Một nội dung khác có thể đƣợc coi là cốt lõi trong thoả thuận về quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng EPC là việc phân định quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm giữa chủ đầu tƣ và nhà thầu EPC đối với việc quản lý thực
hiện hợp đồng EPC. Trong một hợp đồng xây dựng truyền thống, việc phân định
này rất rõ ràng và đơn giản. Đó là chủ đầu tƣ có quyền kiểm tra, giám sát chặt chẽ
từng công việc của nhà thầu để đảm bảo nhà thầu đang thực hiện đúng các thoả
thuận trong hợp đồng thông qua tƣ vấn giám sát của chủ đầu tƣ. Trách nhiệm của
nhà thầu là thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về một loại công việc cụ
thể, nhƣ: Hoàn thành việc thiết kế để lựa chọn nhà thầu thi công đối với hợp đồng
thiết kế, hoàn thành việc thi công xây dựng đúng theo thiết kế chi tiết mà chủ đầu tƣ
yêu cầu đối với hợp đồng thi công xây dựng. Còn việc phân định quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm giữa chủ đầu tƣ và nhà thầu EPC đối với việc quản lý thực hiện hợp
đồng thì phức tạp hơn. Khó khăn ở đây chính là việc xác định cách thức kiểm soát
cũng nhƣ ranh giới của sự kiểm soát của chủ đầu tƣ đối với việc quản lý thực hiện
hợp đồng của nhà thầu EPC
201 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình (epc) ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo về xây dựng hiện nay
vẫn thiên về đào tạo theo một chuyên ngành hẹp. Trong khi đó, xu hƣớng quản lý
dự án và quản lý hợp đồng hiện đại đang đặt ra yêu cầu về một đội ngũ tƣ vấn xây
dựng độc lập và toàn diện chứ không chỉ đơn thuần là các “thợ vẽ hay “đốc công .
Đồng thời, cần nghiên cứu và bổ sung lĩnh vực quản lý hợp đồng xây dựng
vào chuyên ngành đào tạo xây dựng. Đây là một lĩnh vực chuyên môn cần đƣợc đào
tạo một cách bài bản, hoạt động chuyên môn có điều kiện nên cần đƣợc đào tạo và
cấp chứng chỉ theo quy định.
Bên cạnh đó, cần đƣa môn học Đạo đức nghề nghiệp vào giảng dạy bắt buộc
ở các trƣờng có đào tạo cán bộ chuyên ngành xây dựng. Trong đó, nhà trƣờng cần
giảng dạy cho sinh viên về tinh thần trung thực và hợp tác trong hoạt động xây
dựng. Đối với quản lý dự án xây dựng hiện đại thì tƣ tƣởng “cùng thắng theo triết
lý “hợp đồng quan hệ và các mô hình đối tác, cộng tác đã cho thấy những hiệu quả
đáng kể giúp cải thiện môi trƣờng hoạt động xây dựng vốn đã phức tạp và nhiều rủi
168
ro. Chính vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng, các sinh viên học ngành
xây dựng - những nhà hoạt động nghề nghiệp tƣơng lai - cần đƣợc định hƣớng và
rèn luyện những phẩm chất nghề nghiệp quan trọng này.
Đồng thời, các cơ sở đào tạo cần tăng cƣờng liên kết đào tạo với các tổ chức
chuyên môn quốc tế có uy tín nhằm đào tạo và cấp chứng chỉ quốc tế cho các kỹ sƣ
có trình độ cao đáp ứng điều kiện hội nhập vào sân chơi quốc tế hiện nay của ngành
công nghiệp xây dựng.
3.3.3. Nhà nước cần thiết lập cơ chế và các giải pháp cụ thể nhằm thúc
đẩy sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các tổ chức chuyên môn trong việc
nâng cao nhận thức, đào tạo công tác quản lý thực hiện dự án nói chung và
quản lý thực hiện hợp đồng EPC nói riêng theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại
theo chuẩn quốc tế
Thực tiễn hoạt động xây dựng quốc tế cũng nhƣ ở các quốc gia phát triển đã
ghi nhận vai trò và sự đóng góp to lớn của các tổ chức chuyên môn. Đối với việc
giao kết, thực hiện và quản lý hợp đồng xây dựng nói riêng, vai trò của tổ chức
chuyên môn đã đƣợc thể hiện rõ trên các phƣơng diện nhƣ: Soạn thảo, ban hành
hoặc hỗ trợ Chính phủ soạn thảo ban hành các hợp đồng mẫu trong hoạt động xây
dựng; đào tạo chuyên sâu về hợp đồng xây dựng và quản lý hợp đồng xây dựng;
nguồn nhân lực chủ đạo tham gia hoà giải, làm nhân chứng chuyên gia trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng.
