Chính phủ các nước thực hiện nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường
tài chính và kích thích kinh tế: (1) Mua lại cổ phiếu, nợ xấu của các ngân hàng
mất khả năng thanh toán; (2) Đưa ra tuyên bố đảm bảo thanh toán các khoản tiền
gửi tại hệ thống ngân hàng, tăng số tiền được bảo hiểm tiền gửi; (3) Rà soát lại
khả năng tài chính của các ngân hàng để lập kế hoạch hỗ trợ tài chính cơ cấu lại;
(4) Triển khai gói giải pháp kích thích kinh tế với tổng trị giá của các nước
khoảng 12.500 tỷ USD, tương đương 20,6% GDP thế giới năm 2008.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, thị trường tài chính các nước phụ thuộc lẫn
nhau, quy mô vốn luân chuyển gấp nhiều lần so với giai đoạn Đại suy thoái kinh
tế thế giới 1929 - 1933, khủng hoảng tài chính đã làm giảm sút nghiêm trọng
lòng tin của các nhà đầu tư, đẩy kinh tế thế giới sớm rơi vào suy thoái: (1) Đến
tháng 12/2008, có 25 nước rơi vào suy thoái (Mỹ, Nhật Bản, khu vực đồng Euro,
các nước Đông Âu); suy thoái kinh tế ở nhiều nước tiếp tục diễn ra trong năm
2009. Tuy vậy, với sự nỗ lực của hệ thống tài chính toàn cầu và chính phủ các
nước, IMF, WB, WTO, OECD, Hội nghị G8 tổ chức tại Italia từ ngày 08/7 -10/7/2009 đều đưa ra nhận định, giai đoạn tồi tệ nhất của khủng hoảng tài chính
đã qua và tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu đã chậm dần, nhưng sự ổn định
và quá trình phục hồi kinh tế thế giới sẽ kéo dài và chậm chạp.
87 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2213 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 7,1% về lượng giảm
19,4% về kim ngạch22.
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Như đã đề cập ở phần trên, nguyên nhân khách quan làm giảm xuất khẩu của
Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng, mà đặc biệt là năm 2009 là do nhu cầu thế
giới giảm. Một nguyên nhân nữa là giá nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
cũng giảm mạnh trong năm 2009. Nền kinh tế Việt Nam tham gia vào thị trường
thế giới với tư cách là một nước có trình độ công nghệ chưa phát triển, bởi vậy
hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là gạo, chè, cà phê, giày da, dầu thô…Cầu
về những mặt hàng này thường ít co giãn nên doanh thu bán hàng những mặt
hàng này thường biến động cùng chiều với giá. Giá hàng hóa Việt Nam năm
2009 giảm có thể được giải thích bởi những nguyên nhân chủ quan sau đây:
Thứ nhất, những mặt hàng nông sản của Việt Nam thường có chất lượng
kém đồng đều và thấp hơn so với các nước khác trên thế giới, do việc sử dụng
nhiều thuốc trừ sâu, phân bón hóa học làm cho giá hàng hóa của Việt Nam bị
22 Niên giám thống kê 2009, nhà xuất bản thống kê
53
giảm thấp hơn so với giá của thị trường thế giới. Ví dụ, chè Việt Nam chỉ bán
được với giá 1100USD/tấn trong khi giá chè nguyên liệu thô bình quân trên thị
trường thế giới là 2200USD/tấn
Thứ hai, hiện nay Việt Nam vẫn ở nấc thang công nghệ thấp so với khu vực
và thế giới, do vậy những mặt hàng chủ lực vẫn là những mặt hàng nông sản và
những mặt hàng thô chưa qua chế biến. Những mặt hàng này chịu ảnh hưởng
của hiện tượng giá cánh kéo nên trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, khi
mức giá chung trên thị trường thế giới suy giảm, giá hàng xuất khẩu của Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề.
Bởi vậy, mặc dù xuất khẩu năm 2009 nhiều mặt hàng tăng nếu xét về lượng
(gạo tăng 34,1%, cà phê tăng 14,4%, hạt điều tăng 6,0%) tuy nhiên do thực tế
giá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu vẫn sụt giảm (trị giá xuất khẩu bằng
92,4% cùng kỳ năm 2008, cà phê 80,3%, hạt điều 86,9%).
Như vậy việc không đạt những chỉ tiêu tăng trưởng một phần do những
nguyên nhân khách quan đem lại, nhưng một phần do những nguyên nhân chủ
quan do nội tại nền kinh tế Việt Nam. Bởi vậy vấn đề đặt ra cho Việt Nam là
phải nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm, cũng như đưa ra những
biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu để có thể phân tán rủi
ro trong trường hợp giá giảm.
2.4 Những nguyên nhân giúp xuất khẩu của Việt Nam không bị suy giảm
nhiều và phục hồi nhanh sau khủng hoảng năm 2008
Thứ nhất, trước đây hàng hóa Việt Nam thường phải chịu mức thuế suất cao
khi thâm nhập vào thị trường các nước. Do đó, các mặt hàng của chúng ta
thường khó cạnh tranh ở các thị trường bản địa. Sau khi trở thành thành viên của
WTO với các chế độ đãi ngộ như MFN, NT…, cũng như tham gia vào các FTA,
Việt Nam bắt đầu khai thác được thị trường xuất khẩu rộng lớn với mức cam kết
về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng với các biện pháp phi thuế quan
cũng được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên này. Điều này
54
đã góp phần không nhỏ cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao được năng lực
cạnh tranh và tăng kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng, đặc biệt ở những
mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế mạnh. Ngoài ra, xuất khẩu của chúng ta còn
được hưởng lợi do thị trường được mở rộng, hàng hóa của Việt Nam có thể
thâm nhập thị trường các thành viên WTO và các nước tham gia kí FTA một
cách thuận lợi hơn. Cùng với đó là sự thống nhất của hệ thống pháp luật đã giúp
cho môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện theo hướng thuận lợi và
minh bạch hơn, phù hợp với các quy định của quốc tế.
Thứ hai, nhà nước cũng đã có những chính sách nhằm khuyến khích xuất
khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế khoảng
150000 tỷ đồng (tương ứng khoảng 8 tỷ đô la) để hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân
hàng của các doanh nghiệp, thực hiện các chính sách giảm thuế. Thực hiện chỉ
đạo của Chính phủ, từ tháng 10/2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã
chuyển hướng điều hành các chính sách tiền tệ từ “ thắt chặt “ sang “ nới lỏng “
bằng các biện pháp như giảm lãi suất, điều hành linh hoạt tỉ giá USD/VND. Việc
đơn giản hóa các thủ tục hành chính như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, cấp mã số thuế và tiến hành khai báo hải quan điện tử đã có những tác
động tích cực đến các doanh nghiệp ở hầu hết ngành hàng. Việc phát triển hệ
thống ngân hàng và bảo hiểm mở ra các kênh tài chính cạnh tranh tạo cơ hội tiếp
cận tài chính tốt và cạnh tranh hơn cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, bản thân việc trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như
tham gia vào các FTA cũng có những tác dụng thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải tự đổi mới và hoàn
thiện mình. Nhiều doanh nghiệp đã ý thức được tính độc lập vươn lên để tồn tại
trong môi trường tự do, hội nhập quốc tế mà không cần sự bảo trợ của Nhà
nước. Các doanh nghiệp đã rất năng động tìm kiếm các nguồn hàng, tự đi lên
vượt qua khó khăn mà khủng hoảng mang lại.
