Đối với quyền tư pháp, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên,
cần nhận thức rằng: quyền tư pháp là quyền tài phán của Nhà nước được thực
hiện dưới hình thức xét xử - là chức năng được trao duy nhất cho Tòa án.
Quyền tư pháp là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy
ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh
chấp giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức; tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức
với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi cơ quan thực hiện quyền tư pháp
không thể đứng ngoài các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có tranh
chấp và giữa các bên không có được sự thỏa thuận, hòa giải và có một bên
khởi kiện, thì Tòa án không thể không can thiệp bằng quyền lực của mình.
Tòa án không thể từ chối giải quyết các tranh chấp đó vì lý do không có luật
điều chỉnh. Có như vậy, quyền con người, quyền công dân mới được bảo vệ;
trật tự pháp luật mới được duy trì.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 164 trang
164 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 662 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ quan hành pháp là cơ quan thực thi pháp luật, có nhiệm vụ, quyền 
hạn quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của 
thực tiễn xã hội luôn luôn đa dạng, sôi động, phức tạp mà nhiều khi pháp 
luật không dự kiến trước được, không bao quát hết được. Pháp luật luôn 
luôn lạc hậu trước sự phát triển và diễn biến khó lường của thực tiễn xã 
hội. Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động của mình, cơ quan hành pháp phải 
130 
hết sức linh hoạt, sáng tạo có khi trong khuôn khổ của pháp luật, nhưng 
cũng có khi vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Do đặc điểm nêu trên của 
hành pháp khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nên việc kiểm soát 
thực hiện quyền lực hành pháp của cơ quan tư pháp phải rất thận trọng. Khi 
có những vấn đề liên quan đến chính sách, pháp luật, quyết định hành 
chính của cơ quan hành pháp thì trong tài phán, nhận xét, kết luận, kiến 
nghị của mình cơ quan tư pháp phải soi xét kỹ càng. Cơ quan tư pháp phải 
đặt những chính sách, văn bản, quyết định hành chính trong hoàn cảnh lịch 
sử cụ thể đối chiếu với yêu cầu quản lý nhà nước từ thực tiễn để ủng hộ 
tính linh hoạt, sáng tạo của hành pháp; không nên vội vã kết luận có tính 
chất pháp lý đơn thuần cứng nhắc làm thui chột tinh thần chủ động, sáng 
tạo, linh hoạt của hành pháp. Để thực hiện quan điểm này phải có giải pháp 
nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa tư pháp và hành pháp; nâng cao 
trình độ, năng lực của cán bộ tư pháp để có khả năng nhận diện cái 
đúng, cái sai, nhận thức đúng đắn quan hệ giữa cái bất hợp pháp nhưng hợp 
lý và bất hợp pháp nhưng phù hợp với yêu cầu của cuộc sống. 
4.2. Giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền 
hành pháp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay 
4.2.1. Đổi mới nhận thức về quyền tư pháp, quyền hành pháp và mối 
quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này 
Trong giới khoa học pháp lý hiện nay, nếu quyền hành pháp về cơ bản 
được nhận thức tương đối thống nhất thì các quan điểm về quyền tư pháp gần 
như chưa tìm được tiếng nói chung. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động 
của quyền tư pháp, quyền hành pháp, trước hết cần nhận thức đúng và đầy đủ 
về hai nhánh quyền này, đặc biệt là quyền tư pháp. 
Như đã phân tích ở chương hai, có rất nhiều quan điểm nhận diện 
quyền hành pháp và về cơ bản các quan điểm đó đều chung nhau ở một điểm: 
131 
quyền hành pháp tuy về nguyên nghĩa là chấp hành và tổ chức thực thi các 
đạo luật nhưng không đơn thuần chỉ là sự chấp hành các đạo luật một cách thụ 
động; Quyền hành pháp ngày nay không chỉ là công việc điều hành chính 
sách quốc gia mà còn phải thực hiện công việc hoạch định chính sách quốc 
gia (để cơ quan lập pháp phê chuẩn chính sách một cách chính thức). 
Đối với quyền tư pháp, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên, 
cần nhận thức rằng: quyền tư pháp là quyền tài phán của Nhà nước được thực 
hiện dưới hình thức xét xử - là chức năng được trao duy nhất cho Tòa án. 
Quyền tư pháp là quyền giải quyết, phán quyết về các tranh chấp pháp lý xảy 
ra trong xã hội. Đó có thể là các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân; tranh 
chấp giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức; tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức 
với nhau. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi cơ quan thực hiện quyền tư pháp 
không thể đứng ngoài các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Khi các bên có tranh 
chấp và giữa các bên không có được sự thỏa thuận, hòa giải và có một bên 
khởi kiện, thì Tòa án không thể không can thiệp bằng quyền lực của mình. 
Tòa án không thể từ chối giải quyết các tranh chấp đó vì lý do không có luật 
điều chỉnh. Có như vậy, quyền con người, quyền công dân mới được bảo vệ; 
trật tự pháp luật mới được duy trì. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài 
nghiêm khắc nhất của Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực 
Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, quy định của Hiến pháp 
là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các 
loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền. 
Ngoài ra, việc xác lập và bảo đảm mối quan hệ: phân công, phối hợp, 
kiểm soát giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp mà cụ thể là Chính phủ và 
Tòa án là tất yếu khách quan trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. 
Phân công là tiền đề, cơ sở để thực hiện sự phối hợp và kiểm soát giữa hai 
nhánh quyền lực này. Sự phối hợp dựa trên tiền đề phân công trên cơ sở hỗ 
132 
trợ nhằm đảm bảo thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước. Kiểm soát giữa 
quyền tư pháp và quyền hành pháp là một tất yếu trong Nhà nước pháp quyền, 
càng là tất yếu trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Kiểm soát giữa 
quyền tư pháp và quyền hành pháp không đồng nghĩa với việc can thiệp, làm 
phương hại đến độc lập của tư pháp, hành pháp. Trái lại, hiệu quả kiểm soát 
quyền tư pháp, quyền hành pháp càng được nâng cao thì càng tạo ra tiền đề để 
tư pháp độc lập thực sự và không làm mất đi tính mềm dẻo, linh hoạt của 
hành pháp. Dù mức độ, phạm vi kiểm soát giữa hai nhánh quyền này đến đâu 
thì cũng phải dựa trên công cụ pháp luật thể hiện ý chí của Nhân dân - chủ 
nhân của quyền lực nhà nước, tránh sự can thiệp tùy tiện vào quá trình thực 
hiện quyền tư pháp, quyền hành pháp. Và cũng cần xác định được mục đích 
xuyên suốt của việc bảo đảm mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát 
giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nói chung và giữa 
quyền tư pháp và quyền hành pháp nói riêng ở nước ta, đó là đảm bảo tất cả 
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; xứng đáng là Nhà nước pháp quyền 
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như đã hiến định ở Điều 2 – 
Hiến pháp năm 2013. 
