Qua quá trình thực hiện đề tài, thấy được những tồn tại và hạn chế trong việc
phát triển sản xuất nghề nón trên địa bàn huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để
cây cao su có thể phát triển vững chắc và ngày càng mang lại giá trị kinh tế cao cho
người dân chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
* Đối với Nhà nước
- Cần tổng kết kinh nghiệm phát triển các nghề TTCN nói chung và nghề nón nói
riêng ở Việt Nam trong thời gian qua và xây dựng một chương trình toàn diện và cụ
thể về phát triển các nghề TTCN trong chương trình tổng thể về CNH, HĐH nông
thôn.
- Thực thi đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ,
tạo môi trường thuận lợi cho sự khôi phục, hình thành và phát triển của nghề nón.
Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các chính sách và biện pháp hỗ trợ về ổn định và
mở rộng thị trường, tạo lập và tăng cường vốn, đổi mới và chuyển giao công nghệ,
thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ đào
tạo các nhà doanh nghiệp, người lao động, tăng cường quy hoạch, đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các cơ sở sản xuất.
* Đối với các cấp chính quyền địa phương
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác khuyến công nhằm kịp thời khuyến khích
nghề nón phát triển.
- Tổ chức những cơ quan chuyên môn cung cấp thông tin về thị trường một cách
thường xuyên và cập nhật cho các cơ sở sản xuất nón.
Đại h
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hiệu quả nghề làm nón lá của các hộ trên địa bàn làng chuông xã Phương trung huyện Thanh oai - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lái
lên tỉnh hoặc các vùng lân cận bán lẻ cho khách tham quan du lịch, hoặc đổ buôn cho
các doanh nghiệp du lịch, xuất khẩu.
Hiện nay nón không còn giới hạn trong làng xã như một sản phẩm nội tiêu nữa.
Nón ở các vùng trên đất nước kết hợp với tà áo dài của phụ nữ làm nên biểu tượng
Việt Nam trước bạn bè quốc tế.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
15
1.5.2 Tình hình phát triển nghề làm nón trên địa bàn huyện Thanh Oai – Hà Nội
Huyện Thanh Oai hiện có hơn 20 xã, trong đó có gần 10 xã làm nón như xã
Phương Trung, Tân Ước, Kinh Thư, Đỗ Động, Cao Dương, Dân Hòa, nhưng đa phần
sản phẩm nón làm ra và tiêu thụ trên thị trường được làm ra ở các thôn thuộc xã
Phương Trung như nón thôn Tân Tiến, thôn Liên Tân, thôn Tân Dân, thôn Mã Kiều
Chuông là tên một trong 7 thôn làm nón của xã Phương Trung và Chuông trở
thành tên gọi chung cho sản phẩm nón của bảy thôn này. Vậy nên khi nói đến nón làng
Chuông tức là nón của cả bảy thôn và cả bảy thôn đều được công nhận là làng nghề
truyền thống từ năm 2001.
Tuy nhiên, danh hiệu làng nghề vẫn chưa đủ mạnh để thúc đẩy phát triển làng
nghề cũng như sản phẩm nón. Tình hình sản xuất và kinh doanh nón rất manh mún và
tự phát, không tập trung được sức mạnh tập thể. Hơn nữa sản phẩm nón khi đưa ra thị
trường không có thương hiệu nào. Chính vì thế đã làm giảm uy tín và giá trị sản phẩm
đồng thời làm cho sản phẩm thiếu sức cạnh tranh trên thị trường từ đó có thể gây ra
nguy cơ mai một làng nghề
Bảng 1: Số lượng nón được sản xuất ra của toàn huyện Thanh Oai qua các năm
ĐVT: 1000 chiếc
Năm Tổng sản phẩm
2008 8100
2009 8450
2010 9464
(Nguồn: Phòng Kinh tế UBND huyện Thanh Oai)
Qua quá trình thực tập tôi được biết huyện đang tiến hành xây dựng thương hiệu
tập thể cho nón làng Chuông để khắc phục tình trạng trên, nhằm tập hợp tất cả những
hộ, cá nhân làm nón trong vùng thành một khối để phát huy sức mạnh tập thể trước cơ
chế thị trường hiện nay, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xác lập giá trị và
mở rộng thị trường tiêu thụ, từ đó nâng cao đời sống người dân, tạo điều kiện để sản
xuất và kinh doanh nón lá trở thành một nghành kinh tế phát triển của địa phương và
góp phần ổn định tình hình chính trị và xã hội tại địa phương Thanh Oai nói riêng và
của Thủ đô nói chung.
Đại
học
Kin
h tế
Huế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
16
CHƯƠNG 2:
HIỆU QUẢ NGHỀ LÀM NÓN CỦA CÁC HỘ TRÊN ĐỊA BÀN LÀNG
CHUÔNG HUYỆN THANH OAI – HÀ NỘI
2.1 Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lý
Làng Chuông là tên gọi chung của 8 thôn thuộc xã Phương Trung là một đơn vị
hành chính cấp xã thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (cũ) nay là Hà Nội, cách trung
tâm Hà Nội khoảng 25 km.
Phía Bắc giáp xã Kim Thư
Phía Nam giáp xã Cao Dương, xã Dân Hòa
Phía Đông giáp xã Đỗ Động
Phía Tây giáp sông Đáy và xã Văn Võ, huyện Chương Mỹ
Xã Phương Trung gồm 8 thôn, đó là: Thôn Tây Sơn, thôn Trung Chính, thôn
Liên Tân, thôn Quang Trung, thôn Mã Kiều, thôn Tân Tiến, thôn Tân Dân 1 và thôn
Tân Dân 2. Xã nằm dọc và sát quốc lộ 21B chạy từ Ba La (quận Hà Đông ) đi Vân
Đình (huyện Ứng Hòa). Từ đây, vẫn theo đường 21B để ra quốc lộ 1 ở cầu Giẽ (huyện
Phú Xuyên) hoặc vào vùng đồng bằng và vùng núi huyện Ứng Hòa. Xã còn nằm ven
sông Đáy, sông cách xã khoảng 700m, là tuyến đường thủy trọng yếu. Gắn với sông là
tuyến đê Tả Đáy cũng là đường giao thông quan trọng. Cả quốc lộ 21B, sông Đáy và
đường đê Đáy đã tạo cho xã Phương Trung thế thông thương với Hà Đông – Hà Nội,
các tỉnh trung du phía Bắc, vùng đồi núi huyện Mỹ Đức và các huyện khác của tỉnh
Hòa Bình. Đây là điều kiện thuận lợi để xã Phương Trung phát triển kinh tế, giao lưu
buôn bán và văn hóa với các vùng trong và ngoài xã.
2.1.1.2 Địa hình, thổ nhưỡng
Địa hình
Đất đai và đồng ruộng xã Phương Trung có độ cao thấp không đồng đều. Cả xã
có trên 90% diện tích đất canh tác có khả năng trồng rau màu. Ngoài trồng lúa 2 vụ thì
người dân nơi đây còn trồng thêm vụ màu, đó là những cây trồng ngắn ngày như đậu
tương, khoai lang, khoai tây...
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
17
Thời tiết và khí hậu
Xã Phương Trung cũng như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng châu thổ sông
Hồng, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp.
- Nhiệt độ:
+ Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,50C.
+ Nhiệt độ trung bình cao nhất là 350C – 370C (tháng 6 đến tháng 8) thường kèm theo
mưa to.
+ Nhiệt độ trung bình thấp nhất khoảng 150C - 170C, có năm xuống tới 90C - 100C,
có kèm theo sương muối gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất nông nghiệp.
- Gió: hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam về mùa hè và gió Đông Bắc về mùa Đông.
Vận tốc gió trung bình là 2,5 m/s.
