Đá là vĩnh cửu, là biểu tượng của sự sống ở trạng thái tĩnh” [21, tr. 270] nên
đá trong truyền thuyết dân gian người Việt cũng là hiện thân của sự trường tồn và
luôn ẩn chứa sự linh hoạt của những lớp nghĩa, luôn giấu kín sự sống động của các
mối quan hệ. Vì vậy, khám phá biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt
Nam không chỉ là hành trình nghiên cứu một biểu tượng, mà còn là một khởi đầu để
tìm hiểu về đời sống tâm linh của người dân Việt và truy nguyên lịch sử dân tộc từ
những sự kiện, nhân vật, vết cắt tín ngưỡng trong tác phẩm.
Trong phạm vi luận án tiến sĩ, với đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết
dân gian Việt Nam, chúng tôi đã tập trung để làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau:
1. Từ kết quả thống kê tư liệu, chúng tôi hệ thống hóa các công trình nghiên
cứu về biểu tượng và Đá trong tín ngưỡng/ văn học dân gian Việt Nam nhằm phác
họa sơ khởi tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến “biểu tượng đá trong
truyền thuyết dân gian Việt Nam” hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã chọn được
các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài (văn học dân gian, nhân học và văn hóa học)
và có những gợi ý thiết thực cho việc giải mã biểu tượng đá. Hơn thế nữa, chương
tổng quan cũng chỉ ra những khoảng trống và triển vọng của hướng nghiên cứu,
giúp chúng tôi khoanh vùng và xác lập hiệu quả những vấn đề khoa học cần giải
quyết.
177 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân dân
thờ phụng là gì/ ai? Thứ ba, đá được thờ tại miếu hiện nay (tức là đá được vớt lên
theo lời chỉ dẫn của đồng bóng năm 1886) có phải là đá trong truyền thuyết không?
Chúng tôi chỉ có câu trả lời từ người trông coi đền Thai Dương phu nhân cho hai
câu hỏi đầu tiên, đó là trong 3 năm (1883 – 1886), việc thờ phụng vẫn được nhân
dân duy trì và đối tượng thờ phụng là vị thần Thai Dương phu nhân. Còn với câu
hỏi thứ ba, điều ấy thật khó để chứng thực, song cũng như đá ở miếu Kì Thạch phu
nhân, niềm tin của quần chúng nhân dân mới là điều quan trọng. Chỉ niềm tin mới
đủ uy lực để khiến nhân dân tiếp tục hương khói trong suốt 3 năm dù đối tượng thờ
phụng (đá) đã không còn hiển hiện trên bàn thờ. Cũng chỉ niềm tin mới có thể lý
giải sự tin tưởng nhân dân giành cho lời báo của đồng bóng để vớt đá từ dưới sông
lên. Và niềm tin là điểm sáng duy nhất có thể gạt bỏ sự nghi hoặc của cộng đồng về
việc đá được vớt có thật là đá thiêng xưa để tiếp tục thờ phụng.
Chính bởi quãng thời gian 3 năm đá thiêng bị đổ xuống sông và nhân dân đơn
thuần thờ vị thần Thai Dương phu nhân đã chứng thực sức mạnh của niềm tin bởi lẽ
họ không còn đồng nhất đá và vị thần trú ngụ, nếu đá mất đi thì vị nữ thần vẫn có
thể an trú trong đền thờ. Đồng thời sự kiện trên cũng có khả năng là nguyên nhân
cho việc thờ đá ở đền Thai Dương phu nhân có sự rẽ hướng, để tín ngưỡng thờ mẫu
lấn át như hiện nay.
Đối với sự kiện năm 1886, nhân dân tổ chức vớt đá từ dưới sông lên, người
trông coi đền lý giải chính vị thần Thai Dương phu nhân đã đánh tiếng qua đồng
bóng và yêu cầu được trục vớt. Hành động này như một cách trả lại “thân xác” cho
vị thần và cầu mong vị thần tiếp tục phù hộ độ trì cho nhân dân. Tuy nhiên, chúng
tôi thiết nghĩ đó là một phương thức để phục hồi nguyên bản đối tượng thờ phụng
của đền và tăng tính thiêng cho vị thần Thai Dương phu nhân.
133
Thứ hai, đối với hình thức đá thờ tại miếu Kì Thạch phu nhân
Trong Đại Nam nhất thống chí: Thừa Thiên Phủ, văn bản truyền thuyết về Kì
Thạch phu nhân ghi chép: Đá thờ là “hai hòn đá vuông lớn bằng chiếc chiếu, sắc
xanh hơi trắng, mặt đá chạm hình thân người mặt thú, hai mươi cái tay, bốn cái
chân” [72, tr.80]. Hay văn bản trong Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, tảng đá
thờ được giới thiệu ngắn gọn: “Đó là một tảng đá không bình thường. Bề mặt tảng
đá là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chàm rất có giá trị” [14, tr. 96]. Chỉ duy
nhất trong bài viết “Sự tích nữ thần Kì Thạch phu nhân”, tảng đá thờ mới được Đào
Thái Hanh miêu tả cụ thể như sau:
“Tảng đá này màu đen, có hình dạng như nửa tấm bửng tròn, có đáy 1,20m, cao
0,90m, dày 0,23m, có chạm nhiều hình người và con vật. Các hình chạm chia làm hai
nhóm: phần trên, là một hình người hầu như trần truồng, ngồi trên tòa sen, chân xếp
bằng và tay đặt lên đầu gối; bên phải có một con thú kỳ lạ và vài hình phác họa về
người, với nét vẽ non nớt; về bên trái, có năm hình khắc đàn ông, đàn bà, con nít,
người cầm ly rượu, kẻ thổi sáo. Phần dưới cách với phần trên bằng một đường viền
được kẻ một cách thô sơ, có một đám người ăn mặc kín nửa người, hình như muốn
vươn lên bằng cách đưa những cánh tay lên, hướng về người ở giữa của phần trên. Có
khoảng hai mươi cái tay, mà bảy cái đeo vòng, có thể là tay đàn bà. Chân thì chỉ có
bốn. Cạnh con người kì dị ấy, bên phải có khắc chạm một người có ba mặt đứng cầm
cái chai, và một người nữa bị trói gô ngồi chồm hổm ở phía dưới, bên góc đối diện;
sau cùng, bên trái là một con voi lớn chổng đuôi lên trời” [38, tr. 145]
Chính Đào Thái Hanh đã khẳng định rằng: “Người ta có thể hiểu được trong
tư tưởng của người xưa, phần trên tượng trưng cho thiên đàng, phần dưới là trần
gian và địa ngục” [38, tr. 145]
Với những miêu tả chi tiết và hình dung của Đào Thái Hanh, chúng tôi hiểu rõ
hơn nỗi kinh hãi của ngư phủ/ ngư dân trong truyền thuyết bởi ngoài những nguyên
nhân chúng tôi đã đề cập đến ở mục 2.1. Tín ngưỡng thờ đá, ở đây vấn đề về các sự
vật được chạm khắc là quan trọng nhất. Khởi sinh cho nỗi sợ hữu hình vì họ không
thể nào lý giải sự vật được chạm nổi trên tảng đá là cái gì và được sử dụng cho mục
đích gì. Trong khi đó, có thể họ đã nhìn thấy tảng đá ở đền/ tháp/ chùa - nơi tôn
nghiêm của người Chăm. Thực tế, ngay trong văn bản của Đại Nam nhất thống chí:
134
Thừa Thiên phủ, sự miêu tả của tác giả rất chung chung và có khả năng tạo ra mạch
liên tưởng về quái vật, dễ gây sự sợ hãi: “mặt đá chạm hình thân người mặt thú, hai
mươi cái tay, bốn cái chân” [72, tr.80]. Điều này cho thấy dường như nỗi sợ hãi
cũng tồn tại trong chính người ghi chép văn bản, họ có sự trăn trở, băn khoăn về nét
dị thường ở sự vật. Vậy nên việc thờ phụng của ngư phủ là đương nhiên. Mãi đến
văn bản trong Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, việc định danh cho tảng đá mới
được xác lập: “một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chàm” [14, tr. 96]. Với việc gọi
tên cụ thể, tính kỳ lạ của sự vật được chạm khắc trên đá được giảm đi khá nhiều.
