo lĩnh vực,
không quản lý tổ chức bộ máy, nhân sự của ngành ở địa phương
(việc này do Uỷ ban nhân dân các cấp quản lý) dẫn đến các cấp địa
phương (tỉnh, huyện, xã) chưa bố trí bộ máy làm công tác thống kê
các lĩnh vực của Ngành. Thực tế này gây ra:
- Thiếu những cán bộ tương xứng cộng với sự yếu kém về kỹ
năng thông tin, thống kê đã làm hạn chế rất nhiều toàn bộ quá trình
thu thập dữ liệu, phân tích và sản xuất số liệu thống kê. Các đơn vị
của Bộ có ít cán bộ được đào tạo chuyên môn thông tin, thống kê là
chưa đủ thực lực để hoàn thành việc được giao uỷ thác thực hiện
công tác thông tin, thống kê.
- Tính chuyên nghiệp trong công tác thống kê không cao, tại
nhiều đơn vị cán bộ làm công tác thống kê chỉ là kiêm nhiệm hoặc
việc tổ chức công tác thống kê được thực hiện đơn lẻ, tự phát theo
các yêu cầu tác nghiệp chưa tuân thủ các tính tập trung, hệ thống
trong toàn ngành.
- Chưa có một đơn vị đầu mối quản lý, thu thập, xử lý, lưu trữ
thông tin chung cho Bộ, ngành dẫn đến thông tin phân tán, trùng
chéo, thông tin vừa thừa (do nhiều đơn vị của Bộ yêu cầu cấp dưới
báo cáo) vừa thiếu vì chưa có đơn vị đầu mối xử lý, tổng hợp lưu trữ
chung, tính chia sẻ thông tin còn nhiều bất cập giữa các đơn vị trong
Bộ.
- Chưa có một đơn vị chuyên môn sâu chịu trách nhiệm chính
nội dung điều tra phối hợp với các đơn vị quản lý nhà nước để thực
hiện nhiệm vụ này, dẫn đến chất lượng các cuộc điều tra chưa cao,
chưa hiệu quả (tính chia sẻ thông tin nhiều bất cập) và có sự trùng
chéo về chuyên môn, nghiệp vụ giữa cơ quan chuyên trách với cơ
quan quản lý.
39
3.2.3. Hệ thống thông tin và ứng dụng CNTT vào thu thập và chia
sẻ thông tin ngành chưa đáp ứng được yêu cầu
Các trang thiết bị công nghệ thông tin kể cả phần cứng và phần
mềm đã được xây dựng song chưa hoàn thiện Hệ thống thông tin
chung, thống nhất của Bộ. Thể hiện:
- Hệ thống các phần mềm chuyên ngành của các lĩnh vực chuyên
môn một vài đơn vị đã được xây dựng, nhưng chưa đáp ứng với công
việc tích hợp vào CSDL chung của Bộ. Thậm chí, ngay trong một
đơn vị cũng có rất nhiều phần mềm để thực hiện các công việc khác
nhau gây lãng phí tiền của và rất khó thực hiện khi triển khai rộng.
- Chưa có kênh thông tin quản lý chính thức, dẫn đến các thông
tin phân tán, rời rạc, manh mún, việc quản lý, lưu trữ thiếu tính hệ
thống và chưa được số hóa. Do vậy, không đáp ứng kịp thời cho
người sử dụng. (Văn bản do Bộ ban hành: thiếu nội dung toàn văn,
nhiều cơ quan tham gia, chưa có quy trình quản lý cung cấp thông
tin; Văn bản pháp quy của cơ quan hữu quan cập nhật thiếu
nhiều;).
- Việc chia sẻ các thông tin số của các đơn vị hiện nay vẫn theo
phương thức truyền thống là xuất bản các ấn phẩm thông tin thống
kê hoặc xen kẽ vào các báo cáo đánh giá tình hình triển khai các lĩnh
vực thuộc đơn vị phụ trách.
3.2.4. Kinh phí và phân bổ kinh phí cho hoạt động thu thập và chia
sẻ thông tin còn hạn chế
Để hoạt động thu thập và chia sẻ thông tin, thống kê được
duy trì tốt cần phải có ngân sách tương xứng, song hầu hết các đơn vị
không có ngân sách riêng hàng năm chi cho hoạt động này.
Kinh phí cho hoạt động thu thập và chia sẻ thông tin chủ yếu
theo dự án và còn thấp, chưa đủ để đầu tư đồng bộ, vì vậy việc đầu
tư tiến hành chưa thực sự hiệu quả.
Việc xây dựng Kế hoạch, đề án, dự án về thu thập thông tin, ứng
dụng CNTT, chia sẻ thông tin chưa theo định hướng chung của Bộ,
vẫn còn có các đơn vị xây dựng Trung tâm tích hợp dữ liệu
(TTTHDL) riêng, điều này dẫn đến việc CSDL đầu tư tràn lan không
hiệu quả.
40
CHƯƠNG III
LỰA CHỌN MÔ HÌNH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
CƠ CHẾ CHIA SẺ THÔNG TIN NGÀNH
1. Mô hình và cơ chế chia sẻ thông tin của ngành
1.1. Nội dung mô hình chia sẻ thông tin ngành trong giai đoạn tới
1.1.1. Mô hình chia sẻ thông tin theo ngành dọc
Căn cứ vào hiện trạng của hoạt động thu thập và chia sẻ thông tin
cùng yêu cầu cần đáp ứng của Hệ thống thông tin ngành, đề tài đưa
ra lộ trình 2 giai đoạn hoàn thiện mô hình chia sẻ thông tin ngành.
Giai đoạn thứ nhất từ năm 2013 đến 2015 hoàn thiện mô hình
thông tin, thống kê của Bộ, ngành từ cấp cơ sở đến cấp trung ương;
Giai đoạn thứ hai sau năm 2015 ứng dụng CNTT vào việc thu
thập, chia sẻ thông tin ngành và chủ yếu dùng công cụ Internet với
mô hình Trung tâm Thông tin (cổng thông tin điện tử của Bộ,
ngành).
1.1.1.1. Mô hình thu thập, chia sẻ thông tin ngành giai đoạn
2013 - 2015
Theo mô hình này Vụ Kế hoạch – Tài chính và Trung tâm Thông
tin là trung tâm.