4.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư 
pháp và quyền hành pháp 
4.2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Tòa án trong mối quan 
hệ phân công, phối hợp, kiểm soát Chính phủ 
Đối với cơ chế tài phán hành chính 
Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi kiểm soát quyền lực của tư pháp đối 
với hành pháp 
Như trên đã phân tích, theo quy định của pháp luật hiện hành việc 
kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản pháp luật do hệ thống cơ quan 
hành chính nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương ban hành do cơ 
133 
quan quyền lực và cơ quan hành chính trong cùng hệ thống thực hiện. Tuy 
nhiên, thực tế hoạt động này chưa đem lại hiệu quả. Trường hợp nếu được 
kiểm soát bởi cơ quan hành chính cấp trên lại mang tính nội bộ, không khách 
quan, hiệu lực, hiệu quả không cao. Còn nếu các văn bản ở trung ương thì 
Quốc hội sẽ thực hiện việc giám sát. Thực tế, cơ quan lập pháp nước ta chưa 
tuyên bố hủy bỏ một văn bản nào được ban hành bởi cơ quan hành pháp bất 
hợp hiến hay bất hợp pháp. Quốc hội không phải là cơ quan giải quyết các vụ 
việc cụ thể, nên khó có thể biết được văn bản nào vi hiến hay vi luật. Hoạt 
động này thường chỉ phát hiện được trong quá trình áp dụng pháp luật của 
Tòa án . Chính vì vậy, cần mở rộng phạm vi xét xử của Tòa án đối với tất cả 
các khiếu kiện hành chính, phán quyết về các quyết định hành chính, hành vi 
hành chính của cơ quan hành pháp, bao gồm cả của Chính phủ và thành viên 
Chính phủ. Đây cũng là xu thế tất yếu của Nhà nước pháp quyền và là một 
phương thức để Tòa án kiểm soát Chính phủ. 
Mặt khác, cần nghiên cứu bổ sung tiêu chí tính hợp lý khi xem xét các 
quyết định hành chính, hành vi hành chính để đảm bảo tính khả thi, điều kiện 
thực hiện của quyết định hành chính, hành vi hành chính trên thực tế. 
Thứ hai, đảm bảo tính độc lập của Tòa án hành chính với các cơ quan 
hành pháp. 
Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy hệ thống tổ chức cơ 
quan tài phán hành chính thường được tổ chức theo khu vực và được tổ chức 
theo cấp xét xử. Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, 
Chúng ta đang chủ trương cải cách hệ thống Tòa án theo cấp xét xử, không tổ 
chức Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ như hiện nay. Nếu Tòa hành 
chính vẫn được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ sẽ không đảm bảo 
được tính khách quan, độc lập trong xét xử của Tòa án. Tác giả luận án ủng 
134 
hộ việc nghiên cứu xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực theo định hướng cải 
cách tư pháp. Việc xây dựng tòa án sơ thẩm khu vực có ý nghĩa rất lớn đối 
với việc tòa án giải quyết các vụ án hành chính, góp phần tăng cường tính độc 
lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vụ án hành chính của thẩm phán và 
hội thẩm nhân dân. Từ đó, chất lượng xét xử các vụ án hành chính sẽ được 
nâng cao. Mặt khác, việc tổ chức TAND sơ thẩm khu vực sẽ làm giảm số 
lượng các TAND cấp huyện hiện nay. Qua đó, góp phần tập trung nguồn lực 
để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho các tòa án sơ 
thẩm khu vực. 
Thứ ba, cần nghiên cứu trao cho Tòa án thẩm quyền xem xét và hủy bỏ 
hay đình chỉ thi hành các quyết định hành chính quy phạm trái với Hiến pháp, 
Luật. Pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định quyền kiến nghị 
cơ quan có thẩm quyền đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp 
luật trái với Hiến pháp, pháp luật. Điều này tạo cho Tòa án cơ chế kiểm soát 
cơ quan hành pháp tốt hơn, nghiêm khắc hơn và hiệu quả hơn. 
Ngoài ra, cần phải nâng cao trình độ, năng lực xét xử của thẩm phán và 
thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời, đảm bảo lương, phụ cấp cho 
thẩm phán hành chính để nâng cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của 
thẩm phán trong xét xử. 
Quy định rõ chức năng bảo vệ Hiến pháp của Tòa án 
Cho đến nay, vấn đề bảo hiến không được đặt ra trong luật thực định 
Việt Nam một cách chuyên biệt, mà được coi là một phần của vấn đề chung về 
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Cơ chế bảo đảm được xây 
dựng dựa vào tư tưởng chủ đạo theo đó Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước 
cao nhất, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động xây dựng pháp 
luật bao gồm cả chính hoạt động làm luật của mình. Tư tưởng ấy là hệ quả 
logic của nguyên tắc tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước về tay nhân dân, 
135 
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước XHCN Việt Nam. 
Ở Pháp, người ta thiết lập một trật tự đánh giá chất lượng văn bản: 
khái niệm hợp hiến hay bất hợp hiến chỉ áp dụng đối với các đạo luật; còn văn 
bản lập quy được đánh giá trong một quan hệ so sánh với luật và văn bản 
không hợp luật có thể bị huỷ bỏ. Về thẩm quyền, việc kiểm tra tính hợp hiến 
của một đạo luật là việc của Hội đồng bảo hiến; trong khi đó, việc kiểm tra 
tính hợp luật của một văn bản lập quy, trên nguyên tắc, là công việc của Toà 
án hành chính: kết quả kiểm tra được ghi nhận trong một bản án hành chính 
và có thể được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm cũng trong khuôn khổ tố 
tụng hành chính. 