- Bão: xã Phương Trung ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ bão, chủ yếu ảnh hưởng gây
mưa to gió lớn, hàng năm có từ 5 – 7 cơn bão gây mưa lớn.
- Mưa: lượng mưa trung bình hàng năm là 1300 mm– 1500mm
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí trung bình hàng năm là 82%, thấp nhất trung
bình là 80% (tháng 1), cao nhất trung bình là 85% (tháng 3).
- Nắng: tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1600 giờ - 1800 giờ/ năm.
Đánh giá chung
- Xã có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp tại địa
phương.
- Tuy chịu ảnh hưởng của bão, nhiều trận mưa lớn trong năm nhưng không bị ngập lụt,
khả năng thoát nước nhanh do nằm ngay hệ thống sông Đáy và sông Nhị Khê.
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
2.1.2.1. Đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế, nó là nhân tố quan
trọng để tiến hành sản xuất. Mỗi một vùng địa lý khác nhau thì đất đai lại có tính chất
khác nhau phù hợp với từng loại cây trồng khác nhau . Do đó, đất đai là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất, sản lượng cây trồng từ đó tác động
đến thu nhập của hộ. Mặt khác, diện tích đất đai thì có hạn mà dân số ngày càng đông
ại h
ọc K
inh
tế H
uế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
18
cùng với quá trình đô thị hóa diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy,
trong sử dụng đất đai cần sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý, đem lại hiệu quả kinh tế
cao.
Qua bảng 3.1 ta thấy: Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 481,23 ha, qua 3 năm
tình hình biến động như sau:
Bảng 2: Tình hình sử dụng đất đai của xã qua 3 năm 2008- 2010
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
DT (ha) CC (%) DT (ha) CC (%) DT (ha) CC (%)
Diện tích đất tự nhiên 481,23 100 481,23 100 481,23 100
I. Đất nông nghiệp 273,75 56,89 273,7 56,88 270 56,11
1. Đất trồng cây hàng năm 259,71 94,87 258,36 94,40 254,16 94,13
2. Đất trồng cây lâu năm 5,84 2,13 5,84 2,13 6,32 2,34
3. Đất mặt nước nuôi trồng thủy sản 8,2 3,00 9,5 3,47 9,52 3,53
II. Đất phi nông nghiệp 201,07 41,78 201,12 41,79 205,12 42,62
1. Đất ở 111,82 55,61 111,82 55,60 116,06 56,58
2. Đất chuyên dùng 62,28 30,97 62,33 30,99 62,36 30,40
3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng 2,57 1,28 2,57 1,28 2,57 1,25
4. Đất nghĩa trang, nghĩa địa 4,28 2,13 4,28 2,13 4,28 2,09
5. Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng 20,12 10,01 20,12 10,00 19,85 9,68
III. Đất chưa sử dụng 6,41 1,33 6,41 1,33 6,11 1,27
Nguồn: Ban thống kê xã Phương Trung 2010
* Đất nông nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp của xã là 273,75 ha chiếm 56,89%
tổng diện tích đất tự nhiên năm 2008 và giảm xuống 270 ha chiếm 56,11% tổng diện
tích đất tự nhiên năm 2010, bình quân mỗi năm giảm 0,69%. Đây là sự giảm sút không
đáng kể về diện tích đất nông nghiệp do người dân trong xã vẫn làm nông nghiệp là
chủ yếu, chỉ có những ruộng chân cao và chất đất xấu khó khăn trong việc cung cấp
nước dẫn đến năng suất không cao thì họ bỏ hoang hóa hoặc trồng cây lâu năm. Hơn
nữa, trồng cây lâu năm chỉ trồng một lần nhưng thu hoạch trong nhiều năm nên họ
chuyển từ trồng lúa sang trồng táo, cam, quýt... Do đó, diện tích trồng cây lâu năm có
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
19
sự tăng lên từ 5,84 ha đến 6,32 ha. Một số vùng trũng, chính quyền xã cho đấu thầu để
người dân nuôi trồng thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao dẫn đến diện tích mặt nước cho
nuôi thủy sản tăng lên từ 8,2 ha năm 2008 lên 9,52 ha năm 2010, bình quân mỗi năm
tăng 7,75%. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
diện tích đất tự nhiên.
* Đất phi nông nghiệp: Trong mấy năm gần đây, diện tích đất phi nông nghiệp có
xu hướng tăng lên do nhu cầu xây nhà ở của nhân dân trong xã tăng cao. Năm 2008,
diện tích đất phi nông nghiệp là 201,07 ha chiếm 41,78% tổng diện tích đất tự nhiên
đến năm 2010, diện tích đất phi nông nghiệp là 205,12 ha chiếm 42,62%, bình quân
mỗi năm tăng 1%.Trong đó, diện tích đất ở tăng từ 118,82ha đến 116,06 ha, bình quân
mỗi năm tăng 1,88%. Sở dĩ có sự tăng diện tích đất nhà ở như vậy là do tỷ lệ người di
cư đến xã tăng, số người chuyển sang kinh doanh, dịch vụ tăng nên các cơ sở phục vụ
cho hoạt động buôn bán, nhà kho chứa hàng như: nón, sắt, thép..., nhà xưởng mọc lên
càng nhiều làm diện tích đất nông nghiệp giảm và diện tích đất phi nông nghiệp tăng
lên. Điều đó cho thấy, kinh tế của xã ngày càng đi lên với sự tăng lên của ngành thủ
công nghiệp, thương mại, dịch vụ, từng bước làm thay đổi bộ mặt của xã.
* Đất chưa sử dụng: Năm 2008, diện tích đất chưa sử dụng của xã là 6,41 ha
chiếm 1,33% tổng diện tích đất tự nhiên nhưng đến năm 2010, diện tích đất chưa sử
dụng giảm xuống còn 6,11 ha chiếm 1,27%, với tốc độ giảm bình quân qua 3 năm là
2,37%. Do đó, thời gian tới cần đẩy mạnh khai thác triệt để tiềm năng của địa phương.
2.1.2.2 Dân số- lao động
* Dân số
Năm 2010, tổng số dân số của xã là 16409, tăng 378 người so với năm 2008,
bình quân hàng năm tăng 1,17% tương ứng 126 người.
Tổng số nhân khẩu nông nghiệp trong xã năm 2008 là 2685 người chiếm 16,75% tổng
số nhân khẩu của toàn xã, số khẩu phi nông nghiệp là 13346 người chiếm 83,25% tổng
nhân khẩu. Đến năm 2010, số khẩu nông nghiệp và phi nông nghiệp của xã tương ứng
là 2600 người chiếm 15,84% và 13809 người chiếm 84,16% tổng số nhân khẩu. Nhìn
chung qua 3 năm, số khẩu nông nghiệp có xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế do trồng
lúa mang lại không cao họ chuyển sang làm ngành nghề khác như làm nón, buôn nón,
Đại
họ
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
20
kinh doanh, dịch vụđây là các công việc vừa nhẹ nhàng lại mang lại thu nhập cao
hơn so với trồng lúa nên số khẩu phi nông nghiệp cũng tăng lên đáng kể. Tương ứng
với số khẩu tăng lên thì số hộ trong xã cũng tăng lên qua 3 năm. Từ 3803 hộ năm 2008
lên tới 4192 hộ năm 2010 với tốc độ tăng hàng năm là 4,99%. Trong đó, số hộ nông
nghiệp giảm bình quân mỗi năm là 0,44% nhưng số hộ phi nông nghiệp lại tăng lên
một cách nhanh chóng, bình quân mỗi năm tăng 6,37% . Từ đó cho thấy, xu hướng
chuyển dịch cơ cấu dân số trong lĩnh vực ngành nghề có sự chuyển biến tích cực và
đây là dấu hiệu tốt để xã phát triển kinh tế trong thời gian tới.