Thứ tư, Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh thể hiện ở một số các chỉ tiêu như:
tốc độ tăng trưởng ổn định, cơ sở hạ tầng đồng bộ, nguồn nhân lực dồi dào có
55
trình độ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, thành công trong việc hội nhập kinh
tế quốc tế… Cụ thể, Việt Nam có lợi thế về một số sản phẩm như hàng nông
sản, hàng dệt may và giày dép… Đó cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
của Việt Nam, giúp cho xuất khẩu của chúng ta đứng vững trong cơn khủng
hoảng.
56
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI
3.1 Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam
3.1.1 Thuận lợi
Thứ nhất, các thị trường xuất khẩu của Việt Nam đang phục hồi. Khi nền
kinh tế ở các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Hoa Kỳ, châu Âu,
Nhật Bản và thị trường tiềm năng Trung Quốc phục hồi mạnh mẽ sau khủng
hoảng, nhu cầu ở các thị trường đó gia tăng tạo nên nhiều cơ hội cho hàng Việt
Nam xuất khẩu, đặc biệt sau khi Nhà nước điều chỉnh tỉ giá chính thức của VND
theo USD có lợi cho xuất khẩu Việt Nam.
Thứ hai, như đã dự báo, nhu cầu thế giới sau khủng hoảng đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản đã tăng cao trong năm 2009 và
năm 2010. Cùng với những nỗ lực vượt qua khủng hoảng và việc khai thác lợi
thế mới gia nhập WTO chưa lâu, doanh nghiệp Việt Nam đã và đang từng bước
tạo dựng thị trường và uy tín cho sản phẩm Việt Nam.
Thứ ba, môi trường chính trị xã hội ổn định, những thành công trong chính
sách xóa đói giảm nghèo cũng như những chính sách vượt qua khủng hoảng đã
nâng cao uy tín và vai trò của Việt Nam trên thế giới. Điều đó cộng với sự đóng
góp tích cực hơn của Việt Nam trên thế giới cũng thuận lợi hơn cho Việt Nam
khi xuất khẩu sang các thị trường mới. Việt Nam ngày càng chủ động hơn trong
các thể chế, tổ chức, như ASEAN, APEC, WTO…cũng đã khẳng định một vị
thế mới cho nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã không còn chỉ là một nước nhận
viện trợ mà còn có khả năng như viện trợ nhân đạo cho các nước khác, kể cả
những nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung
Quốc.
Thứ tư, những điển hình về thực trạng kinh tế Việt Nam cũng đã xuất hiện
nhiều hơn trong các sách báo, các tạp chí nghiên cứu về kinh tế cũng đã thể hiện
57
sự quan tâm ngày càng nhiều hơn của các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới
đối với nền kinh tế Việt Nam. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi giúp Việt
Nam xâm nhập vào các thị trường mới.
Thứ năm, vị trí địa lý của Việt Nam cũng tạo ra một lợi thế cho các sản
phẩm Việt Nam. Là một nước trung tâm ASEAN, lại nằm bên cạnh một thị
trường rộng lớn Trung Quốc, lợi thế địa lý này cần được các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam chú trọng. Trong 5 năm sắp tới, cùng với việc thu nhập quốc dân
của Trung Quốc tăng lên rõ rệt, việc giảm thuế xuất khẩu vào Trung Quốc theo
Hiệp định thương mại Trung Quốc ASEAN và giá trị đồng nhân dân tệ được dự
báo tăng sẽ đóng góp không nhỏ vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Vị trí trung tâm ASEAN của Việt Nam cũng giúp các sản phẩm xuất khẩu
Việt Nam có một thị trường thế giới gần gũi và quen thuộc. Không những thế,
những nước ASEAN xung quanh cũng có thể là một nguồn cung cấp nguyên
liệu cho các mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam đã tạo dựng một chỗ đứng riêng
trên thị trường thế giới như nông sản, thủy sản, may mặc.
Thứ sáu,sau một thời gian gia nhập các thể chế thương mại quốc tế như
APEC, WTO,… nguồn nhân lực của Việt Nam cũng đã được cải thiện, nâng
cấp, đặc biệt tập trung cho các ngành xuất khẩu. Sự thiếu hụt các lao động phổ
thông trong thời gian gần đây cũng là cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế Việt
Nam theo hướng gia tăng những sản phẩm đòi hỏi kĩ năng cao hơn, dẫn đến việc
sản xuất nhiều mặt hàng có giá trị hơn.
3.1.2 Khó khăn
Mặc dù có rất nhiều cơ hội để tăng trưởng nhưng xuất khẩu Việt Nam cũng
đang gặp phải nhiều khó khăn thách thức mà cụ thể là :
Thứ nhất, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD còn ẩn chưa nhiều rủi ro khi
cung cầu ngoại tệ chưa ổn định. Chính sách neo tỷ giá của tiền đồng đối với
USD cũng khiến cho xuất nhập khẩu Việt Nam lệ thuộc vào sức mạnh của đồng
USD trên thế giới.
58
Thứ hai, với các quy định của WTO và các hiệp định thương mại song
phương đa phương nhằm cắt giảm hay bãi bỏ thuế nhập khẩu, tạo thuận lợi cho
thương mại quốc tế, các rào cản phi thuế quan ngày càng được sử dụng nhiều để
các quốc gia có thể bảo hộ sản xuất nội địa. Các biện pháp chống bán phá giá,
chống trợ cấp được cho phép bởi WTO đã bị lợi dụng để thiết lập nên những rào
cản thương mại có hiệu quả bảo hộ như thuế quan nhập khẩu. Trong vài năm
gần đây và trong tương lai gần, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang và
sẽ phải đối phó với nhiều hình thức rào cản thương mại mới như các tiêu chuẩn
vệ sinh, xã hội và môi trường do cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu vẫn thiên về các
mặt hàng nông sản, thực phẩm hay các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như dệt
may, giầy da.
Thứ ba, việc tập trung vào sản xuất một số sản phẩm sử dụng nhiều tài
nguyên vào lao động cũng có thể khiến cho người sản xuất trong một số ngành
sản xuất lâm vào tình trạng “ tăng trưởng khốn cùng” khi tỉ lệ thương mại giảm,
nghĩa là giá sản phẩm xuất khẩu sụt giảm so với giá các mặt hàng nhập khẩu.
Người lao động trong những ngành sản xuất đó phải sản xuất nhiều hơn, tiêu thụ
nhiều tài nguyên nhân lực, vật lực hơn mà chỉ có thể tiêu thụ ít hơn các sản
phẩm khác. Cho dù trên lý thuyết, tình trạng này rất khó xảy ra nhưng trên thực
tế đã có những cảnh báo rằng, càng tăng trưởng, người dân Việt Nam càng
nghèo đi. Thu nhập thực tế của các công nhân xí nghiệp may mặc, giầy da hay
chế biến thực phẩm ngày càng giảm. Tình trạng nông dân trở thành người làm
thuê trên chính mảnh đất của mình đã và đang diễn ra một cách phổ biến hơn,
đặc biệt là ở đồng bằng song Cửu Long.
