Về cách thức thực hiện, có thể cử cán bộ hướng dẫn trực tiếp đối với đối tượng người dân là vùng dân tộc thiểu số, hạn chế về trình độ văn hóa và khả năng tiếp thu; hướng dẫn kỹ thuật lần đầu đối với việc chuyển giao cây trồng, vật nuôi mới; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật công nghệ cho người dân. Tại các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp cho người dân cần tiếp thu ý kiến phản hồi của người dân, tổ chức trao đổi kinh nghiệm cho các hộ nông dân, khuyến khích tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm để phát huy nội lực sẵn có và giúp người dân chủ động, tích cực tham gia sản xuất. Các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho người dân cần được mô tả chi tiết, cụ thể bằng hình ảnh, hình vẽ, cách viết đơn giản, dễ hiểu để người dân có thể vận dụng tốt trong thực tế. Tìm nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định để tổ chức chăn nuôi, trồng trọt theo mô hình sản xuất lớn, cánh đồng mẫu lớn để dễ dàng áp dụng các mô hình khoa học công nghệ.
182 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1883 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải pháp tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tín dụng hoặc trình cấp có thẩm quyền xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế cho vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng; đơn giản hóa thủ tục cho vay để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi trong lĩnh vực nông nghiệp được tiếp cận và hưởng lợi từ chính sách, cơ chế tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Tám là, các NH cần tham gia vào việc phát triển mô hình ba nhà (ngân hàng – hộ nông dân – DN cung ứng dịch vụ đầu vào: thức ăn chăn nuôi, phân bón,..) và mô hình bốn nhà (ngân hàng – hộ nông dân – DN cung ứng nguyên liệu đầu vào và DN tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông nghiệp). Theo mô hình này, vốn đầu tư cho khách hàng được thực hiện theo chu trình khép kín: NH cung ứng vốn cho khách hàng mua các yếu tố đầu vào từ các DN thông qua dịch vụ thanh toán của NH, hoặc hỗ trợ cho việc bán các sản phẩm đầu ra cho các DN tiêu thụ. Những DN cung ứng yếu tố đầu vào, DN tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được ngân hàng cho vay chỉ định hoặc có các DN này có mối quan hệ thường xuyên lâu dài với ngân hàng. Mô hình này sẽ tăng tính liên kết chặt chẽ giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn cũng như các DN cung ứng yếu tố đầu vào, DN tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông nghiệp. Các NH có thể bám sát chu kỳ hoạt động SXKD của khách hàng, cung ứng vốn có hiệu quả và thu hồi nợ vay kịp thời. Đây là mô hình hiệu quả đã được triển khai ở một số địa phương như An Giang, Long An,... Mô hình này tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh lĩnh vực nông nghiệp phát triển đồng thời tạo điều kiện cho chính các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả.
Chín là, các TCTD có thể học tập kinh nghiệm từ NHTM Cổ phần Bưu điện Liên Việt – LienVietPostBank trong việc Bảo hiểm lãi suất miễn phí cho các khách hàng vay vốn đầu tư cho nông nghiệp tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong chương trình này, LienVietPostBank phối hợp với Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) bảo hiểm lãi suất miễn phí giúp nông dân khi gặp khó khăn khách quan.
Tham gia vào Đề án cho vay nông nghiệp của LienVietPostBank, PTI nhận bảo hiểm miễn phí toàn bộ lãi suất tiền vay cho các đối tượng vay vốn tại LienVietPostBank thuộc Chương trình "Cho vay ưu đãi phát triển nông nghiệp khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long giai đoạn 2013 – 2015". PTI sẽ hỗ trợ khách hàng vay vốn thông qua miến phí dịch vụ bảo hiểm lãi vay đối với khách hàng vay vốn và chi trả phần bảo hiểm trong trường hợp khách hàng là hộ nông dân gặp khó khăn khách quan (thiên tai, chủ hộ bị tai nạn thương tật vĩnh viễn hoặc tử vong). Nếu như chương trình bảo hiểm lãi suất miễn phí cho nông dân được các TCTD thực hiện rộng rãi giống như mô hình của LienVietPostBank thì sẽ giúp "Nhà nông an tâm – Ngân hàng an toàn" Nhờ sự chung tay giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm mà bản thân ngân hàng và khách hàng vay đều an tâm hơn khi cho vay và vay vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp [28].
3.3.2.2. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước nên ban hành chính sách cấp bù lãi suất kịp thời cho những tổ chức tín dụng cho vay ưu đãi lĩnh vực nông nghiệp, cần quy định rõ trách nhiệm xử lý của Chính phủ khi có rủi ro tín dụng xảy ra để các tổ chức tín dụng yên tâm hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
NHNN nên ban hành các chính sách ổn định đối tượng tín dụng và lĩnh vực đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, ít nhất là 5 năm để tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện tốt các chính sách ưu đãi cũng như tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư, các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, tạo động lực thu hút đầu tư cho chuyển dịch CCKT nông nghiệp.
Về điều kiện ưu đãi: cần áp dụng chính sách ưu đãi về mức cho vay, về lãi suất hơn cho các đối tượng tín dụng vùng đặc biệt khó khăn để tạo điều kiện cho các DN ở những vùng này có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ, tăng mức đầu tư để thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông nghiệp ở những vùng này. Chẳng hạn như nâng mức cho vay đối với các dự án đầu tư vào các vùng đặc biệt khó khăn từ 70% - 85% mức vốn đầu tư. (Theo qui định hiện hành, các NHTM được phép cho vay tối đa 70% mức vốn đầu tư của dự án, phương án sản xuất kinh doanh không phân biệt giữa các đối tượng vay vốn); Xác lập và triển khai chương trình hỗ trợ vốn cho các khu vực kinh tế tư nhân, nhất là các DN nhỏ và vừa; trong đó, hỗ trợ vốn cho cả hai loại: đầu tư ban đầu để hình thành DN và bảo lãnh vốn vay cho DN.
Đồng thời, NHNN cũng nên ban hành qui chế nâng lãi suất phạt quá hạn bằng lãi suất phạt chậm trả của các NHTM nhằm tăng cường trách nhiệm trả nợ của các đối tượng vay ưu đãi.
