Phổ ESI-MS ion dương của KG7 cho thấy pic ion giả phân tử tại m / z = 301
[M+H]+, kết hợp dữ liệu phổ 13C-NMR gợi ý CTPT của KG7 là C20H28O2.
Trên phổ 13C-NMR cho tín hiệu cộng hưởng của 20 nguyên tử carbon đặc trưng cho
bộ khung diterpenoid bao gồm 4 nhóm methine tại δC 124,95 (C-14), δC 109,28 (C-11), δC
49,05 (C-5), δC 26,01 (C-15), 4 nhóm methylene tại δC 40,80 (C-3), δC 35,46 (C-6), δC 37,4
(C-1), δC 18,5 (C-2). So với phổ 13C-NMR của KG6 có sự biến mất của một nhóm
methylen đồng thời xuất hiện tín hiệu của một nhóm carbonyl liên hợp tại δC = 196,5
ppm.; 6 nguyên tử carbon bậc 4 tại δC 32,24 ÷160,05 ppm và 5 nhóm methyl.
Phổ 1H-NMR cho hai tín hiệu cộng hưởng singlet của 2 proton vòng thơm tại δH δH
7,65 (s, H-14) và δH 6,78 (s, H-11); 3 tín hiệu singlet của nhóm methyl (-CH3) tại δH 0,88;
0,94 và 1,15 (3H, s) và một gốc isopropyl với δH [1,13 (3H, d, J = 7,0 Hz); 1,15 (3H, d, J =
7,0 Hz) và 3,14 (1H, m)], các tín hiệu cộng hưởng của hai proton geminal tại δH 2,45 (dd, J
= 4,0; 17,5, H-6α) và 2,15 (br d, J = 12,5, H-6β) tương tác với proton thứ ba tại δH 1,74 (dd,
J = 4,0, 14,0, H-5) cũng được quan sát thấy. Bằng cách so sánh các dữ liệu phổ NMR của
chất KG7 với các số liệu ở tài liệu [122, 125] của sugiol, chất KG7 đã được chứng minh là
sugiol. Hợp chất này thể hiện hoạt tính sinh học đa dạng như khả năng chống viêm, kháng
vi khuẩn, chống oxi hóa DPPH
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 162 trang
162 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học và đa dạng nguồn gen di truyền của một số loài lá kim ở Tây nguyên, Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o 
Trong mười một hợp chất phân lập từ loài Đỉnh tùng thì có 8 hợp chất là alkaloid 
 118
trong đó có 6 hợp chất là alkaloid harringtoinia. Đây là các hợp chất có hoạt tính gây 
độc tế bào mạnh và đã được quan tâm nghiên cứu. Riêng hợp chất 
Nordeoxyharringtonine (DT4) chưa được nghiên cứu nhiều về hoạt tính gây độc tế bào 
mới chỉ có báo cáo về hoạt tính ức chế tế bào bạch cầu ở chuột [24]. Vì vậy khi phân lập 
được hợp chất này từ loài Đỉnh tùng (C. mannii) chúng tôi đã chú ý tới việc tiếp tục 
nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào của chất này đối với các dòng tế bào ung thư khác là 
tế bào ung thư phổi (Lu), ung thư biểu mô miệng (KB), ung thư vú (MCF7) và ung thư 
gan (Hep-G2). Kết quả (Bảng 3.24) cho thấy hợp chất DT4 thể hiện hoạt tính mạnh đối 
với cả 4 dòng tế bào thử nghiệm. Cụ thể là đối với dòng tế bào ung thư KB chất DT4 thể 
hiện hoạt tính chống tế bào ung thư mạnh gấp 21 lần chất đối chứng, với dòng tế bào 
ung thư phổi Lu-1 mạnh gấp 91,5 lần, với tế bào ung thư gan HepG2 mạnh gấp 8,9 lần 
và đặc biệt hoạt tính chống tế bào ung thư vú MCF7 mạnh gấp 107,5 lần ellipticine. 
Bảng 3.24. Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của DT4 với 4 dòng tế bào ung thư 
STT 
Kí hiệu 
mẫu 
Hoạt tính gây độc tế bào in vitro IC50 (µM) 
KB Lu-1 HepG2 MCF7 
1 DT4 0,06 0,02 0,16 0,02 
2 Ellipticine 1,26 1,83 1,42 2,15 
Các hợp chất phân lập được từ dịch EtOAc của loài Hoàng đàn giả đã được 
nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào đối với bốn dòng tế bào ung thư ở người gồm 
ung thư phổi (LU-1), ung thư gan (HepG2), ung thư vú (MCF7) và ung thư biểu mô 
miệng (KB). Ellipticine được sử dụng làm chất đối chứng. 
Bảng 3.25 . Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của các chất phân lập từ loài Hoàng 
đàn giả 
ST
T 
Kí hiệu 
mẫu 
Hoạt tính gây độc tế bào in vitro IC50 (M) 
KB Lu-1 HepG2 MCF7 
1 HĐ1 162,53 ± 9,75 167,03 ± 19,75 224,24 ± 22,03 184,97 ± 17,28 
2 HĐ4 185,63 ± 11,47 209,40 ± 15,65 135,50 ± 11,70 147,28 ± 17,56 
3 HĐ5 194,02 ± 13 196,60 ± 8,33 199,85 ± 6,70 206,52 ± 16,56 
4 HĐ6 > 100* > 100* > 100* > 100* 
5 Ellipticine 1,79 ± 0,12 1,50 ± 0,16 1,26 ± 0,16 1,30 ± 0,24 
*Các chất không có hoạt tính và không qui đổi ra (M) 
Kết quả trên cho thấy các hợp chất HĐ1,HĐ4 và HĐ5 thể hiện hoạt tính yếu, 
trong khi HĐ6 chưa thể hiện hoạt tính ức chế sự phát triển của các tế bào ở các nồng 
độ thử nghiệm. 
 119
Đây là các kết quả nghiên cứu lần đầu tiên về hoạt tính sinh học của các dịch 
chiết và các chất sạch phân lập được từ cây Hoàng đàn giả 
Năm hợp chất phân lập được là KG1, KG4, KG5, KG8 và KG9 đã được thử 
nghiệm hoạt tính gây độc tế bào trên tám dòng tế bào ung thư ở người với ellipticine 
là đối chứng dương. Các kết quả được thể hiện trong bảng 3.26. 
Bảng 3.26. Hoạt tính gây độc tế bào của các chất KG1, KG4, KG5, KG8 và KG9 
Chất 
Hoạt tính gây độc tế bào in vitro IC50 (M) 
Hep 
G2 
KB LU-1 MCF7 SK-
Mel2 
HL60 SW626 SW480 
KG8 13,71 8,30 14,51 16,40 15,36 7,42 16,84 13,85 
KG4 289,34 305,79 264,27 262,35 302,55 276,19 314,47 288,47 
KG9 >100* >100* >100* >100* >100* >100* >100* >100* 
KG5 130,82 149,34 114,59 107,37 148,04 107,88 126,2 107,85 
KG1 >100* >100* >100* >100* >100* >100* >100* >100* 
Ellipticine 1,67 1,87 1,38 1,54 1,79 1,75 1,59 1,67 
*Các chất có giá trị IC50 > 100 μg/mL được xem như không có hoạt tính và không qui đổi ra (M) 
Kết quả cho thấy hợp chất KG8 có hoạt tính mạnh nhất với tất cả các dòng tế 
bào thử nghiệm với các giá trị IC50 dao động từ 7,42-16,84 M. Điều thú vị là hoạt 
tính của chất KG8 đối với các dòng tế bào HL60 (IC50 7,42 M); KB (IC50 8,3μM) và 
Hep-G2 (IC50 13,71M) là khá cao và cần được tiếp tục nghiên cứu. 
Chất KG5 được đánh giá có hoạt tính gây độc tế bào yếu trên cả 8 dòng tế bào 
ung thư là Hep-G2 (ung thư gan), KB (ung thư miệng), LU-1 (ung thư phổi), MCF7 
(ung thư vú), SK-MeI2 (ung thư sắc tố), HL-60 (ung thư máu cấp), SW626 (ung thư 
buồng trứng), SW480 (ung thư ruột kết). Tuy nhiên chất KG4, KG9 và KG1 tỏ ra 
không có hoạt tính trên các dòng tế bào ung thư đã thử nghiệm. 
Đây là công bố đầu tiên về hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập 
từ loài Kim giao núi đất. 