Bảng 3: Tình hình dân số, lao động của xã Phương Trung qua 3 năm 2008- 2010
Chỉ tiêu ĐVT
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
SL % SL % SL %
I. Tổng số nhân khẩu Người 16031 100 16108 100 16409 100
1. Nhân khẩu nông nghiệp Người 2685 16,75 2680 16,64 2600 15,84
2. Nhân khẩu phi nông nghiệp Người 13346 83,25 13428 83,36 13809 84,16
II. Tổng số hộ Hộ 3803 100 3889 100 4192 100
1. Hộ nông nghiệp Hộ 792 20,83 790 20,31 785 18,73
2. Hộ phi nông nghiệp Hộ 3011 79,17 3099 79,69 3407 81,27
III. Tổng số lao động Người 9251 100 9467 100 10252 100
1. Lao động nông nghiệp Người 1677 18,13 1675 17,69 1670 16,29
2. Lao động phi nông nghiệp Người 7574 81,87 7792 82,31 8582 83,71
Nguồn: Ban thống kê xã Phương Trung
* Lao động
Tổng số lao động trong độ tuổi của xã giai đoạn 2008 – 2010 đã tăng lên 1001
người tương ứng với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 5,27%. Năm 2008 là 9251
người sang năm 2010 là 10252 người. Bình quân hàng năm số lao động nông nghiệp
giảm 0,21%, đây là số giảm không đáng kể do người dân chuyển sang làm ngành nghề
khác nhưng vẫn làm nông nghiệp vì họ tiếc đất tuy nhiên tỷ lệ đó là rất ít. Số lao động
phi nông nghiệp tăng lên nhanh chóng từ 7574 người chiếm 81,87% năm 2008 lên tới
8582 người chiếm 83,71%, bình quân số lao động phi nông nghiệp hàng năm tăng
6,45%. Như vậy, số lao động nông nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng giảm với
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
21
tốc độ chậm và số lao động phi nông nghiệp tăng lên do những lao động trẻ có xu
hướng tìm công việc khác thuộc lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và những lao động có
sức khỏe cũng tìm những công việc có thu nhập cao hơn làm nông nghiệp.
Tóm lại, tốc độ tăng dân số, sự biến đổi về cơ cấu lao động của xã đang theo hướng
tích cực. Tuy nhiên, để có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa thì chính quyền xã cần có
phương hướng cụ thể để nâng cao nhận thức và trình độ tay nghề cho người lao động.
2.2 Thực trạng nghề làm nón tại làng Chuông
Toàn xã có 3.963 hộ với 15.917 nhân khẩu trong đó 2.681 hộ với 4.528 nhân
khẩu làm nón, cung cấp ra thị trường khoảng 3 triệu 240 nghìn chiếc nón mỗi năm, với
giá trị kinh tế ước đạt 9 tỷ đồng.
Đến với làng Chuông chúng ta được chứng kiến nhiều gia đình với nhiều em nhỏ
và đặc biệt là các cụ già đã có nhiều năm trong nghề thắt những chiếc nón trắng với
nhiều kiểu cách, kích thước hết sức đa dạng và phong phú, những chiếc nón đó là biểu
tượng đẹp cho nét đẹp văn hóa của người dân nơi đây.
Hiện người dân ở Làng Chuông sản xuất nón theo hai hình thức chính:
- Hộ kiêm: là hình thức tổ chức sản xuất khá phổ biến với quy mô nhỏ chiếm khoảng
80% trong tổng số hộ làm nón ở Làng. Quá trình sản xuất kinh doanh không yêu cầu
cao về phân công lao động, nhu cầu và khả năng đổi mới công nghệ không lớn, kinh
doanh chủ yếu theo hướng tự sản, tự tiêu. Các hộ gia đình có sản xuất sản phẩm tiểu
thủ công nghiệp vẫn còn sản xuất nông nghiệp. Do vậy hình thức sản xuất chính là hộ
gia đình nông nghiệp kiêm làm nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Hộ chuyên: đó là hình thức tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển với một
tỷ lệ số hộ làm nghề nhất định trong làng và thu nhập từ nghề trở thành nguồn thu
nhập quan trọng của hộ. Số lượng hộ sản xuất theo hình thức này ở Làng còn rất ít, chỉ
còn ba đến bốn hộ mỗi thôn.
Thị trường tiêu thụ nón làng Chuông ở trong nước là các tỉnh miền núi phía Bắc
như Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Sơn La, xuống các tỉnh đồng bằng như: Vĩnh
Phúc, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, hai thành phố Hà Nội,
Hải Phòng. Ở phía Nam có Lâm Đồng. Nón làng Chuông được xuất chủ yếu sang
Trung Quốc qua con đường tiểu ngạch. Theo ước tính, tại cửa khẩu Lạng Sơn và
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
22
Móng Cái, nón làng Chuông chiếm đến 50% nón các nơi đem về để chuyển qua biên
giới. Ngoài ra, nón còn được xuất sang các nước Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Úc,
Đức.
Do thị trường tiêu thụ được mở rộng nên trong làng xuất hiện một lớp người
chuyên đi thu mua nón để bán cho thị trường nội địa và vài người thu gom nón để xuất
khẩu kết hợp bán nội địa. Trong đó phải kể đến hai cơ sở buôn lớn nhất là cơ sở của cô
Tạ Thu Hương và chú Lê Văn Tuy với mỗi tháng xuất khoảng 3 - 4 vạn nón/cơ sở. Hai
cơ sở này chuyên thu mua nón của các hộ dân trong làng và đem nón bán đi các tỉnh
khác.
2.3 Tình hình sản xuất nón của các hộ điều tra
2.3.1 Tình hình sản xuất của các hộ
2.3.1.1 Tình hình lao động trong các hộ điều tra
Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất trong các nguồn lực của tất cả các hộ
làm nghề thủ công, hay nói cách khác lao động là yếu tố quyết định nhất trong các
nguồn lực của hộ.
Tôi đã tiến hành điều tra 50 hộ sản xuất nón, với phướng pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên tại một số thôn ở địa bàn nghiên cứu.
Bảng 4: Tình hình lao động của các hộ điều tra
Chỉ tiêu ĐVT Tổng hay BQC
1. Số hộ Hộ 50
2. Tuổi bình quân lao động làm nón chính trong hộ Năm 50,19
3. Số nhân khẩu bình quân 1 hộ Khẩu 4
4. Lao động bình quân 1 hộ LĐ 3
5. Trình độ văn hóa chủ hộ Lớp 7
6. Lao động bình quân làm nón mỗi 1 hộ LĐ 1
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010
Kết quả điều tra các hộ làm nón cho thấy tổng số lao động trong các hộ điều tra
là 165 lao động, trong đó 67,5% lao động trong độ tuổi và 72% số lao động là nữ. Số
lao động bình quân một hộ là 3 người, bình quân khoảng 1 lao động chính, 2 lao động
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
23
phụ. Vì quy mô sản xuất còn nhỏ và việc sản xuất chủ yếu tận dụng thời gian nông
nhàn nên các hộ không thuê lao động ngoài.
Tỷ lệ lao động ngoài tuổi chiếm khoảng 32,5%, điều này cho thấy tính chất của
nghề đan lát là không nặng nhọc. Với nghề này, mọi lứa tuổi, giới tính đều có thể làm
được, thậm chí với cả người tàn tật, người có sức khỏe yếu. Tuy nhiên, nghề này cũng
đòi hỏi sự khéo léo của người lao động, sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ sẽ tạo ra
những sản phẩm đẹp, có chất lượng cao.