Thứ tư, việc tập trung vào sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu sử dụng
nhiều tài nguyên sơ cấp cũng khiến cho Việt Nam khai thác quá mức các nguồn
lực tự nhiên và khiến cho người sản xuất khó khăn hơn khi ứng phó để thích
nghi với các biến đổi khí hậu mà điển hình là tình trạng hạn hán trong mùa khô,
lũ lụt trong mùa mưa hay diên tích rừng, trữ lượng tài nguyên giảm sút đã được
thông tin rất nhiều trên báo chí. Việc lệ thuộc vào tự nhiên đã khiến cho những
59
dự báo về kim ngạch xuất khẩu Việt Nam ngày càng khó khăn hơn khi thiên tai,
lũ lụt, dịch bệnh vẫn là những nguy cơ lớn đe dọa sự phát triển kinh tế nói
chung.
3.2 Dự báo cho xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2015
3.2.1 Dự báo chung về xu hướng thị trường xuất khẩu trên thế giới
Sẽ có hai thay đổi lớn trong bản đồ nhập khẩu của thế giới là khối OECD
và châu Á. Khối OECD sẽ giảm tỉ trọng tiêu dùng trong tổng cầu của thế giới
trong khi châu Á, cụ thể là Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia sẽ nổi lên như
những trung tâm tiêu dùng mới của thế giới.
Trước hết là về OECD, theo các nhà nghiên cứu thị trường này sẽ không
tiêu dùng ít đi mà vì các thị trường khác trỗi dậy, tiêu dùng nhiều hơn làm giảm
đi tỷ trọng của OECD. Con số tuyệt đối có thể vẫn tăng nhưng con số tương đối
lại đang giảm dần. Là hai trong số 30 quốc gia thành viên của OECD, trong giai
đoạn 2011 – 2015, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng không nằm ngoài xu hướng tiêu
dùng của cả khối.
Được coi là nền kinh tế tiêu dùng lớn nhất thế giới, tuy nhiên, khủng hoảng
toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đã làm thay đổi đáng kể mức tiêu dùng cá nhân
của Hoa Kỳ. Người tiêu dùng Mỹ, khách hàng lớn nhất của các nhà sản xuất
châu Á có vẻ như đang thay đổi cơ bản thói quen mua sắm của họ, mua những
hàng hóa đắt tiền hơn và thiết yếu hơn. Vậy có một câu hỏi được đặt ra là nếu
Mỹ không còn giữ vị trí quốc gia tiêu dùng số một thế giới nữa thì quốc gia hay
vùng lãnh thổ nào sẽ thế chân Mỹ. Có rất nhiều các kịch bản được đưa ra, nhưng
dường như, cho dù thị trường tiêu dùng thế giới phát triển theo hướng đơn cực
hay đa cực, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn sẽ nổi lên nhưng những trung tâm tiêu
dùng mới do lợi thế về dân số và tốc độ tăng trưởng ổn định trong nhiều năm.
Ngoài ra cũng còn phải kể đến một số quốc gia mới nổi khác trong khu vực châu
Á như Indonesia và Malaysia.
60
Hình 3.1: Dự báo tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu một số nước trên thế giới
giai đoạn 2010 – 2015
Nguồn: Báo cáo Xúc tiến và xuất khẩu 2009 -2010, Nhà xuất bản Lao động
và xã hội
3.2.2 Dự báo về kim ngạch và xu hướng xuất khẩu của Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2015
Dựa vào những diễn biến của thị trường nhập khẩu của thế giới và cơ hội
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, dự báo trong 2 – 3 năm tới các thị trường
truyền thống của Việt Nam vẫn có xu hướng tiếp tục nhập khẩu các mặt hàng
dệt may, da giày, gạo, dầu thô, cao su… Ngoài ra, một số mặt hàng như : đồ gỗ,
hóa chất, đồ gốm sứ, thủy hải sản… cũng có nhiều tiềm năng mở rộng thị trường
xuất khẩu. Vượt qua khủng hoảng năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tìm
được đà tăng trưởng đều đặn qua các năm. Đến năm 2015, dự tính kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt tới con số hơn 120 tỷ USD, với tốc độ tăng
trưởng bình 18%/năm. Về chủ quan, sự hỗ trợ từ các hoạt động xúc tiến thương
mại, các hiệp định thương mại và những cải tiến từ bản thân doanh nghiệp xuất
khẩu đã giúp nâng cao năng lực xuất khẩu của bản thân doanh nghiệp, mở rộng
thị trường và tăng kim ngạch. Về khách quan , kinh tế phục hồi và sự gia tăng
61
dân số tại nước nhập khẩu là nguyên nhân làm tăng cầu nhập khẩu. Dự báo kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường như sau:
3.2.2.1 Thị trường Trung Quốc
Dự báo trong thời gian tới Trung Quốc sẽ tăng cường nhập khẩu những mặt
hàng như mạng tích hợp và tổ vi điện tử, dầu thô, tấm màn hình tinh thể lỏng,
quặng sắt, chất dẻo sơ chế, thiết bị xử lí số liệu tự động và bộ kiện, thép, xăng
dầu, thiết bị mạch bảo vệ đống ngắt và linh kiện, đồng vật liệu và phôi. Trong
đó, dầu thô, quặng sắt và xăng dầu được dự báo là có tốc độ tăng nhập khẩu cao
(60- 70% trong giai đoạn 2010 – 2012 và 80- 85% trong giai đoạn 2013 –
2015). Tuy nhiên trong số các mặt hàng này, chỉ có một số ít mặt hàng thuộc
nhóm mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam.
Những mặt hàng Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu từ Việt Nam
sẽ bao gồm 20 mặt hàng chính như: động vật sống và sản phẩm động vật, sản
phẩm thực phẩm, nông sản; dầu mỡ động thưc vật; thực phẩm, đồ uống, rượu
thuốc lá; khoáng sản, hóa chất….Một số mặt hàng như khoáng sản hóa chất, da
và chế phẩm, nguyên liệu dệt và sản phẩm, giày dép, mũ ô dù, hoa nhân tạo, chế
phẩm từ khoáng chất, đồ gốm sứ, kính, sản phẩm cơ điện được dự báo có tốc độ
tăng cao hơn cả, tuy nhiên cũng chỉ từ 20- 40%, các mặt hàng khác có tốc độ
tăng chỉ từ 2-10% trong 3 năm tới và 8- 15% trong giai đoạn 2013 – 2015.
3.2.2.2 Thị trường Hoa Kỳ
Theo dự báo, thị trường này sẽ tăng cường nhập khẩu các mặt hàng may
mặc, giày dép các loại, chế biến nông sản thực phẩm và các sản phẩm chăm sóc
sức khỏe và sắc đẹp, công nghệ thông tin (máy tính, các loại máy có công nghệ
như máy ghi hình…), đồ nội thất, dụng cụ thể thao để phục vụ cho nhu cầu trong
nước.
