Cơ quan BHXH Việt nam cần phối hợp với một số cơ quan ban ngành có chức
năng nhằm tăng cường công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi hơn nữa về quyền lợi và
trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, trước hết đối với các đơn vị sử dụng lao động, để
có sự nhận thức đúng đắn khi tham gia BHXH của cả chủ sử dụng lao động và người lao
động.
61 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2400 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu Bảo hiểm xav hội hiệu quả ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm là do có một số Nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do có sự thay đổi trong chính sách, sự quan tâm của các cấp chính quyền đoàn thể, và
sự đôn đốc của các cán bộ chuyên thu làm cho số thu BHXH từ các đơn vị sử dụng lao
động ngày một đợc triệt để hơn.
- Do đối tợng tham gia BHXH ngày càng đợc mở rộng phạm vi áp dụng qua các năm
nh năm 1997 số lao động tham gia tăng lên gần 3.560 nghìn ngời, năm Năm 2000 số ngời
tham gia là 4.246 nghìn ngời năm 2001 số ngời tham gia là 4.476 nghìn ngời. Năm 2003
do thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 về việc sửa đổi bổ sung, sửa
đổi một số điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của
Chính phủ nên số lao động tham gia BHXH tăng lên 542.598 ngời do đó số thu của năm
2003 có mức thu cao đột biến so với các năm khác...
- Do sự thay đổi về mức tiền lơng tối thiểu của Chính phủ làm cho số thu BHXH tăng
lên nh năm 2000 điều chỉnh mức lơng tăng lên là 144.000 đồng/tháng lên đến 180.000
đồng/tháng, năm 2001 mức lơng đợc điều chỉnh lên đến mức lơng tối thiểu là 210.000
đồng/tháng đến năm 2003 mức lơng tối thiểu lại đợc điều chỉnh tăng từ 210.000
đồng/tháng lên đến 290.000 đồng/tháng cũng làm cho mức lơng làm căn cứ đóng BHXH
của ngời lao động cao hơn, mức phí sinh hoạt của cán bộ xã phờng, cán bộ công chức hoặc
những ngời làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp cũng tăng lên .
- Đặc biệt là năm 2002 khi có quyết định số 20/2002/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ
ngày 24/01/2002 quyết định chuyển BHYT sang BHXH Việt nam, đến năm 2003 thực
hiện quyết định này cơ quan BHXH Việt nam chính thức thu nộp BHXH và BHYT điều
này cũng góp phần làm tăng quỹ BHXH cho năm 2003.
- Do điều kinh tế ngày càng phát triển, trình độ hiểu biết về tham gia BHXH có lợi cho
mình và gia đình mình nh thế nào do đó ý thức tham gia BHXH để bảo vệ quyền và nghĩa
vụ của mình ngày càng đợc ngời dân hởng ứng tham gia nhiều hơn… Hơn nữa khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh cũng phát triển thuận lợi, mức lơng bình quân của ngời lao động
trong khu vực này tăng lên nhanh chóng làm cho mức đóng BHXH cũng tăng theo do đó
mà quỹ BHXH đã tăng lên.
- Từ những số liệu bảng 5 cho thấy, số lợng đối tợng tham gia BHXH bắt buộc vẫn còn
hạn hẹp hơn nữa tốc độ tăng trởng của số lợng ngời tham gia BHXH tăng không đều và có
xu hớng giảm dần điều này phần nào đã nói lên rằng cơ quan BHXH và các ban ngành
chức năng còn buông lỏng trong công tác quản lý đốc thu các cơ quan đơn vị sử dụng lao
động trong việc kê khai đăng kí tham gia BHXH cho NLĐ, cha thực hiện tốt công tác
động viên tuyên truyền và bắt buộc ngời lao động thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH.
Nếu đến hết năm 2004 số ngời tham gia BHXH mới chiếm khoảng 14% lực lợng lao động
xã hội dân số cả nớc điều này đã ảnh hởng không nhỏ đến việc gia tăng quỹ BHXH.
Kết thúc năm 2004 toàn ngành BHXH Việt nam đã thu đạt 102,4% tăng trên 300 tỷ
đồng so với kế hoạch đợc giao, số lao động tham gia BHXH tăng gần 8% so với năm 2003.
Bên cạnh những mặt đã đạt đợc nh trên thì công tác thu quỹ BHXH cũng còn một số
tồn tại:
v Tình hình nợ đọng BHXH. Tình hình nợ đọng BHXH của các đơn vị tham gia
BHXH khá phổ biến và với số tiền rất lớn. Đây là một trong những vấn đề tồn tại nhất
trong công tác thu BHXH, nợ đọng BHXH ở nhiều đơn vị tham gia BHXH ở các ngành,
các cấp các đơn vị sử dụng lao động. Số nợ tiền đóng BHXH ở các cơ quan đơn vị này
ngày càng tăng đặc biệt từ khi nớc ta chuyển đổi nền kinh tế thị trờng và thực hiện Nghị
định 12/CP của thủ tớng Chính phủ về việc mở rộng đối tợng tham gia ra đến các thành
phần kinh tế thì số lợng ngời tham gia BHXH không ngừng tăng lên nhng kéo theo đó thì
số nợ, trốn đóng BHXH của các doanh nghiệp kể cả trong và ngoài quốc doanh luôn tăng
lên. Tính đến cuối tháng 6 năm 2004, số tiền nợ đọng mà BHXH phải thu là 562,723 tỷ
đồng và đến hết năm 2004 số tiền nợ đọng là 578,624 tỷ đồng. Dới đây là bảng số liệu
thống kê tình hình nợ đọng BHXH qua các năm (2000- 2004)
Bảng6: Tình hình nợ đọng BHXH qua các năm.
(Nguồn: Vụ BHXH Việt nam)
Qua số liệu bảng 6 cho thấy, đến hết năm 2004 số tiền nợ đọng BHXH là 578,624 tỷ
đồng. Đây là số tiền rất lớn mà cơ quan BHXH cần phải có biện pháp, kế hoạch thu nhằm
đảm bảo cho nguồn quỹ BHXH có khả năng thực hiện tốt hơn nữa các chế độ chi trả
BHXH cho NLĐ.
v Đặc biệt, có hai ngành nợ đọng BHXH với số tiền nhiều nhất là ngành Giao thông
vận tải và Tổng công ty Cà Phê Việt nam trong đó:
+ Ngành Giao thông vận tải tính đến hết năm 2004 số tiền nợ đọng lên đến 41,72 tỷ
đồng. Chính do các doanh nghiệp ngành Giao thông vận tải nợ đọng BHXH nên đã xảy ta
tình trạng nhiều công nhân đến tuổi nghỉ chế độ đã không làm thủ tục đợc để về nghỉ chế
độ…
+ Tổng công ty Cà Phê Việt nam thì tính đến hết năm 2004 các doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Cà Phê Việt nam nợ BHXH 38 tỷ đồng.
Qua báo cáo của BHXH về tình hình nợ BHXH ở một số địa phơng nh: Hà Nội, Hải
Phòng, Ninh Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dơng … thì tình hình thất thu BHXH là
rất lớn, nợ đọng BHXH nhiều (nếu tính đến hết năm 2004 thì một số tỉnh) nh:
+ Hà Nội hiện còn nợ 53,689 tỷ đồng
+ Thành phố Hồ Chí Minh nợ 386,645 tỷ đồng
+ Tỉnh Bình Dơng nợ 49,039 tỷ đồng.
Ở Hải phòng nếu tính hết Quý IV năm 2003 khối doanh nghiệp Nhà nớc phải đóng
63,6 tỷ đồng, còn nợ hơn 9 tỷ đồng; các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài phải đóng
14,4 tỷ đồng còn nợ 830 triệu đồng, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nợ 1,2 tỷ
đồng, khối hành chính sự nghiệp, Đảng đoàn thể còn nợ hơn 405 triệu đồng, hợp tác xã
phải đóng 1,3 tỷ đồng còn nợ 47 triệu đồng. Sang đến hết năm 2004 Hải phòng nợ đọng
tiền đóng BHXH là 26,8 tỷ đồng
Ninh Bình tính đến hết năm 2004 số thu chỉ đạt 65,17% kế hoạch tổng số còn nợ
đọng BHXH lên đến 19,87 tỷ đồng.