Qua điều tra, tôi nhận thấy rằng: Chủ hộ là lao động chính nhưng phần lớn đều đi
làm nghề khác chứ không làm nón. Người già, phụ nữ và trẻ em là những đối tượng
chính của nghề nón và trung bình mỗi hộ chỉ có 2 người làm nón, trong đó 1 người
làm nón chính, người này quyết định việc mua nguyên vật liệu và tiêu thụ, 1 người phụ
như trang trí, thêm thắt chiếc nón. Tỷ lệ nam giới làm nón chỉ chiếm có 30% trong
tổng số lao động làm nón của làng. Độ tuổi bình quân của người làm nón chính trong
hộ là 50,19, đây là độ tuổi đã có kinh nghiệm dày dặn trong việc sản xuất nón nhưng
đồng thời do tuổi cũng đã cao nên ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của mỗi
chiếc nón.
Về chất lượng lao động thì đa số lao động làm nghề này là chưa qua đào tạo,
chiếm 85%. Những lao động này chủ yếu học nghề thông qua việc truyền nghề trong
gia đình hoặc tự học lẫn nhau mà không qua một cơ sở đào tạo nào cả. Trình độ tay
nghề của họ chủ yếu là qua kinh nghiệm sản xuất nhiều năm mà có.
2.3.1.2 Chi phí sử dụng nguyên liệu cho 100 chiếc nón thành phẩm
Doanh thu, chi phí là hai yếu tố được quan tâm rất lớn trong mỗi quá trình sản
xuất kinh doanh. Nghề làm nón cũng không nằm ngoài quy luật đó, quá trình sản xuất
diễn ra như đã được trình bày ở trên. Như đã nói ở trên, trung bình trong mỗi hộ chỉ có
2 lao động làm nón, 1 người làm chính và 1 người phụ làm nón. Chính vì vậy tôi phân
loại hộ theo tiêu chí tuổi của lao động làm nón chính trong hộ để thấy được sự chênh
lệch theo tay nghề cũng như giới hạn tuổi tác giữa các lao động. Tình hình đầu tư
nguyên vật liệu của các hộ làm nón được trình bày ở bảng 5:
Đại
học
Kin
h tế
Huế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
24
Bảng 5: Tình hình đầu tư của hộ cho 100 chiếc nón thành phẩm
Chỉ tiêu ĐVT
Tuổi
BQC<=45
I
45 – 60
II
>=60
III
Số hộ 17 21 12 -
A.Dụng cụ sản xuất
Khuôn Chiếc 2,78 3,58 3,85 3,29
B. Nguyên liệu
Lá nón Bó 5,60 5,55 5,85 5,62
Vòng cái Chiếc 100,00 100,00 100,00 100,00
Vòng con Bó 3,81 3,79 3,77 3,80
Mo Bó 5,69 6,56 6,30 6,17
Sợi guột Bó 100,00 100,00 100,00 100,00
Cước 100g 1,83 1,98 1,94 1,91
Lao động Công 57,44 60,68 65,54 61,00
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010
Nhìn vào bảng ta thấy bình quân mỗi hộ có từ 3 đến 4 chiếc khuôn để làm nón,
thường một chiếc khung các hộ sử dụng được hơn một năm mới thay khuôn mới. Các
hộ có lao động chính làm nón có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên hay ở tổ III có nhiều khuôn
hơn các hộ ở 2 tổ còn lại vì có nhiều năm kinh nghiệm làm nghề này nên số lượng
khuôn trong hộ lớn.
Trung bình để làm 100 chiếc nón các hộ cần có 5,62 bó lá nón, 100 chiếc vòng
cái, 3,8 bó vòng con, 6,17 bó mo tre, 100 bó sợi guột, gần 200g cước. Hầu hết các
nguyên vật liệu này các hộ đầu tư không có sự chênh lệch lớn. Tại chỉ tiêu vòng con,
ta thấy nhóm hộ I cần 3,81 bó vòng, nhóm II 3,79 bó và 3,77 bó đối với nhóm III cho
100 chiếc nón thành phẩm. Như vậy ta thấy nhóm I phải sử dụng nhiều hơn đối với 2
nhóm còn lại, điều này lý giải được nhóm I kinh nghiệm sản xuất còn hạn chế, chưa
tận dụng hết được lượng nan vòng hoặc nan bị hỏng trong một bó vòng con.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Chuyên đề tốt nghiệp Hoàng Tiến Nam
25
Ở chỉ tiêu lao động, ta thấy rõ được sự chênh lệch của tuổi tác giữa các nhóm hộ.
Tuổi của lao động làm nón chính trong hộ tỷ lệ thuận với công lao động, tức thời gian
làm ra 100 chiếc nón của lao động. Các lao động ở các hộ thuộc nhóm I có thời gian
làm ra 100 chiếc nón, chỉ mất có 57,44 công, tức 1 ngày, các lao động ở nhóm hộ này
làm được gần 2 chiếc nón, trong khi 2 hộ còn lại chỉ làm được 1 hoặc hơn 1 chiếc nón
thành phẩm.
Điều đó cho thấy, tuy các hộ có lao động làm nón lâu năm kinh nghiệm sử nhưng
do giới hạn tuổi tác, tuổi càng cao thời gian để làm ra một chiếc nón càng nhiều.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
26
Bảng 6: Chi phí sử dụng nguyên vật liệu cuả các hộ cho 100 chiếc nón thành phẩm
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010
Chỉ tiêu
BQC
Tuổi
=60
đ % đ % đ % đ %
A.Dụng cụ sản xuất
Khuôn 122.229 5,87 103.556 5,11 128.684 6,13 147.538 6,57
B. Nguyên liệu 0,00 0,00 0,00 0,00
Lá nón 422.270 20,29 441.914 21,81 436.986 20,80 478.974 21,33
Vòng cái 100.208 4,81 98.333 4,85 103.158 4,91 98.462 4,38
Vòng con 90.646 4,35 94.111 4,64 86.491 4,12 91.308 4,07
Mo 339.205 16,30 337.646 16,66 340.729 16,22 346.885 15,45
Sợi guột 11.292 0,54 11.444 0,56 10.737 0,51 11.692 0,52
Cước 21.626 1,04 20.204 1,00 22.876 1,09 22.178 0,99
Lao động 974.000 46,79 919.111 45,36 970.947 46,22 1.048.615 46,70
Tổng 2.081.476 100 2.026.319 100 2.100.608 100 2.245.652 100Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
27
Từ bảng chi phí sử dụng nguyên vật liệu của các hộ trên ta thấy, bình quân để
làm ra 100 chiếc nón thành phẩm của các hộ là 2.081.476 đ. Trong đó chi phí công lao
động gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 46,79 % trên tổng chi phí tương ứng với
974.000 đ, tiếp đến là mo tre và lá nón lần lượt chiếm 16,3% và 20,29% trong tổng chi
phí tương ứng với 339.205 đ và 422.270 đ. Các hộ nhóm III có chi phí cao nhất lên
đến 2.245.652 đ trong khi 2 nhóm hộ I và II lần lượt chỉ có 2.026.319 đ và 2.100.608 đ
vì do các lao động trong nhóm hộ này mất nhiều thời gian làm ra một chiếc nón hơn
nên chi phí cho công lao động cao hơn các nhóm còn lại. Còn lại hầu hết không có sự
chênh lệch lớn giữa giá cả các chỉ tiêu nguyên liệu còn lại.