Giai đoạn 2013 – 2015, khả năng kinh tế Hoa Kỳ sẽ hồi phục và tỉ lệ thất
nghiệp có thể quay về mức khoảng trên 5%. Như vậy, chi tiêu tiêu dùng chiếm
70% nền kinh tế có khả năng được hồi phục và tăng trưởng. Cùng với khả năng
62
mở rộng và phát triển sản xuất cũng như quen thị trường, các dự án đầu tư của
Hoa Kỳ đi vào hoạt động, các nhóm hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam sẽ
tăng và một số nhóm hàng mới sẽ xuất hiện như cơ khí, công nghệ.
3.2.2.3 Thị trường Nhật Bản:
Những mặt hàng Việt Nam có tiềm năng xuất sang Nhật Bản đều nằm trong
những mặt hàng Nhật Bản sẽ tăng cường nhập khẩu trong giai đoạn sắp tới
Bảng 3.1 Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
Thứ
tự Tên mặt hàng
Mức tăng trưởng bình quân hàng
năm
2010- 2012 2013- 2015
1 Dệt may 10% 15%
2 Giày da 10% 15%
3 Dầu thô 5% 7%
4 Đồ gỗ 10% 10%
5 Gốm sứ 10% 10%
6 Dây điện 7% 10%
Nguồn: Cục XTTM (2009), Kết quả khảo sát ý kiến Cơ quan đại diện thương
mại Việt Nam tại nước ngoài tháng 11/ 2009
3.2.2.4 Thị trường EU
Năm 2010, Việt Nam và Liên minh châu Âu đã cùng thống nhất tiến tới đàm
phán Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) Việt Nam – EU. Hơn nữa, năm 2010
Việt Nam và EU cũng hoàn thành đàm phán và ký tắt Hiệp định đối tác, hợp tác
toàn diện. Dưới những tác động của những hiệp định hợp tác đã kí giữa với EU
và việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007, dự kiến kim ngạch xuất khẩu
vào EU sẽ tăng trưởng trung bình khoảng 4%/năm. Mặc dù vậy, xuất khẩu sang
thị trường EU được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong thời gian tới bởi những quy
định đối với hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường này. Các quy định này đều
được soạn thảo bởi Nghị viện và Hội đồng châu Âu, đã có hiệu lực theo từng
63
thời điểm. Hiện tại Nghị viện và hội đồng châu Âu vẫn đang tiếp tục soạn thảo
những quy định mới chủ yếu nhắm vào việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và
môi trường. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang EU như da giày, dệt may,
cà phê, thủy sản và nội thất dự đoán sẽ giảm dần về sản lượng do bên cạnh việc
phải chịu mức thuế suất cao hơn mức thuế suất trung bình, các nhà xuất khẩu
Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc tuân thủ các quy định của EU.
3.2.2.5 Thị trường châu Phi
Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu sang Nigeria những mặt hàng như : sản
phẩm dệt may, máy tính, sản phẩm điện tử, săm lốp ô tô, xe máy, sản phẩm sắt
và thép, gạch ốp lát; gạo; thủy sản; thuốc tân dược; phụ tùng ô tô xe máy; sản
phẩm cao su. Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mỗi mặt hàng bình quân
đều từ 15-20%.
Nam Phi cũng là một thị trường lớn và rất tiềm năng đối với xuất khẩu Việt
Nam. Căn cứ vào nhu cầu nhập khẩu của thị trường này, Việt Nam có thể xuất
khẩu dầu thô, thiết bị điện, nhựa và các sản phẩm từ nhựa, hóa chất, sắt thép, cao
su, giấy, đồ sứ, giầy da, đồ gỗ…
3.2.2.6 Thị trường Nam Mỹ:
Braxin là một đại diện nhập khẩu tiêu biểu của Việt Nam. Dự đoán mức
tăng trưởng hàng năm (2011 – 2015) về nhóm hàng có tiềm năng xuất khẩu sang
thị trường Braxin không cao, chỉ từ 5 – 10% trong 2 năm tới và 5-15% trong 3
năm tiếp theo.
Ngoài Braxin, Argentina cũng là một thị trường xuất khẩu mà Việt Nam
cần quan tâm trong khu vực Nam Mỹ. Tuy nhiên, danh mục hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang Argentina bị ảnh hưởng rất nhiều do những khó khăn trong việc
xuất khẩu những nhóm hàng hạn chế đã được Tổng cục Hải quan Argentina
công bố về hàng hóa nhập khẩu để tránh hiện tượng gian lận thuế hoặc bán phá
giá nhằm ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này. Mặc dù vậy, Việt
Nam vẫn có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Argentina những mặt hàng không
64
thuộc danh mục hạn chế như : dầu và khí thiên nhiên, máy móc, xe động cơ, hóa
chất hữu cơ, nhựa…
Tóm lại, dự báo xuất khẩu của Việt Nam trong 5 -6 năm nữa không những
vẫn duy trì được những mặt hàng truyền thống mà còn có cơ hội mở rộng danh
mục hàng xuất khẩu. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhì chung cũng
sẽ tăng đều đặn qua các năm trên tất cả các nhóm hàng, ngoại trừ một số mặt
hàng sẽ có tốc độ tăng trưởng giảm như: đồ gỗ; nội thất; nông sản, thủy hải sản;
dầu mỏ, khí đốt, hóa dầu (thị trường Hoa Kỳ) hay giầy dép, dệt may, máy móc
thiết bị văn phòng (thị trường EU). Điều này được lý giải do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế dẫn tới sức cầu giảm, mặt khác do tác động từ những hàng
rào phi thuế quan nhằm bảo hộ sản xuất nội địa của quốc gia nhập khẩu.
3.3 Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam
3.3.1 Giải pháp vĩ mô
3.3.1.1 Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn cầu hóa đang là xu hướng chiếm lĩnh
thì việc tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế,
tài chính quốc tế, Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện hơn về kinh phí cũng như
những ưu tiên khi xuất khẩu sang các quốc gia thuộc các tổ chức mà Việt Nam
là thành viên. Trong những năm tới đây, Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa trong
việc kí kết các hiệp định hợp tác song phương và đa phương để hàng hóa Việt
Nam có thể tham gia sâu rộng vào thị trường thế giới. Xây dựng và phát triển
các chuỗi cung ứng nội địa, tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu để khẳng định
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong thế kỷ 21 khuynh hướng chính
của kinh doanh toàn cầu là các liên minh chiến lược, các chuỗi cung ứng, cuộc
cạnh tranh trên toàn cầu đã chuyển từ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sang
cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
cần liên kết lại tạo thành các chuỗi cung ứng cà phê theo tiêu chuẩn UTZ, 4C,
65
các chuỗi cung ứng gạo, hồ tiêu, thủy sản, dệt may… Không chỉ dừng lại ở đó,
cần tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia các chuỗi cung ứng khu
vực và toàn cầu, ví dụ: phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất săm lốp xe chất
lượng cao để gia nhập các chuỗi cung ứng ô tô toàn cầu.