Ở Việt Nam, các tổ chức chuyên môn này đƣợc định danh là các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp. Có thể kể đến các tổ chức nhƣ: Tổng hội Xây dựng Việt Nam,
Hiệp hội các Nhà thầu Việt Nam, Hội Kiến trúc sƣ Việt Nam v.v Các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp này vẫn đang hoạt động tích cực và có nhiều đóng góp cho hoạt
động chuyên môn và phát triển ngành công nghiệp xây dựng nói chung. Nhƣng xét
về ba khía cạnh vừa đƣợc đề cập thì vai trò của các hiệp hội chƣa thực sự đƣợc thể
hiện rõ nét. Do đó, Nhà nƣớc cần có cơ chế và các biện pháp thúc đẩy hoạt động
của các Hiệp hội nghề nghiệp một cách có định hƣớng và bài bản hơn. Riêng đối
với vấn đề công bố các hợp đồng mẫu, đào tạo chuyên sâu về hợp đồng xây dựng và
169
quản lý hợp đồng xây dựng, các Hiệp hội chuyên môn về xây dựng cần thúc đẩy và
mở rộng hợp tác quốc tế và liên kết với các hiệp hội chuyên môn khác (thí dụ nhƣ
Hội Luật gia Việt Nam) thì mới có thể làm tốt vai trò của mình. Nhà nƣớc có thể
giao cho các hiệp hội chịu trách nhiệm đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo chuyên sâu
về các mẫu hợp đồng quốc tế và quản lý hợp đồng theo chuẩn quốc tế để khắc phục
tình trạng các chủ đầu tƣ và nhà thầu Việt Nam sử dụng mẫu hợp đồng quốc tế
nhƣng lại chƣa nắm vững các mẫu hợp đồng này dẫn đến lúng túng từ khâu soạn
thảo hợp đồng cho tới khâu quản lý thực hiện hợp đồng. Điều này đóng vai trò rất
quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Yêu cầu cơ bản tối thiểu đầu
tiên mà chủ đầu tƣ cũng nhƣ nhà thầu Việt Nam cần trang bị khi tham gia vào sân
chơi quốc tế là hiểu “luật chơi . Nếu chúng ta không chú trọng công tác này, thì
việc chúng ta bị ngƣời khác lợi dụng, trục lợi hoặc gặp tranh chấp bất lợi là khó
tránh khỏi.
Bên cạnh đó, nguyên tắc “thiện chí đã đƣợc ghi nhận một cách rõ ràng
trong pháp luật Việt Nam. “Thiện chí chính là một trách nhiệm pháp lý của các
bên khi giao kết, thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, việc cụ thể hoá nguyên tắc
quan trọng này trong giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng xây
dựng nói riêng vẫn chƣa thực sự hiệu quả. Sự xuất hiện của các mô hình thực
hiện dự án nhƣ Đối tác dự án, Liên minh dự án và mẫu hợp đồng NEC đƣợc
dựa trên lý thuyết “hợp đồng quan hệ chính là sự cụ thể hoá nguyên tắc “thiện
chí trong giao kết và thực hiện hợp đồng xây dựng hiện đại. Ở Việt Nam hiện
nay, trong giới nghiên cứu cũng nhƣ trong thực tiễn hoạt động xây dựng, các mô
hình này cũng nhƣ mẫu hợp đồng NEC vẫn còn chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi. Do
vậy, trong thời gian tới, các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hoạt động xây
dựng và các cơ sở đào tạo, các tổ chức chuyên môn cần có định hƣớng và triển
khai việc nghiên cứu, phổ biến và đào tạo về các mô hình Đối tác dự án, Liên
minh dự án và mẫu hợp đồng NEC để các bên hiểu rõ và có thêm sự lựa chọn khi
triển khai thực hiện dự án của mình.
170
3.3.4. Tăng cường áp dụng các công cụ và cách thức quản lý dự án, quản
lý hợp đồng hiện đại như mô hình thông tin công trình (BIM), cách thức thực
hiện dự án tích hợp (IDP hay IPM), tinh gọn vào việc quản lý dự án và quản lý
hợp đồng theo mô hình EPC
Mô hình thông tin công trình (BIM) là quy trình tạo lập và sử dụng mô hình
thông tin trong các khâu thiết kế, xây dựng và vận hành của công trình. Với vai trò
là một cơ sở dữ liệu bao trùm toàn bộ vòng đời của công trình, BIM bao hàm các
mối liên hệ logic về mặt không gian, kích thƣớc, số lƣợng, vật liệu, và các đặc tính
của các bộ phận công trình. Khả năng kết hợp thông tin các bộ phận công trình với
các thông tin về định mức, đơn giá, tiến độ thi công, chế độ vận hành bảo dƣỡng...
ngày càng trở thành xu hƣớng tất yếu của ngành xây dựng để tối ƣu hoá việc thiết
kế, thi công và quản lý công trình.