Ở Mỹ, việc bảo hiến có thể được thực hiện bởi các cấp toà án và diễn 
ra theo trình tự tố tụng áp dụng chung cho tất cả các vụ việc tranh chấp được 
Toà án thụ lý và giải quyết. Tuy nhiên, Toà án không làm nhiệm vụ thẩm 
định tính hợp pháp của văn bản quy phạm, mà chỉ đánh giá văn bản về 
phương diện tính hợp hiến. Lý do là dưới sự ràng buộc của nguyên tắc phân 
quyền, quan toà không phải là người gác cổng của cơ quan lập pháp, cũng 
không phải là người giúp cơ quan lập pháp phán xét chất lượng hoạt động 
chuyên môn, đặc biệt là chất lượng hoạt động thi hành pháp luật, của các cơ 
quan thuộc hệ thống hành pháp. 
Việt Nam không nhất thiết phải phân biệt tài phán bảo hiến đối với 
luật và tài phán hành chính về tính hợp luật của văn bản lập quy, như ở Pháp. 
Việc giao chức năng bảo hiến cho tất cả các cấp toà án như ở Mỹ càng không 
phù hợp với các đặc điểm của hệ thống chính trị và của tổ chức bộ máy nhà 
nước Việt Nam. Vả lại, như đã nói, con người Việt theo truyền thống chịu ảnh 
hưởng rất sâu đậm của tư tưởng tôn ti trật tự: ở một vị trí nào đó trong hệ 
thống, người ta nhìn thấy chân lý thuộc về cấp chỉ huy, cấp trên trực tiếp, 
không xa hơn, cao hơn. 
136 
Theo tác giả, mô hình tốt nhất cho Việt Nam trong khung cảnh hiện tại 
có lẽ là sự kết hợp giữa cơ chế bảo hiến của Pháp và hệ thống giám sát, kiểm 
tra văn bản đang vận hành. Một mặt, có một Toà án hiến pháp độc lập và 
chuyên trách, đảm nhận chức năng bảo hiến và được giao thẩm quyền kiểm 
tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm do Quốc hội ban hành. Mặt khác, 
vẫn duy trì cơ chế giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm như hiện tại với một 
vài điều chỉnh hợp lý: căn cứ giám sát, kiểm tra cao nhất là các luật, nghị 
quyết của Quốc hội; thừa nhận quyền khiếu nại của công dân trước cơ quan 
thẩm quyền đối với một văn bản quy phạm trái luậtVề lâu dài, nếu do kết 
quả cải cách tư pháp mà hệ thống toà án thoát khỏi cái bóng của hệ thống 
hành chính quản lý để được tổ chức theo khu vực và theo cấp xét xử, thì việc 
giao cho Toà hành chính của Toà án thụ lý việc tranh chấp về tính hợp luật 
của một văn bản lập quy sẽ có điều kiện để trở nên khả thi. 
Hiến pháp cần trao cho Tòa án có thẩm quyền giải thích pháp luật 
Nhìn chung, ở những quốc gia theo truyền thống thông luật hay truyền 
thống luật dân sự, việc giải thích pháp luật đều được trao cho Tòa án. Thông 
thường, các Thẩm phán giải thích pháp luật thông qua những vụ việc cụ thể 
được giải quyết tại Tòa án. Giải thích pháp luật là nghĩa vụ, là một phần công 
việc hàng ngày của Thẩm phán ở các quốc gia này. 
Việt Nam là một quốc gia theo truyền thống pháp luật XHCN, Tòa án 
không được trao cho quyền giải thích pháp luật. Quyền này được trao y ban 
thường vụ Quốc hội [6, Khoản 2 Điều 74]. TAND tối cao chỉ có quyền đề 
nghị y ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh [18, 
Khoản 1 Điều 159]. Như vậy, các Thẩm phán Việt Nam không có quyền giải 
thích pháp luật. Tuy nhiên, với quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 
về việc áp dụng án lệ tại Tòa án, thì Thẩm phán cần phải diễn giải pháp luật 
khi xét xử các vụ án. Như vậy, cũng như Thẩm phán của các quốc gia trên thế 
137 
giới, Thẩm phán Việt Nam có nghĩa vụ phải giải thích pháp luật trong hoạt 
động xét xử của mình. Việc giải thích pháp luật của Thẩm phán (Tòa án) hoàn 
toàn khác về tính chất với giải thích pháp luật của y ban thường vụ Quốc 
hội. Nếu giải thích pháp luật của y ban thường vụ Quốc hội là có tính bắt 
buộc chung thì giải thích pháp luật của Thẩm phán (Tòa án) chỉ có hiệu lực 
đối với vụ án cụ thể mà Thẩm phán xét xử và chỉ được áp dụng cho những vụ 
án tương tự xảy ra trong tương lai nếu đó là án lệ. 
Thiết nghĩa, ở Việt Nam, Hiến pháp cần trao cho Tòa án có thẩm 
quyền giải thích pháp luật. Bởi luật pháp dù được xây dựng công phu, ban 
hành liên tục cũng không thể tránh khỏi tình trạng chồng chéo và khoảng 
trống giữa các quy định. Điều đó càng đúng với hoạt động lập pháp nước ta 
hiện nay, khi nhiều văn bản quy phạm còn mang tính “khung”, “định hướng” 
để cơ quan quản lý dễ dàng sửa đổi, bổ sung bằng các văn bản dưới luật, dễ 
dẫn đến cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng luật. Và giải thích luật 
thông qua thực tiễn xét xử là cách hiệu quả nhất để hướng dẫn áp dụng thống 
nhất pháp luật. 
4.2.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Chính phủ trong mối 
quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát Tòa án 
Thống nhất thẩm quyền Chính phủ quản lý đội ngũ cán bộ, công chức 
Theo tác giả, cần sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ trong đó giao Chính 
phủ thẩm quyền phê chuẩn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp 
việc của TAND và quy định chế độ chính sách đối với thư ký Tòa án, thẩm tra 
viên, chế độ lương, phụ cấpđể đảm bảo Chính phủ là cơ quan hành chính 
nhà nước cao nhất mà Hiến pháp đã xác định. Việc quy định như thế này sẽ là 
cơ sở để đảm bảo sự kiểm soát quyền lực giữa Chính phủ và Tòa án, tránh các 
nguy cơ nảy sinh từ sự tách biệt, khép kín của các Tòa án như hiện nay. Trong 
lịch sử lập hiến ở Việt Nam, thời kỳ Hiến pháp năm 1980, cơ quan của Chính 
138 
phủ - Bộ Tư pháp là người quản lý về mặt tổ chức đối với đội ngũ thẩm phán. 