Trong bài viết, Đào Thái Hanh đưa vào một chú thích trích từ BEFEO XIV
1914; số 9, tr. 93: “Ông Arousseau có ghi là ở làng Thanh Phước, gần Huế, có một
tấm bửng chạm trổ của Chàm được xây vào trong tường của một ngôi chùa, thể hiện
cái cảnh tượng mà ai cũng biết của Bavana đang lay chuyển một hòn núi có Civa và
Pariati ngồi. Những bức chạm nổi tương tự như vậy, mới đây, cũng được tìm thấy ở
Champa và Cao Miên. Bức chạm ở Cao Miên ở tình trạng bảo quản rất là tốt” [38,
tr. 146]. Văn bản của Đào Thái Hanh đã giải mã được yếu tố quan trọng liên quan
đến các sự vật được chạm khắc trên tảng đá.
Từ chú thích trên và quá trình điền dã, chúng ta có cơ sở để khẳng định tảng
đá chạm nổi một cảnh trong thần thoại của Ấn Độ, một trong những yếu tố để xây
dựng thánh điển của Ấn Độ giáo [tôn giáo của người Chăm Bàlamôn là Ấn Độ giáo,
biểu thị rất rõ trong tục thờ linga và yoni – NTQH]. Song trong chú thích, một vài
cách gọi tên nhân vật của Đào Thái Hanh có thể chưa chính xác: quỷ vương Ravana
(Bavana), thần Shiva (vị thần sáng tạo và hủy diệt, có sức mạnh và quyền năng nhất
trong vũ trụ), nàng Parvati (người vợ của thần Shiva). Cảnh được chạm khắc trên
tảng đá trong truyền thuyết chính là cuộc đấu trí giữa quỷ vương Ravana và thần
Shiva trên đỉnh núi Kaisala.
Hơn thế nữa, ở chú thích của Đào Thái Hanh, tảng đá được cho là “xây vào
trong tường của một ngôi chùa ” [38, tr. 146]. Chúng tôi rất băn khoăn về chi tiết
này. Trong các văn bản của truyền thuyết về Kì Thạch phu nhân, phần lớn không có
chi tiết nào đề cập đến việc tảng đá được xây kết dính vào tường, và khi điền dã,
chúng tôi cũng nhận thấy tảng đá là đối tượng được đặt riêng để thờ, có thể di
chuyển được. “Ngôi chùa” trong chú thích có khả năng là sự nhầm lẫn của người
135
viết hoặc người dịch vì không gian và kiến trúc đền/ miếu/ chùa ở làng xã nhìn
chung không có sự khác biệt rõ rệt, ngoài đối tượng được thờ.
Lúc chúng tôi đến điền dã tại miếu và đặt câu hỏi về những sự vật được chạm
khắc trên đá thờ, người đang trông coi miếu Kì Thạch phu nhân không thể lý giải ý
nghĩa của những hình ảnh chạm nổi. Thực tế đã cho thấy xuất phát là một phù điêu
của người Chăm nhưng trong tín ngưỡng thờ cúng, ý nghĩa của hình ảnh chạm nổi
này không có giá trị cao, mặc dù phần nào minh chứng cho dấu ấn của văn hóa
Chăm trong đời sống tín ngưỡng của người Việt. Vậy, điều quan trọng chính là tính
linh thiêng của tảng đá/ vị thần trú ngụ trong đá hay nói cách khác là ở niềm tin của
người dân đặt vào nó.
Do đó, đá thờ trong truyền thuyết về Kì Thạch phu nhân và Thai Dương phu
nhân là điểm nối giữa hư (truyền thuyết, thần linh) và thực (tín ngưỡng, cuộc sống
đời thường). Vì thế, chỉ duy nhất sự tồn tại của đá thờ là đã đủ gây dựng và gia tăng
niềm tin của cộng đồng vào tín ngưỡng và truyền thuyết.
4.3.2. Hình thức thờ cúng
Trong các văn bản ghi chép, cả hai vị nữ thần, Thai Dương phu nhân và Kì
Thạch phu nhân, đều được nhà Nguyễn sắc phong nên việc tu sửa đền miếu và thờ
cúng rất được nhân dân chú trọng, hương khói tôn nghiêm.
Thứ nhất, việc tu sửa đền miếu
Miếu Thai Dương phu nhân trước kia được các văn bản truyền thuyết ghi chép
là “ngôi miếu cỏ phụng thờ” [37, tr. 173] hoặc là “một ngôi đền bằng tranh tre ở ấp
Đông Thái” [2, tr. 224], sau đó cũng đã được xây dựng khang trang hơn. Theo Phan
Thuận An, vào năm 1897, cửa biển Thuận An mới trổ ra, ngôi đền bị hư hỏng nên
vua Thành Thái đã cấp tiền để xây dựng một ngôi đền khác tại ấp Phú Ninh [địa
điểm hiện nay, ở đầu cầu Thuận An cũ – NTQH]. Đến năm 1947, trong chiến dịch
Tiêu thổ kháng chiến, ngôi đền bị hư hỏng nặng và mãi đến năm 2006, dân làng tự
nguyện đóng góp để xây dựng lại đền, lễ An vị mới được diễn ra (10/3/2006). Đền
hiện tại có khuôn viên khá rộng rãi, và khang trang. Song so với phần sân đền rất
rộng thì không gian điện thờ lại khá hẹp, chỉ có thể 2 – 3 người vào thắp hương một
lần. Người trông coi đền giải thích kiến trúc ấy nhằm phục vụ các dịp lễ tế tại đền
do ở thời điểm đó, rất đông quan khách và người dân về dự lễ. Kiến trúc chạm trổ
136
của đền Thai Dương phu nhân đã có sự ảnh hưởng từ những nét tín ngưỡng, văn
hóa khác trong không gian đền và điện thờ, ví dụ:
- Nóc mái có lưỡng long chầu lân.
- Bờ nóc đắp hình phụng múa.
- Vách hai bên phía ngoài của điện thờ có hình vẽ hai con hạc đứng trên lưng rùa.
- Trên hoành phi có hình ba ông: Phước, Lộc, Thọ.
[Xin xem ở phụ lục 2 - NTQH]
Tất cả những hình ảnh khiến đền Thai Dương phu nhân mang dáng dấp gần
giống với đình làng, cho nên không chỉ người đến thắp hương thấy băn khoăn mà
ngay cả những người trẻ ở làng cũng nhầm lẫn đền với đình làng. Những chi tiết
này phản ánh khuynh hướng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, của người Việt.
Trong một không gian đền thờ, họ có thể tích hợp rất nhiều vị thần để cùng thờ
phụng, đôi khi dẫn đến việc không biết mình thờ ai như Đinh Hồng Hải đã đề cập
đến trong Các vị thần hay nhiễu loạn không gian tôn nghiêm như trường hợp trên.