Các lợi ích khi áp dụng BIM trong thiết kế đã đƣợc tổng kết nhƣ sau: Nhanh
chóng đƣa ra nhiều phƣơng án thiết kế để phân tích chọn phƣơng án tối ƣu cũng
nhƣ phân tích mức độ tiêu hao năng lƣợng của các giải pháp thiết kế, cung cấp các
công cụ hỗ trợ phân tích và thiết kế theo hƣớng bền vững môi trƣờng. Đồng thời,
cần tăng năng suất thiết kế, giúp cho việc điều chỉnh thiết kế đƣợc thực hiện nhanh
và ít sai sót; hơn nữa còn phát hiện sớm các điều kiện thi công khó khăn từ khi thiết
kế để đƣa ra giải pháp phù hợp. Trong thi công xây lắp, việc áp dụng BIM giúp tăng
năng suất lao động, tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian. BIM giúp xây dựng mô
hình và bản vẽ hoàn công chính xác nhƣ hiện trạng, xây dựng kế hoạch duy tu, bảo
trì công trình và tính toán chi phí duy tu, bảo trì chi tiết ngay từ khi thiết kế. Ngoài
ra còn có sự thuận lợi cho công tác tính và phân tích chi phí toàn vòng đời của bộ
phận công trình, từ hiệu quả trong quản lý, vận hành đến việc phân tích và báo cáo
việc sử dụng không gian, tối ƣu hóa chi phí vận hành.
Từ cuối những năm 1990, BIM đã bắt đầu đƣợc miêu tả nhƣ là một phƣơng
tiện để khắc phục sự yếu kém trong quản lý và tƣơng tác dữ liệu của ngành công
nghiệp xây dựng202 mặc dù nó đã ra đời từ những năm 1970 và đến năm 2010, một
202 Jason Underwood and Umit Isikdag, Handbook of Research on Building Information Modeling and
Construction Informatics: Concepts and Technologies, Preaface, Information Sience Reference, 2010
171
phần các quy trình BIM đã đƣợc chuẩn hoá. Một trong những bộ tiêu chuẩn quan
trọng nhất đƣợc ban hành lúc đó là Bộ Thông số kỹ thuật công khai (PAS) 1192-2
của Tiêu chuẩn Anh, sau này trở thành Tiêu chuẩn quốc tế ISO 19650203. Hiện nay,
Anh, cùng với một số quốc gia nhƣ Mỹ, Úc, Phần Lan, Hàn Quốc và Singapore là
những quốc gia đi đầu về ứng dụng BIM. Trong đó, Chính phủ Anh yêu cầu áp
dụng BIM ở cấp độ 2 đối với tất cả các dự án đầu tƣ công ở Anh từ năm 2016. Ở
Mỹ, BIM đƣợc áp dụng phổ biến cho tất cả các dự án xây dựng của Chính phủ và
của tƣ nhân, trong đó phải kể đến vai trò đóng góp của Viện Kiến trúc sƣ Hoa Kỳ
(AIA) đã cung cấp một bộ mẫu hợp đồng cho các dự án có áp dụng BIM. Ở Châu
Á, Singapore hiện là quốc gia đang áp dụng BIM theo các tiêu chuẩn cao nhất của
thế giới. Ngoài Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc cũng là các quốc
gia chú trọng và phát triển việc ứng dụng BIM ở Châu Á.
Ở Việt Nam, việc áp dụng BIM đã đƣợc quy định trong Luật Xây dựng
(2014)204. Nghị định số 15/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số nội dung về quản
lý dự án đầu tƣ xây dựng cũng dành hẳn một điều luật quy định về việc ứng dụng
mô hình thông tin công trình và giải pháp công nghệ số205. Trong Đề án tái cơ cấu
ngành Xây dựng gắn với chuyển đổi mô hình tăng trƣởng theo hƣớng nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2014 – 2020 đã đƣợc Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 134/QĐ-TTg ngày 26/1/2015 cũng xác định
việc ứng dụng Mô hình thông tin công trình (BIM) là một trong các giải pháp chủ
yếu thực hiện mục tiêu nêu ra tại Đề án. Một số đơn vị quản lý nhà nƣớc đã bƣớc
đầu chuẩn bị cho việc áp dụng BIM cho công trình thuộc ngành của mình (nhƣ giao
thông, y tế, thủy lợi). Đặc biệt, Sở Giao thông vận tải TP. HCM đã có bƣớc đi tiên
phong khuyến khích ứng dụng BIM vào toàn ngành giao thông trên địa bàn thành
phố. Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Đề án áp dụng Mô hình thông tin công
trình (BIM) trong hoạt động xây dựng và quản lý, vận hành công trình tại Quyết
203 Ghang Lee and Andre Borrmann, Bim Policy and Management, Construction Management and
Economics Journal, Volume 38, 2020-Issue 5.