3.3.1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tái cấu trúc lại nền kinh tế, ngành và các doanh nghiệp. Ở giác độ nền kinh
tế, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu, phát
triển nền kinh tế xanh, vừa thân thiện, vừa trong sạch và minh bạch. Ở giác độ
ngành, cần chống quan điểm tăng trưởng xuất khẩu bằng mọi giá, cần phát triển
xuất khẩu bền vững và hiệu quả. Cần chống bệnh thành tích, chạy theo những
con số - tốc độ tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu lớn. Ở giác độ doanh
nghiệp, tái cấu trúc là việc cần làm trước hết, cần thẳng thắn nhìn nhận: những
khó khăn mà chúng ta gặp phải không phải chỉ do yếu tố khách quan – do khủng
hoảng, mà còn do chính những yếu kém nội tại gây ra, vì vậy cần mạnh dạn
khắc phục yếu kém, tái cấu trúc, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh hoạt và
hiệu quả, sẵn sàng ứng phó trước những biến động của môi trường.
Tuy nhiên trong quá trình chuyển dịch, tái cơ cấu kinh tế, chúng ta cũng
cần phải chú ý hơn nữa đến thay đổi tư duy, hoạch định chiến lược phát triển
xuất khẩu ở các cấp theo hướng phát triển bền vững và hiệu quả. Giữa chiến
lược và cấu trúc có mối quan hệ mật thiết. Một chiến lược mới đòi hỏi phải có
một cấu trúc phù hợp và ngược lại, một khi tái cấu trúc lại thì phải có một chiến
lược mới tương thích. Gắn liền với tái cấu trúc phải chú trọng đến hoạch định
chiến lược, nói riêng và quản trị chiến lược, nói chung. Ở mọi cấp phải hoạch
định được những chiến lược khoa học, sao cho có thể nắm bắt được cơ hội, vượt
qua được thách thức, phát huy được điểm mạnh và khắc phục được điểm yếu..
Khi xây dựng chiến lược phát triển xuất khẩu cần chú ý: khả năng nắm bắt các
cơ hội trong tương lai chính là điều quyết định then chốt, vì chúng ta không thể
đón tương lai bằng những công cụ của quá khứ.
66
3.3.1.3 Đổi mới các chính sách hỗ trợ xuất khẩu
Để nâng cao năng lực xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp
nhằm tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư, xuất khẩu hàng hóa ra nước
ngoài, cụ thể:
Nhà nước cần sớm ban hành chính sách và cơ chế xuất khẩu để
hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư, xuất khẩu vào các thị trường mới hoặc các thị
trường nhiều rủi ro. Tạo các thủ tục thuận lợi cho doanh nghiệp được vay
vốn hỗ trợ lãi suất để phát triển sản xuất, xuất khẩu đặc biệt đối với các
ngành hàng xuất khẩu chủ lực gồm thủy sản, gạo, cà phê, dệt may, da
giày, sản phẩm gỗ.
Xem xét giãn thời gian nộp thuế nhập khẩu các mặt hàng nguyên
liệu, đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Nhà nước nên đẩy mạnh cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy
đầu tư ra nước ngoài và buôn bán quốc tế, nhất là đầu tư vào những nước
có tiềm năng sản xuất hàng hóa không chỉ phục vụ thị trường nước sở tại
mà còn xuất khẩu ra thị trường thế giới, nhằm tạo ra bộ phận kinh tế mềm
của nước ta ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần xây dựng bộ cơ sở dữ liệu thống nhất và đầy
đủ về các doanh nghiệp Việt Nam nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tìm
hiểu thông tin về các đối tác và (hoặc) các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội để
tìm hiểu nguồn thông tin chính thống về các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó nâng
cao hiệu quả hoạt động phát triển kinh doanh trong nước cũng như quốc tế, đồng
thời giúp minh bạch hóa hệ thống thông tin doanh nghiệp.
3.3.1.4 Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Đa dạng hoá và chuyển hướng xuất khẩu sang những thị trường khác ít bị
ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế. Bên cạnh những thị trường truyền thống
như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,... các doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng thêm
67
các thị trường mới để tránh bị động và phụ thuộc vào các thị trường truyền
thống. Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công thương (2009) đánh giá thị trường
Australia, New Zealand, Ấn Độ và các nước Nam Á có tiềm năng đối với hàng
thuỷ sản và các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường
Trung Đông có triển vọng đối với hàng nông sản, thực phẩm và hàng gia dụng
xuất khẩu của nước ta. Thị trường Nam Mỹ có tiềm năng đối với hàng tiêu dùng
và hàng công nghiệp của Việt Nam. Thị trường Châu Phi gần đây nổi lên như
một thị trường rất có tiềm năng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam nên cần
chú trọng công tác xúc tiến thương mại vào thị trường này. Tuy nhiên việc khai
thác các thị trường mới cũng có nhiều khó khăn và rủi ro tiềm ẩn, vì vậy việc
nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, lựa chọn đối tác phù
hợp, có uy tín và có khả năng thanh toán là rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu. Hơn nữa, Chính phủ cũng cần có định hướng và chiến lược cụ
thể đối với từng thị trường và từng mặt hàng, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin
thương mại, và đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đối với các
thị trường có thể gặp rủi ro về thanh toán.
3.3.1.5 Chú trọng đến xúc tiến xuất khẩu
Xúc tiến xuất khẩu được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất
trong quá trình tiếp cận thị trường của sản phẩm xuất khẩu. Công tác xúc tiến
của Việt Nam những năm qua được đánh giá là tương đối hiệu quả. Các sự kiện
xúc tiến xuất khẩu cấp quốc gia được tổ chức ngày càng chuyên nghiệp hơn,
mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt
như hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế làm
giảm tính cạnh tranh. Do vậy, chúng ta cần phải đổi mới để nâng cao hơn nữa
hiệu quả của chính sách này trong đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam như sau :
Nâng cao hiệu quả và chất lượng của các chương trình xúc tiến thương
mại cấp quốc gia, ưu tiên việc tuyên truyền, tìm kiếm hợp đồng và khách
hàng lớn, lâu dài, tránh việc chỉ tập trung vào bán hàng trực tiếp tại các
hội chợ triển lãm. Tiến tới xây dựng tiêu chí và quy chế xây dựng gian
68
hàng chuẩn quốc gia trong các sự kiện xúc tiến xuất khẩu. Cải tiến công
tác xúc tiến thương mại, không làm diện rộng và tuyên truyền chung mà
cần làm sâu từng trọng điểm, chuyên ngành, chuyên đề sản phẩm. Nâng
cao khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường của các cơ quan đại
diện thương mại ở nước ngoài, các tổ chức xúc tiến thương mại cũng như
của các doanh nghiệp tham gia.
Thay đổi, đổi mới cách tiếp cận thị trường truyền thống như tổ chức các
đoàn đi khảo sát thị trường nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, giảm chi
phí. Nên áp dụng hình thức này với những thị trường mới, kinh tế chưa
phát triển, thiếu thông tin hoặc tháp tùng các đoàn cấp cao của nhà nước
đi công tác nước ngoài. Không nên tổ chức quá nhiều đoàn xúc tiến
thương mại theo cách tổ chức hội thảo giới thiệu tiềm năng, tìm hiểu cơ
hội giao thương vào một thị trường trong một khoảng thời gian quá gần
nhau vì nội dung mặt hàng giới thiệu của Việt Nam đa phần là giống nhau
(may mặc, giầy dép, nông sản, thủ công mỹ nghệ…). Nên kết hợp tham
gia triển lãm quốc tế tại nước sở tại nhiều hơn vì đây là cơ hội tốt để giao
lưu với khách hàng, giới thiệu hàng hóa Việt Nam, không chỉ có nước sở
tại mà còn có doanh nghiệp ở các nước khác tới tham dự.