NHNN cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng đối với người nghèo – một bộ phận không nhỏ góp phần chuyển dịch CCKT nông nghiệp bền vững. Trước hết, các chính sách giảm nghèo phải thường xuyên được tổ chức rà soát, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn, đầu tư có trọng điểm, ưu tiên vốn cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chính phủ, NHNN cần nghiên cứu, tăng mức cho vay tối đa cho vay đối với hộ nghèo. Theo qui định hiện hành thì mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo không quá 30 triệu đồng và thực tế dư nợ bình quân của NHCSXH cũng chỉ đạt khoảng 15 triệu đồng/hộ. Mức cho vay này đã được đưa ra cách đây hơn 6 năm và đến nay đã không còn phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, với số tiền 30 triệu đồng, cách đây 5 – 6 năm có thể mua được 2-3 con trâu, nhưng hiện nay chỉ có thể mua được 1 con, thậm chi không mua nổi một con trâu tốt. Do đó, việc sửa đổi, nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo là rất cần thiết để có thể chuyển dịch CCKT nông nghiệp một cách bền vững. [45]
NHNN cần tạo điều kiện để các TCTD đẩy mạnh phát triển mạng lưới tín dụng nông thôn, tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay vốn với cơ chế ưu đãi đối với nông nghiệp. Tìm cách đưa tín dụng trực tiếp đến tay nông dân thông qua hình thức cho vay qua tổ nhóm, lựa chọn ưu tiên với các mặt hàng có tiềm năng thị trường mà nông dân đang cần vốn đầu tư.
NHNN cần tiến hành xây dựng hệ thống đăng ký thế chấp nối mạng toàn quốc để có thể thẩm định tình hình tài chính của khách hàng một cách dễ dàng, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho các ngân hàng.
NHNN nên đưa ra cơ chế khuyến khích các ngân hàng duy trì tỷ lệ dư nợ tín dụng phục vụ nông nghiệp (tối thiểu 20%) và chế độ thưởng cho các NH có tỷ lệ dư nợ cho vay nông nghiệp trên 30% tổng dư nợ cho vay.
Ngoài những giải pháp nêu trên đối với NHNN thì Nhà nước cần có những biện pháp để mở rộng, phát triển thị trường cho thuê tài chính. Cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm để "san sẻ" bớt rủi ro cho các TCTD hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
3.3.2.3. Giải pháp đối với hộ gia đình và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, người dân có thu nhập thấp, khả nằn tích lũy vốn rất hạn chế. Hầu hết các hộ gia đình, các DN đều gặp khó khăn về vốn để phát triển kinh tế nông nghiệp và phần lớn đều mong muốn được vay vốn tín dụng. Để các hộ gia đình nông dân và các DN tiếp cận dễ dàng với được với vốn vay từ phía các TCTD cũng như khắc phục được tình trạng thiếu vốn thì chính họ cần phải đổi mới theo hướng sau
Một là, nâng cao khả năng quản trị tài chính, nâng cao năng lực lập phương án sản xuất – kinh doanh và dự án đầu tư. Nhu cầu vay vốn của các nông hộ cũng như các DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp rất lớn, tuy nhiên số khách hàng được đáp ứng nhu cầu vay lại hạn chế. Để có thể huy động được vốn vay từ phía các NHTM, các hộ gia đình, DN cần phải có những chiến lược kinh doanh cụ thể, trong hoạt động SXKD các DN phải chứng minh được dự án hoạt động khả thi, lợi ích về mặt kinh tế, chứng minh sự minh bạch về tài chính, kiện toàn bộ máy kế toán theo hướng nâng cao năng lực lập các báo cáo tài chính và tư vấn cho các nhà quản trị doanh nghiệp, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách kế toán tạo thuận tiện cho các NHTM trong việc theo dõi hoạt động SXKD, từ đó nhanh chóng đưa ra quyết định cho vay vốn. Đồng thời, nâng cao chất lượng lập dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh của các DN, các hộ gia đình là rất cần thiết. Dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo ra hiệu quả cao, có đủ nguồn thu để trả nợ là bằng chứng thuyết phục các TCTD cho vay. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu trong quá trình lập dự án thì các chủ DN, các chủ hộ phải không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao trình độ và cũng rất cần sự tư vấn, trợ giúp từ phía các tổ chức hỗ trợ DN, các TCTD. Các doanh nghiệp nông nghiệp nên cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo các kỹ năng nâng cao năng lực tài chính và quản lý tài chính hiệu quả trong doanh nghiệp như kỹ năng lập báo cáo tài chính, kỹ năng phân tích tài chính; kỹ năng sử dụng đòn bẩy tài chính; quản lý dòng tiền hoạt động đầu tư, kỹ năng lập dự án đầu tư, phương án SXKD...
Hai là, mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn.
Ngoài nguồn vốn vay NHTM, để tăng cường năng lực tài chính thì các doanh nghiệp nông nghiệp cần nỗ lực để tự bổ sung nguồn vốn dưới hình thức tích lũy kêu gọi thành viên tăng vốn góp, huy động nguồn vốn từ người thân và các nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nhân dân. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, những công ty cổ phần sẽ sớm tham gia vào thị trường chứng khoán để huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Doanh nghiệp nông nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít nên cần phải tăng cường liên kết và hợp tác với các DN khác để giảm việc huy động vốn, tiết kiệm chi phí và tận dụng những lợi thế sẵn có của các bên tham gia liên kết. Hiện có rất nhiều chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho khối DN nhỏ và vừa theo những mục tiêu cụ thể của các tổ chức phi Chính phủ, các quĩ tiền tệ quốc tế. Nếu các DN biết tiếp cận và tận dụng nguồn vốn ưu đãi từ các chương trình này thì đây sẽ là nguồn bổ sung vốn rất hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung trong đó có các doanh nghiệp nông nghiệp. Hơn thế, nguồn vốn này thường đi kèm với hỗ trợ kỹ thuật rất có ích cho các DN.
Ba là, kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp.
Song song với việc tiếp cận các chương trình ưu đãi của Chính phủ cũng như các chương trình tài trợ của các tổ chức nước ngoài thì việc kiện toàn tổ chức hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp cũng là điều hết sức cần thiết. Đây là việc làm bảo đảm cho hiệp hội thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước, cung cấp các thông tin cần thiết cho các DN tiếp cận với các chương trình hỗ trợ vốn ưu đãi, cùng với việc hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp trong phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bốn là, cung cấp thông tin trung thực, chính xác về tình hình tài chính cho các TCTD
Để tránh rủi ro thông tin và rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng, các hộ nông dân và các DN cần trung thực trong việc lập phương án, dự án sản xuất kinh doanh cũng như cung cấp các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để các TCTD có thể đánh giá chính xác tình hình tài chính của khách hàng, từ đó có thể lựa chọn phương án hỗ trợ tín dụng phù hợp, tư vấn sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Ngoài ra, để nâng cao được uy tín và nhận được sự tin cậy của các TCTD thì bản thân các hộ nông dân và các DN phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực,...các thông tin cần thiết về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cho các TCTD, tạo niềm tin và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa khách hàng vay và ngân hàng để nhận được sự hỗ trợ về vốn khi cần thiết.