204 Điều 4, Khoản 3 và Điều 66, Khoản 1, Luật Xây dựng (2014)
205 Xem Điều 6, Nghị định số 15/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tƣ
xây dựng
172
định số 2500/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 tập hợp sức mạnh tổng thể của các cơ quan
quản lý nhà nƣớc, doanh nghiệp, toàn nhân lực ngành xây dựng để tiến hành triển
khai áp dụng BIM đồng bộ, nhanh chóng và có hiệu quả cao. Nhƣ vậy, về mặt
khung chính sách và pháp luật, chúng ta đã có các bƣớc đi ban đầu cho việc ứng
dụng BIM ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải có các bƣớc đi cụ thể để hiện thực hoá
các chính sách, chủ trƣơng này. Trong đó, nhiệm vụ cơ bản nhất là xây dựng hành
lang pháp lý để áp dụng BIM. Cách thức mà các quốc gia đang làm đó là thiết lập
các mẫu hợp đồng cơ bản có nội dung áp dụng BIM. Trong đó phải kể đến một số
mẫu hợp đồng thông dụng nhƣ Mẫu Điều kiện riêng về hợp đồng (BIM BCA BIM
PC) của Cơ quan quản lý xây dựng Singapore; Mẫu CIC/BIM Pro của Hội đồng
Công nghiệp Xây dựng Anh; Mẫu X10 trong bộ hợp đồng NEC4 của Hiệp hội Kỹ
sƣ xây dựng Anh; Hƣớng dẫn BIM trong bộ Hợp đồng FIDIC 2017 của Hiệp hội kỹ
sƣ tƣ vấn quốc tế FIDIC. Trong đó, mỗi mẫu có một cách tiếp cận khác nhau về
việc điều chỉnh hợp đồng trong các dự án áp dụng BIM: Đó có thể là một mẫu phụ
lục BIM duy nhất cho tất cả các loại hợp đồng và dùng chung cho tất cả các loại dự
án theo cách tiếp cận của Mẫu CIC/BIM Pro của Anh và Mẫu BCA BIM PC của
Singapore; hoặc một bộ mẫu gồm nhiều phụ lục BIM cho từng loại hợp đồng và
từng loại dự án theo cách tiếp cận của Mẫu X10 trong bộ hợp đồng NEC4 của Anh;
hoặc đƣa ra hƣớng dẫn chung để tự điều chỉnh những khoản cần sửa trong hƣớng
dẫn BIM Advisory Notes của bộ hợp đồng FIDIC 2017206. Hiện nay, Bộ Xây dựng
đã ban hành Quyết định số 1057/QĐ-BXD ngày 11/10/2017 hƣớng dẫn tạm thời áp
dụng Mô hình thông tin công trình (BIM) trong giai đoạn thí điểm, trong đó phần II
bao gồm một số nội dung hợp đồng mẫu cho các dự án áp dụng BIM, gồm hƣớng
dẫn chung và một mẫu Phụ lục BIM và Quyết định 348/QĐ-BXD công bố hƣớng
dẫn chung áp dụng mô hình thông tin công trình (BIM). Tuy nhiên, đây không phải
là văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, việc thiết lập mẫu hợp đồng áp dụng BIM
của Việt Nam cần nghiên cứu về các cách tiếp cận khác nhau trong một số mẫu hợp
đồng thông dụng nêu trên để xây dựng mẫu hợp đồng phù hợp và cần đƣợc ban
206Nguyễn Nam Trung (2019), Mẫu phụ lục hợp đồng cho dự án áp dụng mô hình thông tin công trình, Tạp
chí Kinh tế xây dựng số 4/2019, tr. 47-51
173
hành dƣới hình thức đi kèm văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ nhƣ Thông tƣ của
Bộ Xây dựng.
Đặc biệt, với phƣơng thức thực hiện dự án tích hợp, xây dựng tinh gọn (IDP,
Lean Construction) thì BIM là một công cụ không thể thiếu trong quản lý thực hiện
dự án hiện đại. Nếu nhƣ với cách thức thực hiện dự án truyền thống, thời điểm tham
gia vào dự án của các thành phần rất khác biệt, dẫn đến cơ hội hợp tác rất thấp,
thậm chí không thể xảy ra. Trong giai đoạn tiền thiết kế, thông tin của dự án chỉ do
hai bộ phận có trách nhiệm là chủ đầu tƣ và nhà thầu thiết kế cùng làm việc với
nhau. Trong khi đó, phƣơng thức thực hiện dự án tích hợp sẽ tạo điều kiện tối đa để
tất cả các bên có liên quan của dự án cùng hợp tác làm việc một cách sớm nhất. Với
cách thức quản lý dự án hiện đại và sự hỗ trợ của các công cụ nhƣ BIM, vấn đề
minh bạch, bình đẳng giữa các bên để khai thác lợi ích, cho dù là cơ quan quản lý
nhà nƣớc hay các tổ chức cá nhân sẽ đƣợc đảm bảo. Cơ chế “xin – cho sẽ khó có
cơ hội phát triển trong nghành xây dựng, khi BIM trở nên phổ biến và đƣợc nhận
thức đầy đủ207.