 Nhận xét về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 3 loài lá kim 
Thành phần hóa học chính của loài Đỉnh tùng (C. mannii) thu hái tại Tây 
Nguyên, Việt Nam chủ yếu là các hợp chất alkaloid (8 /11 chất phân lập) trong đó đa 
phần là các alkaloid có kiểu khung cephalotaxine (6 / 8 hợp chất) và số ít có khung 
 120
homoerythrina (2 / 8 hợp chất). Các hợp chất alkaloid được tìm thấy ở bộ phận vỏ thân 
của loài Đỉnh tùng nhiều hơn ở bộ phận lá và cành. Lớp chất này thể hiện nhiều hoạt 
tính sinh học đáng chú ý như hoạt tính chống oxi hóa, kháng khuẩn, nấm và đặc biệt là 
hoạt tính gây độc tế bào. Hợp chất DT4 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào mạnh hơn cả 
chất đối chứng đối với 4 dòng tế bào ung thư HepG-2, KB, LH-60 và MCF-7 với giá 
trị IC50 0,02-0,16 μM. So sánh với các tài liệu tham khảo trong phần tổng quan cho 
thấy thành phần hóa học của loài Đỉnh Tùng ở Tây Nguyên, Việt Nam tương tự các 
loài khác trong chi Cephalotaxus. Tuy nhiên việc nghiên cứu cấu trúc của các hợp chất 
alkaloid và không là alkaloid cùng với việc thử hoạt tính gây độc tế bào đối với các 
hợp chất alkaloid trong loài Đỉnh tùng (C. mannii) là chưa nhiều. Vì vậy những nghiên 
cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài này là cần thiết nhằm khẳng 
định thêm giá trị khoa học và kinh tế của các loài trong chi Cephalotaxus. 
Kết quả nghiên cứu thành phần hóa học từ bộ phận gỗ thân và cành của loài Hoàng 
đàn giả (D. elatum) cho thấy sự tồn tại của các lớp chất diterpenoid (2 / 6 hợp chất) và 
steroitd khung ecdysteroid 3 / 6 hợp chất. Các dịch chiết tổng cũng như các chất sạch 
phân lập từ loài Hoàng đàn giả đã được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào với 4 dòng 
tế bào ung thư thông thường là HepG-2, KB, LH-60 và MCF-7 kết quả cho thấy các 
chất sạch cho hoạt tính yếu đến trung bình với các dòng tế bào thử nghiệm và dịch 
chiết HĐE thể hiện hoạt tính trung bình đối với 4 dòng tế bào thử nghiệm nêu trên. 
Đây là lần đầu tiên thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài Kim giao 
núi đất (N. wallichiana) được nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. Kết quả phân 
lập và xác định cấu trúc hóa học các hợp chất được phân lập cho thấy loài Kim giao 
núi đất chứa các lớp chất như biflavonoid (3 / 11 hợp chất), diterpenoid (5 / 11 hợp 
chất) và steroid (3 / 11). Nghiên cứu về hoạt tính sinh học của các chất được phân lập 
với 8 dòng tế bào ung thư cho thấy hợp chất KG8 có hoạt tính mạnh nhất với tất cả 
các dòng tế bào thử nghiệm với các giá trị IC50 dao động từ 7,42-16,84 M. Kết quả 
cho thấy loài Kim giao núi đất (N. wallichiana) nói riêng và các loài khác trong chi 
Nageia cần được quan tâm khai thác. 
 121
Bảng 3.27. Tổng kết các hợp chất phân lập được từ 3 loài lá kim nghiên cứu 
1. Loài Đỉnh tùng ( C. mannii ) 
STT Kí hiệu/ Tên chất Cấu trúc 
Chú thích 
Các hợp chất alkaloid 
1 DT1 
Cephalotaxine 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
2 
DT2 
Cephalotaxine 
β-N-oxide 
N
O
O
OMe
HO
H
O
H
+
-
1
2
3
4 5
6
7
89
101112
13
14
15
16
17
18
19 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
3 
DT3 
 Desoxy 
harringtonine 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
4 
DT4 
Nordeoxy 
harringtonine 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
5 
DT5.1 
Isoharringtonine 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
6 
DT5.2 
Norisoharring 
tonine 
Chất mới 
 122
7 
DT6 
3-Epischellham 
mericin 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
8 DT7 
Manniicine 
Lần đầu tiên 
được phân 
lập từ loài 
Các hợp chất khác 
9 DT8 
Harringtonolide 
Có hoạt tính 
gây độc tế 
bào mạnh 
với 4 dòng 
tế bào ung 
thư 
10 DT9 
Epicatechin 
11 DT10 
Epigallocatechin 
2. Loài Hoàng đàn giả (D. elatum) 
Các hợp chất diterpenoid 
12 
HĐ1 
Lambertic acid 
- Có hoạt 
tính mạnh 
với 4 dòng 
tế bào ung 
thư. 
- Lần đầu 
tiên được 
phân lập 
từ loài 
 123
13 HĐ2 
 Dacrydianon 
OH
H
H
OH
O
2
3 4 5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
1617
1819
20
1
A B
C
Chất mới 
Các hợp chất steroid 
14 
HĐ3 
Daucosterol 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập 
từ loài 
15 HĐ4 
Ponasterone A 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập 
từ loài 
16 
HĐ5 
 20-hydroxyecdy 
sone 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập 
từ loài 
17 HĐ6 
Ajugasterone C 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập 
từ loài 
3. Loài Kim giao núi đất (N. wallichiana) 
Các hợp chất biflavonoid 
18 KG1 
Amentoflavone 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
 124
19 
KG2 
4”’-O-
methylamentoflavone 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
20 
KG3 
4’,4’’’,7’’-
trimethoxyamentoflavone 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
Các hợp chất diterpenoid 
21 
KG4 
 3β-hydroxytotarol 
OH
1
3
4
5 7
9
12
13
14 16
17
18
20
H3C
2 10
HO
19
6
8
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
22 
KG5 
 Totarol-19-cacboxylic 
acid 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
23 
KG6 
Ferruginol 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
24 
KG7 
 Sugiol 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
25 
KG8 
Nagilacton B 
Có hoạt 
tính mạnh 
với 8 dòng 
tế bào ung 
thư 
Các hợp chất khác 
 125
26 
KG9 
5-hydroxy 
stigmastane-6-one-3β-
hexadecanoat 
C15H31 O
O
1
3 5
6
8
19
17
10
24
25
26
27
18
20
1'
HO
29
28
O 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
27 
KG10 
 2-(4-hydroxyphenyl)-
propan-1,3-điol 
HO OH
OH
1'
2'
3'
4'
5'
6'
1 2 3
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
28 KG11 
β-Sitosterol 
Lần đầu 
tiên được 
phân lập từ 
chi và loài 
3.2. Đa dạng di truyền nguồn gen của ba loài lá kim nghiên cứu 
Qua kết quả nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 3 loài lá 
kim là Đỉnh tùng (C. mannii), Hoàng đàn giả (D. elatum) và Kim giao núi đất (N. 
wallichiana) chúng tôi nhận thấy sự có mặt của các lớp chất alkaloid, diterpenoid, 
steroid, flavonoid, đây là các lớp chất có hoạt tính sinh học đa dạng. Trong 28 chất 
sạch thu được có 2 chất có cấu trúc mới là HĐ2 (Dacrydiaon) và DTV5.2 
(norisoharringtonine), 2 chất có hoạt tính gây độc tế bào mạnh đáng chú ý là DT4 
(nordeoxyharringtonine) và KG8 (Nagilacton B). Có thể khẳng định đây là các loài có 
giá trị của khu vực Tây nguyên cần có biện pháp bảo tồn, phát triển và khai thác hợp lí 
các cây tái sinh trong khu vực lân cận đối với cây lấy mẫu phân tích hóa học nhằm duy 
trì những lớp chất thứ cấp quan trọng trong loài. Mặt khác quần thể cây Đỉnh tùng, 
Hoàng đàn giả và Kim giao núi đất ở Tây Nguyên đều là những cây tái sinh từ hạt, 
sống trong cùng môi trường địa lý, địa chất như nhau, nên cho phép khẳng định rằng 
các lớp chất hóa học sẽ được bảo toàn nguyên trong các cá thể khác cùng loài ở Tây 
Nguyên. Với ý nghĩa đó chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tính đa dạng nguồn gen di 
truyền của loài Đỉnh tùng, Hoàng đàn giả và Kim giao núi đất sử dụng chỉ thị ISSR và 
 126
SSR để có những đánh giá khoa học về sức sống của các quần thể phục vụ công tác 
bảo tồn, khai thác và phát triển loài đạt hiệu quả cao. 
3.2.1. Đa dạng di truyền 
 Tổng số 79 chỉ thị (44 chỉ thị ISSR và 35 chỉ thị SSR) đã được sử dụng để đánh 
giá tính đa dạng di truyền cho 3 loài lá kim ở Tây Nguyên là Đỉnh tùng, Hoàng đàn giả 
và Kim giao núi đất. Trong đó, số lượng chỉ thị dùng để phân tích cho loài Kim giao núi 
đất là cao nhất (48 chỉ thị), thứ hai là loài Hoàng đàn giả (47 chỉ thị) và thấp nhất là loài 
Đỉnh tùng (37 chỉ thị). 