Năm là, chủ động tìm nguồn cung cấp vốn, nắm bắt thông tin về các chính sách ưu đãi kịp thời.
Hiện nay, cấp tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là: Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, NHCSXH, Ngân hàng HTX. Các hộ nông dân, các DN cần tìm nguồn cung cấp vốn đa dạng hơn như vay từ các NHTM khác, vay từ quỹ bảo lãnh DN, từ quỹ hỗ trợ đầu tư mới đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, các hộ gia đình, các DN cũng nên chủ động tìm kiếm thông tin liên quan đến các chính sách ưu đãi của Nhà nước thay vì thụ động, trông chờ phổ biến từ phía chính quyền để không bỏ lỡ các cơ hội sản xuất, kinh doanh.
Giải pháp tín dụng đối với chuyển dịch CCKT nông nghiệp là sự kết hợp giữa hai hình thức TDNN và TDNH. Đây là hai hình thức tài trợ tín dụng chính đối với chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Để giải pháp này phát huy được hiệu quả cao nhất cần phải có sự nỗ lực phối hợp giữa các bên tham gia hoạt động tín dụng: TCTD, khách hàng vay vốn và cơ quan quản lý - NHNN.
3.4. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ
3.4.1. Tiếp tục ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ cho phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
3.4.1.1. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Kinh nghiệm thực tiễn ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cho thấy, nơi nào có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật tốt thì nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Ngược lại, nơi đâu dù có chính sách hấp dẫn nhưng kết cấu hạ tầng thấp kém vẫn khó có thể lôi kéo được nhà đầu tư. Vì vậy, phải coi xây dựng kết cấu hạ tầng như là điều kiện kiên quyết, bắt buộc không chỉ đối với đòi hỏi trước mắt và cả lâu dài, không chỉ tạo tiền đề cho thu hút đầu tư mà cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Trong thời gian tới, tỉnh Thanh Hóa cần có những giải pháp để phát triển cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội cho khu vực nông thôn.
Các giải pháp cụ thể cần thực hiện đó là:
Tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn
Đồng ruộng là cơ sở hạ tầng cơ bản của nông nghiệp nên cần có biện pháp quản lý chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp, trước hết là đất sản xuất lương thực. Do nhu cầu công nghiệp hoá, đô thị hoá, trường hợp cần thiết phải sử dụng đất nông nghiệp thì phải mở thêm đất mới để bổ sung cho đủ cho nhu cầu đất nông nghiệp. Hạn chế thấp nhất việc chuyển đất nông nghiệp sang công nghiệp và đô thị nhất là những diện tích mầu mỡ có giá trị thâm canh cao. Mặt khác phải có biện pháp nâng cao độ phì của đất, khắc phục tình trạng ruộng đất canh tác quá manh mún trong các hộ nông dân, bằng cách khuyến khích các hộ nông dân đổi đất cho nhau, “dồn điền, đổi thửa”, quy tụ thành những mảnh ruộng lớn hơn, kết hợp với quy hoạch đồng ruộng, thuỷ lợi theo hướng công nghiệp hoá.
Phát triển mạng lưới giao thông
Tập trung mọi nguồn lực để ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh cơ bản hệ thống giao thông đường bộ cả nông thôn và đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH. Tập trung phát triển đường giao thông nông thôn là yêu cầu cấp thiết phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, mở mang công nghiệp, dịch vụ nông thôn. Cần xây dựng, nâng cấp tất cả các tuyến đường nội tỉnh, tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn để đến 2020 đạt 100% hệ thống giao thông nông thôn là đường nhựa hoặc đường bê tông.
Phát triển hệ thống thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước ở nông thôn
Về hệ thống các công trình thuỷ lợi, cần tiếp tục nâng cấp các công trình thuỷ lợi hiện có và xây dựng mới các công trình đầu mối, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương nội đồng, đẩy nhanh tốc độ kiên cố hoá kênh mương để vừa tiết kiệm đất, vừa tránh lãng phí nước tưới, giảm chi phí thuỷ lợi và bồi trúc, sửa chữa các công trình thuỷ nông bị xuống cấp. Nâng cao tỷ trọng diện tích tưới tiêu phục vụ thâm canh lúa, mầu, cây công nghiệp, cây ăn quả, trước hết là ở các vùng chuyên canh và các nhu cầu khác.
Xây dựng danh mục các công trình thuỷ lợi để có kế hoạch phát triển phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đảm bảo hệ thống cấp nước sạch, đầu tư hệ thống xử lý nước thải cho khu vực dân sinh, khu vực chăn nuôi.
Tăng cường việc huy động các hình thức lao động nghĩa vụ (theo luật định) để xây dựng các công trình hạ tầng nông nghiệp, đặc biệt là các công trình thủy lợi, đê điều.
Phát triển mạng lưới điện, hệ thống bưu chính viễn thông
Kiên cố hoá hệ thống mạng lưới cấp điện, giảm tỷ lệ thất thoát tiêu hao điện năng, xây dựng các trạm biến áp hạ thế vào các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp làng nghề.
Tăng nhanh năng lực và hiện đại hoá bưu chính - viễn thông, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định.
Xây dựng hệ thống cửa hàng, chợ nông thôn và hệ thống kho tàng
Xây dựng mạng lưới chợ nông thôn, cần tập trung vào phát triển chợ đầu mối bán buôn, các chợ chuyên doanh nông sản. Ngoài ra, cần quan tâm đến phát triển các chợ bán lẻ để đáp ứng nhu cầu mua bán thường nhật của nông dân. Nâng cấp sửa chữa và xây dựng mới các chợ ở huyện, cụm, xã. Xây dựng và nâng cấp các trung tâm thương mại ở các trung tâm huyện, cụm xã có điều kiện về giao lưu hàng hoá. Xây dựng các cửa hàng mua bán thương nghiệp, các HTX dịch vụ thương mại và các đại lý trên khắp địa bàn nông thôn trong tỉnh nhằm cung cấp đầy đủ các dịch vụ vật tư nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá đầu ra của khu vực nông nghiệp. Cần xây dựng hệ thống kỹ thuật bảo quản, chế biến nông sản hàng hoá. Hệ thống các cơ sở này cần được tổ chức trên địa bàn có nông sản, với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội
Hình thành hệ thống giáo dục nông thôn, theo hướng phát triển giáo dục, đào tạo toàn diện, tăng cường cơ sở vật chất trường học, 100% trường học được kiên cố, hầu hết các trường đạt chuẩn quốc gia. Hình thành hệ thống các trường dạy nghề ở nông thôn, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, khuyến khích hình thành, đa dạng hoá các trường, lớp dạy nghề tư nhân.