2.3.2 Kết quả và hiệu quả sản xuất nón của các hộ điều tra năm 2010
2.3.2.1 Kết quả sản xuất nón của các hộ điều tra năm 2010
Theo kết quả điều tra va tính toán, thu nhập hỗn hợp bình quân một lao động là
không cao, chỉ đạt khoảng hơn 3.000.000 đồng/lao động/năm. Bình quân 1 năm các hộ
chỉ làm nghề trong 8 tháng, còn những thời gian khác họ làm các công việc của nghề
nông. Và như vậy, mức thu nhập trong các hộ là khoảng 250.000 đồng/tháng/lao động,
tương đương với khoảng 8.000 đồng/ngày. Trong khi đó, ngày công lao động cũng
trong nghề này vào khoảng 10.000 – 20.000 đ/ngày. Kết quả sản xuất 100 chiếc nón
thành phẩm của các hộ làm nón được thể hiện trong bảng 7
Bảng 7: Kết quả sản xuất 100 chiếc nón thành phẩm của các hộ năm 2010
Chỉ
tiêu ĐVT
Tuổi
=60
LĐ BQ
hộ LĐ/hộ 1,39 1,74 1,92
Năng
suất Chiếc/LĐ 72 58 52
Sản
lượng chiếc/hộ 100 100 100
Giá
nón 1000đ/chiếc 30.556 27.947 29.846
Giá trị
SX BQ
1000đ/LĐ 2.200 1.609 1.552
1000đ/hộ 3.056 2.795 2.985
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2010
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
28
Trên bảng 7 ta thấy, giữa các nhóm hộ đã có sự chênh lệch về năng suất và giá
bán nón, nhóm I có năng suất cao nhất với 72 chiếc nón/lao động và giá bán bình quân
trong nhóm hộ này cũng cao nhất 30.556 đ/chiếc, tuy lao động trong nhóm hộ này hầu
như chỉ có 1 nhưng vì còn trẻ, tinh mắt nhanh tay nên năng suất của mỗi lao động
trong hộ cao đồng thời nhóm này cho chất lượng nón tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn các
nhóm còn lại. Ngược lại lao động trong các hộ nhóm III hầu hết là 2 lao động nhưng
do tuổi cao nên năng suất thấp chỉ 52 chiếc/lao động, tuy vậy do các lao động này chỉ
có làm nón không phải tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp khác nên chất
lượng chiếc nón của nhóm hộ tốt hơn các hộ ở nhóm II nên giá bán cũng cao hơn. Từ
bảng trên cho thấy năng xuất và chất lượng nón của mỗi lao động tỷ lệ nghịch với độ
tuổi của lao động trong nghề. Giá trị sản xuất bình quân một hộ từ nghề nón không
cao, 100 chiếc nón thành phẩm của nhóm hộ I cho giá trị cao nhất chỉ được hơn
3.000.000 đ/ hộ. Nguyên nhân chủ yếu là do nghề làm nón vẫn là nghề phụ, quy mô
sản xuất còn nhỏ, phân tán, các hộ chưa chủ động được thị trường, sản phẩm đơn giản,
chủ yếu là loại nón chóp truyền thống nên giá trị kinh tế chưa cao, thu nhập của người
lao động thấp
2.3.2.2 Hiệu quả sản xuất nón của các hộ điều tra năm 2010
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp nói chung cũng như sản xuất nón nói riêng ngày
nay là nền sản xuất hàng hóa, do vậy hiệu quả kinh tế là mục tiêu quan trọng hàng đầu,
ảnh hưởng đến quyết định của người dân. Hiệu quả kinh tế là tiền đề để đánh giá hiệu
quả của quá trình sản xuất kinh doanh, là cơ sở cho việc lựa chọn phương án tối ưu
trong sản xuất. Đây là một phạm trù kinh tế khách quan, nó phản ánh lượng kết quả
hữu ích cuối cùng đạt được và phần hao phí vật chất, lao động bỏ ra trong suốt quá
trình hoạt động kinh tế. Các chỉ tiêu cơ bản để phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế là
mức bình quân GO, IC, VA, TC
Để thấy rõ hơn hiệu quả sản xuất nón ở các hộ ta đi vào phân tích bảng 7.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có sự chệch lệch nhỏ giữa các chỉ tiêu của các
nhóm hộ. Nhìn chung thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất ở nhóm hộ I đều cao
hơn hai nhóm hộ còn lại như: GO bình quân của các hộ nhóm I là 3.056 nghìn
đồng/100 chiếc, nhóm II là 2.795 nghìn đồng/100 chiếc và 2.985 nghìn đồng/100 chiếc
Đại
học
Kin
h tế
Huế
29
đối với nhóm III. IC bình quân của các hộ nhóm III cao nhất trong ba nhóm hộ, nhưng
giá trị gia tăng không cao như các hộ nhóm I. Điều này cho thấy các hộ ở nhóm III tuy
đầu tư cho nguyên vật liệu tốt nhưng do giới hạn về khả năng sản xuất nên giá trị gia
tăng trên 100 chiếc nón thành phẩm không cao.
Bảng 8: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trên 100 chiếc nón thành phẩm
của hộ năm 2010
Các chỉ tiêu KH ĐVT
Tuổi
BQC
=60
1. Tổng giá trị sản xuất GO 1000 đ 3.056 2.795 2.985 2.938
2. Chi phí trung gian IC 1000 đ 1.107 1.130 1.197 1.140
3. Giá trị gia tăng VA 1000 đ 1.948 1.665 1.788 1.799
4. Hiệu quả sử dụng chi phí sản xuất
Tỷ suất giá trị sản xuất trên
chi phí trung gian
GO/IC Lần 2,91 2,63 2,55 2,71
Tỷ suất giá trị gia tăng trên
chi phí trung gian
VA/IC Lần 1,91 1,63 1,55 1,71
5. Hiệu quả sử dụng lao động
Giá trị sản xuất trên lao động GO/LĐ 1000 đ 2.715 1.924 1.804 2.177
Giá trị gia tăng trên lao đông VA/LĐ 1000 đ 1.744 1.170 1.060 1.348
Nguồn: Số liêu điều tra năm 2010
Qua bảng ta thấy cứ một đồng chi phí bỏ ra thì các hộ ở nhóm II thu được 2,63
đồng giá trị sản xuất và 1,91 đồng giá trị gia tăng, còn ở nhóm III chỉ thu được 2,55
đồng giá trị sản xuất và 1,79 đồng giá trị gia tăng; trong khi đó các hộ ở nhóm I lên
đến 2,91 đồng giá trị sản xuất và 2,13 đồng giá trị gia tăng, cao nhất trong ba nhóm.
Điều này cho thấy nhóm I tuy ít kinh nghiệm làm nón nhưng có sức trẻ nên đã đạt
được hiệu quả kinh tế làm nón cao hơn đối với các nhóm hộ còn lại. Phản ánh ngay
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
30
Bán tại nhà
Người thu gom
Hộ buôn lớn
Cửa hàng hoặc
người bán lẻ
Người tiêu dùng
Mang ra chợ
30% Hộ sản xuất 70%
trong 2 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Ta thấy, cả giá trị sản xuất và giá
trị gia tăng trên một lao động của các hộ nhóm I đều cao hơn hẳn các nhóm hộ còn lại,
lần lượt là 2.715 nghìn đồng/lao động và 1.744 nghìn đồng/lao động.
2.4 Tình hình tiêu thụ nón của các hộ điều tra
Trong bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào, nhà sản xuất cũng đều rất quan
tâm đến đầu ra của sản phẩm. Sản phẩm sau khi hoàn thiện sẽ được mang đi tiêu thụ.
Nón của các hộ chủ yếu đem tiêu thụ ở chợ. Đặc biệt là vào những phiên chợ chính là
ngày 4, 10 và các phiên chợ phụ là ngày 1,3,6,8 âm lịch. Chợ Chuông là nơi mua bán
nón và cung cấp nguyên liệu cho hầu hết các tỉnh miền Bắc. Vào phiên chính, khách
đổ về chợ rất đông. Đây là dịp người bán nón có thể bán giá cao hơn các phiên chợ
phụ và ngày thường. Đến ngày phiên chợ, các hộ làm nón dù nhiều hay ít đều mang ra
chợ bán, từng xâu một, khách ở các tỉnh về mua như: Hưng Yên, Thái Bình, Nam
Định...