Vụ Kế hoạch – Tài chính thực hiện công tác QLNN về thống kê
với vai trò thực hiện chức năng chung về Thống kê Là đầu mối giúp
Bộ chỉ đạo, hướng dẫn công tác thống kê của Bộ, ngành theo quy
định của pháp luật; Xây dựng và trình Bộ danh mục các cuộc điều tra
thống kê; thẩm định trình Bộ phê duyệt phương án các cuộc điều tra
thống kê; tổ chức thực hiện chế độ báo cáo thống kê cơ sở và chế độ
báo cáo thống kê tổng hợp, công bố thông tin thống kê theo quy định
của nhà nước. Ngoài ra Vụ Kế hoạch – Tài chính có trách nhiệm thu
thập và chia sẻ các thông tin, thống kế tổng hợp về Dự toán kinh phí,
quyết toán kinh phí, các dự án đầu tư; Danh mục các chương trình,
dự án, khoản viện trợ phi dự án từ nguồn viện trợ nước ngoài; Danh
mục các đề tài khoa học ...
Trung tâm Thông tin thực hiện chức năng sự nghiệp về công tác
thông tin, thống kê: Tổ chức thực hiện các cuộc điều tra thống kê đã
41
được Bộ phê duyệt với vai trò xử lý, phân tích, tổng hợp, lưu trữ và
chia sẻ thông tin; Xây dựng, tổ chức triển khai phần mềm và CSDL
ngành sau khi kế hoạch được Bộ phê duyệt; Phối hợp với các Tổ
chức, cá nhân ngoài Bộ, ngành về thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin
các lĩnh vực khác liên quan đến hoạt động thông tin của Bộ, ngành.
Theo mô hình này Trung tâm Thông tin chủ yếu thực hiện các
cuộc điều tra thống kê của Bộ, và hướng dẫn nghiệp vụ thống kê cho
các đơn vị chức năng thuộc Bộ thực hiện việc ghi chép hồ sơ hành
chính và lập các báo cáo thống kê gửi bộ phận thông tin, thống kê để
tổng hợp chung.
Tại Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố cần bố trí một bộ phận
hoặc một vài cán bộ làm công tác tổng hợp và thống kê. Nhiệm vụ
của bộ phận thống kê là giúp Giám đốc Sở LĐTBXH tổ chức thực
hiện công tác thống kê phục vụ yêu cầu quản lý của Sở, thực hiện
các cuộc điều tra và chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước theo yêu
cầu của cơ quan cấp trên, tổng hợp và cung cấp số liệu thống kê cho
các phòng, ban chức năng thuộc Sở nhằm phục vụ cho việc thực
hiện, theo dõi và đánh giá các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý cũng
như tình hình chung của tỉnh, của quốc gia.
Tại Phòng LĐTBXH các quận, huyện cần bố trí ít nhất một cán
bộ làm công tác thống kê, tổng hợp. Cán bộ này có nhiệm vụ thu
thập, tổng hợp và cung cấp số liệu thống kê trên địa bàn phục vụ yêu
cầu quản lý của Phòng, thực hiện các cuộc điều tra và chế độ báo cáo
thống kê của Nhà nước theo yêu cầu của Sở.
Tại cấp xã, cán bộ văn hoá – xã hội thực hiện việc lập sổ ghi
chép, theo dõi, tổng hợp và quản lý đối tượng người có công, người
hưởng chính sách xã hội và các đối tượng khác trên địa bàn theo
hướng dẫn của Phòng LĐTBXH; phối hợp với cán bộ văn phòng -
thống kê xã thực hiện việc thống kê nguồn lao động của xã trình
UBND cấp huyện để cân đối nguồn lao động, tạo việc làm, dạy nghề,
xuất khẩu lao động; đồng thời thực hiện các cuộc điều tra và chế độ
báo cáo thống kê của Nhà nước theo yêu cầu của Phòng LĐTBXH
cấp huyện.
42
Các quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hệ
thống thống kê lĩnh vực lao động, người có công và xã hội từ cấp Bộ
cho tới cấp tỉnh, huyện và xã phải được thể chế hoá trong các văn
bản quy phạm pháp luật. Nội dung thể chế hệ thống thống kê của Bộ,
ngành có tính quyết định tới hiệu lực của toàn bộ hệ thống. Nội dung
đó bao gồm các văn bản pháp quy quy định tổ chức và sự phối hợp
của các tổ chức trong hệ thống thống kê, cũng như điều kiện làm việc
của các công chức làm công tác thống kê. Hệ thống thống kê của Bộ,
ngành phải được quy định hoạt động phù hợp với các quy định trong
Luật Thống kê. Đồng thời cần quan tâm cải thiện điều kiện làm việc
của công chức để cải thiện chỗ làm việc và tăng lương giữ cán bộ.
Ngoài ra cần giao quyền tự chủ nhiều hơn cho lãnh đạo các cấp
quyền chủ động tổ chức bộ máy của mình sao cho hoạt động có hiệu
quả.
Trong giai đoạn này mô hình thu thập và chia sẻ thông tin có
những đặc trưng chủ yếu sau:
- Luồng thông tin thu thập từ cấp cơ sở đi lên cấp trên (từ cấp
xã/phường-cấp huyện/quyện-cấp tỉnh/TP-cấp trung ương);
- Luồng thông tin chia sẻ từ ở đơn vị có chức năng thông tin
cấp trung ương (Vụ Kế hoạch-Tài chính, Trung tâm Thông tin) cho
các đơn vị trong Bộ, cho các Sở LĐTBXH, sau đó các Sở LĐTBXH
chia sẻ cho các Phòng LĐTBHX huyện, đến các các bộ chuyên trách
LĐTBXH ở xã/phường);
- Hình thức thu thập và chia sẻ theo văn bản thống kê, báo cáo
hành chính;
- Cơ chế thu thập và chia sẻ theo các quy định hiện hành về
thông tin và thống kê của nhà nước và của Bộ, ngành.
- Chưa ứng dụng CNTT trực tuyến vào các khâu thu thập và chia
sẻ thông tin.
- Chưa có Hệ thống thông tin (CNTT) của Bộ thống nhất, chuẩn
và hữu hiệu..