Có tình trạng nợ đọng trên là do một số nguyên nhân sau:
- Một số doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh đã gặp phải những khó
khăn về vốn, thậm chí còn thua lỗ (nh Tổng Công ty Cà Phê Việt nam), vì thế không đủ
điều kiện để đóng BHXH cho ngời lao động.
- Một số các doanh nghiệp cố tình chiếm dụng quỹ đóng BHXH để quay vòng làm ăn,
mặc dù họ biết là phải chịu phạt nhng những doanh nghiệp này vẫn cố tình chiếm dụng và
chấp nhận chịu phạt. Có nhiều doanh nghiệp ban đầu chỉ là có ý định chiếm dụng quỹ
BHXH trong thời gian ngắn để khắc phục khó khăn hiện tại, nhng rồi nợ vẫn tăng lên đến
mức không có khả năng thanh toán. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô
sản xuất nhỏ, không ổn định kinh doanh kém hiệu quả, giá thành sản phẩm cao, thu nhập
của NLĐ thấp nên không có khả năng đóng BHXH.
- Nhận thức của NSDLĐ và ngời lao động về nghĩa vụ và quyền lợi đối với việc tham
gia BHXH cho ngời lao động còn hạn chế, cha nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
Nhà nớc về BHXH. Nhiều doanh nghệp ngoài quốc doanh cha có tổ chức công đoàn hoặc
có nhng hoạt động yếu kém vì thế mà cha bảo vệ đợc quyền lợi về BHXH cho ngời lao
động. Hơn nữa là NSDLĐ thờng đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận nên hàng đầu nên đã trốn
tránh trách nhiệm đóng BHXH theo đúng luật định, không quan tâm đến quyền lợi của
NLĐ.
v Về tổ chức thực hiện: cha có giải pháp tích cực để tăng nguồn thu và chống thất thu
quỹ. Cho đến năm 2000 thất thu do cha đóng tiền BHXH từ các đơn vị tham gia lao động
là khoảng 300 tỷ đồng chiếm 5,88% tổng thu năm 2000, năm 2001 thất thu là 325 tỷ đồng
chiếm 5,13% tổng thu năm 2001, tình trạng trốn đóng gian lận chiếm dụng tiền của ngời
lao động còn xảy ra ở nhiều loại hình doanh nghiệp…
v Cán bộ chuyên trách thu: cán bộ chuyên thu, đốc thu khi thực hiện nhiệm vụ của
mình đi kiểm tra đôn đốc việc thu nộp vẫn cha đợc kiên quyết trong các trờng hợp ngời sử
dụng khất nộp, chậm nộp. Nhiều cán bộ còn e dè, nể nang do quen biết từ trớc hoặc do
NSDLĐ là chỗ thân quen của mình nên thờng né tránh sự va chạm, đốc thúc thu nộp
BHXH, …
v Một số lĩnh vực về thông tin: Thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH
cho NLĐ và NSDLĐ cha rộng rãi, cha thờng xuyên. Cơ quan BHXH cha xây dựng đợc
mạng lới tuyên truyền viên để tuyên truyền sâu rộng đến từng cơ sở, đến từng cơ quan,
đơn vị về BHXH. Hơn nữa độ chính xác của thông tin tuyên truyền về BHXH phải chính
xác, dễ hiểu đối với NSDLĐ và NLĐ để khi nắm bắt đợc thông tin đó NSDLĐ không hiểu
sai về quy tắc làm việc hay các quy định liên quan đến BHXH.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động và chính sách BHXH cha thật
sâu rộng, ngời lao động cha nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia
BHXH nên gây ra nhiều trở ngại cho cán bộ thu BHXH. Có một số các đơn vị doanh
nghiệp còn lấy lý do nọ, kia để kéo dài thời gian thậm chí lãnh đạo cơ quan còn cố tình
không tiếp cán bộ thu BHXH nên cũng đã gây ức chế cho cán bộ thu BHXH mà hiện tại
vẫn cha tìm đợc biện pháp khắc phục tồn tại trên.
v Công tác quản lý thu và đốc thu: còn nhiều hạn chế, cha sâu sát tới từng cơ sở, cha
thờng xuyên đối chiếu số liệu với các đơn vị sử dụng lao động. Hơn nữa trình độ năng lực
cán bộ làm công tác thu BHXH không đồng đều, còn nhiều cán bộ cha đợc đào tạo chuyên
môn sâu về nghiệp vụ thu BHXH…
v Chế tài xử lý các vi phạm chính sách BHXH: cha đủ mạnh, đồng thời các cơ quan
chức năng nh Thanh tra Nhà nớc, Thanh tra lao động cha thờng xuyên thực hiện chức năng
thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện chính sách BHXH của các đơn vị.
v Hệ thống BHXH từ Trung ơng đến địa phơng: cha hình thành chiến lợc thu có
hiệu quả đáp ứng các yêu cầu mới của sự phát triển, khi mở rộng đối tợng tham gia BHXH.
Không ít địa phơng còn thụ động trong hoạt động đốc thu, thiếu các giải pháp trong việc
kết hợp các đơn vị liên quan trong địa phơng trong việc hoạt động này.
Cơ chế quản lý phối hợp giữa các ngành hữu quan để thực thi điều lệ BHXH cha
thật chặt chẽ trong quá trình đăng kí sử dụng lao động cha có quy định phải đăng kí tham
gia BHXH kèm theo.
v Các văn bản pháp lệnh: hệ thống chính sách BHXH thờng xuyên đợc bổ sung sửa
đổi, điều chỉnh theo quá trình thực tế phát sinh của tình hình kinh tế xã hội và theo điều
chỉnh của chính sách tiền lơng nên khối lợng văn bản pháp quy quá nhiều, nhiều văn bản
sửa đổi bổ sung… dẫn đến rất khó cho các cơ quan quản lý, ngời sử dụng lao động và
NLĐ hiểu và lắm vững chế độ, cập nhật thông tin chính sách BHXH để triển khai thực
hiện đúng quy định, cũng nh gây khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát theo dõi đánh giá
về tình hình và kế hoạch triển khai của các đơn vị thu BHXH. Hơn nữa còn có nhiều văn
bản còn chậm so với thời gian quy định thực hiện đến các cơ quan, đơn vị và NSDLĐ.
v Một số quy định về chế độ thu BHXH trong các văn bản quy định của BHXH:
còn bất cập, cha nhất quán, cha phù hợp với yêu cầu thực tế…
CHƠNG III
MỘT SỐKIẾN NGHỊ VÀGIẢI PHÁP NHẰMNÂNGCAOHIỆU QUẢCÔNGTÁC
THUBHXHỞVIỆT NAM
I. MỤC TIÊU, PHƠNG HỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH BHXH VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Mục tiêu của ngành BHXH Việt nam nói chung.