Hoàn thiện và phát triển mạng lưới bệnh viện, trạm y tế ở nông thôn. Đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hóa bệnh viện đa khoa tỉnh hướng phát triển trở thành bệnh viện khu vực (có sự hợp tác đầu tư với Bộ Y tế). Tiếp tục mở rộng và nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện, các trạm y tế xã. Tăng cường trang bị các dụng cụ y tế cần thiết cho tuyến cơ sở. Tập trung đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế. Thực hiện xã hội hoá ngành y tế, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân. Song song với chính sách phát triển cơ sở hạ tầng là việc hoàn thiện chính sách đất đai và giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện cho các DN đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như thu hút các DN tăng cường đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp.
3.4.1.2. Chính sách đất đai
Chính sách đất đai và giải phóng mặt bằng trong thời gian tới cần đổi mới và hoàn thiện theo hướng:
- Đảm bảo mặt bằng cần thiết, hợp lý phục vụ sản xuất kinh - doanh nông nghiệp cho các nhà đầu tư theo phương thức cho thuê hoặc chuyển quyền sử dụng đất.
- Tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giải phóng mặt bằng, ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí thực hiện bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng đối với các dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án đầu tư vào địa bàn Tỉnh đều được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản.
- UBND tỉnh và các địa phương cần giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Kiên quyết cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng đối với các trường hợp đã được quyết định và đã theo đúng quy định của Nhà nước nhưng vẫn cố tình không chấp hành để hỗ trợ cho việc đầu tư.
- UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho sở Tài chính chủ trì phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu và trình UBND tỉnh phê duyệt phương thức thanh toán tiền thuê đất, tiền đặt cọc dự án đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp. Một mặt, quy định giá thuê đất ở mức hợp lý để giảm chi phí đầu vào của nhà đầu tư, mặt khác nhà đầu tư cũng phải trả trước tiền thuê đất để tỉnh lo đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng đến chân bờ rào dự án, đồng thời, phải chấp nhận đóng một khoản tiền đặt cọc nhất định tùy theo quy mô dự án. Nếu không triển khai đúng tiến độ cam kết thì nhà đầu tư bị mất khoản tiền này. Đây là biện pháp hữu hiệu để tránh tình trạng đang xảy ra khá phổ biến là nhiều nhà đầu tư năng lực tài chính yếu nhưng chiếm đất dự án, chờ đợi chuyển lại cho đối tác khác, làm cho Nhà nước mất nhiều thời gian để thu hồi lại giấy phép đầu tư đã cấp.
- UBND tỉnh có biện pháp thực hiện triệt để việc thu hồi đất đã được giao hay cho tổ chức thuê đang để hoang hóa, không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích.
3.4.1.3. Chính sách khai thác tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên
Việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình thực hiện mục tiêu CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Trong thời gian tới, tỉnh Thanh Hóa cần phải đẩy mạnh các biện pháp quản lý và khai thác tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên để tránh tình trạng cạn kiệt và ô nhiễm môi trường.
Thứ nhất, tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm và hành động thực tiễn của người dân, DN và cộng đồng về sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Tiếp tục công bố, công khai rộng rãi và kịp thời các quy hoạch về tài nguyên và môi trường trên trang thông tin điện tử của Sở Tài nguyên và môi trường, tại trụ sở UBND cấp xã, huyện; tạo điều kiện cho cộng đồng tiếp cận dễ dàng, thuận tiện các thông tin về tài nguyên và môi trường để phục vụ cho việc đầu tư, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên. Tiến hành điều tra, kiểm kê, đánh giá tiềm năng về đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản làm cơ sở để xây dựng quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thứ hai, tăng cường hoạt động quy hoạch phát triển KTXH, để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát triển KTXH gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Thực hiện có hiệu quả quy chế đấu giá quyền khai thác khoáng sản, bảo đảm công bằng, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản, tạo nguồn lực cho phát triển KTXH. Nâng cao chất lượng điều tra, xây dựng và công bố bảng giá đất hàng năm sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường, bảo đảm việc áp dụng giá đất công bằng, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất. Tăng cường thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những vấn đề nổi cộm, kiểm tra sau thanh tra; kiên quyết xử lý nghiêm, dứt điểm các sai phạm, tạo sự nghiêm minh trong thi hành pháp luật; qua thanh tra, kiểm tra đề xuất được các biện pháp để quản lý có hiệu quả việc khai thác sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Thứ ba, đẩy mạnh quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên.
Nông thôn là nơi tập trung chủ yếu các hoạt động khai thác tự nhiên như công nghiệp khai khoáng, khai thác lâm, hải sản và các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cần phải tăng cường quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên vì những hoạt động này không chỉ làm cạn kiệt dần nguồn tài nguyên không tái tạo mà còn có nguy cơ làm mất tầng đất canh tác, mất thảm thực vật che phủ bề mặt tạo ra nguy cơ xói mòn, rửa trôi đất đai.
Một số hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản còn sử dụng các hóa chất hoặc xả các chất thải tạo nên sự ô nhiễm, phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái. Do vậy việc quản lý các hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản phải được chú trọng, bắt đầu từ việc quản lý quy hoạch vùng khai thác, quy trình khai thác; quản lý các đơn vị, cá nhân có đủ điều kiện trang thiết bị kỹ thuật cho phép phù hợp với công nghệ khai thác tiên tiến ít gây ảnh hưởng môi trường.
Thứ tư, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên đất.