1.1.1.2. Mô hình chia sẻ thông tin ngành trên nền tảng ứng dụng
CNTT cao cho giai đoạn 2016 - 2020
43
Ở mô hình này, với Trung tâm Thông tin nằm ở trung tâm, kết
nối với Internet. Các Sở LĐTBXH và các đơn vị không thuộc Bộ
nằm trên 1 vòng ring kết nối với nhau để chia sẻ thông tin. Các đơn
vị trong Bộ kết nối với Bộ qua đường VPN, Lãnh đạo và các cơ quan
nghiên cứu kết nối để nhận hay chia sẻ thông tin qua thiết bị chuyển
mạch switch.
Tất cả các thông tin số liệu chia sẻ đều nằm trong hệ thống
Server thuộc Trung tâm Thông tin. Bất cứ đơn vị nào trong mô hình
trên đều có thể chia sẻ thông tin một cách dễ dàng nhất.
Mô hình thu thập, cập nhật thông tin này đòi hỏi ứng dụng
CNTT phần mềm quản lý CSDL.
Đối tượng người sử dụng chia sẻ thông tin trong mô hình này là
Lãnh đạo và các cơ quan nghiên cứu (bộ phận chuyên môn) các cấp.
Theo mô hình này, các thông tin của ngành (thông tin số và phi
số) sẽ được chia sẻ cho các cấp. Tuy nhiên, theo cấu trúc ngành dọc
trực tuyến thì Bộ chia sẻ thông tin cho các Sở LĐTBXH, sau đó Sở
LĐTBXH lại thực hiện chia sẻ thông tin cho cấp Phòng LĐTBXH
huyện. Mô hình này đang được thực hiện với vai trò của đơn vị làm
chức năng đầu mối và chỉ đạo thống nhất vận hành Hệ thống.
Việc thu thập và chia sẻ thông tin ngành và các thông tin chung
phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ, phục vụ nhu
cầu thông tin của các đơn vị trong và ngoài Bộ, các tổ chức và cá
nhân với thông tin đa dạng ở tất cả các lĩnh vực của Bộ, ngành.
Với chức năng và nhiệm vụ này thì việc thu thập và chia sẻ
thông tin phải được thực hiện ở hệ thống thông tin chung với đầu
mối là Trung tâm Thông tin của Bộ. Khi đó, tất cả các thông tin phi
số và thông tin số từ các đơn vị trong Bộ cung cấp cho Trung tâm
THDL chung.
1.1.2. Mô hình chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong Bộ
Thực hiện chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong Bộ rất quan
trọng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin tổng hợp, liên ngành và đảm
bảo tính thống nhất của thông tin.
Mô hình chia sẻ thông tin giữa các đơn vị dựa trên nền tảng kết
hợp thông tin của Hệ thống thông tin Bộ với các Hệ thống thông tin
44
chuyên ngành (do các đơn vị quản lý và điều hành). Nền tảng chia sẻ
là ứng dụng công nghệ nội mạng và Internet với giải pháp là
NET+SQL.
Các đơn vị vừa thực hiện chức năng cung cấp thông tin và chia
sẻ thông tin, lấy Trung tâm thông tin làm đơn vị đầu mối.
Việc thu thập và chia sẻ thông tin thực hiện theo cơ chế hành
chính (yêu cầu và đáp ứng yêu cầu) giữa đơn vị tích hợp dữ liệu với
đơn vị cung cấp và sử dụng dữ liệu.
1.1.3. Mô hình chia sẻ thông tin với các tổ chức, cá nhân
Việc chia sẻ thông tin lĩnh vực Bộ, ngành quản lý cho các cá
nhân, tổ chức có xu hướng ngày càng tăng về khối lượng cũng như
chất lượng thông tin. Chia sẻ thông tin cho mọi đối tượng xã hội thể
hiện tính minh bạch, tính thống nhất trong quản lý nhà nước lĩnh vực
của ngành.
Mô hình chia sẻ thông tin của Bộ, ngành với các cá nhân, tổ chức
chủ yếu dựa trên nền tảng công nghệ thông tin mạng với Cổng thông
tin điện tử của Bộ là phương tiện chính, bên cạnh đó kết hợp với các
cổng TTĐT, Website và các ấn phẩm của các đơn vị khác thuộc Bộ,
và của các Sở LĐ-TBXH.
Ở đây, cổng TTĐT giữ vai trò trung tâm. Các cá nhân, tổ chức
bên ngoài thông qua cổng TTĐT này để tiếp cận, chia sẻ thông tin
với Bộ, các Sở, Ban, Ngành, các đơn vị. Thông tin được luân chuyển
giữa các tổ chức một cách dễ dàng nhờ sự kết nối chặt chẽ giữa các
tổ chức, đơn vị
1.2. Cơ chế chia sẻ thông tin của Bộ, ngành
Thu thâp thông tin và chia sẻ thông tin là 2 mặt của HTTT, cơ
chế chia sẻ luôn gắn với cơ chế thu thập thông tin.
1.2.1. Cơ chế thu thập thông tin ngành
1.2.1.1. Cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin giai đoạn thứ nhất
Trên cơ sở đánh giá cơ chế hiện tại của hoạt động thu thập và
chia sẻ thông tin ngành từ trước tới nay, cùng với định hướng phát
triển Hệ thống thông tin Bộ, ngành trong giai đoạn này, hoạt động
thu thập, chia sẻ thông tin cần phải hoàn thiện các cơ chế như:
Hoàn thiện các quy định về công tác thống kê ngành LĐTBXH:
45
Căn cứ vào Luật Thống kê (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2004), Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2004
Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê về đối tượng
cung cấp thông tin, hệ thống chỉ tiêu, bảng phân loại, chế độ báo cáo,
điều tra thống kê, công bố và sử dụng thông tin thống kê, ứng dụng
khoa học, công nghệ vào hoạt động thống kê, tổ chức thống kê.
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của Bộ, ngành, theo đó các đơn
vị QLNN có nhiệm vụ tổng hợp báo cáo thống kê cơ sở, thực hiện
các báo cáo thống kê tổng hợp theo nhiệm vụ Bộ trưởng giao.