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nớc ta bớc vào thời kỳ đổi
mới, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của Nhà
nớc các đơn vị sản xuất kinh doanh phải tự hạch toán độc lập, phấn đấu đa đất nớc ta đến
năm 2020 trở thành nớc Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa… Đồng thời chủ trơng của Đảng
và Nhà nớc ta mở rộng BHXH đến mọi ngời lao động làm công ăn lơng để góp phần phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trớc yêu cầu đó, hoạt động BHXH (bao gồm cả BHYT)
ở Việt nam đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển. Sự phát triển này một mặt phải
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt nam, mặt khác phải tuân thủ thực
hiện đầy đủ các nguyên tắc và đảm bảo đúng bản chất của BHXH nhằm từng bớc hòa nhập
với sự phát triển trong lĩnh vực BHXH với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Do vậy
những định hớng chính cho chiến lợc phát triển BHXH ở Việt nam phải nhằm vào những
mục tiêu sau:
v Thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao động Quốc tế
ILO về các tiêu chuẩn tối thiểu cho các loại trợ cấp BHXH, cụ thể là bổ sung chế độ
BHXH thất nghiệp, sau đó phát triển thêm các chế độ chăm sóc sức khỏe cho ngời già.
v Mở rộng mạng lới BHXH trong phạm vi toàn xã hội theo hớng: mở rộng đối tợng
tham gia BHXH nhằm tiến tới BHXH cho mọi ngời lao động, có việc làm và có thu nhập
từ lao động: mở rộng BHYT đến toàn dân. Trớc mắt, phấn đầu đến năm 2010 có khoảng
12 triệu ngời tham gia BHXH, chiếm 22% lực lợng lao động xã hội; khoảng 60 triệu ngời
tham gia BHYT chiếm 70% dân số.
v Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi của ngời tham gia BHXH. Tăng nhanh
nguồn thu quỹ từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Thực hiện chi đúng, thu đủ và
kịp thời các chế độ BHXH hiện hành. Đặc biệt chú ý đến mức sống của ngời về hu gắn
liền với khả năng phát triển kinh tế chung của đất nớc.
v Quỹ BHXH đợc quản lý tập trung thống nhất và đợc hạch toán độc lập theo từng quỹ
thành phần. Giảm dần nguồn chi từ ngân sách Nhà nớc cho các đối tợng hởng từ trớc năm
1995, từng bớc điều chỉnh mối quan hệ thích hợp giữa mức đóng và quyền lợi đợc hởng
của từng chế độ BHXH nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH lâu dài.
v Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ ngành BHXH Việt nam theo hớng hiệu quả và
hiện đại nhằm đáp ứng sự phát triển của ngành và phục vụ tốt cho mọi ngời tham gia
BHXH đồng thời góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ BHXH
nói chung và cán bộ BHXH làm công tác thu đóng BHXH nói riêng.
v Hoàn thiện hệ thống pháp luật về các chính sách, chế dộ BHXH và đảm bảo đầy đủ
các điều kiện thực hiện hệ thống pháp luật này. Tuyên truyền sâu rộng và triển khai đa
pháp luật BHXH vào đời sống xã hội để thực sự trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi
công dân Việt nam và tạo lập lên tiêu chuẩn mức sống của xã hội Việt nam.
2. Mục tiêu của ban thu ngành BHXH nói riêng.
v BHXH việt nam là đơn vị hành chính sự nghiệp đặc thù, thực hiện nhiệm vụ quỹ
BHXH để chi trả cho ngời lao động, giảm gánh nặng chi BHXH cho ngân sách. Quỹ
BHXH thu vào hàng năm đợc quản lý tập trung tại cơ quan BHXH việt nam đã đóng góp
tích cực, tác động tốt đến ngời lao động và nền kinh tế đất nớc trong thời gian qua. Bớc
sang giai đoạn Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa của đất nớc, BHXH việt nam cùng với Bộ
Lao động – Thơng binh và Xã hội quyết tâm đa ngành BHXH đi lên đáp ứng nhu cầu đúng
đắn của ngời lao động, đa chính sách BHXH ở Việt nam trở thành một trong những chính
sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta. Góp phần vào mục tiêu xây dựng kinh tế - xã hội chung
của đất nớc, ban thu BHXH Việt nam cũng đặt ra những mục tiêu và phơng hớng cho
riêng mình trong thời gian tới.
(Nguồn BHXH Việt
nam)
Nh vậy từ số liệu bảng 7 cho thấy, mục tiêu của ban thu của ngành BHXH Việt nam
là phấn đấu đến hết năm 2005 số thu BHXH bắt buộc đạt đợc là 15.000 tỷ đồng với số
lợng ngời tham gia BHXH là 7000 nghìn ngời và đến năm 2010 số thu BHXH Việt nam là
32.500 tỷ đồng với số lợng ngời tham gia BHXH là 12000 nghìn ngời.
v Cố gắng nỗ lực, đoàn kết hơn nữa trong công việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ đợc giao.
Đồng thời không ngừng học hỏi, tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật về luật BHXH
nói chung và thực hiện tốt các chỉ thị thông t hớng dẫn của ban thu BHXH Việt nam nói
riêng để có phơng án kế hoạch thu đạt hiệu qủa cao trong công tác thu và đốc thu đóng
góp BHXH.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THU
QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM.
Qua thời gian nghiên cứu học tập tại trờng cùng với thời gian thực tập thực tế tại Vụ
BHXH thuộc Bộ lao động - Thơng binh và Xã hội, đợc sự hớng dẫn tận tình của toàn thể
cán bộ công chức trong cơ quan về phơng pháp, tình hình thực hiện nghiệp vụ về công tác
thu BHXH. Kết quả phân tích trong thời gian qua về công tác thu BHXH và vấn đề nợ
đọng BHXH cho thấy còn tồn tại rất nhiều những khó khăn. Chính những khó khăn, tồn tại
này gây ra nhiều cản trở, ảnh hởng rất lớn đến việc thực hiện triển, khai chính sách BHXH
ở Việt nam nói chung và cho ban thu BHXH nói riêng về vấn đề thu nộp và giải quyết nợ
đọng từ ngời tham gia BHXH. Để chính sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói
riêng đạt đợc kết quả hơn nữa thì cá nhân em có đa ra một số ý kiến của bản thân:
1. Một số kiến nghị đối với chính sách Nhà nớc về BHXH.
1.1 Tăng cờng sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nớc đến sự nghiệp BHXH
Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế xã hội đều cần đến sự chỉ đạo của Đảng và
Nhà nớc. Vì thế, để chính sách BHXH ở Việt nam đợc hoàn thiện hơn đáp ứng đợc yêu
cầu của ngời tham gia BHXH thì cũng không thể nằm ngoài phơng hớng hoạt động của
Nhà nớc và sự chỉ đạo của Đảng. Tăng cờng sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc ta
đến sự nghiệp BHXH ở Việt nam là một trong những nhân tố đáp ứng đợc mục tiêu của
ngành BHXH.
Mục tiêu của BHXH là phục vụ con ngời, vì lợi ích của số đông ngời lao động, từ
đó góp phần tăng trởng, phát triển kinh tế xã hội giữa vững thể chế chính trị của Đảng và
Nhà nớc. Đặc biệt BHXH ở Việt nam còn là một ngành mới còn non trẻ, các chế độ chính
sách về BHXH cha đợc hoàn chỉnh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện từng bớc, cơ chế
quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề cha hợp lý, chế tài xử phạt còn lỏng lẻo và
nhẹ. Theo Nhị định số 38/CP về xử phạt hành chính đố với lĩnh vực BHXH, mức phạt 2
triệu đồng cho tất cả các hành vi vi phạm pháp luật, đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên
môn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm pháp luật và Luật BHXH còn rờm rà cha sâu sát
cao, cha đa ra một số hành vi vi phạm cụ thể… chính vì lý do đó mà BHXH Việt nam rất
cần có sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nớc để ngành BHXH phát triển đúng hớng, thực hiện
đợc mục tiêu lâu dài của toàn ngành.
Để công tác thu BHXH có thể thực hiện đợc tốt hơn nữa: không có tình trạng thất
thu, không có tình trạng chiếm dụng quỹ hoặc sử dụng sai mục đích hoặc giảm tỷ lệ nợ
đọng trốn đóng nộp tiền BHXH… thì cần đợc các cấp uỷ Đảng chính quyền đa vào nghị
quyết, đợc cụ thể hoá vào nội dung nhiệm vụ cùng với phơng hớng sản xuất kinh doanh tại
đơn vị, đồng thời tạo mọi điều kiện để công tác thu BHXH đợc tiến hành một cách thuận
tiện, trớc hết mỗi cán bộ Đảng viên phải gơng mẫu thực hiện chính sách, chế độ BHXH.
Bởi chính sách BHXH khó có thể thực hiện tốt nếu chỉ có sự nỗ lực từ phía cơ quan
BHXH mà cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng chính quyền, cơ quan quản
lý Nhà nớc.
1.2 Bổ sung, ban hành và hoàn thiện Luật BHXH nhằm tạo sự thông thoáng trong
việc triển khai BHXH.