Điều này giúp TAND được tổ chức độc lập, không có sự lệ thuộc lẫn nhau về 
mặt tổ chức giữa các tòa án trong hệ thống tòa án hay trong cùng một tòa án - 
dẫn đến sự lệ thuộc của các thẩm phán đối với các cấp lãnh đạo của họ. Tác 
giả cho rằng, cần nghiên cứu để quay lại cơ chế này, cần bóc tách các vấn đề 
quản lý tổ chức, con người ra khỏi hệ thống tòa án, giao lại cho cơ quan hành 
pháp. Làm như vậy không những đảm bảo được nguyên tắc tối thượng trong 
xét xử là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của các thẩm phán mà còn góp 
phần hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu giữa cơ quan hành 
pháp với cơ quan tư pháp. 
Tăng cường chức năng kiểm soát của Chính phủ đối với TAND thông 
qua việc chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công tố thuộc hệ thống 
hành pháp 
Mô hình Viện công tố được thành lập chủ yếu ở các nước theo truyền 
thống pháp luật Châu Âu lục địa điển hình như Đức, Pháp, Italia... Ở các nước 
này, Viện công tố thuộc Chính phủ nên trong quá trình thực hiện quyền truy 
tố, Viện công tố thực hiện vai trò là cơ quan đại diện quyền lực công, thể hiện 
quan điểm, thái độ và sự phản ứng của công quyền trước các tranh chấp pháp 
lý, các vụ án được đưa ra xem xét tại Tòa án. 
Mô hình Viện công tố đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du 
nhập vào sau khi xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Mô hình đó đã tiếp tục 
tồn tại sau Cách mạng Tháng Tám 1945, mặc dù hệ thống pháp luật và bộ 
máy nhà nước của chế độ thực dân – phong kiến bị xóa bỏ, thay vào đó là bộ 
máy của nhà nước kiểu mới. Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc đó Hiến 
pháp 1946 chỉ đề cập đến tổ chức tòa án. Trong cơ cấu của tòa án có các công 
tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh nhà nước trước phiên tòa trong các 
vụ án hình sự. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958 Viện công tố 
139 
Trung ương được thành lập trên cơ sở tách các công tố viên ra khỏi tòa án, 
đánh dấu bước khởi đầu trong việc hình thành một hệ thống cơ quan nhà nước 
độc lập với tòa án nhưng Viện công tố Trung ương vẫn trực thuộc Chính phủ. 
Hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước tòa án 
nhưng đã bao hàm một số yếu tố của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp 
luật như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam giữ cải tạo. 
Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau mô hình Viện công tố đã chấm dứt tồn tại. 
Vào thời điểm năm 1959-1960 cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát 
triển mới – giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội 
ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất 
nước. Nhu cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp 
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành 
động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành 
hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc 
chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó 
khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân 
theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được 
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy sự ra đời của mô hình Viện 
kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu 
của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất – điều kiện nền tảng cho việc xây 
dựng nhà nước kiểu mới. 
Hiện nay, ở nước ta, cơ quan được giao thực hiện quyền công tố là 
Viện kiểm sát nhân dân, độc lập với Chính phủ. Mặt khác, theo quy định của 
Luật tổ chức TAND thì hệ thống Tòa án ở nước ta được tổ chức từ trung ương 
đến địa phương như một hệ thống khép kín, Tòa án cấp trên lãnh đạo Tòa án 
cấp dưới và Tòa án cấp dưới trực thuộc Tòa án cấp trên cả trên phương diện 
quan hệ tố tụng và quan hệ hành chính; TAND tối cao quản lý các Tòa án địa 
140 
phương mà không phải Chính phủ như đã từng được quy định trong các luật 
tổ chức Tòa án trước đây. Do đó, Chính phủ không có cơ chế nào để kiểm 
soát hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp. 
Theo tác giả, để tạo ra một cơ chế kiểm soát quyền lực đầy đủ của cơ 
quan hành pháp với cơ quan tư pháp thì phải cải cách triệt để mô hình viện 
kiểm sát, chuyển viện kiểm sát thành cơ quan công tố thuộc Chính phủ. Khi 
cơ quan công tố thuộc hành pháp rồi thì quyền kháng nghị của cơ quan công 
tố đối với các bản án, quyết định của tòa án chính là công cụ quan trọng nhất 
trong kiểm soát quyền lực giữa cơ quan hành pháp đối với cơ quan tư pháp. 
4.2.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện mối quan 
hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp 
4.2.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy và năng lực, phẩm chất đội ngũ cán 
bộ, công chức các cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp 
* Đối với Chính phủ 
Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Chính Phủ trước hết 
cần sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ, của các bộ, cơ quan 
ngang bộ theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả. Sau hơn 4 năm thi hành 
Luật Tổ chức Chính phủ, hiện tại Chính phủ gồm 22 bộ, cơ quan ngang bộ (số 
lượng này từ khóa XII tiếp tục được duy trì trong khóa XIII và khóa XIV. 
Việc sắp xếp, sáp nhập các bộ thành bộ quản lý đa ngành chưa thật sự đi liền 
với việc điều chỉnh sâu về chức năng, cắt giảm, lồng ghép nhiệm vụ dẫn đến 
khối lượng công việc, phạm vi lĩnh vực quản lý của bộ trở nên phức tạp. Việc 
sáp nhập không kèm theo tái cơ cấu lại cấu trúc bên trong của các bộ khiến 
cho tổ chức bộ máy bên trong bộ, cơ quan ngang bộ trở nên cồng kềnh, nhiều 
tầng nấc trung gian, số đầu mối đơn vị hành chính tăng cao. Cơ cấu tổ chức 
của bộ, cơ quan ngang bộ vẫn phổ biến theo mô hình truyền thống. Số tổng 
cục được thành lập ngày càng tăng, trong tổng cục cũng tổ chức cục, vụ, văn 
141 
phòng, thanh tra, đơn vị sự nghiệp tạo nên mô hình bộ trong bộ, không những 
làm tăng tính cồng kềnh của bộ máy mà còn làm tăng tính quan liêu, giảm 
hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý [108]. 
Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là cần các giải pháp cải cách quyết liệt 
để tái cơ cấu bộ máy Chính phủ, bộ máy các bộ, cơ quan ngang bộ theo đúng 
quan điểm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, tập trung xây dựng chính 
phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân. Tiếp tục 
thực hiện nhất quán và nâng cao hiệu quả mô hình bộ quản lý đa ngành, đa 
lĩnh vực, điều chỉnh hợp lý ngành, lĩnh vực quản lý giữa các bộ để xác định 
hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ. Nghiên cứu hợp nhất một số bộ có 
chức năng gần nhau, đối tượng và phạm vi quản lý liên quan với nhau để khắc 
phục tình trạng cắt khúc, chồng chéo hoặc bỏ trống trong quản lý nhà nước 
nhưng phải đảm bảo sự liên thông, đồng bộ, thống nhất của bộ máy Chính 
phủ. Đổi mới việc sắp xếp, tái cấu trúc tổ chức bên trong của bộ, cơ quan 
ngang bộ theo hướng tinh gọn, giảm cấp trung gian. Trên tinh thần đó, xác 
định rõ tiêu chí thành lập phòng, vụ, cục, tổng cục, tạo khung tổ chức thống 
nhất, đồng bộ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ. Nếu Chính phủ làm tốt được 
việc này thì mới nâng cao được năng lực và hiệu quả quản lý của mình. 
Đối với cán bộ, công chức, viên chức cần làm tốt công tác giáo dục 
chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về 
đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường tuyên 
truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng 
thuận trong xã hội. Trong nhiều năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, 
công chức, viên chức ở nước ta chủ yếu vẫn theo kiểu “hàn lâm”, nặng về lý 
luận, chưa chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tổ chức thực tiễn, năng 
lực giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Không ít cán bộ, công 
chức, viên chức chưa thật sự say mê học tập, trình độ kiến thức không ngang 
142 
tầm bằng cấp được nhận, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao... Điều 
đó đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng đào tạo, 
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo hướng hiện đại, chuẩn hóa 
chuyên sâu; gắn đào tạo cơ bản tại trường và bồi dưỡng, rèn luyện trong thực 
tiễn để đánh giá, tuyển chọn, tạo nguồn và phát triển tài năng của cán bộ, 
công chức, viên chức. Cần gắn kết chặt chẽ đào tạo với sử dụng, sử dụng 
đúng chuyên môn được đào tạo; không tuyển chọn hoặc bố trí, sử dụng những 
cán bộ, công chức, viên chức chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn 
theo chức danh đảm nhiệm. 
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, tạo động lực để đội 
ngũ cán bộ, công chức, viên chức yên tâm gắn bó với công việc, không 
ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm 
vụ thời kỳ mới. Trước hết, cần hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi 
dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức; gắn trách nhiệm với 
quyền hạn, quyền lợi với nghĩa vụ. Tiếp tục nghiên cứu cải tiến chế độ tiền 
lương, bảo hiểm xã hội, bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức có thể 
sống và sống tốt bằng thu nhập chính đáng của mình. Trên cơ sở bảo đảm 
đầy đủ các quyền và lợi ích chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức, 
các cấp ủy, người đứng đầu vừa động viên, khuyến khích, vừa yêu cầu từng 
cán bộ, công chức, viên chức phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng 
cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu công việc, hoàn thành tốt chức 
trách, nhiệm vụ được giao. 
* Đối với Tòa án nhân dân 
Thời gian qua, công tác tổ chức cán bộ của các Tòa án được tập trung 
vào việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung 
ương 6, khóa XII về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống 
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện các quy định, quy 
143 
chế về công tác tổ chức, cán bộ của hệ thống Tòa án làm cơ sở cho việc xây 
dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán có đủ phẩm chất, năng lực theo yêu cầu của 
nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện đại; bảo đảm cho các TAND sẵn 
sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời 
kỳ hội nhập, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. 
Để nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ, thẩm phán tòa án, trước 
hết cần sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo hướng chuyên sâu (theo loại án, lĩnh 
vực); rà soát đánh giá lại đội ngũ cán bộ, Thẩm phán để có kế hoạch đào tạo, 
bồi dưỡng bố trí sử dụng phù hợp với năng lực, sở trường. Ngoài ra, cần xây 
dựng cơ chế tạo nguồn, tuyển chọn, sử dụng cán bộ, Thẩm phán trên cơ sở 
tiêu chuẩn của từng chức danh gắn với vị trí việc làm của từng đơn vị, Toà án. 
Làm tốt công tác tuyển dụng sẽ tạo ra một thế hệ cán bộ tốt, tạo nguồn lực 
phát triển đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh. Xây dựng cơ chế thu 
hút cán bộ có trình độ; sinh viên tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, chuyên 
ngành Toà án loại giỏi về công tác tại các TAND. Có chính sách đặc thù, ưu 
tiên cho các Toà án địa phương vùng sâu, vùng xa khó thu hút nguồn nhân lực 
có chất lượng trong công tác tuyển dụng và đào tạo (mở rộng hình thức cử 
tuyển, tăng cường việc đào tạo tập trung). Bên cạnh đó, việc tăng cường 
công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán là vô 
cùng quan trọng. Làm tốt công tác này sẽ giúp đội ngũ cán bộ, Thẩm phán 
TAND các cấp ngày càng trưởng thành, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi 
về nghiệp vụ, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó 
khăn, phức tạp của thời kỳ hội nhập; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi 
mới của đất nước. 
4.2.3.2. Bảo đảm điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động 
cho cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp 
Điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh phí hoạt động là những yếu tố 
144 
không thể thiếu và tác động đến hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp, cơ 
quan hành pháp. Những điều kiện vật chất này tạo điều kiện thuận lợi cho 
hoạt động của cơ quan tư pháp và hành pháp. 
Đối với TAND, cần tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, 
phương tiện làm việc cho các Tòa án. TAND tối cao trên cơ sở phê duyệt bố 
trí kinh phí của Thủ tướng Chính phủ, sớm hoàn thành việc đầu tư xây dựng 
mới trụ sở cho 35 TAND cấp huyện hiện chưa có trụ sở phải đi thuê địa điểm 
làm việc. Đồng thời, cải tạo, mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng xét xử 
của các Tòa án theo yêu cầu mới của pháp luật tố tụng và thực hiện đề án 
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tintrong hoạt động chuyên môn 
nghiệp vụ và trong hoạt động quản lý, điều hành. Tiếp tục đổi mới thủ tục 
hành chính - tư pháp, đảm bảo công khai minh bạch các hoạt động của Tòa 
án, đặc biệt là việc công khai bản án, quyết định của Tòa án trên cổng thông 
tin điện tử của TAND. 