Trong giai đoạn 2013-2015, Bộ cần thiết ban hành các văn bản
hướng dẫn thực hiện Thông tư số 30/2011/TT-LĐTBXH ngày 24
tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH về Ban hành hệ
thống chỉ tiêu thống kê ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.
Xây dựng và ban hành quy chế hoạt động thông tin thống kê của
Bộ, ngành quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị trong
việc thực hiện các hoạt động thống kê
Hoàn thiện quy chế Thông tin quản lý của Bộ, ngành:
Căn cứ vào Luật Công nghệ thông tin và chức năng, nhiệm vụ
của Bộ, ngành, Bộ cần phải hoàn thiện Quy chế Thông tin quản lý
của Bộ, ngành.
Hiện nay, việc thực hiện thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin
quản lý của Bộ là Quy chế hoạt động thông tin quản lý của Bộ theo
Quyết định số 937/QĐ-LĐ-TBXH ngày 22 tháng 7 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ LĐTBXH.
Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin
của Bộ theo quy chế này còn nhiều bất cập do văn bản này không có
tính ràng buộc, bắt buộc các đơn vị thực hiện. Nhiều quy định trong
Quy chế khó thực hiện cần phải được sử đổi bổ sung. Quy chế mới
cần sửa đổi, và bổ sung làm rõ nhưng nội dung:
- Về thu thập, xử lý thông tin
- Về cập nhật, lưu trữ và quản lý thông tin
- Về việc cung cấp thông tin
- Về việc khai thác, sử dụng thông tin
- Về xây dựng CSDL
46
- Thành lập đầu mối thông tin, thống kê của Bộ
Từng bước vận dụng cơ chế xã hội hóa vào hoạt động thu thập
và chia sẻ thông tin:
Bên cạnh cơ chế hành chính về thu thập và chia sẻ thông tin của
ngành LĐTBXH cũng cần áp dụng cơ chế xã hội hóa. Thực hiện cơ
chế xã hội hóa bổ sung cho cơ chế hành chính về tính linh hoạt và
hiệu quả của nó, áp dụng cơ chế này cho phép người dùng có được
thông tin theo nhu cầu của mình và người cung cấp thông tin cũng có
kinh phí nhất định để cung cấp thông tin ngày càng tốt hơn.
Trong giai đoạn này (2013-2015) tiến hành thực hiện cơ chế xã
hội hóa với những thông tin chuyên sâu, cần nhanh chóng.
Việc thu thập thông tin cũng có thể theo cơ chế xã hội hóa cho
phép các tổ chức cá nhân có chuyên môn thu thập thông tin, Bộ,
ngành sẽ trả phí để được cung cấp thông tin. Cơ chế này đã được
nhiều tổ chức áp dụng vì tính hiệu quả như trong điều tra dư luận,
thông tin khảo sát nhanh.
1.2.1.2. Cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin giai đoạn hai với
đẩy mạnh ứng dụng CNTT
Khi ứng dụng CNTT hiện đại vào Hệ thống thông tin của Bộ,
ngành, cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin cần có sự thay đổi nhất
định.
Cơ chế hành chính:
Cơ chế hành chính sẽ chuyển sang là những quy định khung yêu
cầu các đơn vị thực hiện. Khi đó các quy định về thông tin và thống
kê của Bộ, ngành được sử đổi phù hợp với phương pháp, phương
tiện thu thập chia sẻ thông tin trên mạng Internet và tự động hóa
nhiều khâu của công tác thông tin, thống kê.
Khi đó các cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin cần căn cứ vào
việc:
- Ứng dụng mô hình chia sẻ trên mạng thông qua Hệ thống thông
tin tác nghiệp (chuyên ngành)
- Chia sẻ thông tin qua cổng TTĐT của Bộ
47
Chia sẻ thông tin qua Cổng TTĐT của Bộ là các quy tắc, quy
định việc tiếp cận các thông tin lĩnh vực của Bộ, ngành trong kho lưu
trữ và quản lý thông tin của Bộ, mà đầu mối là Trung tâm Thông tin.
Quy định các đơn vị cấp dưới có quyền truy cập vào mạng tác
nghiệp của Bộ (hiện tại là eMOLISA). Các Sở LĐTBXH được tiếp
cận các thông tin phi số (hệ thống văn bản pháp luật ngành và liên
quan), các thông tin số liệu (dữ liệu thống kê của các lĩnh vực, dữ
liệu các cuộc điều tra...)
Đối với các thông tin chia sẻ cho cấp Sở LĐTBXH với mức độ,
phạm vi số liệu cung cấp được quy định trong quy chế thông tin của
Bộ, ngành.
Sử dụng cơ chế xã hội hóa:
Cơ chế xã hội hóa thể hiện ở cả 2 khía cạnh: thu thập thông tin
và chia sẻ thông tin.
- Cho phép các tổ chức, cá nhân có chuyên môn cung cấp thông
tin thu thập được;
- Cung cấp thông tin có thu phí (những thông tin chuyên sâu và
có giá trị gia tăng) đối với người sử dụng (theo từng đối tượng cụ
thể).
1.2.2. Cơ chế chia sẻ thông tin giữa các đơn vị thuộc Bộ (theo
chiều ngang)
Cơ chế chia sẻ thông tin giữa các đơn vị thuộc Bộ được quy định
trong Quy chế về hoạt động thông tin quản lý. Việc chia sẻ thông tin
giưa các đơn vị trong Bộ có thể có sử dụng cơ chế xã hội hóa với
những đề án, đề tài có kinh phí cho việc thu thập thông tin, Tuy
nhiên, cơ chế chính vẫn là các quy định hành chính của Bộ.
Theo đó, nguyên tắc chia sẻ thông tin của Quy chế thông tin
quản lý Bộ LĐTBXH quy định:
- Các đơn vị có trách nhiệm cùng phối hợp xây dựng HTTT dùng
chung của Bộ, ngành;
- Các đơn vị chịu trách nhiệm về nội dung thông tin cung cấp và
các thông tin cung cấp phải bảo đảm tính trung thực, khách quan,
chính xác, đầy đủ, kịp thời nhằm nâng cao chất lượng thông tin phục
vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Bộ;
48
- Thủ trưởng, cá nhân các đơn vị liên quan đến thu thập, xử lý,
tổng hợp, lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin chịu trách nhiệm
trước Bộ trưởng và trước pháp luật về việc quản lý và sử dụng thông
tin đối với lĩnh vực được giao;
Chia sẻ dữ liệu được tích hợp vào trung tâm dự liệu của Bộ: đối
với các thông tin số liệu do các đơn vị cung cấp hoặc tích hợp vào
trung tâm dữ liệu của Bộ thì các đơn vị được quyền khai thác thông
tin theo nhu cầu. Trung tâm Thông tin đảm bảo các các đơn vị được
tiếp cận toàn bộ thông tin số của Bộ.