Một đất nớc không thể tồn tại nếu không có Luật pháp, một chính sách không thể
thực thi đợc khi mà không có các văn bản, thông t các quy định đặc biệt là các Luật để mọi
ngời tuân theo đồng thời là để cỡng chế những hành vi vi phạm nằm ngoài. BHXH ở nớc
ta do ra đời muộn lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nớc vừa trải qua hai cuộc kháng chiến
và đang trong quá trình xây dựng đất nớc tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Do vậy mà
BHXH ở Việt nam còn nhiều tồn tại đã gây không ít khó khăn cho việc thực hiện chính
sách BHXH nói chung và khó khăn cho công tác thu BHXH nói riêng. Mặc dù Pháp luật
hiện hành của luật BHXH căn cứ vào Nghị định số 38/CP để xử lý hành vi vi phạm của
NSDLĐ nhng vẫn còn thiếu nhiều hành vi của các đối tợng khác có liên qua đến nh: cơ
quan BHXH Việt nam không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ cho ngời tham
gia BHXH cha bị xử lý.
Vì vậy mà cần phải sớm ban hành và hoàn thiện hệ thống Luật BHXH để chính sách
BHXH đợc thực hiện đến mọi ngời dân. Hơn nữa khi Luật BHXH ra đời đợc hoàn thiện
theo một hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý và là căn cứ cơ bản đầu tiên để điều chỉnh các quan
hệ về lao động, đồng thời thực hiện chính sách BHXH nói chung và nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác thu BHXH cho toàn ngành chuyên thu nói riêng.
Nhìn chung, hệ thống văn bản pháp lý về BHXH từ khi có Bộ Luật lao động năm
1994 đã tạo nên hành lang pháp lý trong việc thực hiện chính sách BHXH. Các văn bản
này đã đảm bảo tính kế thừa những nội dung hợp lý chính sách trong các chính sách đã
ban hành và tính phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn giải quyết kịp thời các vấn đề
tồn tại, bức xúc trong việc thực hiện chính sách BHXH, góp phần nâng cao tính pháp chế
Xã hội chủ nghĩa và tạo cơ sở để phát triển luật BHXH trong thời gian tới. Từ đó nhằm
hình thành lên một chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mỗi ngời dân Việt nam góp
phần ổn định đới sống cho ngời tham gia BHXH. Do vậy, vấn đề: Phải nhanh chóng khắc
phục, giải quyết tình thế nhất thời trớc mắt mang tính đối phó vì luật BHXH ban hành hôm
nay không chỉ áp dụng giải quyết chế độ cho ngời lao động trớc đây đã công tác nghỉ hu
mà còn áp dụng cho cả hiện tại và tơng lai. Việc ban hành Luật BHXH sẽ làm tăng cờng
tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh công tác thu BHXH của các doanh
nghiệp. Đặc biệt là trong luật phải có điều khoản quy định về nghĩa vụ thu BHXH của
NSDLĐ và cơ quan BHXH trong việc thu nộp của ngời lao động, đồng thời chú trọng đến
các hình thức sử phạt nghiêm minh hơn đối với các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH.
Việc ban hành Luật BHXH sao cho tạo đợc sự bình đẳng giữa những ngời tham gia
BHXH và công bằng trong việc sử phạt những vi phạm. Sau khi ban hành Luật BHXH cần
phải thông báo thông tin cho các cơ quan doanh nghiệp và ngời tham gia BHXH đợc biết
để tránh tình trạng khi hỏi đến thì mới có Luật. Đồng thời phải đợc thực hiện thống nhất
và đồng bộ trong cả nớc do vậy Luật BHXH phải đợc xây dựng trên cơ sở phù hợp với sự
phát triển chung của xã hội để đảm bảo cho mọi ngời lao động ở bất cứ thành phần kinh tế
nào cũng đợc tham gia và thụ hởng những quyền lợi về BHXH.
1.3 Nhà nớc nên áp dụng việc thu nộp BHXH thông qua thu nộp thuế từ các doanh
nghiệp, đơn vị sử dụng lao động.
Nhà nớc nên áp dụng và cho phép Cơ quan BHXH Việt nam phối hợp với ban thu
thuế Nhà nớc yêu cầu đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong và ngoài quốc doanh
ngoài việc đăng kí kinh doanh phải đăng kí mã số thuế, đăng kí số ngời lao động và số
ngời lao động thay đổi thì phải thông báo cho cơ quan BHXH biết, cơ qua BHXH sẽ lập
danh sách và số thu chi tiết gửi ban thu thuế nhà nớc có trách nhiệm thu nộp. Hàng tháng,
quý và cuối năm các doanh nghiệp này phải nộp thuế cho cơ quan thuế Nhà nớc bao gồm
phải nộp cả số tiền đóng quỹ BHXH cho NSDLĐ và NLĐ thì cơ quan thuế mới chấp nhận
việc thu nộp này. Bởi nếu trong trờng hợp các cơ quan này không nộp thuế cho Nhà nớc
thì sẽ bị coi là vi phạm Pháp luật của nhà nớc và luật kinh doanh.
1.4 Nhà nớc tạo mọi điều kiện để cho các thành phần kinh tế phát triển.
Nhà nớc có tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển thì hiệu quả của công
tác thu BHXH mới đạt đợc kết quả tốt. Bởi lẽ, hiện nay BHXH đang đợc triển khai rộng
trên phạm vi là các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh và xu hớng hiện nay là
NLĐ làm việc trong khu vự ngoài quốc doanh đang gia tăng cho nên để có thể thu đợc
tiền đóng BHXH từ các đối tợng này thì chỉ khi các doanh nghiệp mà họ đang làm, làm ăn
phát triển và có lợi nhuận. Chính vì thế khi Nhà nớc tạo sự thông thoáng trong kinh doanh,
có sự định hớng kinh tế lớn và có chiến lợc phát triển cho các thành phần kinh tế này nh:
sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn để đầu t phát triển hay giảm thuế… thì khi đó các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mục tiêu lợi ích kinh tế của họ đáp ứng thì lục này họ sẽ
không ngần ngại đóng BHXH cho ngời lao động. Đây một trong những biện pháp kích cầu
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuật kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời là một
trong những biện pháp quan trọng để nâng cao số thu cho nguồn quỹ BHXH góp phần
giảm chi cho Ngân sách Nhà nớc.
1.5 Tăng cờng các biện pháp chế tài xử phạt đối với các trờng hợp vi phạm nghĩa vụ
thu nộp BHXH cho ngời lao động.
Chế tài xử phạt vi phạm BHXH theo Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính
phủ cha đủ mạnh để tác động hữu hiệu đến các doanh nghiệp vi phạm (hành vi trốn đóng,
gian lận, không trích nộp BHXH kịp thời…) các trờng hợp vi phạm nh vậy mức phạt
chung là 2 triệu đồng. Nếu cứ giữ mức phạt nh hiện nay thì quá thấp cho các doanh nghiệp
có số nợ đọng lên tới hàng trăm, hàng triệu đồng. Do vậy, Nhà nớc cần tăng cờng các biện
pháp chế tài đủ mạnh để có thể răn đe, cảnh cáo và phạt mạnh đối với các hành vi trốn
đóng, chậm nộp và cố tình trốn đóng BHXH.
Đây là một trong những biện pháp nhằm tăng cờng công tác pháp chế trong BHXH.