Đất đai là một tài nguyên không sinh thêm và không tái tạo. Tuy vậy, trong hệ sinh thái và môi trường, đất đai được coi như một cơ thể sống và trong nó chứa đựng rất nhiều các loại vi sinh vật đất sinh sống và hoạt động. Nếu một vùng đất đai không được thoát khí, không có các vi sinh vật đất sinh sống (các vùng núi cao, vùng đất khô cằn, đá ong hóa) thì các loại đất đai đó mất chức năng, tác dụng trong hệ sinh thái, đất đai đó cũng không còn ý nghĩa sản xuất. Do đó, khi sử dụng nguồn tài nguyên đất cần phải quản lý mục đích sử dụng đất theo đúng tính năng, lợi thế của mỗi loại đất. Việc quản lý mục đích sử dụng đất phải được dựa trên kết quả qui hoạch đất đai làm căn cứ, cơ sở quan trọng của công tác quản lý mục đích sử dụng đất. Việc quản lý tài nguyên đất phải gắn lợi ích và trách nhiệm của người sử dụng đất đối với chất lượng, tính năng của đất nhằm động viên người sử dụng đất đầu tư, cải tạo, nâng cao mức sản xuất của đất đai. Cần phải có đội ngũ cán bộ nông nghiệp am hiểu chuyên môn để hướng dẫn việc khai thác và sử dụng đất hợp lý cho người dân. Việc sử dụng đất cũng phải đi đôi với công tác bảo vệ, cải tạo đất như chống xói mòn, rửa trôi ở các vùng đất dốc, vùng đầu nguồn; hạn chế xói mòn, sạt lở trượt đất, làm phèn hóa, mặn hóa, đá ong hóa.
Như vậy, khai thác tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở cho việc xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường hướng tới việc thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp.
3.4.1.4. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là giải pháp đảm bảo tính bền vững của phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng tạo điều kiện để tăng tính hấp dẫn đối với việc thu hút đầu tư. Trong thời gian tới, tỉnh Thanh Hóa cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, phát triển lao động có tay nghề trong nông nghiệp.
Tăng ngân sách cho phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn, đầu tư xây dựng cơ sở cho giáo dục - đào tạo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chất lượng cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề. Đồng thời có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và phương pháp sử dụng cán bộ hợp lý để huy động được tiềm năng kỹ thuật cao và lao động chất xám của đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia, trí thức công tác trong lĩnh vực nông nghiệp.
Xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đào tạo cán bộ và lao động nông nghiệp có trình độ cao, đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư. Mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề, theo hướng liên kết với các công ty xuyên quốc gia đưa người ra nước ngoài đào tạo nhằm cung cấp những chuyên gia có trình độ tay nghề cao cả về kỹ thuật và quản lý. Tiếp tục củng cố, sắp xếp, quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề, đầu tư tăng cường nguồn lực cho các trường dạy nghề theo hướng đào tạo nhiều cấp độ nghề: cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề. Tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong các trường dạy nghề phù hợp với nhu cầu thực tế. Đồng thời thường xuyên mở các khóa học đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động địa phương. Nội dung các khoá học cần được thiết kế đơn giản về lý thuyết, dễ áp dụng, dễ phổ cập và chuyển giao.
Cần nghiên cứu hình thành Quỹ đào tạo nghề cho công tác đào tạo lao động nông nghiệp. Quỹ đào tạo nghề có thể được huy động từ nhiều nguồn vốn, trong đó có sự đóng góp của các DN là những đơn vị được hưởng lợi từ chương trình này.
Kiên quyết xử nghiêm các DN vi phạm pháp luật đối với người lao động, nhưng mặt khác cũng phải xử nghiêm các hành vi bãi công, đình công và kích động bãi công, đình công vô nguyên tắc, thiếu tôn trọng kỷ luật lao động. Ổn định môi trường pháp lý trong lĩnh vực tuyển dụng, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực.
Thứ hai, giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Xây dựng cơ cấu đầu tư và CCKT hợp lý để đảm bảo việc làm cho người lao động. Theo đó, cần chuyển dịch CCKT theo hướng giảm dần lao động thuần nông, giải phóng đất đai, khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ; đa dạng hoá việc làm và thu nhập. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp sử dụng nhiều lao động ở nông thôn. Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị cao; các làng nghề gắn liền với đô thị hoá nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ trên các trục đường giao thông. Cần có chính sách và cơ chế khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp để giải quyết từng bước tình trạng thiếu việc làm trầm trọng và việc làm có thu nhập thấp ở nông thôn hiện nay, hạn chế việc di chuyển quá mức lao động từ nông thôn vào thành thị.
Khuyến khích các hình thức hợp tác kiểu mới hoạt động theo Luật HTX, hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, có quy mô thích hợp. Có chính sách khuyến khích những người có vốn và kỹ thuật mở mang hình thức sản xuất kinh doanh theo hướng kinh tế trang trại, vì đây là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, cần theo hướng kích cầu lao động và tăng cả về số lượng và chất lượng cung. Đẩy mạnh các trung tâm tư vấn giới thiệu và tìm kiếm việc làm, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế giữa các tỉnh trong và ngoài vùng, với nước ngoài để đẩy mạnh việc trao đổi, giao lưu nguồn lao động cũng như tiếp cận tri thức và nguồn vốn từ ngoài tỉnh. Một vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay là việc hình thành các khu công nghiệp, đô thị mới, giao thông phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đồng nghĩa với việc một bộ phận hộ nông dân sẽ giảm hoặc không còn đất để sản xuất, hàng nghìn người sẽ không có việc làm sau khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Ở những nơi này cuộc sống của người lao động vẫn chưa được cải thiện đáng kể, còn một bộ phận nông dân có đời sống khó khăn, lúng túng trong tìm kiếm việc làm, một bộ phận lao động dôi dư phần lớn ngoài nghề nông ra thì không có nghề nghiệp gì khác. Muốn làm việc được phải có nghề, nhưng đáng tiếc là lâu nay việc đào tạo nghề còn nhiều hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho hộ nông dân nơi có đất bị thu hồi, tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch CCKT nông nghiệp và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài.
3.4.2. Thực hiện đồng bộ các giải pháp tài chính khác
Để phát huy hết hiệu quả của các giải pháp chi NSNN, tín dụng cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp thì cần phải có các giải pháp tài chính khác hỗ trợ và được sử dụng đồng bộ với nhau. Trong đó các giải pháp về thuế và bảo hiểm nông nghiệp cũng có những tác động đáng kể.