Chia sẻ dữ liệu được quản lý bởi các đơn vị QLNN (thuộc các hệ
thống thông tin chuyên ngành): Bộ xây dựng quy chế quy định:
- Đơn vị chủ quản phải thực hiện tổng hợp thông tin từ các
CSDL chuyên ngành;
- Chia sẻ thông tin được tổng hợp qua cổng thông tin điện tử của
Bộ hoặc cổng TTĐT của đơn vị;
- Lưu trữ dữ liệu trên trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ.
1.2.3. Cơ chế chia sẻ thông tin của Bộ, ngành với các cá nhân, tổ
chức
Trong giai đoạn đầu, do chưa ứng dụng tốt CNTT và chia sẻ
thông tin của Bộ, ngành thì các đơn vị thuộc Bộ, ngành chia sẻ thông
tin cho các tổ chức cá nhân thông qua hệ thống cơ quan hành chính
và theo cơ chế hành chính quản lý nhà nước.
Khi việc ứng dụng CNTT đã đáp ứng chính phủ điện tử thì cơ
chế chia sẻ thông tin của Bộ, ngành với các cá nhân, tổ chức đa dạng
hơn: (i) Vừa theo cơ chế hành chính; (ii) vừa theo cơ chế XHH. Khi
đó chia sẻ thông tin trên Cổng TTĐT là công cụ trên mạng đáp ứng
được các yêu cầu của việc thu thập thông tin của một đơn vị, tổ chức.
Cổng TTĐT của Bộ sẽ thực hiện tích hợp tất cả các cổng thông
tin các đơn vị thuộc Bộ, tức là thực hiện tích hợp các hệ thống thông
tin chuyên ngành trong hệ thống thông tin chung của Bộ.
Cổng thông tin điện tử Bộ LĐTBXH sau khi xây dựng xong sẽ
có nhiều chức năng đáp ứng được yêu cầu của người dùng như: cập
nhật thông tin phi số, thông tin số; thống kê, báo cáo; chức năng tích
hợp bản đồ; tích hợp các cổng TTĐT của các đơn vị, các website ...
49
Khi đó, Cổng TTĐT của Bộ sẽ là công cụ thực hiện thu thập và
chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong Bộ các Sở LĐTBXH các tỉnh
với các cá nhân, tổ chức.
Qua cổng TTĐT với các chức năng cho phép cá nhân, tổ chức
vừa khai thác thông tin và cung cấp thông tin cho Bộ, ngành, cơ chế
thu thập và chia sẻ thông tin đối với cá nhân tổ chức khi đó sẽ đa số
là cơ chế xã hội hóa
2. Khuyến nghị giải pháp tổ chức thực hiện
2.1. Về cơ chế chính sách
2.1.1. Ban hành Thông tư về thông tin - thống kê
Quy định về HTTT ngành theo đó có các điều khoản quy định về
trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ, ngành trong việc thu thập và
chia sẻ thông tin lĩnh vực LĐTBXH thống nhất trên toàn quốc, từ cơ
sở đến Trung ương.
Hiện nay, Bộ LĐTBXH đã ban hành Quy chế hoạt động thông
tin quản lý trong đó cũng quy định rõ chế độ, trách nhiệm cung cấp,
quản lý thông tin, dữ liệu của các đơn vị trong Bộ. Tuy nhiên, việc
thực hiện thu thập thông tin của ngành lại ở các cấp dưới
(xã/phường, huyện, tỉnh) nên cần thiết phải có Thông tư quy định
mang tính quy phạm pháp luật. Văn bản QPPL này quy định cụ thể
các đối tượng thuộc ngành thực hiện (i) hoạt động thu thập, cập nhật
thông tin; (ii) Lưu trữ và quản lý thông tin; (iii) Cung cấp thông tin
(của các cơ quan, đơn vị); (iv) Khai thác và sử dụng thông tin; (v)
Xây dựng các CSDL và (vi) Thiết lập các đầu mối thông tin.
2.1.2. Ban hành văn bản cụ thể quy định trách nhiệm cung cấp,
biên tập, phổ biến thông tin trên mạng (Cổng thông tin điện tử Bộ)
Trung tâm Thông tin là đơn vị đầu mối tiếp nhận, biên tập thông
tin, có trách nhiệm lập kế hoạch hàng tháng, quý, năm về phổ biến
thông tin trên Cổng TTĐT của Bộ; theo dõi và đôn đốc các đơn vị
trong Bộ cung cấp thông tin, dữ liệu; biên tập về nội dung, chuẩn hoá
về hình thức thông tin và chuyển thông tin đã biên tập lên Cổng
TTĐT của Bộ.
Trung tâm Thông tin có trách nhiệm bảo đảm về kỹ thuật để phổ
biến thông tin trên Cổng TTĐT của Bộ với nhiều hình thức, lựa chọn
50
giải pháp, hình thức hiển thị và truy cập thông tin theo sự phát triển
của CNTT trong nước và quốc tế; chịu trách nhiệm quản trị mạng và
đảm bảo an toàn thông tin trên Cổng TTĐT của Bộ hoạt động 24/24
giờ hàng ngày (kể cả ngày nghỉ); Thông báo, hướng dẫn và quản lý
danh mục các cơ quan trong và ngoài ngành đăng ký truy cập vào
Cổng TTĐT của Bộ.
Các đơn vị khác trong Bộ có trách nhiệm cung cấp thông tin, dữ
liệu lên Cổng TTĐT của Bộ như quy định tại trong Nghị định
106/2012/NĐ-CP.