3.3.5. Thử nghiệm vận dụng mô hình Đối tác dự án, Liên minh dự án trong
các dự án thực hiện theo phương thức EPC. Đây là những mô hình đã được chứng
minh là có khả năng giảm thiểu tranh chấp phát sinh giữa các bên, hạn chế rủi ro
cũng như tăng cường lợi ích cho mỗi bên (đôi bên cùng có lợi), cùng đi tới mục tiêu
cuối cùng là thực hiện thắng lợi dự án trên tinh thần “ win - win”
Trong bài viết “Alliance Contracting Eliminates the Risk of EPC
Contracts 208, tác giả đã nhận định: “Hợp đồng liên minh dự án thúc đẩy văn hóa
dự án “không có lỗi” và củng cố nó bằng cách áp dụng các khuyến khích tài chính
để đạt được các mục tiêu dự án chính đã được thống nhất. Các mục tiêu này dựa
trên chi phí mục tiêu của dự án được thiết lập trước do tất cả các thành viên của
nhóm liên minh phát triển và đồng ý. Thỏa thuận Liên minh thường bao gồm Điều
lệ Liên minh, điều khoản không tranh chấp hoặc kiện tụng và các điều khoản kinh
207 Nguyễn Phƣớc Thiện, Trần Trí Thông, BIM ở Việt Nam và câu chuyện thay đổi cách làm việc, Tạp chí
Kiến trúc số 3, 2017.
208 Joseph Grynbaum, Alliance Contracting Eliminates the Risk of EPC Contracts, Power Engineering
Barrington then Tulsa, 108(7): 56-60, 7/2004
174
doanh, bao gồm các điều khoản thanh toán và các quy định về tiền thưởng và hình
phạt được thiết lập chung. Thoả thuận liên minh dự án cung cấp cho các chủ đầu
tư, nhà thầu và người cho vay trong ngành điện một giải pháp đã được chứng minh
hiệu quả về chi phí và thiết thực để khắc phục các vấn đề tài chính khó khăn trong
mô hình EPC truyền thống nhờ các bên làm việc cùng nhau trong một liên minh
hợp tác chia sẻ rủi ro thay vì tiếp tục khổ sở với các phương pháp EPC chuyển đổi
rủi ro thất bại của quá khứ”. Có thể thấy cùng với sự phát triển của ngành công
nghiệp xây dựng cũng nhƣ những biến động của thị trƣờng xây dựng đã làm cho mô
hình EPC/Turnkey truyền thống đang bộc lộ những hạn chế khó có thể khắc phục
đƣợc. Điều đó dẫn đến sự thất bại của nhiều dự án EPC truyền thống trên thế giới
và cả ở Việt Nam. Xu hƣớng hợp tác thay vì đối đầu có thể là giải pháp cho hoạt
động giao kết và thực hiện hợp đồng EPC hiện nay ở Việt Nam.
Kết luận chƣơng 3
1. Những tồn tại, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng
EPC dẫn đến nhiều khó khăn, vƣớng mắc và không đạt đƣợc mục tiêu của dự án khi
thực hiện theo phƣơng thức EPC. Điều đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt
Nam trong trong thời gian tới.
2. Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt Nam cần đƣợc đặt trong
mối quan hệ tổng thể với các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự (2015),
quy định về hợp đồng thƣơng mại trong Luật Thƣơng mại (2005) và quy định của Luật
Đấu thầu (2017) về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và
thống nhất của các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng EPC.
3. Hợp đồng EPC là đại diện cho một phƣơng thức thực hiện dự án khác biệt
so với phƣơng thức truyền thống nên cần phải có sự thay đổi toàn diện trong các
quy định pháp luật gắn với toàn bộ quá trình đầu tƣ xây dựng, từ khâu chuẩn bị dự
án đến thực hiện dự án và kết thúc dự án đƣa công trình vào khai thác sử dụng, cũng
nhƣ việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện dự
án. Đặc biệt, trong đó các quy định liên quan đến hồ sơ mời thầu (Yêu cầu của chủ
175
đầu tƣ); lựa chọn nhà thầu và kiểm soát năng lực của nhà thầu thực hiện dự án;
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên; quản lý hợp đồng và giải quyết tranh
chấp hợp đồng đóng vai trò then chốt đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
EPC ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của
các bên trong hợp đồng; đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao; tăng cƣờng vai trò
của các tổ chức chuyên môn và nghiên cứu vận dụng các công cụ, phƣơng thức
quản lý dự án hiện đại đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt Nam hiện nay.