Miếu Kì Thạch phu nhân được Đào Thái Hanh miêu tả như sau: “Miếu ấy chỉ
làm bằng một gian, chỉ có một cổng vào nhìn ra sông Thanh Phước; chỉ có sơ sài
vài đồ thờ bằng gỗ: đèn, lư trầm, cổ bồng. Chúng được đặt trên một bàn thờ bằng
gạch xây. Ở phía trước có một cái bệ cũng bằng gạch, dùng để đặt một tảng đá dựa
vào tường” [38, tr. 144]. So với đền Thai Dương phu nhân, miếu Kì Thạch phu
nhân không có sự thay đổi về địa điểm tọa lạc và vẫn được giữ gần như nguyên
trạng từ trước đến giờ. Miếu nhỏ, nằm ở góc quanh của sông tạo cảm giác miếu lẩn
khuất, u tịnh giữa không gian cây xanh. Mặt miếu hướng về sông nên tầm nhìn từ
miếu khá rộng, thoáng. Phía trước miếu có một con đường nhỏ bao theo bờ sông,
người trông coi miếu bảo rằng ngày xưa hiếm người đi qua con đường đó, bởi
người dân sợ cái vía của Bà (vị thần Kì Thạch phu nhân). Người dân cũng không
dám bẻ cây hái lá trong khuôn viên của miếu vì họ sợ Bà quở phạt. Hiện nay, đồ thờ
trong miếu đầy đủ hơn và miếu cũng đã được tu bổ. Tuy nhiên, các chi tiết được
thêm vào trong không gian phía trước gian miếu dường như không gắn kết với tín
ngưỡng thờ đá mà dựa vào tâm lý của cộng đồng, ví dụ chạm vẽ hình nam thanh ở
tường trái/ phải của phía trước gian miếu như đang đứng hầu bà trong miếu. Sự lựa
chọn hình ảnh nam có liên quan đến quan niệm “trọng nam” ở một số làng xã [nữ
137
giới không được vào những nơi tôn nghiêm (đình làng/ điện thờ/), không được
đụng đến bàn thờ/ gian thờ tổ tiên – NTQH] và quan niệm không chính danh về việc
Bà thường thích nam giới hơn nữ giới [có thể âm - dương là nguyên khởi của quan
niệm này – NTQH].
Thứ hai, về việc thờ cúng và tế lễ
Trong khía cạnh này, các văn bản truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và
Kì Thạch phu nhân ghi chép rất sơ lược.
Đối với đền Thai Dương phu nhân: “Ngư dân trong vùng nghe đền linh thiêng
thường đến tế lễ” [87, tr. 173], “ngày tế hàng năm ở đây là 23 tháng Chạp âm lịch”
[2, tr. 225]. Đặc biệt, việc tế lễ ở đền Thai Dương còn có hình thức dùng người/ vật
để tế thần: “Hằng năm, tới lễ tế thần vào mùa rét, phải dùng một thiếu nữ làm vật hy
sinh để tế thần. Sau thấy hại đến sinh mạng người, bèn thay thế bằng một con bò, kỳ
tế tất có lễ giáng thần, gọi là Thai Dương thần nữ” [14, tr. 93]. Lễ tế Thai Dương
phu nhân được tổ chức hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch. Quá trình lễ tế
được giao cho làng tổ chức. Hiện nay, việc dùng vật để tế thần ở đền Thai Dương
phu nhân không còn nữa.
Đối với miếu Kì Thạch phu nhân: “Dân làng hằng năm tổ chức cúng vái và cứ
ba năm một lần thì tổ chức đua trải, cầu mong cho dân làng làm ăn thịnh vượng. Địa
điểm đua là quãng sông trước mặt miếu bà” [14, tr. 95]. Tế lễ vẫn được diễn ra hàng
năm cùng ngày với lễ tế ngài khai canh của làng Thanh Phước [ngài Thành hoàng
Phan Niệm, người theo vua Lê Thánh Tông vào Bình Chiêm đánh giặc - NTQH]:
ngày 22/6 âm lịch. Vì vậy, làng đứng ra lo việc tế lễ. Còn việc hương khói hàng
tháng tại miếu Kì Thạch phu nhân vào ngày rằm và 30, mùng 1 do người trông coi
miếu quản lý [kinh phí là khoản tiền các đoàn đến thắp hương tại miếu gửi lại cho
người trông coi. Đây là khoản tiền tùy tâm - NTQH].
Đua trải thường được tổ chức vào ngày 22/6 hoặc ngày vía 10/7 âm lịch. Ông
Phan Cà khẳng định rằng Bà rất thích đua trải, và ghe nào đem mâm trầu cau đến
trình Bà trước khi đua cũng được Bà độ trì, không về nhất, cũng về nhì. Sau khi
thắng giải, các đội thường đến báo tin, tạ ơn bà và vắt dải vải đỏ trên cây phía trước
miếu. Ngoài ra, xung quanh việc đua trải ở quãng sông trước miếu còn có rất nhiều
câu chuyện thần bí về sự hiển linh của Bà.
138
Hình thức thờ cúng ở đền Thai Dương phu nhân và miếu Kì Thạch phu nhân
có những đặc điểm sau:
Lễ tế Thai Dương phu nhân thường được tổ chức trong 4 ngày, kéo dài từ
ngày 20 đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, trong đó ngày 23 là chính lễ, sẽ có lễ rước
Bà từ đền thờ về đình làng để làm lễ tế. Dân gian Huế thường truyền tụng bài ca dao
mô tả các nghi thức Mộc dục (tắm tượng) và trang điểm cho pho tượng Bà tại đền
thờ như sau: Hai mươi làm tốt/ Hai mốt xỏ tai/ Hăm hai đeo hoa/ Hăm ba đưa về
(Hoặc: Hăm ba tế Giàn).
Lễ Mộc dục ở đền Thai Dương phu nhân có nét gần gũi với lễ tắm tượng của
người Chăm trong lễ cúng chính thức nữ thần Po Ina Nagar (lễ Cambur) vào tháng
9 lịch Chăm, lễ tục phổ biến trong tín ngưỡng thờ nữ thần. Tuy nhiên, dễ dàng nhận
ra vai trò của đá đã có sự thay đổi trong tín ngưỡng thờ cúng tại đền Thai Dương
phu nhân, bởi lẽ hình thức tế lễ rất gần với tín ngưỡng thờ nữ thần.
Ở miếu Kì Thạch phu nhân, người dân đến thắp hương thường cúng dường vải
lụa, “áo” cho tượng. Người trông coi mỗi tháng lại thay áo cho Bà một lần. Nếu
không được phép của người trông coi thì hầu hết những người đến thắp hương
không thể nào nhìn thấy những nét chạm nổi trên tảng đá. Người Chăm cũng có tục
cúng lễ các hiện vật (áo, váy, khăn trùm đầu, dây lưng,) và mặc y trang cho tượng
thần song việc đó chỉ diễn ra trong mỗi dịp cúng lễ, hội hè hàng năm và do Bà bóng
thực hiện. Trong Xứ trầm hương, nhận xét về việc thờ cúng hiện nay ở Tháp Bà tại
xứ Kaut Hara (Cù Huân) là Poh Nagar (hay Po Ino Nogar) [người Việt gọi là Thiên
Y A Na – NTQH], Quách Tấn đã cho rằng “Hình tượng nữ thần bằng đá xanh (sa
thạch), cao lớn, ngồi xếp bằng trên một bệ cao rộng cũng bằng đá sa thạch Y
phục chạm khắc như thường thấy ở các tượng thần của người Chăm Nét chạm trổ
cực kỳ tinh vi, vừa sắc sảo, vừa dịu dàng trông như người thật. Nhưng rất tiếc,
người Việt lấy sơn sơn mặt tượng, rồi vẻ mày, vẽ mặt một cách vụng về, lại choàng
vào thân nào cẩm bào đội lên đầu một chiếc ngọc miện, hoa hoè loè loẹt, trông như
một tượng gỗ, một tượng đất do thợ tay ngang tạo nên. Về mặt mỹ thuật thì bị giảm
sút, nhưng về mặt tinh thần thì lại gia tăng, vì tượng thần đã hoàn toàn Việt Nam
hoá, trông vào không còn chút dấu tích gì của Chiêm Thành” [75, tr. 171]. Chúng
tôi cũng đồng quan điểm, hành động mặc áo cho đá ở miếu Kì Thạch phu nhân là
139
một sự Việt hóa hình thức thờ cúng, bên cạnh việc luôn đặt một bát hương trước
tảng đá [điều này khác với tín ngưỡng của người Chăm – NTQH]. Y trang của đá
không có quy chuẩn, hầu hết hiện vật cúng lễ đều mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng
thờ mẫu (hầu đồng) ở Huế: áo choàng màu đỏ, có đính kim sa lấp lánh.