2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy Hệ thống thông tin Bộ, ngành
Căn cứ vào lộ trình thực hiện mô hình thu thập và chia sẻ thông
tin ngành LĐTBXH, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy cũng cần đáp
ứng lộ trình này.
Kiện toàn bộ máy hoạt động thông tin, thống kê giai đoạn 2013-
2015:
Thực hiện kiện toàn tổ chức thông tin, thống kê, Bộ ban hành các
văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức
thống kê Bộ, thống kê của Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố, thống
kê của Phòng LĐTBXH các quận, huyện và nhiệm vụ thống kê đối
với cán bộ làm công tác lao động – xã hội ở cấp xã.
- Xây dựng đầu mối thông tin, thống kê (bộ phận có chức năng
thông tin, thống kê) ở các đơn vị QLNN
Các đơn vị QLNN có các HTTT tác nghiệp của mình, HTTT này
cũng có các chức năng thu thập và chia sẻ thông tin thuộc lĩnh vực
đơn vị quản lý. Tuy nhiên, đối với Bộ, ngành thì các HTTT này cần
được tích hợp, liên kết với HTTT chung của Bộ, các đơn vị QLNN
cần xây dựng bộ phận chuyên trách thông tin, quản trị mạng của Hệ
thống tác nghiệp làm đầu mối thông tin cho HTTT chung của Bộ,
ngành.
- Xây dựng mạng lưới thu thập, chia sẻ thông tin ở các cấp:
Các Sở LĐTBXH cũng có hệ thống thông tin quản lý ngành
trong phạm vi địa phương, các thông tin được tổng hợp, xử lý ở các
phòng nghiệp vụ các Sở LĐTBXH, tập trung tại bộ phận có chức
năng để báo cáo cho Bộ LĐTBXH thông qua các đơn vị QLNN của
51
Bộ và thực hiện báo cáo cho lãnh đạo tỉnh/TP. Các hệ thống thông
tin cấp Sở cũng có các chức năng thu thập và chia sẻ thông tin ngành
thuộc phạm vi quản lý địa phương. Tuy nhiên, đối với Bộ, ngành thì
các HTTT này cũng cần được liên kết với Hệ thống thông tin chung
của Bộ.
Như vậy, cũng nên thành lập bộ phận chuyên trách về TT-TK ở
các Sở LĐTBXH.
Bên cạnh đó, cũng cần thiết xây dựng đội ngũ công tác viên, điều
tra viên ở cấp xã/phường và thôn/bản bởi vì thông tin của ngành
LĐTBXH thường là các thông tin cụ thể tại cấp quản lý thấp nhất.
Hoàn thiện Bộ máy thực hiện thông tin, thống kê Bộ, ngành ứng
dụng CNTT giai đoạn 2016-2020:
Thành lập đơn vị thuộc Bộ, độc lập cấp Vụ/Cục thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và thực hiện chỉ đạo các hoạt động về thông
tin, công nghệ thông tin và thống kê của Bộ.
Để hoạt động quản lý điều hành và thực hiện nhiệm vụ chính trị
của Bộ, ngành theo định hướng nâng cao năng lực thông tin và đẩy
mạnh ứng dụng CNTT được thuận lợi và đạt hiệu quả cao cần thiết
có sự thống nhất tổ chức hoạt động TT-TK.
Yêu cầu có một đơn vị có chức năng lưu trữ, phục hồi tất cả
thông tin của Bộ. Bộ phận thông tin, CNTT của đơn vị này nên quản
lý việc in ấn và xuất bản số liệu ... Bộ phận Thống kê phải được giao
chức năng chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch/chương trình đào tạo
hàng năm cho tất cả các cán bộ làm công tác thống kê ở các cấp (xã,
huyện, tỉnh và trung ương).
Với những yêu cầu trên, cần thiết thành lập một đơn vị độc lập,
một cơ quan duy nhất của Bộ là đầu mối thực hiện chức năng, nhiệm
vụ thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin, số liệu từ các cơ sở, đối tượng
quản lý của Bộ, ngành. Và chỉ có đơn vị này có quyền và trách
nhiệm: cung cấp thông tin, số liệu cho các đơn vị thuộc, trực thuộc
Bộ và các cơ quan hữu quan khác.
Cục Thông tin Thống kê Lao động - Xã hội là đơn vị thuộc Bộ
LĐTBXH có trách nhiệm tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ LĐTBXH
thống nhất quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin,
52
thống kê và ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực LĐTBXH
trên phạm vi cả nước; cung cấp các dịch vụ liên quan đến thông tin,
ứng dụng công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật.
2.3. Trang bị hạ tầng thông tin và ứng dụng CNTT vào chia sẻ
thông tin ngành
2.3.1. Trang bị hạ tầng thông tin của Bộ, ngành
Trung tâm Thông tin của Bộ LĐTBXH nên xây dựng một Hệ
thống thông tin và thống kê chung của Bộ, trong đó lấy hệ thống
CSDL chung của Bộ, ngành làm trụ cột. Hệ thống này lưu trữ toàn
bộ thông tin thống kê bộ thu thập được. Hệ thống CSDL nên được
xây dựng, bảo trì và nâng cấp bởi Trung tâm/ Cục Thông tin-Thống
kê. Tất cả dữ liệu do các Vụ, Cục, đơn vị khác trong bộ thu thập phải
được đặt ở CSDL chính. Trung tâm Thông tin nên kết nối CSDL
chính với CSDL khác của cục/ đơn vị (nếu có) để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp cận (truyền tải và lấy) dữ liệu. Máy chủ có chứa
CSDL chính nên cung cấp tất cả các file.
Nâng cấp và trang thiết bị hiện đại đủ dung lượng cho Trung tâm
Tích hợp số liệu của Bộ. Sử dụng công nghệ kết nối mạng diện rộng,
mạng riêng ảo từ Trung tâm Tích hợp tới các đơn vị thuộc và trực
thuộc Bộ, các Sở LĐTBXH và các cơ quan hữu quan.