176
KẾT LUẬN
EPC là một phƣơng thức thực hiện dự án hiện đại và đã đƣợc chứng minh là
đem lại hiệu quả đầu tƣ xây dựng nhờ đảm bảo đƣợc hai yếu tố quan trọng hàng đầu
là giới hạn ngân sách và thời hạn hoàn thành. Với EPC, chủ đầu tƣ chỉ cần tiếp nhận
công trình và sẵn sàng vận hành khai thác.
1. Hợp đồng EPC là loại hợp đồng hỗn hợp và mang tính chuyên ngành rõ
rệt. Vì vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng EPC có nhiều tầng
nấc và nhiều loại. Điều này đòi hỏi sự thống nhất và đồng bộ trong pháp luật về hợp
đồng EPC nhằm tạo hành lang pháp lý chuẩn mực cho các bên trong giao kết và
thực hiện hợp đồng EPC.
2. Hợp đồng EPC đƣợc đặc trƣng bởi một đầu mối chịu trách nhiệm thực
hiện tất cả các công việc thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng
công trình và tính chất trách nhiệm của nhà thầu EPC là phải hoàn thành công trình
đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tƣ trong hợp đồng. Do đó, các quy định pháp luật điều
chỉnh quan hệ hợp đồng EPC phải tƣơng thích với các đặc trƣng này nhằm giúp cho
dự án vận hành đúng theo quy trình và bản chất của hợp đồng EPC.
3. Để xây dựng các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
EPC phù hợp với những đòi hỏi của thực tiễn, cần nghiên cứu và đánh giá những
tác động của các yếu tố nhƣ kinh tế, chính trị và hội nhập làm cơ sở xem xét sự
hoàn thiện của pháp luật thực định và sự phù hợp khi áp dụng trên thực tiễn. Việt
Nam cần tham khảo kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các quốc gia đã đạt đƣợc
những thành tựu nhất định đối với EPC và thông lệ quốc tế về EPC.
4. Pháp luật về hợp đồng EPC là một bộ phận của pháp luật chuyên ngành
xây dựng nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Nội dung cơ bản của pháp luật
điều chỉnh quan hệ hợp đồng EPC gồm các nhóm quy định về chủ thể của hợp
đồng, giao kết hợp đồng, nội dung hợp đồng, hình thức hợp đồng và giải quyết
tranh chấp hợp đồng. Việc chỉ ra những yếu tố đặc trƣng cũng nhƣ thông lệ quốc tế
của mỗi nhóm quy định này dƣới góc độ lý luận có ý nghĩa quan trọng trong việc
đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật thực định, đồng thời là thƣớc đo để đánh
giá sự phù hợp của các quy định đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành.
177
5. Mặc dù đã hình thành khung pháp lý điều chỉnh quan hệ hợp đồng EPC
nhƣng những quy định của pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt Nam vẫn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến việc thực hiện dự án theo phƣơng thức EPC ở Việt
Nam chƣa đạt đƣợc hiệu quả mong muốn, thậm chí là thất bại. Chính vì vậy, yêu
cầu đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật là đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
Trong đó, quá trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt Nam cần theo sát
các định hƣớng cơ bản nhƣ: 1) Pháp luật về hợp đồng EPC phải trở thành công cụ
giúp nhà nƣớc quản lý hợp đồng EPC một cách đồng bộ và hiệu quả, đồng thời thiết
lập một hành lang pháp lý bình đẳng và hợp tác giữa các bên chủ thể của hợp đồng,
giảm thiểu tranh chấp hợp đồng; 2) Bảo đảm sự phù hợp trong các quy định của
pháp luật về hợp đồng EPC với định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói
chung của Nhà nƣớc; 3) Đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong quy định pháp luật
về hợp đồng EPC; 4) Tăng cƣờng tính hội nhập quốc tế trong hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng EPC, nội luật hóa các điều ƣớc quốc tế, thúc đẩy công tác quản lý hợp
đồng ở Việt Nam theo chuẩn quốc tế; từ đó tăng sức thu hút của thị trƣờng xây
dựng trong nƣớc và tạo điều kiện để doanh nghiệp xây dựng Việt Nam vƣơn ra thị
trƣờng thế giới; 5) Xây dựng đồng bộ các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng EPC với các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tăng cƣờng tính
khả thi và hiệu quả thực tế.
6. Việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành của pháp luật về hợp đồng
EPC ở Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung vào những quy định và giải pháp
sau đây:
Một là, đồng bộ hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp
đồng EPC phù hợp với tính chất của hợp đồng EPC (cũng tức là cách thức thực hiện
dự án theo mô hình EPC) xuyên suốt từ giai đoạn chuẩn bị dự án đến giai đoạn thực
hiện dự án và giải quyết tranh chấp hợp đồng. Đồng thời, cần khắc phục sự mâu
thuẫn, chồng chéo, đảm bảo tính thống nhất trong quy định của các văn bản pháp
luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng EPC. Trong đó, về tổng thể, cần sửa đổi quy định
về quản lý dự án đầu tƣ xây dựng trong Luật Xây dựng tƣơng ứng với các phƣơng
thức thực hiện dự án khác nhau.
178
Hai là, quy định cụ thể điều kiện năng lực của các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng EPC cũng nhƣ có các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các chủ thể
này đối với việc quản lý thực hiện hợp đồng EPC.
Ba là, chú trọng điều chỉnh phù hợp và chặt chẽ giai đoạn chuẩn bị dự án bao
gồm các quy định liên quan đến hồ sơ mời thầu của chủ đầu tƣ, lựa chọn nhà thầu
EPC, đàm phán ký kết hợp đồng.
Bốn là, các quy định liên quan đến quản lý nhà nƣớc, quản lý hợp đồng,
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong giai đoạn thực hiện hợp đồng,
mẫu hợp đồng cần phải đƣợc chú trọng sửa đổi nhằm khắc phục những rào cản đối
với việc thực hiện dự án theo phƣơng thức EPC, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho
việc thực hiện hợp đồng EPC.
Năm là, hoàn thiện quy trình giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng mô hình
Ban xử lý tranh chấp – mô hình giải quyết tranh chấp đặc thù đối với các tranh chấp
hợp đồng xây dựng nhằm phát huy tác dụng phòng ngừa tranh chấp và giải quyết
tranh chấp thuận lợi hơn so với các cách thức giải quyết tranh chấp hợp đồng truyền
thống là thông qua trọng tài và toà án.
Sáu là, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hợp đồng EPC ở Việt Nam
thông qua các giải pháp nâng cao năng lực của các bên chủ thể hợp đồng; đào tạo
nguồn nhân lực chất lƣợng cao; tăng cƣờng vai trò của các tổ chức chuyên môn và
nghiên cứu vận dụng các công cụ, phƣơng thức quản lý dự án hiện đại.
Pháp luật về hợp đồng EPC là một bộ phận của pháp luật xây dựng và pháp
luật dân sự, tạo hành lang pháp lý cho quan hệ hợp đồng EPC vận hành. Việc thiết
lập đƣợc một hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất và phù hợp điều chỉnh quan hệ
hợp đồng EPC sẽ giúp cho các dự án đƣợc thực hiện theo phƣơng thức EPC ở Việt
Nam vận hành theo đúng quỹ đạo, phát huy đƣợc những ƣu thế của việc thực hiện
dự án theo phƣơng thức này, mang lại nhiều lợi ích cho chủ đầu tƣ nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
179
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đặng Hoàng Mai (2016), “Nghiên cứu mô hình Ban xử lý tranh chấp hợp
đồng xây dựng theo thông lệ quốc tế và một số đề xuất đối với Việt Nam , Chủ nhiệm,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Trƣờng Đại học Xây dựng.
2. Đặng Hoàng Mai (2018), “Nghiên cứu vận dụng hợp đồng NEC cho dự án
đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước thực hiện theo hình thức hợp đồng EPC ở Việt
Nam”, Chủ nhiệm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Trƣờng Đại học Xây dựng.
3. Đặng Hoàng Mai (2020), “Đặc điểm của Hợp đồng Thiết kế, cung cấp thiết bị
công nghệ và thi công xây dựng công trình (EPC) – Nhìn từ góc độ pháp lý”, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát, số chuyên đề 03(40)/2020, tr. 109-115.
4. Đặng Hoàng Mai (2020), “Giải quyết tranh chấp hợp đồng Thiết kế, cung cấp
thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình (EPC) bằng mô hình Ban xử lý
tranh chấp”, Tạp chí Công thƣơng, số 23 – tháng 9/2020, tr. 61-69.