Sơ đồ 1: Sơ đồ kênh tiêu thụ
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
31
Ngoài ra, một số hộ thì tiêu thụ ngay tại nhà, “tự sản tự tiêu”, gia đình là một
phân xưởng – cửa hàng, tỷ lệ này chiếm khoảng 30% trên tổng số hộ làm nón. Cũng
không ít tác nhân thu gom đến đặt hàng cho hộ làm nón theo yêu cầu với thị trường
tiêu thụ của mình. Có người còn mua nguyên liệu làm nón cho hộ, khi đến lấy thì tính
giá cả và trừ đi phần mua nguyên liệu. Cách làm này là để giữ mối làm ăn lâu dài với
gia đình nên có sự liên hệ chặt chẽ hơn là mua hàng tại chợ. Đối với nghệ nhân làm
nón và những người làm nón đẹp được biết tiếng thì đơn đặt hàng làm không hết chứ
không phải đem ra chợ bán.
2.5 Những thuận lợi và khó khăn đối với việc phát triển nghề làm nón tại
làng Chuông
2.5.1 Thuận lợi
Nghề làm nón ở Làng Chuông có ưu điểm lớn đó là sử dụng tới 90% lao động
nhàn rỗi của lao động nông nghiệp, sản xuất được diễn ra tại nhà mà không cần nhà
xưởng. Sản phẩm hiện nay chủ yếu là đồ dùng. Đặc biệt nghề này có tiềm năng về
nhân lực, tạo việc làm cho rất nhiều lao động. Phát triển nghề này sẽ giải quyết việc
làm cho số đông lao động nhàn rỗi, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm
bớt một phần nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội. Hiện ở địa bàn xã Phương Trung đã có
doanh nghiệp Hùng Hương làm dịch vụ tốt đủ khả năng, đủ tầm cỡ làm cầu nối vững
chắc giữa làng nghề với thị trường. Không chỉ vậy, nhân dân đã chủ động được nguồn
nguyên liệu sản xuất, được bán sẵn tại chợ Chuông trong các phiên chợ hàng tháng.
Tuy vậy nguôn lao động cho phát triển nghề này là tương đối dồi dào nhưng chất
lượng lao động còn thấp.
Ngoài ra nghề nón còn những điều kiện thuận lợi để phát triển như:
- Kinh nghiệm truyền thống;
- Không cần nhà xưởng.
- Hộ sản xuất tại nhà nên vẫn có điều kiện kết hợp làm những công việc khác như làm
ruộng, làm vườn, chăn nuôi lợn, gà...
- Làm thay đổi cách nghĩ, cách làm của người dân, đó là tăng thu nhập từ các nghề phi
nông nghiệp;
- Tạo không khí làm việc mới tại các thôn, tăng cường tính đoàn kết, truyền thống.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
32
- Hơn 70% lao đông là nữ nên khéo tay, cân cu, chịu khó.
- Cần ít vốn sản xuất.
- Ít ảnh hưởng đến môi trường;
2.5.2 Khó khăn
Dù có nhiều thuận lợi trong việc phát triển nhưng cũng không tránh khỏi những
trở ngại, khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ như:
- Sự xuất hiện sản phẩm tiêu dùng thay thế nón.
- Thu nhập thấp nên người dân dễ chuyển hướng sản xuất, nghề làm nón có thể bị mai
một.
- Cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của địa phương khác.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm hẹp
- Vấn đề vốn cũng gặp nhiều khó khăn với nguồn vốn hạn hẹp. Sự cạnh tranh và lien
kết kỹ thuật cho các làng nghề còn hạn chế.
- Ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng lớn đến công việc sản xuất sản phẩm, làm đình
trệ sự phát triển của làng nghề.
- Sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan nhà nước còn ở mức độ nhất định.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
33
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT
TRIỂN SẢN XUẤT NGHỀ LÀM NÓN TẠI LÀNG CHUÔNG – HUYỆN
THANH OAI – HÀ NỘI
3.1 Định hướng phát triển nghề làm nón trên địa bàn huyện Thanh Oai
Căn cứ vào thực trạng sản xuất của nghề, phương hướng phát triển sản xuất của
nghề làm nón trong những năm tới là:
Tăng quy mô sản xuất, đặc biệt là các loại nón cỏ truyền như nón quai thao, nón
chóp dứa Phát triển làng nghề, kết hợp hài hòa nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ
chức sản xuất.
Phát triển nghề, làng nghề truyền thống phải tạo được động lực xóa đói giảm nghèo,
tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là người dân ở khu vực nông
thôn, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hình thành các cụm trung tâm công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Từ đó thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa
và hiện đại hóa nông thôn.
Phát triển nghề làm nón gắn với phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo ra mối
quan hệ chặt chẽ giữa lao động, nguyên liệu, thị trường và môi trường.
Phát triển các ngành nghề TTCN nói chung, cũng như nghề làm nón nói riêng gắn
với dịch vụ du lịch. Phát triển các ngành nghề, làng nghề theo hướng hình thành những
điểm du lịch văn hóa, để thu hút khách tham quan, từ đó sẽ tạo ra các ngành nghề khác
phát triển, đặc biệt là dịch vụ.
Phát triển làng nghề phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để lựa chọn các mặt hàng,
chủng loại, nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng và giá
cả sản phẩm; sản phẩm của làng nghề phải có sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại
được sản xuất ở các địa phương khác trong cả nước.
Phải gắn với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội cho các làng nghề ở huyện tạo việc làm
để tăng trưởng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu song cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách
thức cho sự phát triển; vì vậy, việc phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp cần chủ
động chuẩn bị đầy đủ về nội lực để từng bước phát triển theo hướng bền vững.
Đại
học
K n
h tế
Hu
ế
34
3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nghề làm nón trên địa bàn làng
Chuông - huyện Thanh Oai – Hà Nội
3.2.1 Giải pháp về thị trường
Thị trường bao giờ cũng là căn cứ ban đầu để phát triển sản xuất. Vì vậy, thị trường
ngày càng có ý nghĩa là vai trò động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của sản
xuất hàng hóa tại làng nghề. Tình hình thị trường của các sản phẩm thủ công, hiện nay
đã có những bước phát triển hơn hẳn so với thời kỳ trước, song thực tế nó vẫn mang
tính tự phát và thiếu ổn định, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất. Nghiên cứu đề
xuất các giải pháp nhằm mở rộng thị trường cho các sản phẩm thủ công là một vấn đề
rất quan trọng và cấp thiết. Mở rộng thị trường một mặt nhằm gia tăng khối lượng sản
phẩm hàng hóa tiêu thụ, đồng thời tạo điều kiện mở rộng sản xuất cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Mặt khác mở rộng thị trường là điều kiện giúp cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh tham gia chủ động vào quan hệ thị trường để từ đó xác định phương hướng sản
xuất phù hợp, thỏa mãn nhu cầu thị trường trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế so
sánh của mình. Mỗi loại thị trường có những đặc thù riêng nên phải có những giải
pháp phù hợp với mỗi loại thị trường đó.
Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu:
* Thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Tăng cường khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hình thức quảng cáo,
triển lãm, hội chợ, đầu tư cho việc nghiên cứu, nắm bắt và cung cấp thông tin về thị
trường, như các thông tin hàng hóa, chất lượng và giá cả hàng hóa, khách hàng và điều
kiện mua bán của khách hàng, phương thức mua bán và thị hiếu người tiêu dùng. Việc
nghiên cứu và dự báo thị trường cũng phải được coi trọng, nhất là những dự báo dài
hạn và trung hạn đối với các loại sản phẩm.