2.3.2. Ứng dụng CNTT vào hoạt động thu thập và chia sẻ thông tin
ngành
Bên cạnh việc trang bị hạ tầng thông tin Bộ, ngành, cần thực
hiện một số giải pháp cụ thể để phát triển ứng dụng CNTT vào hoạt
động thông tin và thống kê như đưa ứng dụng công nghệ thông tin
vào tất cả các khâu trong quy trình thống kê nói riêng và trong quy
trình quản lý, điều hành của Bộ nói chung:
- Ứng dụng CNTT trong việc thu thập thông tin ban đầu;
- Ứng dụng CNTT trong việc tổng hợp, xử lý, lưu trữ;
- Ứng dụng CNTT trong việc truyền tin;
- Xây dựng các CSDL vĩ mô, vi mô, kho dữ liệu;
- Phát triển các công cụ khai thác dữ liệu, phân tích, dự báo
thống kê;
- Xây dựng chuyên trang công bố, chia sẻ thông tin thống kê;
53
- Phổ biến kiến thức và đào tạo thống kê chuyên ngành LĐ-
TBXH đặt trên Website Bộ.
2.3.3. Một số nhiệm vụ cụ thể đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào hoạt
động thu thập và chia sẻ thông tin
- Giao Trung tâm Thông tin xây dựng một chương trình phát
triển và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá các
khâu thu thập, tổng hợp, phân tích và dự báo, lưu giữ, phổ biến và
chia sẻ thông tin thống kê, hình thành hệ thống thông tin thống kê
thống nhất từ Bộ tới Sở LĐTBXH cấp tỉnh, Phòng LĐTBXH cấp
huyện; xây dựng các cơ sở dữ liệu thống kê vi mô và vĩ mô và mạng
tin học, kết nối và chia sẻ thông tin thống kê trong nội bộ Bộ cũng
như với các Sở LĐTBXH, với các Bộ ngành khác và với Tổng cục
Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Trên cơ sở Chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin của Bộ, thực hiện trang bị cơ sở hạ tầng máy tính và một
mạng lưới phù hợp, có những máy chủ đủ dung lượng, những thiết bị
bảo vệ, hỗ trợ và duy trì bảo dưỡng thường xuyên cho cơ quan thống
kê của Bộ, Sở và Phòng LĐTBXH cấp huyện; đồng thời trang bị
những kỹ năng và kiến thức công nghệ thông tin cho những người sử
dụng các trang thiết bị này, cũng như trang bị kiến thức về thống kê
cho những cán bộ tin học, xử lý dữ liệu của Bộ.
- Trong các năm tiếp theo giao Trung tâm Thông tin thiết kế các
phần mềm thống kê có giao diện thân thiện và dễ dàng sử dụng, đặc
biệt đối với các nhu cầu của địa phương; xây dựng tài liệu hướng dẫn
cho việc sử dụng và duy trì bảo dưỡng thiết bị máy tính một cách
đúng đắn và cung cấp các đào tạo thích hợp cho các cán bộ thống kê
ở tất cả các cấp.
2.4. Huy động các nguồn kinh phí cho hoạt động thu thập và chia
sẻ thông tin
2.4.1. Định hướng nguồn kinh phí thống nhất cho hoạt động thu
thập và chia sẻ thông tin
Cần ưu tiên kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT như:
Nâng cấp Trung tâm tích hợp của Bộ; thuê đường truyền; nâng cấp
trang Website của Bộ thành công thông tin điện tử...;
54
Tập trung đầu tư cho hoạt động thông tin ngành LĐTBXH cụ thể
tập trung một số dự án trọng điểm có tính đột phá, tạo nền móng cho
hoạt động thông tin ngành LĐTBXH ngày một khẳng định được vai
trò, vị trí trong hệ thống thông tin của quốc gia;
Thống nhất phân bổ kinh phí các dự án công nghệ thông tin cấp
Bộ, ngành về đơn vị chuyên trách CNTT của Bộ nhằm triển khai ứng
dụng một cách đồng bộ, hiệu quả; Phân bổ kinh phí hàng năm đủ lớn
từ nguồn vốn sự nghiệp để triển khai ứng dụng CNTT phục vụ công
tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Bộ;
Phối hợp với các bộ, ngành liên quan bố trí kinh phí từ nguồn
vốn đầu tư phát triển để triển khai các dự án đầu tư về ứng dụng
CNTT;
Các đơn vị trong Bộ chủ động dành khoảng 1 đến 2% ngân sách
chi thường xuyên cho ứng dụng và phát triển thông tin và truyền
thông. Sử dụng các nguồn vốn chương trình, dự án thuộc Bộ;
Ngân sách nhà nước dành kinh phí cho duy trì, nâng cấp, xây
dựng, phát triển các CSDL quốc gia thuộc Bộ đang quản lý và các
CSDL và phần mềm ứng dụng chuyên ngành;
Tranh thủ nguồn vốn từ các dự án hỗ trợ kỹ thuật, các nguồn vốn
ODA, để đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ và phát triển ứng
dụng CNTT vào lĩnh vực thông tin của ngành. Tăng cường hợp tác
quốc tế về thông tin và truyền thông, từ đó tạo nguồn vốn hợp tác do
tổ chức quốc tế tài trợ;
Cấp kinh phí từ ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động thông
tin ngành LĐTBXH.
2.4.2. Một số nhiệm vụ cụ thể về tăng cường các nguồn kinh phí
cho hoạt động thu thập và chia sẻ thông tin
Các đơn vị thuộc Bộ và Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương xây dựng, bố trí kinh phí nhằm tăng cường hoạt
động thống kê của đơn vị, đặc biệt là kinh phí đầu tư vào con người
như tiền lương và đào tạo nâng cao nghiệp vụ thống kê và tin học,
vào cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tin học hoá hoạt động thu thập, tổng
hợp, lưu giữ và phổ biến thống tin thống kê.
55
Vụ Kế hoạch – Tài chính phối hợp với các đơn vị liên quan xây
dựng tổng hợp kinh phí triển khai các hoạt động thống kê, kinh phí
tiến hành các cuộc điều tra, kinh phí mua sắm phương tiện đi lại,
trang thiết bị làm việc còn thiếu cho các đơn vị; quy định bổ sung
hoàn thiện cơ chế tài chính phù hợp với tính chất chuyên ngành của
hoạt động thống kê để thống nhất áp dụng từ năm 2013.Công việc
này cần hoàn thành trong năm 2013.