Bảng 3.28. Một số thông số di truyền của 3 loài lá kim phân tích tổ hợp với hai chỉ thị 
ISSR và SSR 
Loài N Na Ne I He h 
PPB 
(%) 
*Fis 
Đỉnh tùng 
(C. mannii) 
34 1,656 1,470 0,382 0,262 0,218 65,65 - 0,148 
Hoàng đàn giả 
 (D. elatum) 
70 1,685 1,351 0,318 0,209 0,192 68,54 -0,002 
Kim giao núi đất 
(N.wallichiana) 
70 1,748 1,570 0,445 0,309 0,262 74,79 0,333 
Ghi chú: Na: số alen quan sát trung bình trên một locus; Ne: số alen hiệu quả trên 
một locus; I: chỉ số đa dạng di truyền theo Shannon; He: hệ số gen di hợp tử mong 
đợi; h: chỉ số đa dạng di truyền theo Nei; PPB: phần trăm phân đoạn đa hình; *Fis: 
hệ số giao phấn cận noãn với p < 0,05 (số liệu chỉ xác định cho chỉ thị SSR). 
Kết quả phân tích các thông số di truyền của 3 loài lá kim đã chỉ ra loài Kim giao núi 
đất có tính đa dạng di truyền cao nhất (Na = 1,748; Ne = 1,570; I = 0,445; He = 0,309; 
h = 0,262 và PPB = 74,79%); thứ hai là loài Đỉnh tùng (Na = 1,656; Ne = 1,470; I = 
0,382; He = 0,262; h = 0,218 và PPB = 65,65%) và thấp nhất là Hoàng đàn giả (Na = 
1,685; Ne = 1,351; I = 0,318; He = 0,209; h = 0,192 và PPB = 68,54%) (Bảng 3.28). 
3.2.2. Cây phát sinh chủng loại của 3 loài lá kim 
Biểu đồ hình cây thể hiện mối quan hệ di truyền của từng loài nghiên cứu khi 
phân tích tổ hợp hai chỉ thị ISSR và SSR cho thấy các mẫu trong cùng loài đã không 
giống nhau hoàn toàn về mặt di truyền (cụ thể: mỗi mẫu của mỗi loài đều nằm ở một 
vị trí độc lập trên biểu đồ hình cây) và có hệ số tương đồng di truyền dao động trong 
khoảng từ 70,7% (Cpm12 và Cpm25) đến 90,3% (Cpm4 và Cpm5) đối với loài Đỉnh 
tùng (Hình 3.46); từ 76% (De3 và De27) đến 96,6% (De12 và De13) đối với loài 
 127
Hoàng đàn giả (Hình 3.47); và 3,2% (Nw19 và Nw29) đến 97,9% (Nw23 và Nw24) 
đối với loài Kim giao núi đất (Hình 3.48). Trong đó các mẫu trong cùng một vùng địa 
lý đều nằm trong cùng một nhánh, chẳng hạn như 34 mẫu ở loài Đỉnh tùng ở hình 3.46 
phân làm hai nhánh chính, nhánh I gồm 5 mẫu thu ở Hiệp An (kí hiệu a) và nhánh II 
gồm 29 mẫu thu ở Tà Nung (kí hiệu b). Kết quả phân nhánh tương tự cũng xảy ra ở cả 
loài Hoàng đàn giả (hình 3.47) và Kim giao núi đất (hình 3.48). 
b
a
Hình 3.46. Biểu đồ hình cây tính theo phương pháp của Jacccard và kiểu phân nhóm 
UPGMA thể hiện mối quan hệ di truyền của 34 mẫu Đỉnh tùng phân tích với chỉ thị ISSR 
và SSR (Ghi chú: a: mẫu ở Hiệp An, b: mẫu ở Tà Nung). 
 128
Hình 3.47. Biểu đồ hình cây tính theo phương pháp của Jacccard và kiểu phân nhóm UPGMA thể hiện mối quan hệ di truyền 
của 70 mẫu Hoàng đàn giả phân tích với chỉ thị ISSR và SSR (Ghi chú: a: mẫu ở Sơn Lang, A Yun và Kon Chư Răng (Gia Lai); 
b: mẫu ở Hòa Sơn (Đắk Lắk); c: mẫu ở Đa Chais (Lâm Đồng); d: mẫu ở Xã Hiếu (Kon Tum). 
I
II
a
b
c
d
I.1
I.2
II.2
II.1
 129
Hình 3.48. Biểu đồ hình cây tính theo phương pháp của Jacccard và kiểu phân nhóm UPGMA thể hiện mối quan hệ di truyền 
của 70 mẫu Kim giao núi đất với chỉ thị ISSR và SSR (Ghi chú: a: mẫu thu ở A Yun, b: mẫu thu ở Hòa Sơn, c: mẫu thu ở Đa 
Chais, d: mẫu thu ở Tà Nung, e: mẫu thu ở Xã Hiếu. 
I
II
a
b
c
d
e
I.1
I.2
 130
 Đánh giá sức sống của 3 quần thể chứa các loài lá kim nghiên cứu 
 Đa dạng di truyền không chỉ là cơ sở để tạo ra những giống, loài mới mà còn 
là cơ sở cho công tác bảo tồn, khai thác và phát triển loài trong tương lai. Dựa vào 
các thông số di truyền của quần thể mà các nhà nghiên cứu có thể đánh giá sức sống 
của quần thể đó. Các thông số thường được quan tâm là số alen quan sát trên locus 
(Na – number of alleles per locus), hệ số gen dị hợp tử mong đợi (He - expected 
heterozygosity), phần trăm phân đoạn đa hình (PPB), chỉ số đa dạng di truyền 
Shannon (I), mức độ di nhập gen (Nm - gene flow), hệ số giao phấn cận noãn 
(Fis),.. Trong đó alen dị hợp tử là một trong những thông số được quan tâm nhiều 
hơn cả vì qua đó người ta có thể xác định được cấu trúc và thậm chí cả lịch sử của 
quần thể. Giá trị He cao đồng nghĩa với quần thể đó có mức độ đa dạng di truyền 
cao và ngược lại. Theo nguyên tắc này nếu các dị hợp tử quan sát được thấp hơn so 
với mong đợi thì rất có thể đã xảy ra hiện tượng giao phấn cận noãn. Nếu dị hợp tử 
quan sát cao hơn mong đợi, có thể đã xảy ra những hiện tượng làm phá vỡ cấu trúc 
trước kia của quần thể như sự pha trộn của hai quần thể bị cô lập trước đó. Bên cạnh 
đó chỉ số đa dạng di truyền theo Shannon (I), Nei (h), hay phần trăm phân đoạn đa 
hình (PPB),cũng là những thông số phản ánh sức khỏe của quần thể đó. Trong 
nghiên cứu này cho thấy tính đa dạng di truyền của cả ba loài Đỉnh tùng, 
Hoàng đàn giả và Kim giao núi đất đều có tính đa dạng di truyền tương đối khá, 
trong đó loài Kim giao núi đất có tính đa dạng di truyền cao nhất (Na = 1,748; Ne = 
1,570; I = 0,445; He = 0,309; h = 0,262 và PPB = 74,79%) và thấp nhất là Hoàng 
đàn giả (Na = 1,685; Ne = 1,351; I = 0,318; He = 0,209; h = 0,192 và PPB = 
68,54%) (Bảng 3.28). 
Theo kết quả điều tra thực địa của nhóm nghiên cứu đề tài Tây Nguyên mã 
số TN15 [130] cho thấy cả 2 quần thể Đỉnh tùng ở Lâm Đồng (Tà Nung và Hiệp 
An) đều quá nhỏ về kích thước trong các mảnh rừng bị suy giảm, không quá 20 cá 
thể/quần thể. Kết quả điều tra thực địa tính đến tháng 12/2013 đã cho thấy, trong số 
34 cá thể cây Đỉnh tùng ở Lâm Đồng thì chỉ còn có 5 cây trưởng thành (1 cây cao 
35 mét, 03 cây cao 20 mét và 02 cây cao 15 mét), còn lại là các cây tái sinh có chiều 
cao từ 50 cm đến 2 mét). Kết quả khảo sát thực tế về khả năng tạo hạt, nảy mầm và 
 131
phát triển tại hai quần thể Tà Nung và Hiệp An ở Lâm Đồng cũng chỉ ra tỷ lệ tạo hạt 
và tái sinh cây mạ rất cao, nhưng chỉ có một tỷ lệ rất thấp (19,4%) (số liệu không 
chỉ ra ở đây) trong số đó phát triển thành cây có chiều cao 1 m. Lý do mà cây mạ 
không phát triển thành cây là do rễ cây mạ không nhận được dinh dưỡng bởi các lớp 
hổng của các tầng mùn tự nhiên hình thành. Việc mất môi trường sống cũng là nguy 
cơ giảm quy mô quần thể. Vì vậy, mặc dù có tính đa dạng di truyền tương đối khá 
xong lại có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng (thuộc khung EN). Mặt khác quần thể của 3 
cây lá kim ở Tây Nguyên đều là những cây tái sinh từ hạt, sống trong cùng môi 
trường địa lý, địa chất như nhau, nên cho phép khẳng định rằng các lớp chất hóa 
học, đặc biệt là các hợp chất có hoạt tính sinh học cao như DT4, KG8 sẽ được bảo 
toàn trong các cá thể của loài. 