Đối với Chính phủ, trong điều kiện phát triển của khoa học, công nghệ 
cần phải khẩn trương chuẩn bị các yếu tố cần thiết để tận dụng Cách mạng 
công nghiệp 4.0. Chính phủ cần thực hiện ngay các giải pháp quan trọng như 
phát triển hạ tầng kết nối số, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị 
thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số Trong đó xây 
dựng kho dữ liệu dùng chung là vấn đề cấp bách hiện nay, bao gồm ba nền 
tảng dữ liệu là cơ sở dữ liệu nền địa hình, địa chính; cơ sở dữ liệu người dân, 
cơ sở dữ liệu doanh nghiệp. Trong cơ sở dữ liệu về hoạt động của nhà nước, 
các văn bản, quyết định đều được công khai, minh bạch thuận tiện cho việc 
tra cứu, sử dụng cũng như kiểm tra, kiểm soát; tăng cường các dịch vụ công 
trực tuyến. Để làm được điều này thì một trong những yếu tố quan trọng là 
phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí xây dựng một 
“Chính phủ điện tử” thực sự mạnh. 
145 
Các giải pháp bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành 
pháp cần được tiến hành đồng bộ, coi trọng mọi giải pháp, từ khâu nhận thức 
đến hoàn thiện pháp luật và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực 
hiện mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. 
Kết luận Chương 4 
Sau khi làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng, luận án đã 
đề xuất quan điểm bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành 
pháp như sau: quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải đảm bảo 
nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước 
là thống nhất, cơ sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà 
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp”; quan 
hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp phải bảo đảm nguyên tắc Đảng 
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội; quan hệ giữa quyền tư pháp 
và quyền hành pháp phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án cũng như bảo đảm 
sự chủ động linh hoạt của hành pháp, thúc đẩy quyền hành pháp hoạt động 
hiệu lực, hiệu quả. 
Đồng thời, luận án xác định, để bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư 
pháp và quyền hành pháp mà trọng tâm là giữa TAND và Chính phủ, cần thực 
hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: thứ nhất, đổi mới nhận thức về quyền tư 
pháp, quyền hành pháp và mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực này; thứ hai, 
hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp; 
thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, 
quyền tư pháp; và cuối cùng là bảo đảm điều kiện vật chất, trang thiết bị, kinh 
phí hoạt động cho cơ quan tư pháp và hành pháp. Các nhóm giải pháp có mối 
liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để phát huy hiệu lực, hiệu quả 
trong thực hiện mối quan hệ giữa TAND và Chính phủ nói riêng cũng như 
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. 
146 
KẾT LUẬN 
Việc xác lập và bảo đảm mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền 
hành pháp mà trọng tâm là giữa TAND với Chính phủ có vai trò vô cùng 
quan trọng. Ngoài việc góp phần kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước giữa 
quyền tư pháp và quyền hành pháp; góp phần bảo đảm thực thi quyền tư pháp 
và quyền hành pháp có hiệu lực, hiệu quả; thì đích đến cuối cùng là bảo đảm 
quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân - yêu cầu tất yếu khi 
xây dựng nhà nước pháp quyền. Phân công hợp lý, rõ ràng; phối hợp nhịp 
nhàng và kiểm soát chéo lẫn nhau giữa tư pháp và hành pháp là một bước tiến 
của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước và cũng là những thành tựu lý 
luận quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong quá trình xây dựng 
Nhà nước pháp quyền XHCN. 
Các quốc gia trên thế giới, tùy thuộc vào hình thức chính thể, vai trò 
của Đảng cầm quyền, bối cảnh lịch sử, mức độ hoàn thiện của các quy định 
trong hệ thống pháp luậtmà thiết kế mô hình tổ chức bộ máy nhà nước 
trong đó xác lập và thực hiện mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và 
tư pháp khác nhau. 
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp được 
hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử và xu hướng ngày càng 
hoàn thiện, được ghi nhận trong Hiến pháp và hệ thống các văn bản pháp luật 
liên quan. Tuy nhiên, pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về mối quan hệ 
giữa hai nhánh quyền lực này còn nhiều bất cấp hạn chế, chưa đảm bảo được 
sự độc lập của tư pháp cũng như sự linh hoạt, mềm dẻo, chủ động, sáng tạo 
của hành pháp. Do đó, hiệu quả hoạt động của quyền hành pháp, quyền tư 
pháp nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung chưa cao, chưa thực sự đáp ứng 
được yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Luận án xây 
dựng các nhóm giải pháp từ đổi mới tư duy, nhận thức đến hoàn thiện các quy 
147 
định của pháp luật và các điều kiện bảo đảm mối quan hệ từ đội ngũ đến cơ sở 
vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động của tư pháp và hành pháp. 
Trong đó, đặc biệt chú trọng nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối 
quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp. Thực hiện đồng bộ các 
nhóm giải pháp này sẽ tạo được sự phân công rõ ràng, trọn vẹn, hợp lý; sự 
phối hợp nhịp nhàng và sự kiểm soát hiệu quả, đạt yêu cầu giữa quyền tư 
pháp và quyền hành pháp. 
Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực là yêu cầu cốt lõi, cơ bản 
của các mô hình Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp 
lý của nhân loại. Chính sự phân công, phối hợp giữa quyền tư pháp và quyền 
hành pháp là tiền đề, là cơ sở cho sự kiểm soát chéo giữa hai nhánh quyền 
này. Còn phối hợp và kiểm soát giữa hai nhánh quyền lực là điều kiện để đảm 
bảo quyền lực luôn được thống nhất trên cơ sở phân công. Sự phân công rõ 
ràng, sự phối hợp nhịp nhàng và sự kiểm soát chéo giữa quyền tư pháp và 
quyền hành pháp sẽ bảo đảm sự độc lập của Tòa án cũng như sự chủ động 
linh hoạt, mềm dẻo của hành pháp. Đó là những yêu cầu cần phải có của 
quyền tư pháp và quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền nói 
chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng. 
148 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Bảo đảm mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp 
trong thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 288, 
tháng 01 năm 2020. 
2. Hoạt động kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp 
trong thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 289, 
tháng 02 năm 2020. 