Hiện nay, trong các văn bản hiện hành Nhà nớc mới chỉ giao cho BHXH Việt Nam quyền
kiểm tra, quyền truy thu chứ cha giao quyền xử lý các trờng hợp vi phạm chính sách
BHXH nh nộp chậm hoặc không nộp, trốn nợ hoặc không đóng BHXH. Vì vậy để nâng
cao chế tài xử phạt và đảm bảo công bằng cho ngời tham gia BHXH và mức chịu trách
nhiệm cao nhất của các đơn vị nợ đọng thì lại quá thấp, ngày 16/4/2004 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 113/2004/NĐ - CP trong đó quy định xử phạt hành chính đối với hành
vi vi phạm pháp luật BHXH nhng mức phạt cao nhất mới chỉ có 20 triệu đồng bởi có
những doanh nghiệp nợ tiền đóng BHXH lên tới hàng tỷ đồng nh Tổng công ty Cà phê
Việt nam hoặc ngành Giao thông vận tải họ sẵn sàng chịu phạt để chiếm dụng số quỹ đóng
đó để quay vòng. Do vậy, nên chăng cần có các chế tài xử phạt nghiêm minh và nặng hơn
cho các mức nợ đọng và số tiền phạt hành chính có thể là cao hơn 20 triệu… Mức cao nhất
có thể là phạt hình sự đối với đối tợng trốn đóng tiền BHXH
Hơn nữa đó là cha kể đến tình trạng của các chế tài xử phạt các đối tợng vi phạm
quỹ đóng BHXH từ ngời tham gia BHXH. Bởi khi phát hiện ra cơ quan BHXH lại không
đợc quyền xử phạt mà chỉ là lập biên bản và gửi các cơ quan có thẩm quyền xử lý do vậy
mà tình trạng thất thu của quỹ BHXH ngày một tăng lên. Chính vì vậy nên chăng Nhà nớc
cần giao cho cơ quan BHXH Việt nam những biện pháp với tính cỡng chế mạnh… Để
nhằm thực hiện tốt vai trò của cơ quan BHXH Việt nam đó là đảm bảo quyền lợi cho ngời
lao động.
2. Một số kiến nghị đối với BHXH Việt nam.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống BHXH làm cho nó không những chỉ trở thành một
chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta thể hiện trình độ văn minh tiềm lực và sức mạnh
kinh tế mà còn trở thành trụ cột của mạng lới an sinh xã hội. Là chỗ dựa vững chắc cả về
vật chất lẫn tinh thần cho NLĐ khi họ tham gia đóng góp vào BHXH Việt nam.
v Mở rộng đối tợng tham gia BHXH tới mọi NLĐ thuộc các thành phần kinh tế:
BHXH Việt nam cần mở rộng đối tợng tham gia BHXH tới mọi ngời lao động trong bất cứ
ngành nghế nào thuộc thành phần kinh tế nào miễn là họ tham gia đóng góp đầy đủ vào
quỹ BHXH nh luật định. Từ đó mở rộng quỹ thu đóng BHXH để có thể thực hiện chính
sách BHXH ngày một tốt hơn. Cùng với việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH, Nhà nớc
ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện bởi cho đến nay thành phần lao động ở
nớc ta còn chiếm 80% là lao động làm nông nghiệp. Ngoài ra còn có thợ thủ công, ngời
buôn bán nhỏ… các đối tợng này chiếm đa số trong tổng số lao động nớc ta mà vẫn cha
đợc tham gia BHXH. Có mở rộng đối tợng tham gia BHXH thì mới đáp ứng đợc yêu cầu
quỹ BHXH dùng chi trả cho các chế độ BHXH nằm ngoài sự hỗ trợ của ngân sách Nhà
nớc vì lúc đó BHXH đã đợc thực hiện với một số lợng đông ngời tham gia đảm bảo đợc
quy luật số đông bù số ít trong bảo hiểm.
v Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong ngành BHXH Việt nam từ Trung
ơng đến địa phơng: Cơ quan BHXH cần chú trọng đến việc đào tạo nâng cao năng lực
quản lý của cán bộ trong ngành BHXH Việt nam về các nghiệp vụ thu chi, quản lí quỹ
thực hiện các chế độ chính sách BHXH đối với ngời lao động nhằm mục đích phục vụ tốt
nhất cho đối tợng tham gia BHXH. Để đẩy mạnh công tác thu BHXH cần phải ban hành
ngay các văn bản pháp Luật các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải tham gia BHXH
phải quy định rõ ràng các doanh nghiệp khi đăng kí kinh doanh phải tham gia BHXH cho
NLĐ thì mới cấp giấy phép đăng kí kinh doanh. Đồng thời phải chấp hành nghiêm chỉnh
việc đóng BHXH cho cơ quan BHXH có chức năng thẩm quyền nhằm tránh tình trạng
chậm nộp rồi dẫn đến nợ đọng quá nhiều và cuối cùng là không trả đợc làm cho quỹ
BHXH bị thất thu. Thờng xuyên tổ chức các lớp học và kiểm tra năng lực của cán bộ
nhằm nâng cao năng lực của cán bộ đồng thời không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các
nớc khác trên thế giới về triển khai thực hiện nghiệp vụ BHXH và thực hiện chính sách đó,
đặc biệt là phơng thức thu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thu nộp.
v Phải có chính sách nhằm thu hút các đối tợng tham gia BHXH giai đoạn từ nay
đến năm 2010. Trớc hết phải tổ chức thực hiện BHXH cho các đối tợng bắt buộc quy định
tại nghị định số 01/2003/NĐ - CP ngày 09/01/2003 và mở rộng phạm vi tham gia cho một
số đối tợng là lao động tự do… có nhu cầu và khả năng tham gia BHXH. Còn đối với
BHYT từ nay đến giai đoạn 2010 ngoài các đối tợng thuộc diện bắt buộc theo quy định
hiện hành, cần phải từng bớc mở rộng đối tợng tham gia BHYT bắt buộc cho một số đối
tợng nh học sinh, sinh viên, trẻ em dới 6 tuổi và những ngời tham gia BHYT bắt buộc
đồng thời thực hiện rộng rãi loại hình BHYT tự nguyện trong toàn xã hội. Mục đích là
nhằm tăng nguồn quỹ thu đóng BHXH để có thể trang trải cho các chế độ BHXH cần thiết.
v BHXH Việt nam cần có kế hoạch đa công nghệ thông tin vào việc quản lý quỹ
và quản lý thu BHXH. Bởi với số lợng đối tợng tham gia BHXH ngày một đợc mở rộng,
số tiền thu đóng góp ngày một lớn mặt khác đội ngũ cán bộ công chức của cơ quan chuyên
thu BHXH thì lại có hạn, chính vì thế mà cần có kế hoạch ứng dụng tin học vào nhằm
quản lý quỹ thu BHXH từ đối tợng tham gia BHXH đợc tốt hơn.
Hơn nữa, hiện nay vấn đề công nghệ thông tin đang đợc áp dụng mạnh mẽ vào công
tác quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế xã hội trong đời
sống kinh tế thị trờng. Mặc dù hiện nay cơ quan BHXH Việt nam đã đa hệ thống tin học
vào hoạt động nhng trình độ về tin học của đội ngũ cán bộ thì lại còn hạn chế cha khai thác
hết khả năng để áp dụng vào quản lý thu quỹ BHXH từ ngời tham gia BHXH. Chính vì
vậy mà ngành BHXH Việt nam cần có những chủ trơng kế hoạch để mở lớp đào tạo về tin
học cho các cán bộ chuyên trách nhằm nâng cao kĩ năng sử dụng tin học…
v Cần hoàn thiện hệ thống công tác thu BHXH thống nhất từ Trung ơng đến địa
phơng. Do quỹ BHXH đợc thu từ ngời tham gia BHXH (NLĐ, NSDLĐ và sự bù thiếu của
Nhà nớc) ngoài ra còn có từ nguồn đầu t quỹ nhằm sinh lời hoặc tiền thu phạt các doanh
nghiệp nợ đọng… Chính vì lẽ đó cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống công tác thu
BHXH nhằm đợc thống nhất từ cơ sở đến cấp tỉnh và Trung ơng với nguyên tắc hoạch
toán độc lập với Ngân sách Nhà nớc, cân đối thu chi.
v Cơ quan BHXH nên thiết lập đờng dây nóng: để có thể nắm bắt đợc thông tin,
nguyên vọng và nhu cầu từ ngời tham gia BHXH thì cơ quan BHXH nên thiết lập đờng
dây nóng (dờng dây liên lạc đến cơ quan BHXH) cho cơ quan BHXH Việt nam nói chung
và cho mỗi ban ngành trong cơ quan BHXH nói riêng nh ban thu BHXH, ban chi BHXH,
ban giải quyết các chế độ… để từ đó ngời lao động, ngời sử dụng lao động có thể chủ
động thông báo những thông tin cần thiết cho cơ quan BHXH góp phần làm cho cơ quan
BHXH lắm bắt kịp thời về đối tợng tham gia và tình hình hoạt động của các cơ sở tham
gia BHXH. Và ngợc lại có cơ quan BHXH cũng có thể giải giải đáp đợc những yêu cầu
thắc mắc từ phía ngời tham gia BHXH làm cho họ hiểu rõ hơn về bản chất của BHXH và
chính sách BHXH mà Đảng và Nhà nớc ta đã và đang tiến hành triển khai thực hiện đến
mọi ngời lao động.