Vì vậy, có lẽ ở hình thức thờ cúng của đền Thai Dương phu nhân và miếu Kì
Thạch phu nhân hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu đã lấn át tín ngưỡng thờ Đá. Trong
khi đó, theo ghi chép của các văn bản truyền thuyết, tín ngưỡng ở vị trí trung tâm
của biểu tượng đá là tín ngưỡng thờ đá. Song qua thời gian, tín ngưỡng thờ đá đã bị
che lấp đi, người dân chỉ còn biết đến vị được thờ là Mẫu.
Tiểu kết chương 4
Qua khảo sát bản kể về Kì Thạch phu nhân và Thai Dương phu nhân, qua việc
phân tích cấu trúc các bản kể, di tích và các hình thức thờ cúng tại các di tích trên,
chúng tôi nhận thấy có sự đan xen chặt chẽ ở đây tín ngưỡng thờ đá và tín ngưỡng
thờ Mẫu của hai dân tộc Việt - Chăm. Là vùng đất mà người Chăm sinh sống trong
một thời gian dài trước khi người Việt xuất hiện, là vùng đất mà sự xen cư của hai tộc
người đã tồn tại trong một khoảng thời gian khá dài của lịch sử dân tộc, sự đan xen
tín ngưỡng nói riêng, văn hóa nói chung của hai tộc người Chăm - Việt là điều hiển
nhiên, tuy rằng, với độ lùi thời gian đáng kể, việc chỉ ra sự đan xen hoặc dấu vết ảnh
hưởng là không dễ dàng. Chúng tôi hy vọng rằng, sự khảo sát các bản kể, sự phân
tích bản kể trong mối quan hệ với bối cảnh diễn xướng của 2 truyền thuyết Kì Thạch
phu nhân và Thai Dương phu nhân bước đầu gợi ra được những biểu hiện của sự giao
thoa và mối quan hệ qua lại khá chặt chẽ của hai tộc người, và chính đặc điểm này đã
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, với tính phức tạp và
giá trị gợi mở sâu sắc của nó để hiểu về các vấn đề lịch sử - văn hóa - xã hội của vùng
đất địa đầu tiểu vùng Trung Trung bộ này, chúng tôi ý thức rõ rằng, truyền thuyết và
tín ngưỡng thờ đá của chỉ hai truyền thuyết chưa thể giải quyết được mà cần phải tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn trong các công trình chuyên khảo khác.
140
KẾT LUẬN
“Đá là vĩnh cửu, là biểu tượng của sự sống ở trạng thái tĩnh” [21, tr. 270] nên
đá trong truyền thuyết dân gian người Việt cũng là hiện thân của sự trường tồn và
luôn ẩn chứa sự linh hoạt của những lớp nghĩa, luôn giấu kín sự sống động của các
mối quan hệ. Vì vậy, khám phá biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt
Nam không chỉ là hành trình nghiên cứu một biểu tượng, mà còn là một khởi đầu để
tìm hiểu về đời sống tâm linh của người dân Việt và truy nguyên lịch sử dân tộc từ
những sự kiện, nhân vật, vết cắt tín ngưỡng trong tác phẩm.
Trong phạm vi luận án tiến sĩ, với đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết
dân gian Việt Nam, chúng tôi đã tập trung để làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau:
1. Từ kết quả thống kê tư liệu, chúng tôi hệ thống hóa các công trình nghiên
cứu về biểu tượng và Đá trong tín ngưỡng/ văn học dân gian Việt Nam nhằm phác
họa sơ khởi tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến “biểu tượng đá trong
truyền thuyết dân gian Việt Nam” hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã chọn được
các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài (văn học dân gian, nhân học và văn hóa học)
và có những gợi ý thiết thực cho việc giải mã biểu tượng đá. Hơn thế nữa, chương
tổng quan cũng chỉ ra những khoảng trống và triển vọng của hướng nghiên cứu,
giúp chúng tôi khoanh vùng và xác lập hiệu quả những vấn đề khoa học cần giải
quyết.
2. Phân tích các truyền thuyết dân gian có sử dụng biểu tượng đá từ góc độ
văn học dân gian và tự sự học ở các phương diện: giải mã lớp nghĩa, cấu trúc trần
thuật, chúng tôi có được những kết quả cụ thể sau:
- Thứ nhất, 4 lớp nghĩa (sự sống trong trạng thái tĩnh, sự tái sinh trong ngưỡng
vọng, sự hiện diện của thần linh và ý niệm chuyển vị) của đá là kết quả của chúng
tôi từ quá trình khảo sát và thống kê văn bản. Sự vay mượn tính chất và giá trị từ đá
của tác giả dân gian đã mở ra những trường nghĩa mới cho nhân vật của truyền
thuyết: tạo nguồn gốc thiên thần, sự kỳ vĩ trong hành trạng, và tượng đài bất tử của
cộng đồng. Đồng thời, cũng chính những nhân vật có liên quan đến đá đã quay
ngược trở lại, hình thành thêm những giá trị cho đá. Do đó, về phương diện lớp
nghĩa, đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam sở hữu sự biến thiên khá sống
141
động. Dựa vào hệ thống lớp nghĩa của đá mà Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đề
cập đến trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) và thực tế
khảo sát, sự so sánh đối chiếu hỗ trợ chúng tôi trong việc nhận diện điểm giống và
dị biệt của đá trong truyền thuyết/ văn hóa Việt với văn hóa nhân loại.
- Thứ hai, với cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể có sử dụng biểu tượng
đá, chúng tôi nhận ra đá có sự tương tác với các motif khác của truyền thuyết (giấc
mơ, hiển linh) để hình thành mạch kết cấu của truyện kể. Từ đó, đá góp phần
thiêng hóa nhân vật truyền thuyết bởi lẽ nhân vật không chỉ là báu vật trời ban, mà
còn là đứa con được hưởng ân đức của cả gia đình, dòng họ. Đá trong truyền
thuyết dân gian Việt Nam mang đậm màu sắc tâm linh, vừa là hiện thân của thần
linh vừa là yếu tố cấu thành không gian tâm linh của truyền thuyết. Đương nhiên,
với không gian tâm linh, đá được tác giả dân gian duy trì các tính chất đặc trưng,
nhằm tôn vinh nhân vật lịch sử.
3. Thông qua mối quan hệ giữa văn bản với di tích, tục thờ cúng, luận án đã
phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá của người Việt. Có
thể nói, qua thời gian, truyền thuyết dân gian Việt Nam đã minh chứng cho sự kết
hợp rất hài hòa của các tín ngưỡng và văn hóa khác trong biểu tượng đá. Từ cái gốc
là những quan niệm về giá trị biểu hiện của đá, truyền thuyết dân gian đã xây nên
những biểu tượng hàm chứa nhiều lớp nghĩa, vừa đúc kết vừa mở rộng các tầng
nghĩa của đá theo quan niệm người kể, vừa đan thoa, kết nối với các tín ngưỡng
khác (tín ngưỡng thờ Mẫu), của các dân tộc khác nhau (Việt-Chăm) để trở thành
phức thể mới có giá trị kiến tạo bản sắc của con người và vùng đất.