3.4.2.1. Hoàn thiện chính sách về thuế
Thuế là hình thức động viên bắt buộc của Nhà nước, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một phần thu nhập của thể nhân và pháp nhân vào NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của và phục vụ cho lợi ích công cộng. Thuế là công cụ đầy quyền lực của Nhà nước và có tác động mạnh đến các hoạt động KTXH của hầu hết các chủ thể. Nguồn thu của thuế là kết quả của các hoạt động KTXH và tác động đến mọi hoạt động KTXH như tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng, xuất – nhập khẩu, giá cả, thị trường, việc làm, thất nghiệp, công bằng xã hội... Nhà nước có nhiều chính sách để thúc đẩy các mục tiêu phát triển KTXH theo từng thời kỳ, trong đó thuế là một công cụ có tác động đến việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Trong những năm qua, qui mô thu NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa liên tục tăng, chính quyền tỉnh đã đưa ra những giải pháp kịp thời thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp thông qua chính sách ưu đãi thuế, tiền thuê sử dụng đất; tuy nhiên thu NSNN từ thuế trong những năm qua ở tỉnh Thanh Hóa còn một số hạn chế:
- Quy mô thu NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa còn thấp so với tiềm năng kinh tế của tỉnh. Tình trạng thu NSNN chưa đủ cân đối cho nhu cầu chi NSNN, ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế nói chung và đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Tính bình quân trong giai đoạn 2006 – 2012, thu NSNN chỉ đáp ứng được 34,4% nhu cầu chi và khoảng 90% nhu cầu chi thường thường xuyên. Nguồn thu NSNN tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2012 dành cho lĩnh vực nông nghiệp là 8,7% còn quá ít so với nhu cầu đầu tư của lĩnh vực này.
- Tình trạng thất thu thuế vẫn còn khá phổ biến do công tác kiểm tra, quản lý đối tượng thu, thanh tra thuế còn yếu kém chưa khai thác triệt để được các khoản thu đặc biệt là các khoản thu từ hoạt động xuất khẩu, nông lâm, thủy hải sản.
- Các chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí còn chưa đa dạng và chưa đủ sức hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và một số khu vực miền núi khó khăn. Mặt khác, chính sách thuế đã khuyến khích hoạt động đầu tư của các DN vào các khu công nghiệp làm cho diện tích các khu công nghiệp được mở rộng nhanh nhưng diện tích bỏ hoang không nhỏ, người nông dân bị mất một lượng đất sản xuất nông nghiệp khá lớn cùng với một lực lực lao động nông thôn mất việc làm hoặc phải chuyển sang làm việc trong các ngành khác.
- Chưa có sự gắn kết giữa chính sách thuế với các chính sách kinh tế khác trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, chuyên môn hóa. Mặc dù chính sách thuế và các chính sách khác đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn nhưng thiếu sự định hướng, thiếu tính nhất quán nên sản xuất hàng hóa nông nghiệp ở các vùng, các địa phương vẫn còn tự phát, manh muốn và thiếu tính chiến lược.
- Chưa có chính sách ưu đãi thuế để thúc đẩy sự gắn kết giữa "4 nhà" (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà DN), từ đó tạo điều kiện thuận lợi và phát huy mọi tiềm năng của xã hội cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Như vậy, trong thời gian tới, các chính sách về thuế cần phải hoàn thiện theo hướng sau:
- Tăng cường hiệu quả quản lý bộ máy thu nộp thuế, phí, lệ phí để khai thác triệt để các khoản thu nhằm tránh thất thoát cho NSNN đồng thời tăng nguồn thu cho NSNN tạo điều kiện tăng chi đầu tư phát triển trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
- Việc hoàn thiện chính sách thuế, đặc biệt là những chính sách thuế có liên quan đến hoạt động nông nghiệp có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sức hấp dẫn thu hút các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp cũng như góp phần nâng cao nguồn thu cho NSNN. Bên cạnh việc thực hiện luật thuế mà Nhà nước ban hành, tỉnh Thanh Hóa cần phải sắp xếp, hoàn thiện, qui định rõ ràng những chính sách miễn, giảm thuế cho các DN, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Trên cơ sở yêu cầu của chuyển dịch CCKT nông nghiệp và khắc phục những hạn chế, bất cập; chính sách thuế đối với nông nghiệp của tỉnh Thanh hóa trong thời gian tới nên theo hướng vận dụng linh hoạt chính sách thuế của nhà nước và hoàn thiện các chính sách ưu đãi thuế của địa cụ thể như sau:
Một là, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, duy trì việc miễn thuế TNDN, miễn thuế thu nhập cá nhân có thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và qui định cụ thể việc miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của các DN, HTX. Miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp cho nông dân vùng khó khăn,...
Hai là, cần chắt lọc lại chính sách ưu đãi thuế đối với DN trong các khu công nghiệp, khu khinh tế. Theo đó, chỉ ưu đãi thuế thu nhập DN đối với các DN đầu tư vào công nghệ cao và đầu tư vào các lĩnh vực phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế, trong đó, có phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Cần ưu đãi thuế nhiều hơn cho các DN sản xuất yếu tố đầu vào cho nền nông nghiệp sạch, thân thiện với môi trường, các DN chế biến nông sản và sử dụng nhiều lao động ở khu vực nông thôn. Xem xét và học tập kinh nghiệm ở một số địa phương trong cả nước, chính sách miễn giảm thuế của tỉnh Thanh Hóa chưa thực sự tạo được động lực cho các DN và người sản xuất nông nghiệp đầu tư vào lĩnh vực NNNT do đó, trong thời gian tới các chính sách miễn, giảm thuế thu nhập DN, tiền sử dụng đất; thuế xuất – nhập khẩu của tỉnh nên được mở rộng hơn nữa về tỉ lệ giảm thuế, thời gian ưu đãi, đối tượng ưu đãi thuộc lĩnh vực nông nghiệp.
Ba là, trên cơ sở qui hoạch đúng đắn các vùng chuyên canh nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản) và các chính sách kinh tế khác, chính sách thuế chỉ ưu đãi (với mức độ ưu đãi đủ hấp dẫn) đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyên canh theo đúng định hướng và qui hoạch phát triển của tỉnh, của Nhà nước. Các ưu đãi về thuế đối với lĩnh vực này cần đầy đủ hệ thống cả về thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN, thuế sử dụng đất nông nghiệp, tiền thuê đất,...
Bốn là, cần phải có chính sách ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy sự liên kết của "4 nhà" (Nhà nước, nhà DN, nhà nông, nhà khoa học), qua đó, thúc đẩy, đưa tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Chính sách ưu đãi này có thể thực hiện qua ưu đãi thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân cho thu nhập của các nhà khoa học có được từ hoạt động liên kết sản xuất nông nghiệp với nông dân.