149 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Văn bản pháp luật 
1. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 
2. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1959 
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 
5. Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc Hội ngày 25/12/2001 về việc sửa 
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam năm 1992 
6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 
7. Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân 
dân 1960 
8. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 
9. Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 
10. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 
11. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 
12. Luật Tổ chức Chính Phủ năm 2015 
13. Luật Tố tụng hành chính năm 2015 
14. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 
15. Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 
16. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 
17. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 
18. Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 
19. Pháp lệnh về tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa 
phương năm 1961 
150 
20. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước về cách thức tổ chức 
các tòa án và các ngạch thẩm phán. 
21. Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 Ban hành 
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 
2020. 
22. Nghị quyết liên tịch số 15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC ngày 
31/3/2010 về phối hợp công tác giữa Chính phủ với Tòa án nhân dân tối 
cao, VKSNDTC 
Tài liệu tiếng Việt 
23. Trương Hòa Bình (2014), Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp, 
Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 16. 
24. Bộ tư pháp, Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế định Chính phủ trong Hiến 
pháp năm 1992, Báo cáo Đề tài khoa học cấp Bộ, do Bộ tư pháp chủ trì, 
phối hợp với tổ chức UNDP. 
25. Bộ Tư pháp (2017), Thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến 
pháp năm 2013, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
26. Nguyễn Văn Cương (2014), Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp 
năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12. 
27. Nguyễn Văn Cương (2013), Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa một số vấn đề đặt ra trong tình hình mới, Tạp chí Nghề 
Luật, Học viện Tư pháp, Số 1. 
28. Daniel Hall (1997), Phân chia quyền lực, hệ thống kiểm soát và cân bằng 
quyền lực 
29. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, 
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
151 
30. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, Nxb. 
Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
31. Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
32. Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy (2017), Chính phủ kiến tạo và 
những thử thách, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8. 
33. Nguyễn Đăng Dung (2018), Quyền hành pháp và quyền hành chính nhà 
nước cao nhất, tại trang 
quyenhanh-chinh-nha-nuoc-cao-nhat-39185/>, [truy cập ngày 
15/10/2018]. 
34. Lê Thị Anh Đào (2017), Kiểm soát quyền lực hành pháp trong nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học 
viện Khoa học xã hội. 
35. Lê Thị Anh Đào (2017), Nhận diện quyền lực hành pháp trong Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 
2. 
36. Đặng Viết Đạt (2013), Kiểm soát quyền hành pháp trong nhà nước pháp 
quyền, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11. 
37. Nguyễn Minh Đoan (2007), Quyền lực nhà nước là thống nhất và sự phân 
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền 
lực nhà nước ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 2. 
38. Cao Anh Đô (2012), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc 
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp ở Việt Nam, Luận 
án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí 
Minh. 
152 
39. Trần Ngọc Đường (chủ nhiệm đề tài) (2006), Phân công, phối hợp và 
kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, đề tài khoa học cấp nhà nước, Mã số KXO4-28/06-10 
40. Trần Ngọc Đường (2010), Vấn đề phân công, phối hợp quyền lực và kiểm 
soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5. 
41. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm 
soát quyền lực trong xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb CTQG – sự thật. 
42. Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc 
sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, 2012 
43. Trần Ngọc Đường (2017), Bàn về chính phủ kiến tạo trong mối quan hệ 
với Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11. 
44. Bùi Xuân Đức (2016), Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong 
thực hiện quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nhà nước 
và Pháp luật, số 3. 
45. Tô Văn Hòa (2006), Tính độc lập của tòa án - nghiên cứu pháp lý về các 
khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị 
với Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội. 
46. Tô Văn Hòa (2012), Kiểm soát quyền lực nhà nước trong chính thể cộng 
hòa tổng thống theo Hiến pháp của Philippines, Tạp chí Luật học số 6. 
47. Tô Văn Hòa (2014), Mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền hành 
pháp và quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Tạp chí Luật học, đặc san 9. 
48. Nguyễn Mạnh Hùng (2018), Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp 
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ 
Luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. 
153 
49. Nguyễn Quốc Hùng (2016), Kiểm soát quyền lực tư pháp trong nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học 
viện Khoa học xã hội. 
50. Nguyễn Mạnh Hùng, Trương Thị Minh Thùy (2018), Kiểm soát của cơ 
quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước 
và pháp luật, số 5. 
51. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa thư Việt Nam 
(2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3 (N-S), Nxb. Từ điển Bách 
khoa, Hà Nội. 
52. Nguyễn Minh Khuê (chủ nhiệm) (2019), Phân công, phối hợp và kiểm 
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp theo 
tinh thần Hiến pháp năm 2013, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học 
pháp lý là cơ quan chủ trì. 
53. Dương Hương Liên (2015), Giám sát hoạt động hành pháp của một số 
nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Thanh tra, 
số 1. 
54. Uông Chu Lưu (chủ nhiệm) (2004), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn 
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử 
của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do 
dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.06. 
55. Trần Huy Liệu, (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư 
pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến 
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 
56. Nguyễn Đức Minh (chủ nhiệm) (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn 
cơ bản về quyền tư pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam giai đoạn 2011- 2020, đề tài cấp Bộ, Viện Nhà nước và Pháp luật là 
cơ quan chủ trì. 
154 
57. Nguyễn Đức Minh (2011), Khái quát về quyền tư pháp ở một số nước trên 
thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2. 
58. Nguyễn Đức Minh (2011), Nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp 
chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6. 
59. Cao Vũ Minh (2014), Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp 
và kiến nghị sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ, Tạp chí Nghiên cứu lập 
pháp, số 9. 
60. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật (Người dịch: Hoàng Thanh 
Đạm), Nxb Giáo dục và Khoa luật trường Đại học Khoa học xã hội và 
nhân văn, Hà Nội. 
61. Trần Đình Nghiên, Hoàng Long (biên dịch) (2003), Khái quát về chính 
quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia. 
62. Phạm Hữu Nghị (2013), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt 
Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9. 
63. Nguyễn Hải Ninh (2013), Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam 
hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, Hà nội 
64. Nguyễn Thị Hoài Phương (2011), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực 
của nhánh quyền hành pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền, Tạp 
chí Nhà nước và Pháp luật, số 4. 
65. Phạm Hồng Quang (2012), Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan 
thực hiện quyền lập pháp và quyền tư pháp kinh nghiệm của một số nước 
trên thế giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề ngành Tư pháp 
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. 