v Hàng năm cơ quan BHXH có kế hoạch đi thanh tra, kiểm tra các cơ sở xản
xuất kinh doanh, các đơn vị có sử dụng lao động: cơ quan BHXH hàng năm cũng cần
phải có kế hoạch thanh tra, kiểm tra xem quá trình đăng kí kinh doanh có hợp lệ, xem xét
đối chiếu danh sách lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc có đợc ngời dụng lao
động đăng kí để đóng góp BHXH hay không và sự thay đổi số lợng ngời lao động tham
gia BHXH ở các cơ quan đơn vị có sử dụng lao động. Và qua khảo sát thực tế cơ quan
BHXH Việt nam sẽ có thêm đợc thông tin cũng nh nhu cầu của ngời tham gia BHXH. Từ
đó tạo lên sự gần gũi và làm cho ngời lao động hiểu thêm về chính sách BHXH mà họ
đang xây dựng cho tơng lai.
v Tăng cờng công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH: Công
tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH đến với từng ngời lao động và
ngời sử dụng lao động, đến các doanh nghiệp cũng là một điều rất cần thiết đối với ngành
BHXH Việt nam bởi một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng số ngời tham gia
BHXH còn ít, số tiền nợ đọng đóng BHXH nhiều… là do sự nhận thức, sự hiểu biết của
ngời lao động và chủ sử dụng lao động còn hạn chế. Đối với ngời lao động thì cha thấy
đợc quyền lợi tham gia BHXH sẽ mang lại cho họ sự yên tâm trong cuộc sống khi không
may có xảy ra rủi ro đối với họ hoặc khi về già họ sẽ đợc hởng quyền lợi về một số chế độ
phần nào bù đắp đợc nhu cầu cuộc sống của họ, còn đối với NSDLĐ thì tham gia BHXH
cho cả NLĐ và chính họ thì họ sẽ yên tâm trong sản xuất kinh doanh khi không may NLĐ
của họ gặp rủi ro… từ đó làm cho năng xuất lao động tăng lên.
Chính vì thế BHXH Việt nam cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền rộng
rãi về BHXH đến với từng đơn vị sử dụng lao động, đến từng doanh nghiệp và tới từng
ngời trong toàn xã hội nhằm góp phần hiểu biết của ngời dân về BHXH.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THU
BHXH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Về cán bộ chuyên quản, chuyên thu của ngành BHXH Việt nam.
ã Đối với cán bộ chuyên thu ở địa phơng, các cấp cơ sở :
+ Chủ động mở rộng đối tợng tham gia BHXH, trọng tâm là khu vực kinh tế ngoài
Nhà nớc, tổ chức tốt mạng lới thu BHXH ở các cấp cơ sở.
+ Xây dựng cơ chế phối hợp với các ban ngành, đoàn thể ở địa phơng để thực hiện tốt
chính sách BHXH đối với NLĐ. Chủ động đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thu nộp
BHXH nhất là những đơn vị cố tình vi phạm xử lý kịp thời nâng cao hiệu quả công tác
quản lý thu BHXH.
+ Đào tạo nâng cao chất lợng quản lý, chỉ đạo điều hành của cán bộ chuyên quản nhất
là cán bộ cấp huyện, thị, xã. Tăng cờng công tác kiểm tra hớng dẫn nghiệp vụ thu nộp
BHXH từ ngời tham gia tại BHXH tỉnh, thành phố và các đơn vị sử dụng lao động. Nhằm
thống nhất trong tổ chức thực hiện những quy định của BHXH Việt nam về lĩnh vực thu
cấp sổ BHXH, phiếu khám chữa bệnh, thẻ BHYT.
+ Tăng cờng công tác thông tin tuyên truyền về lĩnh vực thu BHXH với nhiều hình
thức phong phú, tăng tần suất thông tin đại chúng trên các phơng tiện có thể nh quảng cáo
thơng mại nhằm nâng cao nhận thức về chế độ chính sách BHXH đối với ngời lao động.
ã Đối với cán bộ chuyên thu ở Trung ơng:
+ Chủ động, tăng cờng quan hệ phối hợp công tác với BHXH các tỉnh thành phố trực
thuộc Trung ơng trong việc quản lý công tác thu nộp tiền BHXH.
+ Chỉ đạo, hớng dẫn nghiệp vụ đối với phòng thu BHXH các địa phơng thực hiện tốt
các quy định của BHXH Việt nam về lĩnh vực thu nộp cấp sổ BHXH, phiếu khám chữa
bệnh…
+ Phố hợp với các Bộ, ngành có liên quan hớng dẫn việc sử phạt đối với các đơn vị
chậm nộp tiền đóng BHXH theo quy định tại quyết định số 23/2003/QĐ-TTg ngày
02/01/2003 củ Thủ tớng chính phủ để địa phơng có căn cứ để thực hiện. Tích cực phối hợp
với các ban nghiệp vụ của BHXH Việt nam giải quyết kịp thời các chế độ BHXH đối với
ngời lao động.
+ Thực hiện quy định về phân công, phân nhiệm và lề lối làm việc của đơn vị để các
cán bộ công chức phát huy sự chủ động sáng tạo trong công việc đối với những lĩnh vực
đợc phân công phụ trách, nâng cao tinh thần trách nhiệm đồng thời thống nhất quan điểm
chỉ đạo ở các địa phơng.
+ Từng bớc hiện đại hoá công tác thu nộp BHXH bằng công nghệ thông tin, trang bị
các phơng tiện kĩ thuật hiện đại, tiên tiến để nâng cao chất lợng của công tác thu đóng góp
BHXH từ ngời tham gia BHXH.
2. Thực hiện tốt công tác thu đúng, thu đủ từ đối tợng tham gia BHXH.
2.1 Mở rộng phạm vi đối tợng tham gia.
Tính đến hiện nay cả nớc có khoảng 40 triệu lao động nhng BHXH Việt nam mới thực
hiện đợc công tác thu BHXH đối với 5,82 triệu ngời trong số 8 triệu ngời thuộc diện tham
gia BHXH theo loại hình bắt buộc. Còn có rất nhiều lao động làm trong các doanh nghiệp
sử dụng dới 10 lao động, lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay Nhà nớc đang có xu hớng cổ phần hoá các doanh nghiệp, phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nên có nhiều các doanh nghiệp liên doanh liên
kết doanh nghiệp ngoài Nhà nớc, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài… Do đó cần phải
mở rộng số ngời tham gia BHXH trong các thành phần kinh tề này thì mới gia tăng số
ngời tham gia BHXH. Vì vậy, trong tơng lai với sự ra đời của Bộ Luật BHXH nên quy
định mở rộng phạm vi đối tợng đến cả những cơ sở sản xuất có thuê mớn dới 10 lao động,
khu vực kinh tế có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên không phân biệt thành phần, khu
vực kinh tế. Điều đó vừa phù hợp với điều kinh tế xã hội khách quan vừa phù hợp với
nguyên tắc và quy luật của bảo hiểm đó là số đông bù số ít.
Để có thể thực hiện tốt việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH kể cả BHXH bắt buộc
lẫn BHXH tự nguyện thì một trong những biện pháp vô cùng quan trọng mà không thể
thiếu đợc, đó là công tác dân vận, vận động, công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến
thức về BHXH rộng rãi đến ngời dân nhằm nâng cao sự hiểu biết của họ khi tham gia
BHXH thì đợc quyền lợi và nghĩa vụ nh thế nào. Đồng thời tích cực vận động thêm các
đối tợng tham gia BHXH đối với ngời lao động đặc biệt là lao động ngoài quốc doanh
thông qua các tổ chức công đoàn, hiệp hội của đoàn thanh niên từ các cơ sở.