Từ những kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học và tính đa dạng di 
truyền nguồn gen chúng tôi có đề xuất với các nhà nghiên cứu và các cơ quan chức 
năng cần có chiến lược bảo tồn, phát triển và khai thác nguồn nguyên liệu là các 
loài cây lá kim có giá trị ở khu vực Tây Nguyên. 
 132
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
KẾT LUẬN 
1. Thành phần hóa học của 3 loài lá kim nghiên cứu 
 Từ loài Đỉnh tùng (C. mannii) 
 Đã phân lập và xác định cấu trúc hóa học của 11 hợp chất từ các bộ phận lá, 
cành và vỏ loài Đỉnh tùng (C. mannii), bao gồm 8 hợp chất alkaloid có khung 
cephalotaxine (6/8) và khung homoerythrina (2/8) đặc trưng cho chi Cephalotaxus, 
2 hợp chất flavonoid và 1 hợp chất norditerpenlactone. Trong đó có một alkaloid 
mới là norisoharringtonine (DTV5.2). Đây là lần đầu tiên các hợp chất này được 
phân lập từ loài Đỉnh tùng (C. mannii). 
 Đã bổ sung một số dữ liệu phổ 13C NMR chưa có trong tài liệu của hai alkaloid là 
3-Epischellhammericine (DT6) và isomer của nó được đặt tên là Manniicine (DT7). 
 Từ loài Hoàng đàn giả (D. elatum) 
Lần đầu tiên 6 hợp chất được phân lập và xác định cấu trúc từ vỏ thân và 
cành của loài Hoàng đàn giả (D. elatum) gồm 2 hợp chất diterpenoid, 3 hợp chất thuộc 
nhóm ecdysteroid và 1 phytosteroid glucosid (daucosterol). Trong đó có một 
diterpene mới đặt tên là dacrydianone (HĐ2). 
 Từ loài Kim giao núi đất (N. wallichinana) 
 Lần đầu tiên từ lá và cành của loài Kim giao núi đất (N. wallichiana) đã phân 
lập và xác định cấu trúc của 11 hợp chất bao gồm 3 hợp chất biflavonoid, 5 hợp chất 
diterpenoid, 2 hợp chất thuộc nhóm phytosterol, 1 hợp chất phenolic. 
 Đã bổ sung một số dữ liệu phổ 13C NMR chưa có trong tài liệu của các chất 
là 3β-hydroxytotarol (KG4), Totarol-19-carboxylic acid (KG5), Ferruginol (KG6). 
2. Hoạt tính sinh học của 3 loài lá kim 
 Năm dịch chiết thô và 11 chất sạch chọn lọc đã được thử nghiệm hoạt tính 
kháng oxy hóa và hoạt tính gây độc tế bào. Kết quả cho thấy 
 + Hoạt tính kháng oxy hóa: Các dịch chiết và chất sạch hầu như không thể hiện 
hoạt tính kháng oxy hóa. 
 + Hoạt tính gây độc tế bào: Alkaloid nor-deoxyharringtonine (DT4) thể hiện 
 133
hoạt tính ức chế tế bào ung thư rất mạnh đối với cả 4 dòng tế bào thử nghiệm là KB, 
HepG2, MCF7 và Lu-1 với giá trị IC50 từ 0,02-0,16 μM. Hợp chất Nagilacton B 
(KG8) thể hiện hoạt tính ức chế mạnh với cả 8 dòng tế bào thử nghiệm với các giá 
trị IC50 từ 7,42-16,84 μM. Điều thú vị là hoạt tính của chất KG8 đối với các dòng tế 
bào HL60 (IC50 7,42 M); KB (IC50 8,3μM) và HepG2 (IC50 13,71M) là khá cao 
nên cần được tiếp tục nghiên cứu. Các hợp chất khác thể hiện hoạt tính yếu. 
3. Tính đa dạng nguồn gen di truyền của 3 loài lá kim nghiên cứu 
 Kết quả phân tích các thông số di truyền đã chỉ ra loài Kim giao núi đất có 
tính đa dạng di truyền cao nhất (Na = 1,748; Ne = 1,570; I = 0,445; He = 0,309; h = 
0,262 và PPB = 74,79%); thứ hai là loài Đỉnh tùng (Na = 1,656; Ne = 1,470; I = 
0,382; He = 0,262; h = 0,218 và PPB = 65,65%) và thấp nhất là Hoàng đàn giả (Na 
= 1,685; Ne = 1,351; I = 0,318; He = 0,209; h = 0,192 và PPB = 68,54%). Hai loài 
Đỉnh tùng và Hoàng đàn giả đều có hiện tượng trao đổi chéo cao (giá trị Fis< 0). 
Quần thể của cả loài cây này đều là những cây tái sinh từ hạt, sống trong cùng môi 
trường địa lý, địa chất như nhau, nên cho phép khẳn định sự bảo tồn được các lớp 
chất hóa học quí trong mỗi loài. Đây là những cơ sở khoa học cho việc bảo tồn, khai 
thác và phát triển nguồn gen loài lá kim này ở Tây Nguyên. 
KIẾN NGHỊ 
1. Tiếp tục nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học từ các bộ phận 
khác của 3 loài nghiên cứu như rễ, gỗ thânđể có những đánh giá toàn diện hơn về 3 
loài này. 
2. Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về hoạt tính sinh học một số hợp chất có hoạt 
tính từ 3 loài nghiên cứu, tìm ra mối tương quan giữa cấu trúc hóa học và hoạt tính 
sinh học. 
3. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học và tính đa dạng 
di truyền nguồn gen chúng tôi có đề xuất với các nhà nghiên cứu và các cơ quan 
chức năng cần có chiến lược bảo tồn, phát triển và khai thác nguồn nguyên liệu từ 
ba loài Đỉnh tùng, Hoàng đàn giả và Kim giao núi đất ở khu vực Tây Nguyên để 
 134
một ngày không xa Việt Nam có thể phát triển một số loài thuốc có giá trị trong y 
học. 
 135
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 
1. Lần đầu tiên thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài Kim giao núi 
đất (N. wallichiana) được nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới. 
 Mười một hợp chất được phân lập từ loài này, 5/11 hợp chất đã được thử 
hoạt tính gây độc tế bào. 
 Đã tìm được hợp chất Nagilacton B (KG8) có hoạt tính mạnh đối với 8 dòng 
tế bào ung thư thử nghiệm, giá trị IC50 dao động từ 7,42- 16,84 μM. 
 Đây là kết quả nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học đầu 
tiên được báo cáo từ chi Nageia. 
2. Lần đầu tiên thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của Đỉnh tùng (C. 
mannii) được nghiên cứu ở Việt Nam. 
 Mười một hợp chất được phân lập và xác định cấu trúc từ loài này trong đó 
có một chất có cấu trúc mới là norisoharringtonine (DT.5.2). 
 Hợp chất nordeoxyharringtonine (DT4) thể hiện hoạt tính ức chế tế bào ung 
thư mạnh gấp nhiều lần chất đối chứng trên cả 4 dòng tế bào ung thư thử nghiệm (KB, 
HepG2, MCF7, Lu-1) với giá trị IC50 từ 0,02-0,16 μM. 
3. Sáu hợp chất lần đầu tiên được phân lập và xác định cấu trúc từ loài Hoàng đàn 
giả (D. elatum), trong đó một chất có cấu trúc mới là Dacrydianon (HĐ2). 4/6 hợp chất 
sạch được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào. 
4. Lần đầu tiên ở Việt Nam 3 loài lá kim Đỉnh tùng (C. mannii), Hoàng đàn giả 
(D. elatum) và Kim giao núi đất (N. wallichiana) được nghiên cứu tính đa dạng 
nguồn gen di truyền bằng 2 chỉ thị ISSR và SSR nhằm phục vụ công tác bảo tồn và 
phát triển bền vững các loài lá kim ở Tây Nguyên, Việt Nam. 