- Hỗ trợ cung cấp về thông tin thị trường thông qua các hình thức phong phú như: mở
trang web giới thiệu sản phẩm; tổ chức và hỗ trợ cho các cơ sở đi tham quan hội chợ,
tham quan làng nghề ở trong và ngoài tỉnh; phổ biến thông tin giá cả rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
35
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại cho sản phẩm như tổ chức tham gia
các hội chợ trong và ngoài tỉnh để giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác, ký kết các hợp
đồng.
- Khuyến khích hình thành các hiệp hội ngành nghề ngay từ trong làng xã đến huyện,
tỉnh. Thông qua các tổ chức này, các cơ sở sản xuất, các các nhân người thợ được trao
đổi và cung cấp thông tin về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, giá cả, thị hiếu
tiêu dùng v.v, tạo ra sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
- Nhà nước và chính quyền địa phương các cấp cần có biện pháp tạo điều kiện cho
người dân nâng cao thu nhập, nâng cao nhu cầu, làm tăng sức mua.
- Bản thân các cơ sở sản xuất cũng phải năng động trong việc thu thập và xử lý các
thông tin về thị trường, giá cả, chủ động trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường của
mình.
* Thị trường đầu vào: cung cấp nguyên, vật liệu
Thị trường nguyên, vật liệu cho nghề nón phần lớn là thị trường địa phương tại
chỗ, gắn bó với nguồn tài nguyên và các loại sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Tuy
nhiên trong những năm gần đây việc cung ứng này gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn
nguyên liệu tại chỗ hầu như chỉ đủ duy trì sản xuất ở quy mô nhỏ chứ không đủ để mở
rộng quy mô sản xuất. Vì vậy sản xuất nón phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp
nguyên, vật liệu từ các địa phương khác. Hiện nay, tuy không phải là khó khăn lớn
nhất nhưng việc khai thác và cung cấp nguyên liệu, vật liệu cho sản xuất nón ở Làng
Chuông còn gặp nhiều cản trở. Vì vậy, tỉnh, huyện cần có quy hoạch các vùng nguyên
liệu tập trung trên cơ sở thực hiện phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất,
đồng thời cần phải tiêu chuẩn hoá các loại nguyên liệu để đảm bảo chất lượng sản
phẩm và tiết kiệm cho sản xuất.
3.2.2 Giải pháp về đào tạo, nâng cao trình độ người lao động
Tay nghề của người lao động gần như quyết định hoàn toàn chất lượng của sản
phẩm. Đội ngũ lao động trong các hộ làm nón ở Làng Chuông nhìn chung vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
thôn. Nhiều người chưa qua đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, mà chủ yếu là truyền
Đại
ọc
Kin
h tế
Hu
ế
36
thông trực tiếp. Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề
cho người lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất của các hộ ở làng nghề trên địa
bàn cần phải có những giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng sau:
- Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động. Bởi vì, trong thời gian qua
ở các hộ làm nón trên địa bàn do tiếp xúc với nghề sớm, ngoài giờ học các em học sinh
đã tham gia phụ việc và kiếm được tiền. Do cái lợi trước mắt nên các gia đình sẵn sàng
cho con em mình bỏ học từ sớm để làm nghề. Mặc dù số lao động trẻ có thể rất giỏi về
kỹ thuật tay nghề nhưng lại kém cỏi về trí thức sẽ là trở ngại lớn cho quá trình CNH,
HĐH nông thôn.
- Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hình thức dạy nghề, truyền nghề. Cải tiến
chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Tập trung chủ yếu vào đào
tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển nghề, các kỹ năng có tác dụng thiết
thực cho nghề. Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề trong huyện, xã cần có các
lớp tập huấn ngay tại địa phương. Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành thực tế
tại các cơ sở sản xuất trên địa bàn, giữa truyền nghề trực tiếp với đào tạo cơ bản.
- Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi đối với sự phát triển của nghề
nón. Các cấp chính quyền từ tỉnh, huyện đến xã cần tiến hành những việc cần thiết
như: có chính sách ưu đãi đối với những nghệ nhân, thợ giỏi, những người có tay nghề
cao, bên cạnh đó khuyến khích họ truyền nghề giới thiệu những bí quyết nghề cho thế
hệ sau.
- Trên địa bàn các xã nên thành lập các "Câu lạc bộ nghề " nhằm thu hút các nghệ
nhân, những người có kinh nghiệm sản xuất lâu năm tham gia. Từ đây, các nghệ nhân
có điều kiện tiếp xúc và trao đổi kinh nghiệm với nhau, đồng thời cũng là nơi nghệ
nhân truyền nghề cho các thế hệ nối tiếp.
3.2.3 Giải pháp về chính sách
Các cơ quan chức năng cần có sự đầu tư và những chính sách khuyến khích cao
sự phát triển của làng nghề.
Một là, chính sách tạo vốn và khuyến khích đầu tư:
Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu quả cho sản
xuất kinh doanh ở làng nghề truyền thống. Để làm tốt việc này cần có trung tâm hỗ trợ
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
37
tài chính và bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo
vốn cho các làng nghề, làm cho quy mô sản xuất được mở rộng và thu hút vốn đầu tư
ngày càng nhiều.
Đa dạng hoá các hình thức cho vay vốn đối với làng nghề, có chính sách thực
hiện lãi suất ưu đãi, thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm
soát các nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn
vay đúng mục đích và có hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Nghiên cứu hạ lãi suất
cho vay đối vói nông dân nói chung và làng nghề truyền thống nói riêng trên cơ sở
giảm chi phí dịch vụ ngân hàng. Mở rộng hình thức cho vay tín chấp, cho vay có bảo
lãnh đối với hộ dân nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện sản xuất kinh
doanh. Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản, mặt khác vẫn phải bảo đảm
an toàn vốn vay.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong làng nghề truyền thống, nhất là ngành
nghề thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh. Các làng nghề truyền thống nói chung và làng Chuông nói riêng cần kịp thời
nắm bắt những thông tin về thị trường, tiếp xúc với đối tác nước ngoài để tìm cơ hội
trong liên doanh, liên kết.
Tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm,
nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động.
Hai là tăng cường công tác quản lý của Nhà nước đối với làng nghề truyền thống:
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, làng nghề truyền thống do
mất thị trường tiêu thụ sản phẩm đã rơi vào tình trạng mai một, không phát huy được
tiềm năng vốn có của mình. Nguyên nhân của tình trạng đó là: Thiếu năng động trong
việc chuyển nghề, cải tiến kỹ thuật mẫu mã, chưa duy trì sản xuất. Nhưng mặt khác,
nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là việc quản lý.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh cho các làng
nghề. Ngoài luật và chính sách chung có liên quan đến phát triển làng nghề, nên có hệ
thống chính sách riêng cho làng nghề truyền thống phải đồng bộ và hướng vào mục
tiêu đã định. Từ đó tạo ra mọi điều kiện thuận lợi cho môi trường sản xuất kinh doanh
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
38
ở các làng nghề, trong đó đặc biệt chú ý đến chính sách trợ giúp cho làng nghề có sản
phẩm mang đậm nét văn hoá, nhưng đang gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường.
Để thực hiện sự giúp đỡ có hiệu quả của Nhà nước đối với làng nghề truyền
thống, cần xây dựng một chiến lược toàn diện, tiến hành điều tra khảo sát, quy hoạch
tổng thể cho sự phát triển của làng nghề. Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự
án, khẩn trương hình thành, phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ, giúp đỡ làng
nghề trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sự giúp đỡ của các tổ chức tư vấn nên tập
trung vào những lĩnh vực xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo và du lịch,...