Các chương trình xúc tiến thương mại cần phải được xây dựng ổn định
trước 1- 2 năm để các doanh nghiệp trong và nước ngoài biết trước, lập kế
hoạch chủ động tham gia. Ngoài ra, việc duyệt kinh phí các chương trình
xúc tiến thương mại hàng năm nên theo cơ chế “ mềm”, nghĩa là không
nhất thiết các chương trình phải được duyệt từ cuối năm trước, mà trong
năm nên có bổ sung cho phù hợp. Chương trình nào không kịp thực hiện
trong năm thì có thể chuyển sang năm sau, tránh việc buộc phải thực hiện
trước khi hết năm. Bộ Công thương cũng nên chủ động trao đổi với Bộ
Ngoại giao và Bộ Tài chính để sớm xác lập các cơ chế sử dụng kinh phí
dành cho các chương trình xúc tiến thương mại đối với các cơ quan đại
diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài.
69
Xem xét việc thiết lập mục giới thiệu năng lực sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp trên website của Bộ Công Thương, Cục Xúc tiến
Thương mại nhằm giới thiệu cho khách hàng quốc tế, khách hàng trong
nước cũng như cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài về doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả quảng bá hàng xuất khẩu Việt Nam.
Nâng cao năng lực của các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài là
công tác rất quan trọng, yêu cầu từng bước phải có chiến lược nâng cao
năng lực của đội ngũ tham tán, tùy viên thương mại. Thực hiện bằng cách
đào tạo chuyên môn hóa đội ngũ thay nhau làm công tác này, có chuyên
môn cao về hoạt động thương mại quốc tế, nắm rõ luật lệ chính sách
thương mại mang tính toàn cầu, ngoại ngữ giỏi. Do vậy, cần bổ sung thêm
lực lượng cán bộ ở các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài để có
thể có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát nhu cầu thị trường.
Tiếp tục triển khai thành lập các Trung tâm xúc tiến thương mại và giới
thiệu sản phẩm tại các thị trường trọng điểm để cung cấp thông tin hai
chiều cho các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp ở các nước sở
tại. Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh quốc gia và thương hiệu sản phẩm của
các doanh nghiệp Việt Nam. Các Trung tâm này giữ vai trò là cầu nối
giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp sở tại, là địa chỉ tin
cậy của Việt Nam với các cơ quan nhà nước, các hiệp hội, doanh nghiệp
Việt Nam tại các thị trường này.
Cần hoàn thiện và ban hành cơ chế tài chính ổn định cho hoạt động xúc
tiến thương mại, coi đây là nhiệm vụ trong tâm của công tác xúc tiến xuất
khẩu. Đây là cách thức hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn
tuân thủ theo các quy định của WTO là không hỗ trợ xuất khẩu một cách
trực tiếp. Hàng năm nhà nước cần phải cân đối một tỉ lệ ngân sách nhà
nước nhất định và ổn định cho hoạt động xúc tiến thương mại. Kinh phí
cần giao trực tiếp cho Bộ Công thương, cơ quan được nhà nước giao trách
nhiệm quản lý và điều hành hoạt động xúc tiến thương mại trên toàn quốc
70
nhằm tăng tính chủ động và đảm bảo việc điều hành kịp thời về thị
trường, mặt hàng xuất khẩu theo sự biến động liên tục của thực tiễn.
Nâng cao hiệu quả của các đoàn doanh nghiệp tháp tùng lãnh đạo Nhà
nước, Chính phủ … đi công tác nước ngoài. Cần sớm lập kế hoạch về
công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, chuẩn bị đầy đủ thông tin cần
thiết để có thể cung cấp cho đối tác một cách chính xác và hiệu quả
Cần kết hợp các hoạt động xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư và xúc
tiến du lịch trong các hoạt động mang tầm quốc gia tại các thị trường.
3.3.1.6 Phát triển nguồn nhân lực
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu đặt ra bức xúc, nhằm đáp
ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế. Trong các năm đổi mới, nguồn nhân lực nước ta có sự cải thiện đáng kể về
lượng và chất. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tác
động không nhỏ đến việc làm, thu nhập của người lao động và cũng cho thấy rõ
các tồn tại của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực nước ta đa số có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật thấp, việc làm thiếu bền vững, thích ứng chậm với sự biến
đổi của thị trường lao động trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, các phẩm chất
mới của nguồn nhân lực chưa được hình thành đầy đủ,… đã làm giảm hiệu quả
sử dụng nguồn nhân lực trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, phát
triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế có vai trò quan trọng đối
với việc tiếp tục thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Từ một số tình hình thực tế về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hậu khủng
hoảng kinh tế toàn cầu có một số khuyến nghị thúc đẩy phát triển nguồn nhân
lực sau đây:
Nhà nước cần có cơ chế nắm bắt thông tin và có chính sách hỗ trợ đào tạo
nguồn nhân lực kịp thời cho các ngành, vùng đang thiếu nghiêm trọng nhân lực,
cụ thể như các ngành dệt may, da giầy, xây dựng,… vùng kinh tế trọng điểm.
Đồng thời, có chính sách thuế hợp lý đối với các ngành sử dụng nhiều lao động
71
nhưng khả năng chi trả tiền lương thấp để các doanh nghiệp có điều kiện nâng
mức lương bình quân, nâng cao khả năng cạnh tranh về nhân lực trên thị trường
lao động.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu sống còn để đáp ứng yêu cầu
của phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, ngoài các giải pháp truyền thống (thu hút đầu tư cho nâng cấp
các cơ sở đào tạo, đào tạo giảng viên, đổi mới chương trình và phương pháp
giảng dạy, nâng cao chất lượng đầu vào…) cần thực hiện các biện pháp có tính
đột phá như: tạo nguồn đầu tư cho xây dựng hệ thống các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp, cơ sở dạy nghề đạt chuẩn quốc tế; xây dựng thương hiệu cho
các cơ sở đào tạo đạt chất lượng cao; thị trường hoá ở mức độ thích hợp đối với
sự nghiệp đào tạo, dạy nghề; hỗ trợ học sinh, sinh viên đi du học tại các nước
phát triển các ngành nghề thị trường lao động Việt Nam khan hiếm... Chú trọng
đào tạo nghề nghiệp đối với lao động nông thôn, lao động vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất dưới tác động của công nghiệp hoá, để đưa người lao động tái
hoà nhập thị trường lao động. Trên cơ sở đó, khơi mạch dòng cung ứng nguồn
nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động, đáp ứng nhu cầu theo ngành
nghề, cấp trình độ của các doanh nghiệp.
Nhà nước đầu tư xây dựng các trạm quan sát thị trường lao động, đầu tư kinh
phí cho điều tra thị trường lao động, nhằm đảm bảo cung ứng thông tin thị
trường lao động kịp thời, chính xác. Từ đó, góp phần điều chỉnh chính sách đào
tạo, dạy nghề phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Thông tin thị
trường lao động còn là cơ sở quan trọng để kết nối cung cầu lao động, thúc đẩy
phát triển nguồn nhân lực hiệu quả cho quá trình công nghiệp hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Mở cửa mạnh hơn thị trường lao động nước ta và có cơ chế kiểm soát hiệu
quả nhằm thu hút lao động chuyên môn, kỹ thuật cao của thị trường lao động
quốc tế vào làm việc và nâng cao quy mô xuất khẩu lao động. Đồng thời, nâng
72
cao khả năng cạnh tranh và kích thích phát triển nguồn nhân lực nước ta, không
những phạm vi quốc gia mà trên cả bình diện quốc tế.