3.4.2.2. Hoàn thiện giải pháp bảo hiểm nông nghiệp
Bảo hiểm là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất.
Trong thời gian gần đây, dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm ở một số địa phương. Sự hình thành bảo hiểm nông nghiệp xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang nhiều rủi ro mà hậu quả của chúng mang tính thảm họa và diễn ra trên diện rộng. Những rủi ro này có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người chăn nuôi và trồng trọt. Những đặc điểm này cho thấy, tính chất ổn định trong sản xuất nông nghiệp là rất thấp, đặc biệt là ở Việt Nam.
Sự ra dời của bảo hiểm nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với ngành sản xuất nông nghiệp. Bảo hiểm nông nghiệp góp phần bảo vệ an toàn các loại tài sản và quá trình sản xuất nông nghiệp, góp phần ổn định cuộc sống cho hàng triệu người dân, ổn định giá cả trên thị trường tự do, đặc biệt là giá cả những mặt hàng thiết yếu như lương thực và thực phẩm.
Chương trình bảo hiểm thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa được Công ty bảo hiểm Bảo minh Thanh Hóa thực hiện theo Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay trong tỉnh đang triển khai thí điểm hình thức bảo hiểm vật nuôi. Thời gian thực hiện thí điểm bảo hiểm vật nuôi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa do Công ty bảo hiểm Bảo Minh triển khai là: từ năm 2011 đến 2014.
- Địa bàn chọn thí điểm bao gồm:
+ Huyện Hoằng Hóa: 03 xã gồm Hoàng Thắng, Hoàng Ngọc, Hoằng Trung
+ Huyện Yên Định: 03 xã gổm Yên Thọ, Định Tường, Quý Lộc
+ Huyện Cẩm Thủy: 03 xã gồm Cẩm Bình, Cẩm Tú, Cẩm Giang
Tính đến quí 2 năm 2013, dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp của Công ty bảo hiểm Bảo Minh Thanh Hóa đã thu được những kết quả như sau:
- Số hợp đồng bảo hiểm đã ký: 217 hợp đồng
- Phí bảo hiểm: 3.095.000.000 đồng
- Bồi thường 65 vụ với số tiền:145.000.000 đồng
Hiện nay dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa mới chỉ được triển khai thí điểm bảo hiểm vật nuôi ở một số xã ở một số huyện nên chưa phát huy được hiệu quả trên diện rộng. Rất ít người dân được biết và tiếp cận với loại hình bảo hiểm này. Hiểu biết của người dân về bảo hiểm nông nghiệp còn hạn chế, với nguồn thu nhập ít ỏi của mình thì việc mua bảo hiểm khó trở thành hiện thực với người dân, mặc dù Nhà nước đã hỗ trợ phí bảo hiểm cho các đối tượng tham gia bảo hiểm. Tiềm năng thị trường bảo hiểm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa rất lớn. Thanh Hóa là một tỉnh rộng, thời tiết khắc nghiệt, dân số chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, nếu như bảo hiểm nông nghiệp được triển khai trên diện rộng bao gồm cả bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm tôm – cá thì đó sẽ là biện pháp phòng tránh rủi ro tốt nhất cho người nông dân đối phó với những biến đổi bất thường của thiên tai. Việc triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã thể hiện được chủ trương đúng đắn của Nhà nước trong việc hạn chế rủi ro đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội, tạo tâm lý yên tâm sản xuất cho người nông dân. Đồng thời dịch vụ bảo hiểm cũng hứa hẹn mang lại nguồn thu lớn cho các DN bảo hiểm, tăng nguồn thu cho NSNN, tiếp tục đầu tư tái sản xuất cho xã hội trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp trong thời gian tới cần được hoàn thiện theo hướng sau:
- Đa dạng hóa loại hình công ty thực hiện bảo hiểm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh thay vì chỉ thực hiện bởi Công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh như hiện nay. Mở rộng hình thức bảo hiểm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh bao gồm cả bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm tôm cá,...tới người sản xuất nông nghiệp nhằm tránh những rủi ro và tổn thất trên diện rộng.
- Sau khi kết thúc thời gian thí điểm bảo hiểm nông nghiệp tại một số xã, huyện trong tỉnh, cần phát triển bảo hiểm nông nghiệp trên diện rộng theo chuỗi ngành hàng, trong đó đặc biệt chú trọng đến bảo hiểm theo chỉ số về thiên tai, dịch bệnh trong sản xuất nông nghiệp. Triển khai và hoàn thiện giái pháp bảo hiểm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nên theo hướng tập trung vào giảm thiểu rủi ro cho nông dân sản xuất hàng hóa chứ không nên ôm đồm các mục tiêu xã hội khác như xóa đói giảm nghèo hay cải thiện công bằng xã hội. Các mục tiêu xã hội nên được xử lý trong các chương trình phân phối thu nhập và an sinh xã hội.
- Nhà nước không nên trực tiếp triển khai các chương trình bảo hiểm mà giao cho các công ty bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc thị trường để nâng cao hiệu quả kinh tế. Sự tham gia trực tiếp về mặt tài chính cần nhất từ Nhà nước là việc mua hoặc hỗ trợ tái bảo hiểm vì tổn thất do thiên tai trong nông nghiệp có thể diễn ra trên diện rộng, vượt quá sức chịu đựng của các công ty bảo hiểm.
- Đẩy mạnh việc phát triển bảo hiểm nông nghiệp cho nông dân sản xuất hàng hóa nhỏ theo hướng phối hợp giữa các công ty bảo hiểm với các tổ chức tín dụng và các tổ chức của nông dân (hội nông dân, HTX, tổ nhóm nông dân) trong việc triển khai các chương trình bảo hiểm nông nghiệp [62,14].
3.4.3. Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, chăn nuôi cho người dân
Việc sử dụng các giải pháp tài chính cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp chỉ nhằm hỗ trợ cho quá trình này được diễn ra theo đúng mục tiêu của Đảng, Nhà nước, mục tiêu phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hóa. Để phát huy hiệu quả sử dụng của các nguồn lực tài chính cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp thì việc tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, chăn nuôi cho người dân là rất cần thiết. Đây là những hoạt động nhằm chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho người dân giúp nâng cao năng suất, cây trồng, vật nuôi, mang lại các sản phẩm có giá trị cao trong nông nghiệp.