4. Trong luận án, với mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá,
chúng tôi đã nghiên cứu hai trường hợp: Kì Thạch phu nhân và Thai Dương phu
nhân. Kết quả của sự phân tích này gồm:
- Luận án đã làm rõ hơn mối quan hệ Việt - Chăm trong lịch sử dân tộc, cụ thể
là sự tiếp nhận tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ đá của văn hóa Chăm trong đời sống tâm
linh của người Việt. Ở đây, chúng tôi vừa dự cảm cách tiếp nhận vừa khẳng định
yếu tố Việt trong biểu tượng đá của truyền thuyết và hình thức thờ đá tại đền/ miếu.
- Luận án cũng đã chỉ ra sự lên ngôi của tín ngưỡng thờ Mẫu trong hình thức
thờ cúng và di tích đền Thai Dương phu nhân và miếu Kì Thạch phu nhân. Nghĩa là,
142
tín ngưỡng thờ đá bị che lấp đi, người dân chỉ còn biết đến vị được thờ là Mẫu, hay
nữ thần mà thôi.
5. Các vấn đề chưa thực hiện được trong luận án, chúng tôi hi vọng sẽ có điều
kiện để tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới:
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết với các thể loại văn
học dân gian khác của Việt Nam. Với đặc trưng riêng của mỗi thể loại, chúng tôi
cho rằng biểu tượng đá mang các giá trị và lớp nghĩa riêng. Trên cơ sở đó, cũng sẽ
nhận diện được sự đậm nhạt và biến chuyển trong mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ
đá với các thể loại khác của văn học dân gian.
- So sánh lớp nghĩa của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
với truyền thuyết của một số quốc gia khác ở Đông Nam Á và Châu Á. Đương
nhiên, xu hướng trên giải mã các lớp nghĩa giống/ khác nhau mà biểu tượng đá sở
hữu, không chỉ trong một thể loại văn học dân gian mà cả văn hóa. Điều này sẽ
chứng thực có sự giao thoa về tín ngưỡng thờ đá giữa Việt Nam với các nước
trong khu vực.
- Nghiên cứu trường hợp biểu tượng đá của Thai Dương phu nhân trong phạm
vi khu vực miền Trung, vì ở Huế hay Quảng Nam cũng có di tích mang tên miếu/
đền Thai Dương phu nhân. Đây là hướng nghiên cứu mang tính chất vùng miền có
khả năng soi chiếu được phạm vi lưu truyền của văn bản này, và góp phần khẳng
định sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm.
143
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Motif đá thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2015, Tạp chí Khoa học
công nghệ, Đại học Đà Nẵng, tập 95, số 10, tr. 40 – 44.
2. Motif vật hóa đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Bản tin Đại học
Huế, số 98, tr.103 - 106
3. Đá thiêng hiển linh trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, 2016, Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 3 (529), tr. 108 – 118.
4. Hình tượng ngọc trong truyền thuyết dân gian người Việt, 2016, Tạp chí Khoa
học (Đại học Huế), số 8 (122), tr.99 - 110.
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu văn bản
I. Tiếng Việt
1. Dương Văn An (1961), Ô Châu cận lục, NXB Văn hóa Á Châu.
2. Phan Thuận An (2008), Huế xưa và nay: di tích và danh thắng, NXB Thuận
Hóa, Huế.
3. Trần Thị An (1992), “Sự vận động của truyền thuyết về Mẫu qua những truyện
kể về Liễu Hạnh và truyền thuyết về nữ thần Chăm”, Tạp chí Văn học (5), tr.44
– 49.
4. Trần Thị An (1999), “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt”, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện Văn học,
Hà Nội, tr.732 - 759.
5. Trần Thị An (2001), “Truyền thuyết vùng Luy Lâu với tiến trình lịch sử dân
tộc”, Tạp chí Văn học (6), tr.24 – 30.
6. Trần Thị An (2008), “Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh nương
(qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)”, Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.
7. Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif –
Những khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 88 – 104.
8. Trần Thị An (2014), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân
gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Trần Thị An (2015), “Thích ứng với biển của người Việt – nhìn từ khía cạnh
sinh kế và tín ngưỡng thờ thần biển của cư dân ven biển (Khảo sát từ một số
cộng đồng ngư dân ven biển Bắc Trung Bộ, Việt Nam)”, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 6, tr.3-14.
10. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Văn hóa dân gian
(2), tr.32 - 40.
11. Đào Duy Anh (1942), “Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta”, Tạp chí Tri
Tân (30), tr.2 - 4.
12. Nguyễn Sơn Anh (2005), Truyền thuyết Lam Sơn, NXB Thanh Hóa, Thanh Hóa.
145
13. Phan Điệp Anh (1986), “Truyền thuyết Hùng Vương”, Tạp chí Văn hóa dân
gian (1), tr. 73.
14. Tôn Thất Bình (chủ biên) (1998), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
15. Nguyễn Huy Bỉnh (2004), “Truyền thuyết về Thủy thần ở Thuận Thành, Bắc
Ninh”, Thông báo Văn hóa dân gian, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Huy Bỉnh (2009), “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự
nhiên”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (4), tr.90-104.
17. Nguyễn Huy Bỉnh (2013), “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ
với tín ngưỡng thờ đá”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr. 24 – 31.
18. Lévy Bruhl (2008), Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy,
NXB Thế giới, Hà Nội.
19. Leopold Cadiere (2010) Văn hóa tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người
Việt, tập II (Đỗ Trinh Huệ dịch), NXB Thuận Hóa.
20. Võ Phúc Châu (2010), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống
Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Thành phố Hồ Chí
Minh.
21. Chevalier J., Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
22. Mai Ngọc Chừ (1999), Văn hóa Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, NXB Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Thị Duyên (2006), Ý nghĩa biểu trưng của hệ biểu tượng con số trong
ca dao người Việt, Luận văn thạc sĩ Văn học dân gian, Hà Nội.
25. Jean Duvignaud (2011), Những tiếng nói đã mất, NXB Thế giới, Hà Nội.
26. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
27. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội.
146
29. Carl Gustav Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, NXB Tri thức, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Bích Hà (2002), “Qua truyện Tấm Cám ở vùng Kinh Bắc, tìm hiểu
con đường truyền thuyết hóa truyện cổ tích”, Tạp chí Văn hóa dân gian (6), tr.3-
8.
31. Nguyễn Thị Bích Hà (2006), “Mã và mã văn hoá”, Tạp chí Văn hoá dân gian
(1), tr. 21-27.
32. Nguyễn Thị Bích Hà (2010), “Đã đến lúc kể lại truyền thuyết Gióng”, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam
đương đại, Hà Nội, tr. 46 - 50.
33. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
34. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng – một số hướng tiếp cận lý
thuyết, NXB Thế giới, Hà Nội.
35. Đinh Hồng Hải (2015), Các vị thần, NXB Thế giới, Hà Nội.
36. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Tổng hợp, Đồng
Tháp.
37. Đào Thái Hanh (1997), “Chuyện Thánh mẫu Thai Dương phu nhân”, Những
người bạn Cố đô Huế (Đặng Như Tùng dịch), tập 1, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.
256 - 262.
38. Đào Thái Hanh (1997), “Sự tích nữ thần Kì Thạch phu nhân”, Những người bạn
Cố đô Huế (Đặng Như Tùng dịch), tập 2, NXB Thuận Hóa, Huế, tr. 144 – 147.
39. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam. NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa trong hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
41. Kiều Thu Hoạch (1971), “Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến”,
Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, tr. 172 – 232.
42. Kiều Thu Hoạch (1983), “Những đặc điểm tư tưởng của truyền thuyết chống
ngoại xâm”, Tạp chí Văn hóa dân gian (3,4), tr.6 - 18.
147
43. Kiều Thu Hoạch (2000), “Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà nghiên cứu
folklore Nhật Bản và Trung Quốc”, Tạp chí Văn học (2), tr.39 - 50.
44. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 4
(Truyền thuyết), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 5
(Truyền thuyết), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Trần Sỹ Huệ (2008), Đá và Người (Tức là Đá trong đời sống văn hóa dân gian ở
Phú Yên), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Hồ Quốc Hùng (1998), “Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất
mới”, Tạp chí Văn học (4), tr.71 - 78.
48. Hồ Quốc Hùng (1999), “Thử nhận diện dấu vết tín ngưỡng Chăm qua nhóm
truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa”, Tuyển tập 40 năm Viện Văn học Tập 1,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr.584 - 595.
49. Nguyễn Việt Hùng (2004), “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”, Tạp
chí Văn hóa dân gian (1), tr.23 – 31.
50. Nguyễn Việt Hùng (2011), Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt
Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình tượng đá trong dân ca H’mông, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
52. Hà Xuân Hương (2012), Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về
người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc, Luận án thạc sĩ văn
học dân gian, Hà Nội.
53. Inrasara (2008), Văn hóa – xã hội Chăm: nghiên cứu và đối thoại, NXB Văn
học, Hà Nội.
54. Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, NXB Tri thức, Hà Nội.
55. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa
Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Phạm Tiết Khánh (2007), Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (qua
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích), Luận án tiến sĩ văn học dân gian, Hà
Nội.
57. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
148
58. Lê Văn Kỳ, Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội các anh hùng,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 101.
59. Nghiêm Thị Mai Lan (2006), Khảo sát truyền thuyết và một số phong tục, lễ hội
ở vùng đảo Hà Nam, Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Thanh Lưu (2011), “Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám phá
biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học (1), tr.51 – 58.
61. Nguyễn Thị Thanh Lưu (2012), Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian
xứ Nghệ, Luận án Tiến sĩ Văn học dân gian, Hà Nội.
62. Marcel Mauss (2011), Luận về biếu tặng, NXB Tri thức, Hà Nội.
63. E.M. Meletinski (2005), Thi pháp của huyền thoại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
64. Vũ Duy Mền (2000), Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc bộ, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
65. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
66. Triều Nguyên (2010), Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, tập 1, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (1990), Truyện cổ xứ Bắc, NXB Bảo tàng Hà Bắc, Hà Bắc.
68. Đái Xuân Ninh (1986), Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm, Tập
2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Phân viện Văn hóa miền Trung tại Huế (2000), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền
Trung Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.
70. Hoàng Phê (chủ biên, 1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Trần Duy Phương (2008), Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả Lục Ngạn –
Bắc Giang, Luận án Tiến sĩ Văn học, Thái Nguyên.
72. Quốc sử quán triều Nguyễn (1961, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch), Đại Nam nhất
thống chí: Thừa Thiên phủ, tập thượng, Nha văn hóa Bộ quốc gia giáo dục xuất
bản, Sài Gòn.
73. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990), Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn học, Hà Nội.
74. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa, Sở Văn hóa -
Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học nghệ thuật Kiên Giang (2008) Văn hoá
biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam bộ, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
149
75. Quách Tấn (1969), Xứ trầm hương, NXB Lá Bối, Sài Gòn.
76. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính
H’Mông, NXB Thế giới, Hà Nội.
77. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2000), Văn hoá dân gian làng ven biển, NXB Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
78. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2001), Đạo Mẫu ở Việt Nam, NXB Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
79. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, NXB Tri thức, Hà Nội.
80. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
81. Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn học
dân gian các dân tộc thiểu số, tập 2, quyển 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
82. Viện Văn học, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia (2002), Tổng tập văn học các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Truyện cổ dân gian, tập 2, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
83. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
84. Viện nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận (2000), Truyện cổ dân gian Chăm,
NXB VHDT, Hà Nội.
85. Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2009), Tổng tập văn
học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 16: truyện cổ tích thần kỳ,
truyền thuyết, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Phan Xuân Viện (2007), “Môtip đá thiêng/ hóa đá và tín ngưỡng thờ đá trong
truyện kể dân gian Nam Đảo”, Truyện kể dân gian các tộc người Nam Đảo ở
Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr.46 - 57.
87. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hoá, Huế.
88. Trần Quốc Vượng (1969), “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các
truyền thuyết nói về thời kỳ dựng nước”, Tạp chí Văn học (2), tr.63 - 77.
89. Lý Tế Xuyên (2001), Việt điện u linh, NXB Văn học, Hà Nội.
II. Tiếng Anh
90. Stith Thompson (1932), Motif-index of Folk-Literature, A Classification of
narrative elements in folk-tale, ballads, myths, fables, medieval, romances,
exempla, local legends, Indiana University Press.
150
B. Tài liệu mạng
91. Trần Đình Hằng, Tiếp xúc văn hóa Việt – Champa ở miền Trung: nhìn từ làng
xã vùng Huế, library/
get_file?uuid=55bc965f-852f-45f9-8d80-0bb4611f562e&groupId =13025.
92. Nguyễn Văn Hậu (2009),“Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn hóa”,
chung/1186-nguyen-van-hau-bieu-tuong-nhu-la-don-vi-co-ban-cua-van-
hoa.html.
93. Hội Văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng (2012), Giao lưu văn hóa Việt –
Chăm nhìn từ tín ngưỡng dân gian,
2012/11/g iao-thoa-van-hoa-viet-cham-nhin-tu-tin.html.
94. Inrasara (2015), Biển trong ngôn ngữ và văn hóa Chăm,
van-nghe/bien-trong-ngon-ngu-va-van-hoa-cham-
900149.tpo.
95. Võ Văn Thắng (2009), Giao lưu văn hóa Việt Chăm ở Quảng Nam – Đà Nẵng,
moi-truong-xa-hoi/1457-vo-van-thang-giao-luu-van-hoa-viet-cham-o-quang-
nam-da-nang.html
96. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn
chương Việt Nam,
van-hoa/1144-phe-binh-co-mau-va-co-mau-nuoc-trong-van-chuong-viet-
nam.html
97. Nhị thập bát tú, =25
98. Thiên văn,
99. Tục thờ Kut của người Chăm Bàlamôn, https://petruspaulusthong.
wordpress.com/s%E1%BB%AD-van-ng%E1%BB%8Dc/t%E1%BB%A5c-
th%E1%BB%9D-kut-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-cham-
balamon/
100. Mo Mường Hòa Bình và bài toán hậu Bảo trợ,
muong-hoa-binh-va-bai-toan-hau-bao-tro-p276064.html
P1
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Phụ lục các truyền thuyết dân gian Việt Nam có biểu tượng đá
Khảo sát trong 2 tài liệu:
- Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 4 và tập 5: Truyền thuyết) do Kiều
Thu Hoạch chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
- Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế do Tôn Thất Bình chủ biên, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1998.