2.2 Hoàn thiện tốt phơng pháp thu đóng BHXH.
Để công tác thu đúng đối tợng, thu đủ số tiền từ ngời tham gia BHXH thì vấn đề hoàn
thiện tốt phơng pháp thu BHXH cần phải đợc xem xét một cách nghiêm túc và nhất quán
hơn nữa từ Trung ơng đến các cơ sở thu nộp:
Trớc tiên là phải yêu cầu NSDLĐ đăng ký danh sách lao động một cách chính xác kịp
thời nếu có sự thay đổi về lao động, về số lợng lao động (tăng giảm), mức lơng phải thông
báo ngay cho cơ quan BHXH bằng văn bản. Yêu cầu đơn vị sử dụng lao động tập hợp đầy
đủ mức đóng trớc khi nộp cho cơ quan BHXH sau đó đóng vào tài khoản của cơ quan
BHXH
Đối với những khiếu lại, tố cáo về công tác thu BHXH.
ã Yêu cầu đầu tiên đặt ra là cơ qua BHXH đặc biệt là cơ quan thu đóng BHXH cần phải
có kế hoạc đặt ra và chuẩn bị cho việc giải quyết khiếu lại, tố cáo, phải có sự lãnh đạo chặt
chẽ của cấp uỷ Đảng. Phải giải quyết các vụ việc ngay từ cơ sở, nơi phát sinh khiếu nại
thật chính xác, hợp lý có tình có nghĩa đồng thời không để đơn th dùn đẩy, vòng vo gây
bất bình trong nhân dân.
ã Việc tiếp nhận, phân loại xử lí đơn th là một trong những khâu quan trọng của quy
trình giải quyết khiếu lại, tố cáo. Do đó, việc xử lý đơn th phải thực hiện theo đúng quy
định của luật tố cáo, Nghị định số 67/1999/NĐ - CP của chính phủ và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
ã Tăng cờng học tập nghiên cứu tài liệu các văn bản quy phạm pháp luật, nắm vững
chuyên môn, nghiệp vụ và các chế độ, chính sách BHXH nhằm giải quyết các khiếu nại tố
cáo đúng chế độ, quy định, đầy đủ và nhanh chóng. Đây là một trong những việc làm hết
sức thiết thực và quan trong cho ngành BHXH để làm giảm đi những khiếu nại tố cáo từ
đó làm tăng tính năng của ngành BHXH đồng thời làm cho mọi ngời dân hiểu đợc rằng
chính sách BHXH thực sự là cần thiết đối với họ.
2.3 Hoàn thiện cơ chế thu và quản lý thu đóng góp BHXH.
Có thể nói rằng, cơ chế quản lý thu đóng BHXH là một khâu quyết định tới mức độ
hoàn thành nhiệm vụ thu đúng thu đủ, đóng góp vào quá trình hoàn thiện chính sách
BHXH. Do vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm của các ngành các cấp. Vì vậy, nhiệm vụ đặt
ra trong công tác hoàn thiên cơ chế thu BHXH:
ã Xây dựng bộ máy hoạt động vững mạnh của ngành BHXH Việt nam, là nội lực tác
động tích cực cho sự nghiệp phát triển BHXH trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc, muốn vậy phải thực hiện đồng bộ các nội dung:
- Kiện toàn bộ máy BHXH Việt nam từ Trung ơng đến địa phơng, nâng cao hiệu quả
hoạt động cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đồng thời không ngừng tổ chức thu BHXH theo
đợt để đạt kết quả cao.
- Phối hợp với trung tâm Công nghệ - Thông tin thực hiện chơng trình quản lý thu bằng
công nghệ thông tin thí điểm tại BHXH tỉnh Hà Nam, qua đó đúc kết kinh nghiệm để có
phơng thức quản lý phù hợp với điều kiện thực tiễn, làm cơ sở triển khai cho các bớc tiếp
theo.
- Cơ quan BHXH Việt nam nên xác định rõ chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm của từng
cấp, từng ngành, từng cán bộ chuyên thu và giao trách nhiệm cho các đơn vị đó giải quyết
xử lý trong phạm vi cho phép đồng thời thờng xuyên giám sát kết quả hoạt động của các
đơn vị trực thuộc mình quản lý.
- Cần phải đánh giá đúng mặt mạnh và những điểm yếu của tổ chức bộ máy, từ đó định
ra chiến lợc phát triển về nội lực.
- Cần phối hợp với văn phòng, trung tâm Công nghệ Thông tin tổ chức tập huấn nghiệp
vụ thu BHXH sau đó BHXH các tỉnh, thành phố cần phải tổ chức tập huấn nghiệp vụ hớng
dẫn thực hiện đối với BHXH các quận huyện và các đơn vị sử dụng lao động.
- Cần đào tạo cán bộ công chức, viên chức về nghiệp vụ lý luận chính trị, kiến thức
quản lý tài chính. Nhằm phát huy quyền dân chủ trong cơ quan đối với các tổ chức công
đoàn phụ nữ, thanh niên để tạo nên sức mạnh ở mỗi cấp.
ã Hoàn thiện công tác quản lý chế độ, chính sách: thực hiện cơ chế một cửa trong khâu
tiếp nhận, cần có những đổi mới về phơng pháp, công cụ quản lý trong công tác thu
BHXH. Đồng thời thực hiện quy định về phân công, phân nhiệm và lề lối làm việc của
đơn vị để các cán bộ, công chức phát huy sự chủ động sáng tạo trong công việc đối với
những lĩnh vực đợc phân công phụ trách, nâng cao tinh thần trách nhiệm đồng thời nhất
thống quan điểm chỉ đạo từ trên xuống.
ã BHXH Việt nam cần phải thờng xuyên tổ chức và phối hợp chặt chẽ với các ngành có
chức năng liên quan trong việc thanh tra kiểm tra việc thực hiện công tác thu BHXH ở các
cấp. Do đó cần quan tâm đến vấn đề nâng cao, đào tạo nghiệp vụ cán bộ và nhận thức đối
với cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, đào tạo lên những cán bộ có năng lực phẩm
chất chính trị vững vàng, giỏi về trình độ chuyên môn, đồng thời tạo nên cho họ có ý thức
kỷ luật và tinh thần trách nhiệm và khả năng thuyết phục cao.
3. Giải pháp nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng quỹ bảo hiểm.
Những năm gần đây nợ tiền thu BHXH đã có giảm rõ rệt do BHXH các tỉnh thành
phố tích cực đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH kịp thời, hạn chế nợ phát
sinh. Tuy d tiền nợ chủ yếu là những khoản nợ khó đòi của các doanh nghiệp đang trong
quá trình sắp xếp, chuyển đổi, phá sản hoặc nợ đọng do truy thu tiền đóng BHXH thấp hơn
ngạch bậc lơng quy định… Hơn nữa kế hoạch thu giao BHXH hàng năm tơng đối sát sao
với thực tế tại địa phơng đòi hỏi các tỉnh phải tăng cờng thu giảm nợ thì mới đạt chỉ tiêu
kế hoạch đợc giao. Do vậy mà vấn đề trốn nộp, nợ đọng tiền đóng BHXH từ các khối
doanh nghiệp cả trong và ngoài quốc doanh không chỉ là một vấn đề đơn thuần dễ giải
quyết mà trái lại đó là một vấn đề gây bức xúc nhất cho ngành BHXH Việt nam, cho cán
bộ chuyên thu BHXH hiện nay. Vì vậy, vấn đề trớc mắt là đòi hỏi phải có một giải pháp
mạnh, kiên quyết và đồng bộ từ Trung ơng đến địa phơng nhằm hạn chế tình trạng nợ
đọng đóng BHXH đồng thời là để nâng cao hiệu quả của công tác thu nộp BHXH ở Việt
nam.
v Cơ quan BHXH Việt nam cần phối hợp với một số cơ quan ban ngành có chức
năng nhằm tăng cờng công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi hơn nữa về quyền lợi và
trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, trớc hết đối với các đơn vị sử dụng lao động, để
có sự nhận thức đúng đắn khi tham gia BHXH của cả chủ sử dụng lao động và ngời lao
động.