 136
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Tran Van Loc, Nguyen Thi Lieu, Tran Thi Phuong Thao, Nguyen Thi Luu, Ho 
Ngoc Anh, Le Thi Thu Ha, Tran Van Chien, Pham Thi Ninh, Dinh Thi Phòng, 
Tran Van Sung, The Alkaloidal constituents of Cephalotaxus mannii collected 
in LAM DONG province, Viet Nam, Chemistry of nature compound, 2017, 53 
(6), 1122-1126. 
2. Nguyen Thi Lieu, Tran Van Loc, Tran Thi Phuong Thao, Nguyen Thi Luu, Ho 
Ngoc Anh, Le Thi Thu Ha, Tran Van Chien, Pham Thi Ninh, Dinh Thi Phòng, 
Tran Van Sung, The non-Alkaloidal constituents of Cephalotaxus mannii, 
collected in LAM DONG province, Vietnam, Journal of Chemistry, 2016, 54 (2 
), 210-213. 
3. Nguyễn Thị Liễu, Phạm Thị Ninh, Nguyễn Thị Hoàng Anh, Trịnh Thị Thủy, 
Nguyễn Thị Lưu, Trần Văn Lộc, Đinh Thị Phòng, Trần Thị Phương Thảo, Trần 
Văn Sung, Thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào của loài Kim giao 
núi đất ( Nageia wallichiana ) thu hái tại tỉnh Lâm Đồng, phần 1. Các hợp chất 
diterpnoid, Tạp chí Hóa học, 2016, 54 (1), 88-92. 
4. Nguyễn Thị Liễu, Phạm Thị Ninh, Nguyễn Thị Hoàng Anh, Nguyễn Thị Lưu, 
Trần Văn Lộc, Đinh Thị Phòng, Trần Thị Phương Thảo, Trần Văn Chiến, Trần 
Văn Sung, Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây Kim 
giao núi đất thu hái tại tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam, phần 2. Các hợp chất 
biflavonoid, steroid và phenolic, Tạp chí Hóa học, 2016, 54 (3), 391-395. 
5. Đinh Thị Phòng, Nguyễn Thị Liễu, Vũ Thị Thu Hiền, Trần Thị Liễu, Trần Thị 
Việt Thanh, Nguyễn Quốc Bình, Vũ Đình Duy, Nguyễn Tiến Hiệp, Phạm Hữu 
Nhân, Đánh giá đa dạng di truyền quần thể tự nhiên loài Kim giao núi đất 
(Nageia wallichiana (C. Presl) Kuntze) ở Tây Nguyên bằng chỉ thị ISSR, tạp chí 
công nghệ Sinh học, 2015, 13 (1), 131-141. 
6. Trần Thị Liễu, Vũ Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Liễu, Đinh Thị Phòng, So sánh 
hiệu quả của chỉ thị ISSR và SSR trong đánh giá đa dạng di truyền quần thể 
Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum) tự nhiên ở Tây Nguyên, Việt Nam, tạp chí 
 137
Công nghệ sinh học, 2017, 15(2), 293-305. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vidacovic M., Conifer, Morphology and Variation, Graficki Zavod 
Hrvatske, 1991, Croatia, 755. 
2. http: //conifer.org / gymnospers.php 
3. Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, 
Aljos Farjon, Leonid Averyanov, Jacinto Regalado, Thông Việt Nam: Nghiên 
cứu hiện trạng bảo tồn, 2004. Fauna &; Flora International, Chương trình 
Việt Nam, 2005, Hà Nội. 
4. Nguyễn Hoàng Nghĩa, Các loài cây lá kim ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, 
2004, Hà Nội. 
5. K. E. Tripp, Cephalotaxus The Plum Yew, Arnoldia, 1995, 55, 25–39. 
6. L. Fu, N. Li and R. R. Mill, Cephalotaxaceae . In: Wu Z, Raven PH, Hong D 
(eds), Flora of China, 1999, 4, 85–88. 
7. Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, quyển 1, NXB Trẻ, 2003. 
8. Bộ Khoa học và Công nghệ & Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam, Sách 
đỏ Việt Nam. Phần 2- Thực vật, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 
2007, 512, Hà Nội. 
9.  
10.  
11. L. Ni, X-H. Zhong, J. Cai, M-F. Bao, B-J. Zhang, J. Wu, X-H. Cai, Five 
New Alkaloids from Cephalotaxus lanceolata and C. fortunei var. alpine, 
Nat. Prod. Bioprospect., 2016, 6, 149–154. 
12. (a) W. W. Paudler, G. I. Kerley and J. McKay, J. Org. Chem. , 1963, 28, 
2194–2197; (b) Additional works: W. W. Paudler and J. McKay, J. Org. 
Chem. , 1973, 38, 2110–2112. 
13. R. G. Powell, D. Weisleder, C. R. Smith, Jr. and I. A. Wolff, Structure of 
cephalotaxine and related alkaloids, Tetrahedron Lett. , 1969, 46, 4081–4084. 
14. S. Ma, X. Shi, H. Yan, Z. Ma , X. Zhang, Antiphytoviral activity of alkaloids from 
 138
Cephalotaxus sinensis, Industrial Crops and Products, 2016, 94, 658–664. 
15. H. Morita, M. Yoshinaga and J. Kobayashi, Cephalezomines G, H, J, K, L, 
and M, new alkaloids from Cephalotaxus harringtonia var. nana, 
Tetrahedron, 2002, 58, 5489-5495. 
16. W. W. Paulder, J. McKay, Structures of some of the minor alkaloids of 
Cephalotaxus fortune, J. Org. Chem., 1973, 38 (11), 2110-2112. 
17. M. Bocar, A. Jossang and B. Bodo, New Alkaloids 
from Cephalotaxus fortune, J. Nat. Prod. , 2003, 66(1), 152–154. 
18. Y-R He, Y-H Shen, B. Li, L. Lu, J-M Tian, W-D Zhang, Alkaloids from 
Cephalotaxus lanceolata and Their Cytotoxicities, Chem. Biodiv, 2013, 10, 
584-595. 
19. I. Takano, I. Yasuda, M. Nishuma, Y. Hitotsuyanagi, K. Takeya and H. 
Ttokawa, Alkaloids from Cephalotaxus harringtonia, Phytochemistry, 1996, 
43(1), 299-303. 
20. H. Morita, M. Arisaka, N. Yoshida and J. Kobayashi, Cephalezomines A-F, 
Potent Cytotoxic Alkaloids from Cephalotaxus harringtonia var. nana, 
Tetrahedron, 2000, 56, 2929–2934. 
21. I. Takano, I. Yasuda, M. Nishijima, Y. Hitotsuyanagi, K. Takeya and H. 
Itokawa, New Cephalotaxus Alkaloids from Cephalotaxus harringtonia var. 
drupacea, J. Nat. Prod. , 1996, 59(10), 965–967. 
22. I. Takano, I. Yasuda, M. Nishijima, Y. Hitotsuyanagi, K. Takeya and H. 
Itokawa, Ester-type Cephalotaxus Alkaloids from Cephalotaxus harringtonia 
var. drupacea, Phytochemistry , 1997, 44(4), 735-738. 
23. I. Takano, I. Yasuda and M. Nishijima, New oxygenated Cephalotaxus 
Alkaloids from Cephalotaxus harringtonia var. drupacea, J. Nat. Prod. , 
1996, 59(12), 1192–1195. 
24. M. Yoshinaga, H. Morita, T. Dota and J. Kobayashi, Bis-Cephalezomin A-E 
from Cephalotaxus harringtonia var. nana, Tetrahedron, 2004, 60, 7861–7868. 
25. R. G. Powell, Structures of homoerythrina alkaloids from Cephalotaxus 
harringtonia, Phytochemistry, 1972, 11, 1467-1472. 
26. L.-W. Wang, H.-J. Su, S.-Z. Yang, S.-J. Won and C.-N. Lin, New Alkaloids 
 139
and a Tetraflavonoid from Cephalotaxus wilsoniana, J. Nat. Prod. , 2004, 67, 
1182–1185 
27. R. G. Powell, K. L. Mikolajczak, D. Weisleder, and C. R. Smith, Jr., 
Akaloids of Cephalotaxus wilsoniana, Phytochemistry, 1972, 11 (11), 3317. 
28. Anonymous, Stadies on the antitumor constituents of Cefalotaxus 
hainanensisi, Acra Chim. Sin., 1976, 34(4), 283-292 . 
29. Y-M. Zhang, R. Zhan, Y-G. Chen, Z-X. Huang, Two new flavones from the 
twigs and leaves of Cephalotaxus lanceolata, Phytochemistry Letters, 2014, 
9, 82–85. 
30. K. Bae, W. Y. Jin, P. T. Thuong, B. S. Min, M. K. Na ,Y. M. Lee, S. S. 
Kang, A new flavonoid glycoside from the leaf of Cephalotaxus koreana, 
Fitoterapia, 2007, 78, 409 – 413. 