Cải cách chính sách tiền lương hướng vào khuyến khích các doanh nghiệp áp
dụng các hình thức tiền lương linh hoạt, tiền lương được trả theo đóng góp lao
động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và theo quan hệ thị
trường để nâng cao tính kích thích, cạnh tranh của tiền lương. Chính sách tiền
lương tối thiểu phải bình đẳng giữa các khu vực kinh tế nhằm loại bỏ những rào
cản hoạt động thông suốt của thị trường lao động. Tiền lương của người lao
động là một loại chi phí đặc biệt, đầu tư vào tiền lương phải được coi là đầu tư
cho nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển nguồn nhân
lực, khai thác các tiềm năng vốn nhân lực của doanh nghiệp.
Hoàn thiện và thúc đẩy thực hiện hiệu quả chính sách bảo hiểm xã hội, đặc
biệt là chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách hỗ trợ đào tạo mới, đào tạo
lại nghề nghiệp cho lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh
tế toàn cầu. . Bảo hiểm xã hội phải được thúc đẩy mở rộng, bao trùm với quy mô
ngày càng lớn đối với khu vực phi kết cấu, lao động nông nghiệp, nhằm đảm
bảo bình đẳng và cuộc sống an toàn cho tất cả những người lao động trong các
trường hợp mất thu nhập do các rủi ro, trong đó có rủi ro mất việc làm do tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
3.3.1.7 Nâng cao năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp phụ
trợ, các sản phẩm đầu vào quan trọng của hàng hoá xuất khẩu.
Hiện nay, hầu hết việc sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu chỉ dừng lại ở
mức độ gia công hàng xuất khẩu – là công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất,
trong khi nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào – là phần có khả năng tạo ra giá
trị lớn nhất thì chủ yếu phải nhập khẩu và chúng lại chiếm một tỷ trọng rất cao
trong các ngành sản xuất như : dệt may (70 – 80%), thép (60 – 80%), điện - điện
tử (97 - 98%). Thêm nữa, thời gian vừa qua, việc cung cấp các sản phẩm này từ
phía nước ngoài có khi bị gián đoạn do khủng hoảng tài chính toàn cầu, để chủ
động và tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn trong việc sản xuất hàng xuất khẩu, cần
73
ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng cao năng lực sản xuất các
yếu tố đầu vào từ sản phẩm thô sẵn có của mình. Đầu tiên, cần phát triển sản
xuất các loại sản phẩm công nghiệp phụ trợ có nhu cầu lớn, có ảnh hưởng nhiều
đến sản xuất trong nước như: sắt, thép, dầu khí, chi tiết linh kiện phức tạp của
công nghiệp ô tô, xe máy, điện tử dân dụng, vải sợi cao cấp và các phụ kiện cho
công nghiệp dệt may, giày dép. Tiếp theo, cần tập trung đổi mới công nghệ theo
hướng hiện đại hoá, mở rộng quy mô sản xuất cho các cơ sở nguyên liệu phụ
liệu có nhu cầu lớn như ngành công nghiệp sợi, dệt, chỉ khâu, khoá kéo, sản xuất
phôi thép và một số loại phụ kiên cho công nghiệp ô tô, xe máy.
3.3.1.8 Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng xuất
khẩu nhóm hàng thành phẩm, giảm xuất khẩu hàng thô và sơ chế
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có chỗ đứng quan trọng trên thị
trường thế giới, như dầu thô, may mặc, giầy dép, thủy sản, gạo, cà phê và đồ
gỗ... Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế, thể hiện ở cả
ba phương diện:
Chủng loại hàng hoá còn đơn điệu, chưa tích cực phát triển
những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch cao.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
công nghiệp hoá diễn ra còn chậm.
Các mặt hàng có giá trị gia tăng còn thấp.
Thực tế, xuất khẩu của chúng ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào tài nguyên thiên
nhiên, như khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy, hải sản… Các mặt
hàng công nghiệp như dệt may, giầy da, điện tử và linh kiện máy tính… thì lại
mang tính chất gia công là chính. Mặc dù cơ cấu hàng hoá xuất khẩu năm 2010
đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng công
nghiệp, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần
xuất khẩu hàng thô. Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến so với 2009 tăng
mạnh từ 63,4% lên 68,2%; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ 15,2%
74
xuống 11,1%; nhóm hàng nông sản thủy sản giảm từ 21,5% xuống 20,8%23.
Nhưng nhìn chung cơ cấu hàng xuất khẩu chưa được cải thiện đáng kể, sản
phẩm xuất khẩu vẫn là những ngành hàng sử dụng nhiều lao động, có giá trị gia
tăng thấp, tỷ trọng gia công và xuất thô còn quá cao nên hiệu quả kinh tế thấp.
Cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian tới cần được chuyển dịch theo hướng: giữ
vững tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao
(dệt may, giày dép); nâng cao kim ngạch, tỷ trọng xuất khẩu của cả nhóm hàng
xuất khẩu tiềm năng như sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm gỗ, nhưng đồng
thời giảm kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu thô đối với nhóm hàng nông – lâm -
thuỷ hải sản.
3.3.2 Giải pháp vi mô
3.3.2.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên cơ sở nâng
cao chất lượng, giảm chi phí. Các doanh nghiệp cần chú trọng quản lý chất
lượng sản phẩm, áp dụng các giải pháp tối ưu hóa để nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Luôn cập nhật thông tin, phân tích môi trường kinh doanh, tìm
ra những giải pháp thích hợp để có được lợi thế cạnh tranh bền vững liên tục
cung cấp cho thị trường những sản phẩm, dịch vụ, giá trị mà không đối thủ cạnh
tranh nào có thể cung cấp được. Hiện nay, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên có sẵn và lao động giá rẻ. Hiện nay,
những yêu cầu về hàng xuất khẩu của các thị trường như EU, Nhật Bản rất khắt
khe và thay đổi tùy từng thời điểm. Chúng ta cần phải chuyên nghiệp hóa sản
phẩm xuất khẩu ngay cả từ khâu đầu vào. Chẳng hạn, đối với mặt hàng nông
sản, cần nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, trước
mắt cũng như lâu dài cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, tạo ra
những giống có năng suất, chất lượng cao. Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến
bảo quản. Đối với mặt hàng thủy sản cần chăn nuôi theo đúng quy trình chuẩn,
23
75
đảm bảo chất lượng mặt hàng. Còn đối với những mặt hàng như giày dép và
may mặc, nên có một đội ngũ các chuyên gia thiết kế để thu hút các đối tác,
không nên để phụ thuộc họ về thiết kế và nguyên liệu đầu vào cho sản phẩm.