Số
thứ tự
Tên truyền thuyết Nguồn
1. Sự tích vua bà Bến nước và vua ông Cội cây TTVHDGNV
2. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy thần triều Hùng
Duệ Vương
TTVHDGNV
3. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương TTVHDGNV
4. Truyện Tản Viên Sơn Thánh TTVHDGNV
5. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị Hiển Công,
Minh Công và Phạm Hiếu, Phạm Thành, Phạm Lương
đánh Thục
TTVHDGNV
6. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh TTVHDGNV
7. Sự tích Hùng Hải, Đô Huy thời Hùng Vương TTVHDGNV
8. Sự tích đức Thiên Cang thời Hùng Vương TTVHDGNV
9. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương TTVHDGNV
10. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân TTVHDGNV
11. Truyện Đổng Thiên Vương TTVHDGNV
12. Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh giặc Ân TTVHDGNV
13. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều Hùng đánh giặc Ân TTVHDGNV
14. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương TTVHDGNV
P2
15. Truyện Rùa Vàng TTVHDGNV
16. An Dương Vương lập cột đá thề TTVHDGNV
17. Sự tích Doãn công dẹp giặc Tô Định TTVHDGNV
18. Nói về sự tích bà Trưng Trắc, bà Trưng Nhị TTVHDGNV
19. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng TTVHDGNV
20. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương TTVHDGNV
21. Xuân Nương công chúa TTVHDGNV
22. Doãn Công – Đào Nương TTVHDGNV
23. Thần miếu Độ Mi TTVHDGNV
24. Sự tích thần Đình Tào TTVHDGNV
25. Truyện Man Nương TTVHDGNV
26. Truyện cái khiên TTVHDGNV
27. Sự tích Luy Ông TTVHDGNV
28. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương TTVHDGNV
29. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế TTVHDGNV
30. Núi Phượng Hoàng TTVHDGNV
31. Mã Yên Sơn TTVHDGNV
32. Truyện mộ ở dưới nước TTVHDGNV
33. Truyện bốn anh em một nhà có công phò tá Đinh Tiên Hoàng TTVHDGNV
34. Quán đá, chó vàng TTVHDGNV
35. Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không TTVHDGNV
36. Truyện Cao Sơn đại vương thời Lý TTVHDGNV
37. Sự tích Thiên Bồng nhà Lý TTVHDGNV
38. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý TTVHDGNV
39. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời Lý TTVHDGNV
40. Truyện bốn anh em cùng một bọc có công chống ngoại
xâm thời Lý Thánh Tông
TTVHDGNV
41. Đền thiêng ở cửa biển TTVHDGNV
42. Truyện Trâu Canh TTVHDGNV
43. Sự tích bà Quý Minh thời Trần TTVHDGNV
P3
44. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh TTVHDGNV
45. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời Lê Thái Tổ TTVHDGNV
46. Sự tích Lê Thánh Tông TTVHDGNV
47. Lương Thế Vinh TTVHDGNV
48. Truyện Phúc Công thời Lê TTVHDGNV
49. Đại vương Ồ TTVHDGNV
50. Truyện tích Thai Dương phu nhân TTVHDGNV
51. Kỳ Thạch phu nhân TKDGTTH
52. Truyện chùa Quang Minh TTVHDGNV
53. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông Bảng đại vương
thời Lê
TTVHDGNV
54. Truyện Ngư tinh TTVHDGNV
55. Thần Trấn Vũ TTVHDGNV
56. Truyện Hồ Tinh TTVHDGNV
57. Sự tích núi Sậu TTVHDGNV
58. Sự tích núi thần Tam Đảo TTVHDGNV
59. Sự tích suối Rắn TTVHDGNV
60. Truyện lái buôn phương Bắc giấu vàng TTVHDGNV
61. Truyền thuyết tượng Nghè TTVHDGNV
62. Sự tích hòn đá núi La Hán TTVHDGNV
63. Chú voi què hóa núi TTVHDGNV
64. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ TTVHDGNV
65. Ông Tả Giám Đàn TTVHDGNV
66. Thần Độc Cước và đền Độc Cước TTVHDGNV
67. Sự tích núi Sầm Sơn TTVHDGNV
68. Cầu làng Sải TTVHDGNV
69. Đôi voi đá ở đền Cao TTVHDGNV
70. Sự tích sông Kinh Thầy TTVHDGNV
71. Núi Bà Đội Om TTVHDGNV
P4
PHỤ LỤC 2
Phụ lục ảnh đá thờ và di tích
ở đền Thai Dương phu nhân và miếu Kỳ Thạch phu nhân
1. Đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân:
A. Phụ bản hình ảnh đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân in trong bài viết
“Truyện Nữ thần Kỳ Thạch phu nhân” của Đào Thái Hanh
B. Đá thờ tại miếu Kỳ Thạch phu nhân (2015)
P5
2. Phụ bản về đền Thai Dương phu nhân trong Huế xưa và nay: di tích và danh
thắng của Phan Thuận An:
P6
3. Hình ảnh đá thờ và kiến trúc đền Thai Dương phu nhân:
A. Đá thờ tại đền Thai Dương phu nhân (2015)
B. Kiến trúc đền Thai Dương phu nhân (2015)
P7
PHỤ LỤC 3
Phụ lục ảnh các trường hợp núi xuất hiện trong motif người hóa đá
và vật hóa đá của truyền thuyết dân gian Việt Nam
nhưng không được ghi chú rõ núi đá
1. Núi Nhân (thôn Bồng Lạng, xã Thanh Nghi, huyện Thanh Liêm, Hà Nam)
xi-mang.html
chuyen-co-that-o-ha-nam.html
P8
2. Núi Sầm Sơn (Núi Trường Lệ, thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa)
thanh-hoa
truong-le/
P9
3. Núi Bà Đội Om (huyện Tịnh Biên, An Giang)
4. Núi Sậu (xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, Ninh Bình)
“Tài nguyên đá vôi: Đá vôi là nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh
Bình. Với những dãy núi đá vôi khá lớn, chạy từ Hoà Bình, theo hướng tây bắc –
đông nam, qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, thị xã Tam Điệp, Yên Mô, tới tận
biển Đông, dài hơn 40 km, diện tích trên 1.2000ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối
đá vôi và hàng chục triệu tấn đôlômít. Đây là nguồn nguyên liệu lớn để sản xuất xi
măng và vật liệu xây dựng và một số hóa chất khác.” (
ninhbinh.vn/gioi-thieu/gioi-thieu-chung)
P10
Hình ảnh khai thác đá tại núi Sậu hiện nay (Núi Sậu nằm ở nơi giáp ranh của xã
Khánh Thượng và xã Mai Sơn của huyện Yên Mô)
20100803092700000p0c77.htm
5. Núi An Phụ (xã An Sinh, huyện Kinh Môn, Hải Dương)
“Ông Nguyễn Đức Đạt – Trưởng ban quản lý di tích Kinh Môn cho biết: Núi
An Phụ dài khoảng 17km, là dãy núi đất pha sa thạch và sỏi kết, thoai thoải dễ leo,
có thể lên từ bất cứ hướng nào”
afb6-8d57b6a43920
P11
BẢNG KHẢO SÁT CÁC DẠNG THỨC CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Số
thứ
tự
Tên truyện
Đá được hóa từ người/
Người được hóa từ đá
Đá được hóa
từ vật
Đá thiêng Ngọc Ngôi
sao
Nguồn
Người
được
hóa từ
đá
Đá
được
hóa từ
người
Người
hóa đá
và đá
hóa
người
Vật
mang
tính
thiện
Vật
mang
tính
ác
Đá thô tự nhiên Đá
đã
được
đẽo
gọt
Có/không
có hình
dạng cụ
thể
Hình
dáng
giống
con
người
1. Sự tích vua bà Bến nước và vua ông
Cội cây
X TTVH
DGNV
2. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy
thần triều Hùng Duệ Vương
X TTVH
DGNV
3. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời
Hùng Vương
X TTVH
DGNV
4. Truyện Tản Viên Sơn Thánh X TTVH
DGNV
5. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị
Hiển Công, Minh Công và Phạm Hiếu,
Phạm Thành, Phạm Lương đánh Thục
X TTVH
DGNV
6. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh X TTVH
DGNV
7. Sự tích Hùng Hải, Đô Huy thời Hùng
Vương
X TTVH
DGNV
8. Sự tích đức Thiên Cang thời Hùng
Vương
X TTVH
DGNV
9. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương X TTVH
P12
DGNV
10. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân X TTVH
DGNV
11. Truyện Đổng Thiên Vương X TTVH
DGNV
12. Sự tích Thiên Đá và Đường Lô đánh
giặc Ân
X TTVH
DGNV
13. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều
Hùng đánh giặc Ân
X TTVH
DGNV
14. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ
Vương
X TTVH
DGNV
15. Truyện Rùa Vàng X TTVH
DGNV
16. An Dương Vương lập cột đá thề X TTVH
DGNV
17. Sự tích Doãn công dẹp giặc Tô Định X TTVH
DGNV
18. Nói về sự tích bà Trưng Trắc, bà Trưng
Nhị
X TTVH
DGNV
19. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai
Bà Trưng
X TTVH
DGNV
20. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng
Vương
X TTVH
DGNV
21. Doãn Công – Đào Nương X TTVH
DGNV
22. Thần miếu Độ Mi X TTVH
DGNV
23. Sự tích thần Đình Tào X TTVH
DGNV
24. Truyện Man Nương X TTVH
P13
DGNV
25. Truyện cái khiên X X TTVH
DGNV
26. Sự tích Luy Ông X TTVH
DGNV
27. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương X TTVH
DGNV
28. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế X TTVH
DGNV
29. Núi Phượng Hoàng X TTVH
DGNV
30. Mã Yên Sơn X TTVH
DGNV
31. Truyện mộ ở dưới nước X TTVH
DGNV
32. Truyện bốn anh em một nhà có công
phò tá Đinh Tiên Hoàng
X TTVH
DGNV
33. Quán đá, chó vàng X X TTVH
DGNV
34. Truyện Cao Sơn đại vương thời Lý X TTVH
DGNV
35. Sự tích Thiên Bồng nhà Lý X TTVH
DGNV
36. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm
Huy thời Lý
X TTVH
DGNV
37. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời
Lý
X TTVH
DGNV
38. Truyện bốn anh em cùng một bọc có
công chống ngoại xâm thời Lý Thánh
Tông
X TTVH
DGNV
P14
39. Đền thiêng ở cửa biển X TTVH
DGNV
40. Truyện Trâu Canh X TTVH
DGNV
41. Sự tích bà Quý Minh thời Trần X TTVH
DGNV
42. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi
đánh giặc Minh
X TTVH
DGNV
43. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời
Lê Thái Tổ
X TTVH
DGNV
44. Sự tích Lê Thánh Tông X TTVH
DGNV
45. Lương Thế Vinh X X TTVH
DGNV
46. Truyện Phúc Công thời Lê X TTVH
DGNV
47. Truyện tích Thai Dương phu nhân X TTVH
DGNV
48. Kỳ Thạch phu nhân X TKDG
TTH
49. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông
Bảng đại vương thời Lê
X TTVH
DGNV
50. Truyện Ngư tinh X TTVH
DGNV
51. Sự tích núi Sậu X TTVH
DGNV
52. Sự tích suối Rắn X TTVH
DGNV
53. Truyền thuyết tượng Nghè X TTVH
DGNV
P15
54. Sự tích hòn đá núi La Hán X TTVH
DGNV
55. Chú voi què hóa núi X TTVH
DGNV
56. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ X TTVH
DGNV
57. Ông Tả Giám Đàn X TTVH
DGNV
58. Thần Độc Cước và đền Độc Cước X TTVH
DGNV
59. Sự tích núi Sầm Sơn X TTVH
DGNV
60. Cầu làng Sải X TTVH
DGNV
61. Đôi voi đá ở đền Cao X TTVH
DGNV
62. Sự tích sông Kinh Thầy X TTVH
DGNV
63. Núi Bà Đội Om X TTVH
DGNV
P16
BẢNG KHẢO SÁT CẤU TRÚC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN KỂ SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ
TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM
Số
thứ
tự
Tên truyện
Kết hợp với các motif
khác của truyền thuyết
Đá - thành tố cấu tạo
nên không gian tâm linh
Nguồn
Giấc
mơ
Hiển linh Không
gian
thiêng
Không
gian
thờ
cúng
Không
gian
giấc mơ
Nhiên
thần
Nhân
thần
1. Sự tích hai vị thiên thần và hai vị thủy thần triều Hùng Duệ Vương X TTVH
DGNV
2. Sự tích Thổ Thống và Nại Nương thời Hùng Vương X X X X TTVH
DGNV
3. Truyện Tản Viên Sơn Thánh X TTVH
DGNV
4. Sự tích Tản Viên Sơn Thánh cùng các vị Hiển Công, Minh Công và
Phạm Hiếu, Phạm Thành, Phạm Lương đánh Thục
X TTVH
DGNV
5. Sự tích Cao Sơn, Quý Minh X TTVH
DGNV
6. Sự tích ông Dục thời Hùng Vương X TTVH
DGNV
7. Sự tích Tiên Lạp Thạch tướng quân X TTVH
DGNV
8. Sự tích Vũ Lang danh tướng triều Hùng đánh giặc Ân X TTVH
DGNV
9. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương X TTVH
P17
DGNV
10. An Dương Vương lập cột đá thề X TTVH
DGNV
11. Sự tích đức Thánh Hưng Phúc thời Hai Bà Trưng X TTVH
DGNV
12. Truyện tam vị thiên thần thời Trưng Vương X TTVH
DGNV
13. Xuân Nương công chúa X TTVH
DGNV
14. Thần miếu Độ Mi X X TTVH
DGNV
15. Sự tích thần Đình Tào X TTVH
DGNV
16. Truyện Man Nương X TTVH
DGNV
17. Sự tích Luy Ông X TTVH
DGNV
18. Sự tích hai mẹ con đánh giặc Lương X TTVH
DGNV
19. Bài ký về Hưởng Lãm Mai Hắc Đế X TTVH
DGNV
20. Núi Phượng Hoàng X TTVH
DGNV
21. Mã Yên Sơn X TTVH
DGNV
22. Truyện mộ ở dưới nước X TTVH
P18
DGNV
23. Truyện bốn anh em một nhà có công phò tá Đinh Tiên Hoàng X TTVH
DGNV
24. Quán đá, chó vàng X TTVH
DGNV
25. Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không X TTVH
DGNV
26. Sự tích hai anh em Phạm Quang, Phạm Huy thời Lý X TTVH
DGNV
27. Sự tích Phượng Hoàng công chúa thời Lý X TTVH
DGNV
28. Đền thiêng ở cửa biển X TTVH
DGNV
29. Truyện Trâu Canh X TTVH
DGNV
30. Sự tích Hạc Lai và Vũ Cố giúp Lê Lợi đánh giặc Minh X TTVH
DGNV
31. Sự tích Ngọn Côn và Thuấn Nghị thời Lê Thái Tổ X TTVH
DGNV
32. Lương Thế Vinh X TTVH
DGNV
33. Đại vương Ồ X TTVH
DGNV
34. Truyện tích Thai Dương phu nhân X X TTVH
DGNV
35. Kỳ Thạch phu nhân X X TKDG
P19
TTH
36. Truyện chùa Quang Minh X TTVH
DGNV
37. Sự tích Hoàng Việt đại vương – Đông Bảng đại vương thời Lê X TTVH
DGNV
38. Truyện Ngư tinh X TTVH
DGNV
39. Thần Trấn Vũ X TTVH
DGNV
40. Truyện Hồ Tinh X TTVH
DGNV
41. Sự tích núi Sậu X TTVH
DGNV
42. Sự tích núi thần Tam Đảo X TTVH
DGNV
43. Sự tích suối Rắn X TTVH
DGNV
44. Truyện lái buôn phương Bắc giấu vàng X TTVH
DGNV
45. Truyền thuyết tượng Nghè X X TTVH
DGNV
46. Sự tích hòn đá núi La Hán X TTVH
DGNV
47. Chú voi què hóa núi X TTVH
DGNV
48. Chuyện con giải thần ở Khê Hạ X TTVH
P20
DGNV
49. Thần Độc Cước và đền Độc Cước X TTVH
DGNV
50. Sự tích núi Sầm Sơn X TTVH
DGNV
51. Đôi voi đá ở đền Cao X TTVH
DGNV
52. Sự tích sông Kinh Thầy X TTVH
DGNV
53. Núi Bà Đội Om X TTVH
DGNV
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanan_5653.pdf