31. Y-H. Kuo, S-Y. Hwang, L-M. Y. Kuo, Y-L. Lee, S-Y. Li and Y-C. Shen, 
A Novel Cytotoxic C-Methylated Biflavone, Taiwanhomoflavone-B from the 
Twigs of Cephalotaxus wilsoniana, Chem. Pharm. Bull, 2002, 50(12), 
1607—1608. 
32. M. K. Lee, S. W. Lim, H. Yang, S. H. Sung, H-S. LeeM. J. Park and Y.C. 
Kim, Osteoblast differentiation stimulating activity of bioflavonoids from 
Cephalotaxus koreana, Bioorganic & Medicinal Chemistry Letters, 2006, 16, 
2850–2854. 
33. M. Politi, N. De Tommasi, I. Morelli, A. Manunta, L. Battinelli and G. 
Mazzanti, Antimicrobial Diterpenes from the Seeds of Cephalotaxus 
harringtonia var. drupacea, Planta Med., 2003, 69, 468–470. 
34. X.-H. Xu, W. Zhang, X.-P. Cao and S. Xue, Abietane diterpenoids synthesized 
by suspension-cultured cells of Cephalotaxus fortune, Phytochem. Lett., 2011, 
4, 52–55. 
35. J. G. Buta, J. L. Flippen and W. R. Lusby, Harringtonolide, a plant growth 
inhibitory tropone from Cephalotaxus harringtonia (Forbes) K. Koch, J. Org. 
Chem., 1978, 43 (5), 1002–1003 
36. Z. Xue, N. J. Sun and X. T. Liang, Acta Pharm. Sinica, 1982, 17, 236–237. 
37. K. D. Yoon, D. G. Jeong, Y. H. Hwang, J. M. Ryu and J. Kim, Inhibitors of 
 140
Osteoclast differentiation from Cephalotaxus koreana, J.Nat. Prod., 2007, 70 
(12), 2029–2032. 
38. R.G. Powell, R. W. Miller, and C. R. Smith, Jr., Cephalomannine; a new 
antitumor alkaloid from Caphalotaxus mannii, The Journal of the Chemistry 
Society, 1979, . 
39. P. Coulerie, C. Eydoux, E. Hnawia, L. Stuhl , A. Maciuk, N. Lebouvier, 
B. Canard, B. Figadère, J-C. Guillemot, M. Nour, Biflavonoids of Dacrydium 
balansae with Potent Inhibitory Activity on Dengue 2 NS5 Polymerase, 
Planta Med, 2012, 78, 672–677. 
40. Simon F. R. Hinkley, Nigerl B. Perry and Rex T. Weaves, Confirmation 
of structure and absolute Stereochemistry of 9-epi-β- Caryophyllene from 
Dacrydium cupressinium, Phytochemistry, 1994, 35(6), 1489-1494. 
41. Trần Thu Hương, Đóng góp vào việc chuyển hóa α-Cedren và Cedrol từ tinh 
dầu Giả Hoàng Đàn Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ, Hà nội, 1996. 
42. R. G. Powell, D. Weisleder, C. R. Smith, Jr. and W. K. Rohwedder, 
Structure of harringtonine, isoharringtonine and homoharringtonine, 
Tetrahedron Lett., 1970, 11 (11), 815–818.. 
43. K. L. Mikolajczak, R. G. Powell and C. R. Smith, Jr., Deoxyharringtonine, a 
new antitumor alkaloid from Cephalotaxus: Structure and synthetic studies, 
Tetrahedron, 1972, 28 (7), 1995–2001. 
44. H Meng, C Yang, J. Jin, Y Zhou, W Qian, Homoharringtonine inhibits the 
AKT pathway and induces in vitro and in vivo cytotoxicity in human multiple 
myeloma cells, Leukemia & lymphoma, 2008, 49 (10), 1954–1962. 
45. Zhou DC, Zittoun R, Marie JP, Homoharringtonine: an effective new natural 
product in cancer chemotherapy, Bull cancer, 1995, 82 (12), 987-995. 
46. L. Li, Xia LJ, C. Jiang, R. Han, Induction of apoptosis by harringtonine and 
homoharringtonine in HL-60 cells, Pubmed , 1994, 29(9), 667-672. 
47. Y-H. Kuo, S-Y. Hwang, L-M. Y. Kuo, Y-L. Lee, S-Y. Li, and Y-C. Shen, 
A Novel Cytotoxic C-Methylated Biflavone, Taiwanhomoflavone-B from 
the Twigs of Cephalotaxus wilsoniana, Chem. Pharm. Bull., 2002, 50 (12), 
1607—1608. 
 141
48. N. Sun, Z. Xue, X. Liang and L. Huang, Acta Pharm. Sinica, 1979,14, 39–
44; Chem. Abstr., 1980, 92 
49. S. Kang, S. Cai and L. Teng, Acta Pharm. Sinica, 1981, 16, 867–868. 
50. Zietkiewicz E., Rafalski A., Labuda D., Genome fingerprinting by simple 
sequence repeat (SSR)-anchored PCR amplification, Genomics, 1994, 20, 
176-183. 
51. Weising K., Winter P., Huttel B., Kahl G., Microsatellite markers for 
molecular breeding, J Crop Prod., 1998, 1 (1), 113-143. 
52. Khuất Hữu Thanh, Kỹ thuật gen , NXB Khoa học và kĩ thuật Hà nội, 2003. 
53. P.Y. Yip, C. F. Chau, C. Y. Mak and H. S. Kwan, DNA methods for identification 
of Chinese medicinal material, Chinese Medicine, 2007, 9 (2), 1-19. 
54. Li Yingang, Zhou Zhichun, Jin Guoqing, Genetic Diversity for Different 
Provenances of Cephalotaxus fortune, Scientia Silvae Sinicae, 2008, 44(2), 
64-69. 
55. H-W. Pan,Y-R. Guo, Y-J Su and T. Wang, Development of microsatellite 
loci for Cephalotaxus oliver (Cephalotaxaceae) and cross-amplification in 
Cephalotaxus, American Journal of Botany, 2011, 229-232. 
56. Y. Miao, X. Lang, S. Li, J. Su and Y. Wang, Characterization of 15 
Polymorphic Microsatellite Loci for Cephalotaxus oliveri (Cephalotaxaceae), 
a Conifer of Medicinal Importance, Int. J. Mol. Sci., 2012, 13, 11165-11172. 
57. T. Wang, Z. Wang, F. Xia and Y. Su, Local adaptation to temperature and 
precipitation in naturally fragmented populations of Cephalotaxus oliveri, an 
endangered conifer endemic to China, Scientific reports, 2016, 6, 25031. 
58. Y-J Su, T. Wang and F. Deng, Population genetic variation, differentiation 
and bottlenecks of Dacrydium pectinatum (Podocarpaceae) in Hainan Island, 
China: implications for its conservation, Australian Journal of Botany, 2010, 
58, 318–326. 
59. K. N. Hong, Y. M. Kim, Y. J. Park and J. W. Lee, Genetic Diversity and 
Population Genetic Structure of Cephalotaxus koreanain South Korea, 
Korean J. Plant Res., 2014, 27 (6), 660-670. 
60. K. Marxen, K. H. Vanselow, S. Lippemeier, et al., Determination of DPPH 
Radical Oxidation Caused by Methanolic Extracts of some Microalgal 
 142
Species by Linear Regression Analysis of Spectrophotometric Measurements, 
Sensors, 2007, 7, 2080-2095. 
61. M. Burits and F. Bucar, Antioxidant activity of Nigella sativa essential oil, 
Phytotherapy Research, 2000, 14, 323–328. 
62. M. Cuendet, K. Hostettmann and O. Potterat, Iridoid glucosides with free 
radical scavenging properties from Fagraea blumei, Helvetica Chimica 
Acta, 1997, 80, 1144–1152. 
63. A. Monks, D. Scudiero, P. Skehan, R. Shoemake, K. Paull, D. Vistica, C. 
Hose, J. Langley, P. Cronise, H. Campbell, J. Mayo, M. Boyd, Feasibility of 
a high-flux anticancer drug screen using a diverse panel of cultured human 
tumor cell lines, Journal of National Cancer Institute, 1991, 11( 83), 757-766. 
64. D. A. Scudiero, R. H. Shoemaker, K. D. Paull, A. Monks, S. Tierney, T. H. 
Nofziger, M. J. Currens, D. Seniff, M. R. Boyd, Evaluation of a soluble 
Tetrazolium/Formazan assay for cell growth and drug sensivity in culture using 
human and other tumor cell lines, Cancer Research., 1988, 48, 4827-4833. 