Một điểm nữa cũng cần lưu ý thêm, để nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng xuất khẩu, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất
khẩu được coi là yếu tố then chốt. Doanh nghiệp có tiếng vang trên thị trường
cũng là một nhân tố đảm bảo cho chất lượng của hàng xuất khẩu. Các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho nên
muốn tạo được tiếng vang, cần phải thành lập các hiệp hội. Qua đó, các thành
viên trong hiệp hội sẽ giảm sát lẫn nhau về chất lượng sản phẩm, quy trình chế
biến, giúp đỡ nhau về công nghệ sản xuất.
3.3.2.2 Đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại
Hiện nay, khó khăn lớn nhất của hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu là tìm
đầu ra cho sản phẩm, vì vậy các hỗ trợ của Chính phủ trong vấn đề này là đặc
biệt quan trọng. Các chương trình xúc tiến thương mại cần có sự điều chỉnh cả
về hình thức tổ chức và hệ thống các cơ quan tham gia theo hướng Nhà nước
nên tập trung vào các chương trình lớn, được nghiên cứu và tổ chức bài bản,
cũng như tập trung vào các thị trường lớn và nhiều tiềm năng. Hơn nữa, cần tăng
cường phối hợp giữa 3 cấp tham gia vào công tác này là: Chính phủ, các tổ chức
xúc tiến thương mại, và các doanh nghiệp xuất khẩu, lấy hợp tác và cạnh tranh
làm cơ sở nền tảng để hình thành và phát triển mạng lưới. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cũng cần chủ động hơn trong công tác này, không nên chỉ trông
chờ vào kinh phí và hỗ trợ từ phía Chính phủ. Bản thân các doanh nghiệp cũng
cần phải tích cực hơn nữa trong việc giới thiệu các sản phẩm của mình ra ngoài
thế giới và tìm kiếm các bạn hàng. Các doanh nghiệp cũng nên tự lập một quỹ
dành riêng cho hoạt động xúc tiến thương mại để có thể chủ động hơn trong việc
kinh doanh xuất khẩu hàng hóa
76
3.3.2.3 Phát triển nguồn nhân lực
Để góp phần giải quyết vấn đề nguồn nhân lực hiện nay, các doanh nghiệp
không thể chỉ trông chờ vào các chính sách của Nhà nước mà nên có những
bước đi độc lập trong việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, trình độ ngoại ngữ tốt đáp ứng được các yêu cầu của công tác xuất khẩu. Cụ
thể là :
Xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực xuất nhập khẩu
trong doanh nghiệp xuất khẩu.
Hoàn thiện công tác tuyển dụng.
Nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Cải thiện điều kiện lao động và nâng cao chất lượng môi trường
làm việc trong doanh nghiệp xuất khẩu.
3.3.2.4 Các chính sách khác
Để góp phần tháo dỡ khó khăn do thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các doanh
nghiệp cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu và dự báo thị trường để chủ động
trong sản xuất và xuất khẩu hàng hoá, cũng như đưa ra những chiến lược phù
hợp với tình hình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của đất nước.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp cần tập
trung nguồn lực vào đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến
kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tạo ra những
mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là gia công nên
hầu như không thu được gì ngoài phí gia công, vì vậy các doanh nghiệp xuất
khẩu nên chuyển hướng sang xuất khẩu theo điều kiện FOB hoặc CIF để có cơ
hội tăng doanh thu và lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ ngoại thương như: vận
tải quốc tế, kho vận quốc tế, bảo hiểm quốc tế, thanh toán quốc tế, quá cảnh
quốc tế và tái xuất khẩu.
77
KẾT LUẬN
Đối với Việt Nam, xuất khẩu giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh
tế. Doanh thu từ xuất khẩu là nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu và cho các hoạt
động phát triển đất nước. Hơn nữa, xuất khẩu cũng góp phần tích cực trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo ra công ăn việc
làm, ổn định cuộc sống của người dân.
Mặc dù cơn bão khủng hoảng cũng đã qua đi, nhưng những dư âm của nó thể
hiện qua những con số xuất khẩu của Việt Nam khiến chúng ta cần nhìn nhận và
đánh giá một cách khách quan những ưu điểm cũng như những tồn tại trong xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam. Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam sau khủng hoảng
đã có những mức tăng ấn tượng thể hiện được những nỗ lực của chính phủ trong
việc ban hành chính sách cũng như những cố gắng của bản thân các doanh
nghiệp xuất khẩu, nhưng cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng xuất khẩu của Việt
Nam vẫn còn tồn tại những yếu kém như xuất khẩu thô chiếm tỷ trọng lớn, cơ
cấu hàng xuất khẩu thiếu phong phú, chất lượng hàng xuất khẩu còn yếu kém,
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn của các thị trường nhập khẩu. Bài nghiên cứu
cũng đã đưa ra những dự báo cho xuất khẩu của Việt Nam trong các năm tới
cũng như đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam
Trong thời gian làm khóa luận, mặc dù em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình của giáo viên hướng dẫn cũng như đã hết sức cố gắng nhưng do kiến thức
của bản thân còn hạn chế cho nên bài nghiên cứu của em vẫn còn tồn tại rất
nhiều thiếu sót, mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô và bạn đọc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Công ty Cổ phần chứng khoán FPT (20/1/2009), Báo cáo thị trường
chứng khoán Việt Nam năm 2008.
2) Cục Xúc tiến thương mại Việt Nam (2009), Báo cáo xúc tiến xuất
khẩu 2009 – 2010, Nhà xuất bản Lao động.
3) Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam (11/2009),
Tài liệu thảo luận chính sách “ Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những
tác động dài hạn của nó đối với Việt Nam”.
4) Nguyễn Minh Đức (4/2010), Một số thuận lợi và khó khăn của xuất
khẩu Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới, Hội thảo “ Cơ hội và thách
thức của Việt Nam sau khủng hoảng” – Văn phòng Trung ương Đảng và Đại
học Mở.
5) Nguyễn Văn Giàu (2009), Chính sách tiền tệ đối với ổn định và phát
triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế thế giới, Tạp chí Ngân hàng số 17/2009.
6) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nghiên cứu và trao đổi: Khủng
hoảng tài chính toàn cầu: Tác động, biện pháp và dự báo.
7) Lê Hồng Nhật (2009), Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho
Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế và kinh doanh
25 ( 2009) 207-216.
8) Đoàn Thị Hồng Vân (12/2009), Tái cấu trúc kinh tế thời hậu khủng
hoảng, PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 2 - Tháng 12/2009.
9) Đỗ Văn Tính, Vấn đề khủng hoảng kinh tế Mỹ,
10) Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2009, Nhà xuất bản
thống kê.
11) Tổng cục thống kê (2010), Trị giá xuất, nhập khẩu phân theo nước
và vùng lãnh thổ chủ yếu sơ bộ năm 2010, Số liệu chuyên đề
12) Phạm Quốc Trung – Phạm Thị Túy (3/2011), Khủng hoảng kinh tế
thế giới – Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia.
13) Website Bách khoa toàn thư mở
14) Website Tổng cục thống kê Việt Nam
15) Website Tổng cục Hải quan Việt Nam www.customs.gov.vn/
16) Chuyên trang của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
www.chongbanphagia.vn
17) Website
economic-plight
18) Website ngân hàng thế giới : www. worldbank.org
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kha_lu_n_0984.pdf