Vụ Hợp tác quốc tế kêu gọi và phối hợp cùng Vụ Kế hoạch – Tài
chính bố trí các nguồn kinh phí của các nhà tài trợ quốc tế, nguồn
cho vay ODA của các nước, các tổ chức tài chính thông quan các
chương trình phát triển số liệu thống kê của Bộ, cũng như dựa trên
những sáng kiến trong các chương trình hiện có và các hoạt động
tăng cường năng lực thống kê của Đề án “Đổi mới đồng bộ hệ thống
các chỉ tiêu thống kê” và trong Chiến lược phát triển thống kê Việt
Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm huy động thêm nguồn lực bổ sung
cho kinh phí thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động về
thống kê của Bộ, ngành.
56
KẾT LUẬN
Ngày nay thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời
sống xã hội, là công cụ để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc
gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các
quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công
chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Sự chênh lệch về
trình độ thông tin giữa các nước là một đặc điểm về quy mô và trình
độ phát triển trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Cung
cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác và đa dạng không những
giúp cho việc quản lý, điều hành của lãnh đạo các cấp, các ngành mà
còn thực sự là diễn đàn của các tầng lớp nhân dân. Thông tin ngày
càng khẳng định vị trí là phương tiện thiết yếu trong đời sống xã
hội.... Mức hưởng thụ thông tin của người dân được nâng cao, thực
sự là công cụ cung cấp tri thức, đồng thời là động lực thúc đẩy phát
triển xã hội.
Chính vì vậy, việc xây dựng hệ thống thông tin để thực hiện tốt
chức năng thu thập và chia sẻ thông tin ngành Lao động-Thương
binh và Xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong công các quản lý nhà
nước của Bộ, ngành.
Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin nhằm cung cấp ngày càng kịp
thời thông tin đa dạng, phong phú, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu
thông tin phục vụ cho việc quản lý, điều hành, nghiên cứu hoạch
định chính sách của Bộ/ ngành và phục vụ cho người dân, doanh
nghiệp, các tổ chức quốc tế, nhằm góp phần thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ đắc lực sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hình thành môi trường, quy trình làm việc, trao đổi thông tin và
tác nghiệp trực tuyến qua mạng máy tính trong tất cả các cơ quan
quản lý của Bộ, ngành. Xây dựng và triển khai ứng dụng rộng rãi các
hệ thống CSDL, các hệ thống thông tin chuyên ngành phục vụ theo
ngành dọc từ Bộ đến các Tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương.
Rà soát và đánh giá tất cả các hệ thống thông tin quản lý đã và
đang hoạt động tại các cơ quan quản lý Nhà nước (bao gồm các hệ
thống cơ sở dữ liệu dùng chung, các hệ thống thông tin quản lý, các
57
chương trình ứng dụng, các website,). Qua đó kịp thời xây dựng
các giải pháp bổ sung, sửa đổi, cập nhật và tối ưu hoá các hệ thống
đảm bảo phục vụ tốt nhất, hiệu quả nhất cho công tác lãnh đạo, quản
lý, chỉ đạo, điều hành và tác nghiệp. Đồng thời triển khai ứng dụng
rộng rãi các chương trình đã được đánh giá và nâng cấp.
Phân tích, tổ chức hợp lý, chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ, tác
nghiệp trong nội bộ và giữa các cơ quan đơn vị. Trên cơ sở đó từng
bước ứng dụng CNTT vào các quy trình, nghiệp vụ; Chuyển hoá các
luồng thông tin báo cáo bằng giấy, thủ công sang luồng thông tin là
các CSDL điện tử để đảm bảo kịp thời trong công tác trao đổi thông
tin, chỉ đạo điều hành và quản lý. Đồng thời chuẩn hoá các hệ thống
CSDL lưu trữ và quản lý thông tin, hồ sơ, Nhằm đảm bảo hợp
chuẩn trong trao đổi thông tin với CSDL quốc gia, đảm bảo tính tối
ưu trong cập nhật lưu trữ và an toàn trong quá trình khai thác thông
tin.
Ứng dụng CNTT để xây dựng hệ thông thu thập và chi sẻ thông
tin một cách đồng bộ, thống nhất ở tất cả các cơ quan thuộc Bộ, trực
thuộc Bộ và các sở LĐ-TBXH. Từng bước xây dựng một Bộ điện tử
trong hệ thống Chính phủ điện tử của quốc gia đáp ứng tối đa các
nhu cầu hoạt động kinh tế, văn hoá và xã hội của người dân và doanh
nghiệp.
Đề tài đã xây dựng được cơ sở lý luận về thông tin ngành, xác
định được cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin cho các đơn vị QLNN
trong Bộ, cho các cấp (Sở LĐ-TBXH, phòng LĐ-TBXH) và cơ chế
chia sẻ thông tin cho các đơn vị, tổ chức cá nhân có nhu cầu thông
tin lĩnh vực Bộ, ngành quản lý.
Đề tài phân tích thực trạng thu thập và chí sẻ thông tin số liệu và
phi số liệu của Bộ, ngành hiện nay, xác định những hạn chế, tìm ra
những nguyên nhân của những hạn chế đó làm căn cứ xây dựng mô
hình, thiết lập cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin ngành hiệu quả.
Đề tài lựa chọn mô hình chia sẻ thông tin dựa vào ứng dụng
CNTT hiện đại, lấy Hệ thống thông tin Bộ là trung tâm. Kênh chia sẻ
chính là Cổng TTĐT của Bộ, kết hợp với các Hệ thống thông tin tác
nghiệp (chuyên ngành) của các đơn vị.
58
Đề tài cũng đưa ra việc cần thiết ban hành Thông tư quy định
hoạt động thu thập, chia sẻ thông tin ngành thống nhất cho các cấp,
các đơn vị thuộc Bộ, cũng như những quy định cụ thể trong việc chia
sẻ thông tin ngành cho các tổ chức cá nhân có nhu cầu.
Đề tài đã cũng đề xuất các giải pháp về tổ chức bộ máy, ứng
dụng CNTT, tài chính cho việc thực hiện thu thập và chia sẻ thông
tin nhành hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ,
ngành đáp ứng sự minh bạch cũng như nhu cầu thông tin cho các cá
nhân và tổ chức khác.
59
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_tom_tat_2354.pdf