65. L. B. S. Kardono, C. K. Angerhofer, S. Tsauri, K. Padmawinata, J. M. 
Pezzuto, A. D. Kinghorn, Cytotoxic and antimalarial constituents of the 
roots of Eurycoma longifolia, J. Nat. Prod., 1991, 5 (54), 1360-1367. 
66. M. C. Alley, D. A. scudiero, A. Monks, M. L. Hursey, M. J. Czerwinski, D. 
L. Fine, B. J. Abbott, J. G. Mayo, R. H. Shoemaker, M. R. Boyd, Feasibility 
of drug screening with panels of human tumor cell lines using a microculture 
tetrazolium assay. Cancer Research, 1988, 48, 589-601. 
67. R. H. Shoemaker, D. A. Scudiero, E. A. Suasville, Application of high-
throughput, molecular – targeted screening to anticancer drug discovery, 
Curr. Top. Med. Chem., 2002, 2 (3), 229-246. 
68. Parasharami V. A., Thengane S. R., “Inter population genetic diversity 
analysis using ISSR markers in Pinus roxburghii (Sarg.) from Indian 
provenances”, Inter J Bio Conser , 2012, 4(5), 219-227. 
69. Bornet B., Branchard M., Nonanchored inter simple sequence repeat (ISSR) 
markers: Reproducible and specific tools fr genome fingerprinting, Plant. 
 143
Mol. Biol. Rep., 2001, 19 (3), 209-215. 
70. Carrasco B., Retamales J. B., Quiroz K., Garriga M., Caligari P. D. S., 
Gonzales R. G., Inter simple sequence repeat markers associated with 
flowering time duration in the Chilean strawberry (Fragaria chiloensis), J. 
Agr. Sci. Tech., 2013, 15, 1195-1207. 
71. Baloch F. S., Kurt C., Arioglu H., Özkan H., Assaying of diversity among 
soybean (Glycin max (L.) Merr.) and peanut (Arachis hypogaea L.) 
genotypes at DNA level, Turk. J. Agric. For., 2010, 34, 285-301. 
72. Phong D. T., Hiep V. T. T., Thanh T. T.V.,Tang D. V., Comparison of 
RAPD and ISSI marker for assessment of genetic diversity among 
endangered rare Dalbergia oliveri (Fabaceae) genotypes in Vietnam, Genet. 
Mol. Res.,2011, 10(4), 2382-2393. 
73. Mahdizadeh V., Safaie N., Goltapeh E. M., Genetic diversity of sesame 
isolates of Macrophomina phaseolina using RAPD and ISSI marker, Trakia. 
J. Sci., 2012, 10(2), 65-74. 
74. Arif M., Zaidi N. M., Singh Y. P., Haq Q. M. R., Singh U. S., A comparative 
analysis of ISSR and RAPD markers for study of genetic diversity in Shisham 
(Dalbergia sissoo), Plant. Mol. Biol. Rep., 2009, 27, 488- 495. 
75. Isshiki S., Iwata N., Khan M. M. R.,. ISSR variations in eggplant (Solanum 
melongena L.) and related Solanum species, Scientia. Hortic, 2008, 117, 
186–190. 
76. Muthusamy, S., Kanagarajan S., Ponnusamy S., Efficiency of RAPD and ISSR 
markers system in accessing genetic variation of rice bean ( Vigna umbellata) 
landraces, Electronic Journal of Biotechnology, 2008, 11(3), 1-10. 
77. Yingchun Miao, Xuedong Lang, Shuaifeng Li, Jianrong Su, Yuehua Wang, 
Characterization of 15 Polymorphic Microsatellite Loci for Cephalotaxus 
oliveri (Cephalotaxaceae), a Conifer of Medicinal Importance, International 
Journal of Molecular Science, 2012, 13, 11165-11172. 
78. Pan H. W., Guo Y. R., Su Y. J., Wang T., Development of microsatellite loci 
 144
for Cephalotaxus oliveri (Cephalotaxaceae) and cross-amplification in 
Cephalotaxus, American Journal of Botany, 2011, 229-232. 
79. Mariettea S., Chagnéa D., Decroocqa S., Vendraminb G. G., Lalannea C., 
Madura D., Plomiona C., Microsatellite markers for Pinus pinaster Ait, Ann. 
For. Sci., 2001, 58, 203-206. 
80. Mellick R., Porter C., Rossetto M., Isolation and characterisation of 
polymorphic microsatellite loci from Podocarpus elatus (Podocarpaceae), 
Molecular Ecology Resources, 2009, 9(6), 1460-1466. 
81. Hung K. H., Lin C. Y., Huang C. C., Hwang C. C., Hsu T. W., Ku Y. L., 
Wang W. K., Hung C. Y., Chiang T. Y., Isolation and characterization of 
microsatellite loci from Pinus massoniana (Pinaceae). Botanical Studies, 
2012, 53, 191-196. 
82. Chiang Y. C., Shih H. C., Chang L. W., Li W. R., Lin H. Y., Ju L. P., 
Isolation of 16 polymorphic microsatellite markers from an endangered and 
endemic species, Podocarpus nakaii (Podocarpaceae). Amer. J. Bot., 2011, 
306-309. 
83. Boys J., Cherry M., Dayanandan S., Microsatellite analysis reveals 
genetically distinct populations on red pine (Pinus resinosa, pinaceae). 
Amer. J. Bot., 2005, 92(5), 833-841. 
84. Vendramin G. G., Lelli L., Rossi P., Morgante M., A set of primers for the 
amplification of 20 chloplast microsatellites in Pinaceae, Mol. Ecol., 1996, 
5, 595-598. 
85. Elsik C. G., Minihan V. T., Hall S. E., Scarpa A. M., Williams C. G., Low-
copy microsatellite markers for Pinus taeda L., Genome, 2000, 43: 550-555. 
86. Echt C. S., May-Marquardt P., Hseih M., Zahorchak R., Characterization of 
microsatellite markers in eastern white pine. Genome, 1996, 39, 1102-1108. 
87. Porebski S., Bailey L. G., Baum B. R., Modification of a CTAB DNA 
Extraction Protocol for Plants Containing High Polysaccharide and 
Polyphenol Components, Plan Mol Biol Rep, 1997, 15(1), 8-15. 
 145
88. Rohlf F. J., NTSYS-PC, Numerical taxonomy and multivariate analysis 
system version 2.0, State University of New York, 1992, New York. 
89. Yap I. V., Nelson R. J., Winboot: a program for performing bootstrap 
analysis of binary data to determine the confidence of UPGMA-based 
dendrograms, IRRI, 1996, Manila. 
90. Peakall R., Smouse P. E., Genalex 6: Genetic analysis in excel, Population 
genetic software for teaching and research, Molecular ecology notes, 2006, 
6, 288-295. 
91. Nei M., Analysis of genetic diversity in subdivided populations, Proc Natl 
Acad Sci USA, 1973, 70, 3321-3323. 
92. D. Weisleder, R. G. Powell, Jr C. R. Smith, Carbon-13 nuclear magnetic 
resonance spectroscopy of cephalotaxus alkaloids, Org. Magn. Reson., 
1980, 13 (2), 114-115. 
93. N. Isono, M. Mori, Total Synthesis of (-) Cephalotaxine, J. Org. Chem., 
1995, 60(1), 115-119. 
94. Mikolajczak, K. L.; Powell, R. G.; Smith, C. R., Jr., Deoxyharringtonine, a 
new antitumor alkaloid from Cephalotaxus: Structure and synthetic studies, 
Tetrahedron, 1972, 28, 1995-2001. 
95. I . Takano, I. Yasuda, M. Nishifima, Y. Hitosuyanagi, K. Takeya, H. Itokawa, 
Alkaloids from cephalotaxus harringtonia, Phytochemistry, 1996, 43 (1), 299-303. 
96. R. G. Powell, D. Weisleder, C. R. Smith Jr., Antitumor Alkaloids 
from Cephalotaxus harringtonia: Structure and Activity, J. Pharm.Sci., 1972, 
61(8), 1227-1230. 
97. R. G. Powell, Structures of homoerythrina alkaloids from cephalotaxus 
harringtonia, Phytochemistry, 1972, 11 (4), 1467-1472. 
98. S. R. Johns, J. A. Lamberton and A. A. Sioumis, Alkaloids of 
Schelhammera pedunculata (Liliaceae). III. The structures of the 
schelhammericine and alkaloids, Aust. J. Chem., 1969, 22 (10), 2219–2231. 
99. J. George Buta, Judith L. Flippen, William R. Lusby, Harringtonolide, a 
Plant Growth Inhibitory Tropone from Cephalotaxus harringtonia (Forbes) 
 146
K. Koch, J. Org. Chem., 1978, 43(5), 1002-1003. 
100. L. Evanno, A. Jossang, J. Nguyen-Pouplin, D. Delaroche, P. Herson, M. 
Senleimann, B. Bode, B. Nay, Further studies of the Norditerpene (+)-
Harringtonolide isolated from Cephalotaxus harringtonia var. drupacea: 
Absolute configuration, Cytotoxic and Antifungal Activities, Planta Med, 
2008, 74, 870-872. 