Tăng cường công tác quản lý đối với làng nghề trong cơ chế thị trường, cần chỉ
đạo các cấp, nhất là cấp lãnh đạo địa phương theo dõi và nắm chắc những chỉ tiêu kinh
tế - kỹ thuật, nhằm giúp cho cơ quan cấp trên có được số liệu chính xác, đưa ra quyết
định đúng đắn mang tính khả thi cao. Từ đó, có kế hoạch phát triển mạnh mẽ những
ngành nghề truyền thống mang hiệu quả kinh tế thiết thực, nhằm khai thác một cách
đầy đủ nhất các lợi thế về lao động, về nguyên liệu và tay nghề,...
Tạo điều kiện và khuyến khích hoạt động của các hội nghề nghiệp. Trong cơ chế
thị trường, sự ra đời của hội nghề nghiệp là rất cần thiết. Bởi vì, thông qua các tổ chức
này mà các cơ sở sản xuất, cá nhân người thợ được cung cấp những thông tin về kinh
tế, kỹ thuật, công nghệ, cũng như giá cả thị trường, đồng thời góp phần giải quyết vấn
đề lao động và việc làm cho nhiều người. Do vậy, nhà nước cần có chính sách khuyến
khích hỗ trợ, giúp đỡ hội nghề nghiệp phát triển.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
39
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1. Nghề làm nón là một bộ phận kinh tế quan trọng của xã Phương Trung. Phát
triển sản xuất nghề nón là biểu hiện cụ thể của việc phát triển hiệu quả và bền vững tại
địa phương. Nó có tác động tích cực trong việc phân công lại lao động xã hội, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tạo ra sự gắn bó hữu cơ
giữa các vùng nguyên liệu, giữa các thành phần kinh tế, tạo cho người lao động có
thêm việc làm và tăng thu nhập. Thông qua việc bán sản phẩm mang bản sắc riêng của
các địa phương trong huyện, nghề nón đã giới thiệu nét đẹp văn hóa với các khách
hàng trong và ngoài nước, góp phần bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc,
từ đó tạo ra những giá trị văn hóa mới, xây dựng quan hệ cộng đồng văn hóa xã hội
trong làng xã ngày càng tốt đẹp.
2. Trong những năm qua nghề làm nón trên địa bàn xã Phương Trung đã đạt được
nhiều thành tựu phát triển, giải quyết số lao động nông nhàn và tạo việc làm cho cả lao
động ở địa phương. Thu nhập tăng, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải
thiện, số hộ có kinh tế khá, giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm một cách rõ rệt qua các
năm.
3. Sản xuất nón ở xã Phương Trung còn có một số điểm yếu kém cần khắc phục:
- Các cơ sở sản xuất nhìn chung còn nhỏ, chủ yếu dưới hình thức các hộ gia đình. Tổ
chức theo kiểu tự phát, ít có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Thiếu thông tin về thị trường và giá cả. Các cơ sở thường bán hàng qua trung gian
nên bị ép giá, giá trị ngày càng thấp. Chưa chủ động về thị trường nên nhiều khi diễn
ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh như tranh giành khách hàng, nhái mẫu mã
- Trình độ học vấn, tay nghề của các chủ cơ sở và người lao động còn thấp nên gặp
khó khăn khi tiếp cận thị trường và đưa các mẫu mã mới vào sản xuất.
- Các cơ sở sản xuất thường khởi nghiệp từ nông nghiệp nên vốn tích lũy thấp. Do thị
trường vốn trong huyện chưa phát triển mạnh nên các cơ sở thường gặp khó khăn khi
cần tăng thêm vốn, phổ biến tình trạng có vốn đến đâu thì đầu tư đến đó nên việc mở
rộng quy mô sản xuất bị hạn chế.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
40
- Sản xuất còn mang tính thời vụ, chịu tác động của chu kỳ sản xuất nông nghiệp. Vào
thời điểm nông nhàn thì rộ lên, còn khi vào thời vụ cấy, gặt thì các hộ ngừng lại để
dành thời gian cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
4. Trên cơ sở phân tích thực trạng, đánh giá hiệu quả của nghề nón, đề tài đã đưa ra
các giải pháp. Nếu các giải pháp này được thực hiện tốt thì chúng ta tin rằng trong
những năm tới các nghề nón ở Làng Chuông sẽ còn có nhiều bước tiến mới, đem lại
những hiệu quả lớn về mặt kinh tế, xã hội cho huyện nói riêng và cho cả huyện Thanh
Oai.
2. Kiến nghị
Qua quá trình thực hiện đề tài, thấy được những tồn tại và hạn chế trong việc
phát triển sản xuất nghề nón trên địa bàn huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để
cây cao su có thể phát triển vững chắc và ngày càng mang lại giá trị kinh tế cao cho
người dân chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
* Đối với Nhà nước
- Cần tổng kết kinh nghiệm phát triển các nghề TTCN nói chung và nghề nón nói
riêng ở Việt Nam trong thời gian qua và xây dựng một chương trình toàn diện và cụ
thể về phát triển các nghề TTCN trong chương trình tổng thể về CNH, HĐH nông
thôn.
- Thực thi đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ,
tạo môi trường thuận lợi cho sự khôi phục, hình thành và phát triển của nghề nón.
Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các chính sách và biện pháp hỗ trợ về ổn định và
mở rộng thị trường, tạo lập và tăng cường vốn, đổi mới và chuyển giao công nghệ,
thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ đào
tạo các nhà doanh nghiệp, người lao động, tăng cường quy hoạch, đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các cơ sở sản xuất.
* Đối với các cấp chính quyền địa phương
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác khuyến công nhằm kịp thời khuyến khích
nghề nón phát triển.
- Tổ chức những cơ quan chuyên môn cung cấp thông tin về thị trường một cách
thường xuyên và cập nhật cho các cơ sở sản xuất nón.
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
41
- Tăng cường chính sách tín dụng, liên kết chặt chẽ các ngân hàng tại địa phương
nhằm hỗ trợ về vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh ở các cơ sở sản xuất nón.
- Tăng cường hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên
môn kỹ thuật cho người lao động ở các cơ sở sản xuất nón.
- Cấp huyện nên dành một phần kinh phí nhất định trong kinh phí ngân sách cấp hàng
năm nhằm hỗ trợ cho phát triển tiểu thủ công nghiệp địa phương nói chung và nghề
nón nói riêng.
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh nón
- Tranh thủ và bố trí sử dụng các nguồn lực hiện có và sự hỗ trợ của Nhà nước, các
cấp chính quyền địa phương một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả.
- Tăng cường hợp tác, liên kết với nhau và với các đối tác nhằm nâng cao sức mạnh
trên thị trường và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm nhằm
giữ vững uy tín và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm ở các cơ sở sản xuất.
Đại
học
Kin
h t
Hu
ế
42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Hội thảo "Mỗi làng một nghề",
Hà Nội.
2. Cục xúc tiến thương mại (2004), Báo cáo tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ ở Việt Nam đi các nước trên thế giới, Hà Nội.
3. Đỗ Thị Hảo (2001), Nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam và các vị tổ nghề,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Trần Minh Huân, Phạm Thanh Tùng (2007), "Kinh nghiệm phát triển làng nghề
truyền thống ở một số nước châu Á", Tạp chí Công nghiệp, 6(1), tr.53 - 54.
5. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến (2006), Thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Viết Sự (2001), Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam, NXB Thanh
niên, Hà Nội, 2001.
7. Nguyễn Kế Tuấn (1996), "Một số vấn đề về tổ chức sản xuất ở các làng nghề thủ
công", Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam, tr. 83
- 92.
8. Báo cáo két quả lãnh đạo thực hiện các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của đảng bộ
nhân dân xã Phương Trung.
9. Cẩm nang du lịch Việt Nam
Đại
học
Kin
h tế
Hu
ế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_nghe_lam_non_la_cua_cac_ho_tren_dia_ban_lang_chuong_xa_phuong_trung_huyen_thanh_oai_ha_noi.pdf