v Cơ quan BHXH Việt nam cần đổi mới công tác thu BHXH trong đó tăng cờng công
tác đốc thu của cơ quan BHXH ở các địa phơng; Quản lý chặt chẽ và đầy đủ các đơn vị
thuộc diện đối tợng tham gia BHXH bắt buộc theo quy đinh của pháp luật. Thực hiện đầy
đủ kịp thời chế độ báo cáo và đề xuất đợc các giải pháp để xử lý có hiệu quả tình trạng
trốn đóng, nợ đọng BHXH. Cần có những biện pháp mạnh cho những trờng hợp cố tình
trốn đóng BHXH nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác thu BHXH.
v Cơ quan BHXH cần có quan điểm mềm dẻo xong cũng phải kiên quyết đối với
những doanh nghiệp nợ đọng, chậm nộp BHXH trong điều kiện các văn bản pháp quy của
Nhà nớc về triển khai cũng nh thực hiện chính sách BHXH cha thành Luật và những điều
đã thành luật thì lại cha đợc mạnh mẽ do đó biện pháp xử lý sai phạm trong trờng hợp này
cha triệt để. Xuất phát từ thực tế để có thể giảm bớt số nợ đọng trên tổng số quỹ và đôn
đốc đợc các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có thể nhanh chóng đóng tiền BHXH
thì trên cơ quan BHXH thờng nên tổ chức triển khai cho các cán bộ chuyên thu của mình
cùng một số cán bộ trong ngành khác có thể giải đáp đợc thắc mắc của ngời tham gia
BHXH cũng nh cung cấp tài liệu hớng dẫn thu nộp, đóng góp BHXH của ngời lao động để
từ đó có thể nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH.
v Tăng cờng tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thu nộp
BHXH của các doanh nghiệp. Đồng thời Nhà nớc phải trú trọng đến các hình thức xử phạt
nghiêm minh hơn đối với các doanh nghiệp, các Giám đốc doanh nghiệp có hành vi cố
tình trốn đóng BHXH, cần giao cho ngành BHXH những biện pháp chế tài đủ mạnh nh
phạt tiền với mức lãi xuất cao, đợc phép kiểm tra số d trên tài khoản của các doanh nghiệp,
đơn vị tại ngân hàng và yêu cầu chuyển thẳng tiền từ ngân hàng để nộp số tiền BHXH cho
cơ quan BHXH.
v Ngành Lao động – Thơng binh và Xã hội phối hợp với cơ quan BHXH các cấp tăng
cờng công tác kiểm tra, thanh tra để xử lý kịp thời các vi phạm về BHXH. Đồng thời trình
Quốc hội đa các điều khoản về thu nộp BHXH vào nội dung của luật doanh nghiệp, luật
phá sản doanh nghiệp. Các điều khoản này phải quy định rõ ràng thứ tự u tiên thanh toán
nộp BHXH trong hệ thống các khoản phải thanh toán của doanh nghiệp, để đảm bảo giải
quyết quyền lợi của ngời lao động trong doanh nghiệp.
Hoàn thiện chế tài xử lý vi phạm pháp luật BHXH: Theo quy định tại Nghị định số
113/2004/NĐ - CP ngày 16/4/2004, Bộ Lao động – Thơng binh và Xã hội đã dự thảo,
đang lấy ý kiến các Bộ, ngành thông t hớng dẫn xử lý hành vi vi phạm pháp luật BHXH.
Tuy nhiên, theo quy định tại nghị định này khi vi phạm luật BHXH chỉ bị xử phạt mức cao
nhất là 20 triệu đồng với mức phạt này các đơn vị nợ hàng trục tỷ đồng sẵn sàng chịu phạt
để không phải đóng BHXH. Do vậy cần phải bổ sung, sửa đổi một số hình phạt theo hớng
đủ mạnh để có thể ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm có hiệu quả hơn. Nh có thể quy
định mức nợ tối đa là bao nhiêu thì chịu mức phạt là 20 triệu đồng còn trên mức đó lại là
những hình phạt khác cao hơn… và mức phạt cao nhất có thể truy cứu trách nhiệm hình sự
nếu có hành vi vi phạm nghiêm trọng nh: chiếm dụng quỹ đóng BHXH thu đợc từ các bên
tham gia BHXH để sử dụng sai mục đích, hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng sai
tiền thu BHXH, mức phạt đối với cơ quan chức năng thực thi BHXH không đúng với quy
định của Luật BHXH….
4. Tăng cờng công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu quỹ BHXH.
Để nâng cao hiệu quả của công tác đóng góp BHXH thì cơ quan BHXH cũng cần
thờng xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu đóng góp nhằm
tránh tình trạng cán bộ chuyên thu của ngành BHXH Việt nam từ cấp Trung ơng đến cấp
cơ sở “lơ là” trong công việc, coi công việc chuyên thu và đốc thu là công việc chung của
đội ngũ đồng nghiệp trong cơ quan mình.
Tăng cờng công tác thanh tra, kiểm tra để tiến hành truy thu số tiền nợ đọng đối với
những đơn vị có số nợ đọng lớn.
Tăng cờng công tác thanh tra, kiểm tra việc đóng góp, trích nộp BHXH của các đơn
vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện ra những đối tợng gian lận hay trốn đóng BHXH cho
ngời lao động mà doanh nghiệp sử dụng. Để từ đó đa ra hình thức xử phạt thích đáng đối
với hành vi vi phạm pháp Luật về BHXH nhằm đem lại nguồn thu cho quỹ BHXH đợc
tăng lên và đảm bảo công bằng trong việc thực hiện chính sách BHXH.
KẾT LUẬN
BHXH ở Việt nam từ lâu đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống các
chính sách xã hội của Đảng và Nhà nớc ta. Với bản chất chăm lo cho một vòng đời ngời,
BHXH càng có ý nghĩa quan trọng và liên quan trực tiếp đến việc ổn đinh đời sống của
hàng triệu NLĐ và gia đình họ trong các trờng hợp ốm đau, thai sản, chế độ hu, TNLĐ
cũng nh sự ổn định của sự phát triển kinh tế đất nớc. Kể từ khi BHXH đợc thành lập
năm1945 đến nay BHXH đã tạo đợc sự an tâm và niềm tin vững chắc cho mọi tầng lớp lao
động. Tuy nhiên trong thực tế chính sách BHXH cha đợc nhất quán cao, sự hiểu biết của
ngời dân về BHXH cũng nh công tác tuyên truyền về BHXH cha đợc rộng khắp nên đối
tợng tham gia BHXH còn hạn chế nên đã gây không ít khó khăn cho việc tạo lập quỹ
BHXH và đặc biệt là cho công tác thu BHXH ở Việt nam nh hiện nay.
Với việc nghiên cứu đề tài: “Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác thu BHXH ở Việt nam” đã khẳng định tầm quan trọng của chính sách BHXH ở
Việt nam nói chung và sự không thể không thực hiện nghiêm túc trong công tác thu
BHXH nói riêng để hình thành nên nguồn quỹ BHXH nhằm đảm bảo việc thực hiện tốt
chính sách BHXH. Để công tác thu BHXH đạt kết quả cao hơn nữa, đề tài đã đa ra một số
kiến nghị đối với chính sách BHXH nói chung, đối với công tác thu đóng BHXH nói riêng
và đối với Nhà nớc nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt nam góp phần
ổn định đời sống cho NLĐ, giảm chi cho Ngân sách Nhà nớc.
Trên đây là toàn bộ kết quả nghiên cứu của em về đề tài mà em đã thực tập tại
Vụ BHXH thuộc Bộ lao động - Thơng binh và Xã hội, em xin chân thành cảm sự giúp đỡ
nhiệt tình của giáo viên hớng dẫn: Ths Nguyễn Thị Chính, các thầy cô giáo trong bộ môn
Bảo hiểm và cùng toàn thể cán bộ cơ quan đã giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu
của mình.
Với thời gian thực tập có hạn, trình độ lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận đợc sự góp ý, chỉ bảo của
các thầy cô giáo và các bạn để đề tài này đợc hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH hiệu quả ở Việt Nam.pdf