101. Trinh Thi Thuy, Pham Thi Ninh, Nguyen Huy Cuong, Tran Van Sung, 
Catechin và epicatechin từ cây Dây săng máu (Celastrus paniculatusWilld.), 
Tạp chí Dược liệu (Journal of Materia Medica-Hanoi), 2008, 13 (3), 108-
110. 
102. Tran Van Sung, Trinh Thi Thuy, Le Thi Hong Nhung, Ngo Van Quang, 
Nguyen Thi Ha, Bui Thi Thu Huong, Separation, purification andstructure 
determination of (-) -epigallocatechin-3-gallat from the leaves of Camilla 
sinesis. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (Journal of Science and 
Technology), 2007, 45 (1B), 450-455 
103. Guerriero A. , Pietra F., Isolation, in large amounts, of the rare plant 
ecdysteroid Ajugasterone-C from the mediterranean zoanthid Gerardia 
savaglia, Comp. Biochem.Physiol, 1985, 80 (2), 277-278 
104. Campello, J. de P., Fonseca, S.F., Chang, C.J., Wenkert, E., Terpenes 
of Podocarpus lambertius, Phytochemistry, 1975, 14(1), 243–248. 
105. L-C. Zhang, X-D. Wu, J. He, Y. Le, R-P. Zhang, Q-S. Zhao, Three new 
abietane diterpenoids from Podocarpus fleuryi, Phytochemistry, 2013, 6, 
364-367. 
106. Lin L.-Z, Blasko G., Cordel G. A, Diterpenes of Salvia prionitis, 
Phytochemistry , 1989, 28 (1), 177 -181. 
107. Ulubelen A. , Topcu G., New Abietane Diterpenoids from Salvia montbretii, 
J.Nat.Prod., 1992, 55(4), 441-444. 
108. Y. S. Jong, A. M. Eun, B. H. Myun, et al., Steroids from the aerial parts of 
Artemisia princeps Pampanini, Korean J. Medicinal Crop Sci., 2006, 14 
(5), 273-277 
 147
109. Vokáč K., Buděšinský M., Harmatha J., Kohoutavá J., Ecdysteroid 
constittuents of the mushroom Tapinella Panuoides*, Phytochemistry, 1998, 
49 (7), 2109-2114. 
110. K. Nakanishi, M. Koreeda, S. Sasaki, M. L. Chang, and H. Y. Hsu, Insect 
Hormones, The structure of Ponasterone A, an Insect – moulting Hormone 
from the leaves of Podocarpus nakaii Hay, Chemical Communication 
(London), 1996, 24, 915-917. 
111. N. Z. Mamadalieva , M. Z. El-Readi , A. A. Janibekov , A. Tahrani , and 
Michael Wink, Phytoecdysteroids of Silene guntensis and their in vitro 
Cytotoxic and Antioxidant Activity, Z. Naturforsch. , 2011, 66 c, 215 – 224. 
112. S. Imai, E. Murata, and S. Fujioka, M. Koreeda and K. Nakanishi, Structure of 
Ajugasterone C, a Phytoecdysone with an 11-Hydroxy-group, Chemical 
comminucations, 1969, 10, 546-547. 
113. V. N. Odinokov, I. V. Galyautdinov, D. V. Nedopekin, L. M. Khalilov, A. S. 
Shashkov, V. V. Kachala, L. Dinan, R.Lafont, Phytoecdysteroids from the 
juice of Serratula coronate L. (Asteraceae), Insect Biochemistry and 
Molecular Biology, 2002, 32, 161-165. 
114. S. Imai, E. Murata, and S. Fujioka, M. Koreeda and K. Nakanishi, Structure of 
Ajugasterone C, a Phytoecdysone with an 11-Hydroxy-group, Chemical 
comminucations, 1969, 10, 546-547. 
115. E. Wollenweber, L. Kraut and R. Mues, External Accumulation of 
Biflavonoids on Gymnosperm Leaves, Z. Naturforsch, 1998, 53c, 946-950 . 
116. Liao, Z., Kato, H., Pandey, M., Cantor, J. M., Ablooglu, A. J., Ginsberg, M. 
H. and Shattil, S. J. (2015). Interaction of kindlin-2 with integrin β3 
promotes outside-in signaling responses by the αVβ3 vitronectin receptor. 
Blood 125, 1995-2004. 
117. Ferchichi L, Derbre S, Mahmood K, Guilet D, Litaudon M, Awang K, Hadi 
AHA, Le Ray AM, Richomme P, Bioguided fractionation and isolation of 
natural inhibitiors of advanced glycation end-products (AGEs) from 
Calophyllum flavoramulum, phytochemistry, 2012, 78, 98-106. 
 148
118. H. K. Kim, K. H. Son, H. W. Chang, S. S. Kang, and H. P. Kim, 
Amentoflavone, a plant biflavone: A new potential anti-inflammatory agent, 
Arch. Pharm. Res, , 1998, 21(4), 406-410. 
119. Cholbi M. R., Paya M. and Alcaraz M. J., Inhibitory effects of phenolic 
compounds on CCl4-induced microsomal lipid peroxidation, Experientia, 
1991, 47, 195-199. 
120. P-H. Yeh, Y-D. Shieh, L-C. Hsu, L-M. Y. Kuo, J-H. Lin, C-C. Liaw, and Y-
H. Kuo, Naturally occurring cytotoxic [3’8”] Biflavonoids from 
Podocarpus nakaii, J Tradit complementMed., 2012, 2(3), 220-226. 
121. C-M. Sun,totoxic W-J. Syu, Y-T. Huang, C-C. Chen, and J-C. Ou, Selective 
cyctotoxic of Ginkgetin from Selaginella moellendorffii, J. Nat. Prod., 1997, 
60, 382-384. 
122. S.-T. Chang, S-Y Wang, C-L.Wu, Y-C Su, and Y-H Kuo, Antifungal 
compounds in the ethyl acetate Soluble Fraction of the extractives of 
Taiwania ( Taiwania cryptomerioides Hayata) Heartwood, Hlzforschung, 
1999, 53, 487-490. 
123. H. Saijoa , H. Kofujitaa , K. Takahashiab and T. Ashitan, Antioxidant activity 
and mechanism of the abietane-type diterpene ferruginol, Natural Product 
Research, 2015, 29 (18), 1739-1743 
124. M. Rozalskia, Ł. Kuz´mab , U. Krajewskaa , and H. Wysokin´ska, Cytotoxic 
and Proapoptotic Activity of Diterpenoids from in vitro Cultivated Salvia 
sclarea Roots. Studies on the Leukemia Cell Lines, Z. Naturforsch., 2006, 61 
c, 483-488 
125. H. M. Chang, K. P. Cheng, T. F. Choang, H. F. Chow, K. Y. Chui, P. M. 
Hon, F. W. L. Tan, Y. Yang, and Z. P. Zhong, Structure Elucidation and 
total synthesis of New Tanshinones isolated from Salvia miltiorrhiza Bunge 
(Danshen), J. Org. chem., 1990, 55, 3537-3543. 
126. Y. Hayashi, T. Matsumoto, M. Uemura, Carbon-13 NMR studies of the 
biologically active nor-diterpenoid dilactones from Podocarpus plants, 
 149
Organic Magnetic Resonance, 1980, 14, 86-92. 
127. Y. Hayshi, S. Takahashi, H. Ona, T. Sakan, Structures of Nagilacton A, B, C 
and D, novel nor- and bisnorditerpenoids, Tetrahedron Letters, 1968, 17, 
2071-2076. 
128. Yaming X., Shengding F., The chemical constituents from Podocarpus 
fleuryi Hickle, Acta Botanica Sinica, 1990, 32(4), 302-306. 
129. S. Saiedina, A. Manayi, A. R. Gohari, M. Abdollahi, The Story of β-
sitosterol-A review, European Journal of Medicinal Plants, 2014, 4 (5), 590-
609. 
130. Đinh Thị Phòng (chủ nhiệm), Nghiên cứu tính đa dạng nguồn gen di truyền 
và thành phần hóa học một số loài lá kim ở Tây Nguyên, đề xuất giải pháp 
bảo tồn, sử dụng và phát triển bền vững mã số TN3/T15, 2016, Hà nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_nghien_cuu_thanh_phan_hoa_hoc_hoat_tinh_sinh_hoc_va.pdf luan_an_nghien_cuu_thanh_phan_hoa_hoc_hoat_tinh_sinh_hoc_va.pdf