66. Lưu Văn Quảng (2012), Cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà 
nước Mỹ, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 196. 
155 
67. Nguyễn Văn Quyền – PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2018), 
Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – 
Từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Tư pháp. 
68. Đinh Dũng Sỹ (2019), Chính phủ trong mối quan hệ phân công, phối hợp 
và kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước 
và pháp luật, số 9. 
69. Phạm Hồng Thái (2012), Kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong 
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tạp chí Khoa học 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 28. 
70. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb 
Tư pháp. 
71. Nguyễn Phước Thọ (2014), Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính 
phủ theo quy định của pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13. 
72. Nguyễn Thị Kim Thoa (chủ nhiệm) (2019), Phân công, phối hợp và kiểm 
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền hành pháp 
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa 
học pháp lý là cơ quan chủ trì. 
73. Vũ Thư (chủ nhiệm) (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về 
quyền hành pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
giai đoạn 2011 – 2020, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nhà nước và pháp 
luật là cơ quan thực hiện. 
74. Tòa án (2016), Báo cáo số 50/BC-TA ngày 12/10/2016 của Chánh án Tòa 
án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội 
khóa XIV. 
75. Tòa án (2017), Báo cáo số 39/BC-TA ngày 10/10/2017 của Chánh án Tòa 
án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội 
khóa XIV. 
156 
76. Tòa án (2018), Báo cáo số 50/BC-TA ngày 11/10/2018 của Chánh án Tòa 
án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội 
khóa XIV. 
77. Tòa án (2019), Báo cáo số 59/BC-TA ngày 10/10/2019 của Chánh án Tòa 
án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội 
khóa XIV. 
78. Tòa án (2020), Báo cáo số 44/BC-TA ngày 09/10/2020 của Chánh án Tòa 
án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 10 Quốc 
hội khóa XIV. 
79. Lê Thị Ngọc Trâm (2017), Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận 
án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội. 
80. Lê Thị Ngọc Trâm (2015), Chế định quyền hành pháp từ Hiến pháp năm 
1992 đến Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11. 
81. Trần Anh Tuấn (2013), Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong 
thực hiện quyền lực nhà nước, Tạp chí Cộng Sản, số 9. 
82. Nguyễn Văn Tuấn (2015), Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước 
trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án 
tiến sĩ luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
83. Vũ Anh Tuấn (2012), Bàn thêm về mối quan hệ giữa phân công, phối hợp 
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước 
và Pháp luật số 5/2012 
84. Đào Trí Úc (2010), Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa, Tạp chí Luật học, số 8 (123). 
85. Đào Trí Úc (2013), Sửa đổi Hiến pháp 1992 và cơ chế kiểm soát quyền 
lực ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 844. 
157 
86. Võ Khánh Vinh (2003), Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền 
XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp 
luật, số 8. 
87. Nguyễn Cửu Việt (2017), Thẩm quyền của Chính phủ theo Hiến pháp 
2013 và Luật Tổ chức chính phủ 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 
19. 
88. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Đề án nghiên cứu chuyển Viện 
kiểm sát thành Viện công tố, Hà Nội 
89. Viện Khoa học pháp lý (2017), Thực hiện quyền hành pháp của Chính 
phủ theo Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 
90. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), 2006, Từ điển luật học, Nxb Từ 
điển bách khoa 
91. Viện Nhà nước và Pháp luật (2000), Pháp luật về tổ chức bộ máy hành 
chính Nhà nước ở địa phương: hiện trạng và giải pháp, đề tài khoa học 
cấp Bộ. 
92. J.Locke (2013), Khảo luận thứ hai về chính quyền, chính quyền dân sự, 
Bản dịch Lê Tuấn, Nxb Tri thức, Hà Nội 
93. J.J Rousseau (2007), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà 
Nội. 
94. James Brurns (1984), Kiểm soát và cân bằng quyền lực 
Tài liệu tiếng nước ngoài 
95. Andre Kaiser, Executive Power in Keith Dowding (ed.), Encyclopedia of 
Power (London: Sage, 2011) (nguyên văn: “the executive power is the 
authority to enforce laws and to ensure that they are implemented as 
intended”). 
96. Alexander Hamilton (1787), The Federalist Papers, New York. 
158 
97. Alexander W. Weddell (1937), A Comparison of Executive and Judicial 
Powers under the Constitutions of Argentina and the United States, 
Bulletin of the College of William and Mary in Virginia, Vol.31, No.8. 
98. Bryan A. Garner (ed.), Black’s Law Dictionary, 9th ed. (St. Paul, MN: 
Thomson Reuteurs, 2009) 
99. C. J. Hamson (1954), Executive Discretion and Judicial Control, London 
Stevens & Sons Limited. 
100. H.D.Laswell (1951), The Policy Sciences 
101. Mark Sidel Oxford (2009), The Constitution of Vietnam: A Contextual 
Analysis by Hart Publishing. 
102. Marcelo Figueiredo (2015), The Relationship between the Judiciary and 
the Executive Branches in Brazil: A View from the Latin-American 
Standpoint, Courts and Executive Powers, University of Johanneburg. 
 103. Marinella Marmo & Maria Giannacopoulos (2017), Cycles of judicial 
and executive power in irregular migration, Comparative Migration 
Studies 5, Article number: 16. 
104. Rebecca Ananian-Welsh & George Williams (2015), Judicial 
Independence from the Executive: A first-principles review of the 
Australian cases, Monash University Law Review, Vol.40, No.3. 
 105. The Hon Justice McHugh AC (2002), Tensions between the Executive 
and the Judiciary, Australian Bar Association Conference. 
Các Website 
106. https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/06/05/1377/ 
107. https://vkscapcaohcm.gov.vn/tin-tuc/thu-tuong-chinh-phu-lam-viec-voi-
vksnd-toi-cao-va-tand-toi-cao-3129.html 
108. 
nhung-noi-dung-can-tiep-tuc-sua-doi-hoan-thien.html 
109. United States Courts, https://www.uscourts.gov/statistics-reports/issue-7-
judiciarys-relationships-other-branches-government 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_moi_quan_he_giua_quyen_tu_phap_va_quyen_hanh_phap_tr.pdf luan_an_moi_quan_he_giua_quyen_tu_phap_va_quyen_hanh_phap_tr.pdf
 Trichyeu_NguyenThiHuyen.pdf Trichyeu_NguyenThiHuyen.pdf