Các hoạt động này có thể bao gồm tăng cường cán bộ nông nghiệp hướng dẫn người dân cách làm đất, gieo trồng, chăm sóc vật nuôi, phòng trị bệnh đúng phương pháp; lựa chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng; phát triển kinh tế trang trại; quản lý, khai thác rừng có hiệu quả.
Về cách thức thực hiện, có thể cử cán bộ hướng dẫn trực tiếp đối với đối tượng người dân là vùng dân tộc thiểu số, hạn chế về trình độ văn hóa và khả năng tiếp thu; hướng dẫn kỹ thuật lần đầu đối với việc chuyển giao cây trồng, vật nuôi mới; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật công nghệ cho người dân. Tại các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp cho người dân cần tiếp thu ý kiến phản hồi của người dân, tổ chức trao đổi kinh nghiệm cho các hộ nông dân, khuyến khích tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm để phát huy nội lực sẵn có và giúp người dân chủ động, tích cực tham gia sản xuất. Các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho người dân cần được mô tả chi tiết, cụ thể bằng hình ảnh, hình vẽ, cách viết đơn giản, dễ hiểu để người dân có thể vận dụng tốt trong thực tế. Tìm nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định để tổ chức chăn nuôi, trồng trọt theo mô hình sản xuất lớn, cánh đồng mẫu lớn để dễ dàng áp dụng các mô hình khoa học công nghệ.
Bên cạnh đó, hướng dẫn người dân đảm bảo tính đa dạng sinh học trong hoạt động khai thác nông, lâm ngư nghiệp. Trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cần phải duy trì tính đa dạng sinh học, tuân thủ quy luật sinh vật học của tự nhiên như đánh bắt đúng kỹ thuật, đúng mùa vụ, đúng địa bàn khai thác. Nên học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã thực hiện việc cấm đánh bắt cá, săn bắt động vật hoang dã vào các mùa sinh sản, cấm sử dụng các phương tiện đánh bắt hủy diệt, vơ vét làm cạn kiệt tài nguyên. Trong sản xuất nông nghiệp cần thực hiện công tác luân canh cây trồng, xen canh, phối hợp, tránh tình trạng canh tác độc canh. Trong khai thác lâm nghiệp phải quản lý chặt chẽ địa bàn khai thác, kỹ thuật khai thác; ngăn chặn các hoạt động đốt nương rẫy, khuyến khích các chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việc sử dụng các giải pháp tài chính phù hợp sẽ góp phần huy động nguồn vốn một cách đầy đủ và kịp thời cũng như rút ngắn được thời gian thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp đối với mỗi một địa phương trong đó có tỉnh Thanh Hóa. Các giải pháp này phải được thực hiện đồng bộ và phù hợp với mục tiêu, phương hướng phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. Việc hoàn thiện, đổi mới các giải pháp tài chính thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp đang được sử dụng tại tỉnh Thanh Hóa là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của nền KTXH. Những giải pháp tài chính được trình bày trong chương 3 mang lại ý nghĩa nhất định trong việc cải thiện tình trạng thiếu vốn đầu tư cho phát triển lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Để các giải pháp tài chính này phát huy hết được hiệu quả, chương 3 của luận án cũng phân tích các điều kiện thực hiện giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
KẾT LUẬN
Thanh Hóa là một tỉnh mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và chuyển dịch CCKT nông nghiệp là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển KTXH của tỉnh đến năm 2020. Chiến lược phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020 là có CCKT hợp lý, hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH phát triển đồng bộ, hiện đại. Trong đó, ngành nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa qui mô lớn, hiệu quả, bền vững, gắn với đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn và giải quyết tốt vấn đề nông dân. Tiến tới xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch hướng tới xuất khẩu, tăng nhanh giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích. Đồng thời, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, chủ động ứng phó có hiệu quả với thiên tai.
Để thực hiện thành công mục tiêu này, tỉnh Thanh Hóa cần phải có sự chuẩn bị cả về nhân lực và vật lực phục vụ cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Trong đó, giải pháp tài chính là đòn bẩy kinh tế hết sức quan trọng trong việc tạo nguồn vốn, tạo đà tăng trưởng cho khu vực nông nghiệp. Luận án đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về sử dụng các giải pháp tài chính chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Đồng thời luận án cũng phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính trong thời gian qua để thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở đó, đưa ra những phương hướng hoàn thiện các giải pháp tài chính cũng như những đề xuất đổi mới các giải pháp tài chính sao cho phù hợp với mục tiêu chuyển dịch CCKT nông nghiệp, chiến lược phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Luận án đã làm sáng tỏ được 3 vấn đề lớn:
(1) Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về CCKT, chuyển dịch CCKT nông nghiệp và vai trò, tác động của tài chính đến chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Trong phần nội dung này, tác giả đã làm rõ các vấn đề liên quan đến chuyển dịch CCKT nông nghiệp như: CCKT, CCKT nông nghiệp, như thế nào là chuyển dịch CCKT nông nghiệp, các chỉ tiêu cơ bản đánh giá mức độ chuyển dịch CCKT nông nghiệp, đồng thời chỉ ra cơ sở khách quan của việc phải thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp và những yếu tố tác động tới quá trình đó. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu vào phân tích vai trò, tác động của tài chính tới việc thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông nghiệp; đúc rút bài học kinh nghiệm về việc sử dụng các giải pháp tài chính cho chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa của một số quốc gia và địa phương trong nước.
(2) Luận án đi sâu vào đánh giá những thuận lợi cũng như những khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Thanh Hóa đến quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp. Từ đó, luận án phân tích thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính chủ yếu đó là chi NSNN, TDNN, TDNH cho quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa đồng thời đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế.
(3) Bám sát các mục tiêu phát triển KTXH tỉnh Thanh Hóa, mục tiêu và phương hướng chuyển dịch CCKT nông nghiệp, luận án đã đưa ra các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp tài chính, các giải pháp hỗ trợ để đạt được mục tiêu chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa.
Các nội dung đề cập trong luận án nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra. Những vấn đề về chuyển dịch CCKT nông nghiệp và tác động của các giải pháp tài chính luôn là những vấn đề đòi hỏi tính lý luận và thực tiễn rất cao. Việc đề xuất các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa mang tính đặc thù và gặp phải những khó khăn khi hệ thống số liệu thống kê không nhất quán cùng với việc nghiên cứu, khảo sát của tác giả còn hạn chế. Mặc dù tác giả đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thành luận án, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học, chuyên gia và những người quan tâm đến chủ đề nghiên cứu của luận án.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- la_nop_hv_ngo_huong_0787.doc