.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật
1. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
2. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 30/2016/TT-BXD hướng dẫn hợp đồng
Thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2016), Thông tư số 11/2016/TT-BKHĐT hướng dẫn
lập hồ sơ mời thầu thiết kế, cung cấp hàng hoá và xây lắp (EPC)
4. Chính phủ (2015), Nghị định số 37/2015/NĐ-CP hướng dẫn về hợp đồng
xây dựng
5. Chính phủ (2015), Nghị định số 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư
xây dựng
6. Chính phủ (2015), Nghị định số 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất lượng và
bảo trì công trình xây dựng
7. Chính phủ (2021), Nghị định số 50/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 37/205/NĐ-CP hướng dẫn về hợp đồng xây dựng
8. Chính phủ (2021), Nghị định số 15/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số nội
dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng
9. Chính phủ (2021), Nghị định số 06/2021/NĐ-CP quy định chi tiết một số nội
dung vê quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng
10. Chính phủ (2021), Nghị định số 10/2021/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư
xây dựng
11. Chính phủ (2017), Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hoà giải thương mại
12. Quốc hội (2014), Luật Xây dựng
13. Quốc hội (2020), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng
14. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu
15. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự
16. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự
17. Quốc hội (2005), Luật Thương mại
18. Thủ tƣớng Chính phủ (2019), Quyết định số 1268/QĐ-TTg ngày 2/10/2019
Phê duyệt đề án hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp
hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại, hoà giải thương mại
19. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quyết định số 134/QĐ-TTg ngày 26/1/2015
Phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành xây dựng gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh
giai đoạn 2014-2020
B. Các tài liệu tham khảo khác
Tài liệu Tiếng Việt
20. Nguyễn Ngọc Anh (2015), “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự án tại
các Ban quản lý dự án xây dựng Nhà máy nhiệt điện thuộc Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam , Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trƣờng Đại học Xây dựng;
21. Báo Điện tử Chính phủ nƣớc CH XHCN Việt Nam, 12 dự án “đắp chiếu
ngành công thƣơng: Giải pháp nào khi không xử lý đƣợc tranh chấp hợp đồng
EPC?,
Giai-phap-nao-khi-khong-xu-ly-duoc-tranh-chap-hop-dong-EPC/396191.vgp
truy cập ngày 28/6/2020
22. Ban Quản lý dự án Cầu Rồng (2012), “Nâng cao chất lượng lựa chọn nhà thầu
thực hiện hợp đồng EPC , web site của Sở Giao thông Vận tải Thành phố Đà
Nẵng, sgtvt.danang.gov.vn (20/11/).
23. Ngô Huy Cƣơng (2013), Giáo trình Luật Hợp đồng (phần chung), Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
24. Bùi Thị Bích Diệp (2010), “Một số giải pháp đẩy mạnh việc áp dụng hình thức
tổng thầu thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng (tổng thầu
EPC) , Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trƣờng Đại học Xây dựng.
25. Nguyễn Mạnh Dũng và Đặng Vũ Minh Hà, “Thiệt hại ước tính – Liquidated
Damages tại
Liquidated-damages.pdf truy cập ngày 20/6/2020
26. Nguyễn Nhật Dƣơng và Nguyễn Hiếu Bình, “Bồi thường ấn định trước – Cách
hiểu và vận dụng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện hành tại
https://cnccounsel.com/wp-content/uploads/2018/10/CNC_Boi-Thuong-An-
Dinh-Truoc_Newsletter-No-9_Vn.pdf truy cập ngày 20/6/2020
27. Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
Nhà xuất bản Hồng Đức;
28. Đỗ Đình Đức, Bùi Mạnh Hùng (2012), “ Quản lý dự án đầu tư xây dựng công
trình , Nhà xuất bản Xây dựng;
29. Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Quốc Toản, Nguyễn Hồng Hải, Hoàng Thị
Khánh Vân (2016), “Phân tích ưu nhược điểm của các phương thức thực hiện
dự án hiện nay trên quan điểm quản lý tổng thể dự án”, Tạp chí Kinh tế Xây
dựng, số 4;
30. Nguyễn Thị Hoa (2021), Ban xử lý tranh chấp – Áp dụng mẫu hợp đồng FIDIC
và kinh nghiệm cho Việt Nam , Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 2
(141)/2021.
31. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội.
32. Phạm Văn Khánh (2009), “Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện cơ chế, chính sách về hợp đồng trong hoạt động xây dựng , Đề tài NCKH
– Bộ Xây dựng;
33. Trần Kiên (2019), “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ
thống pháp luật hợp đồng Việt Nam , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng
9/2019.
34. Nguyễn Mai Linh (2019), “Phương thức giải quyết tranh chấp trong mẫu điều
kiện hợp đồng FIDIC và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 22.
35. Đỗ Gia Lƣơng (2015), “Giải pháp quản lý dự án đường ống dẫn khí thuộc Ban
quản lý dự án Dịch vụ, Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro , Luận văn thạc sỹ,
Trƣờng Đại học Bách Khoa Hà Nội.
36. Đặng Hoàng Mai (2004), “Một số nghiên cứu so sánh Hợp đồng EPC theo quy
định của FIDIC và của pháp luật Việt Nam , Luận văn thạc sỹ, Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội.
37. Bùi Hồng Minh (2014), “Hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình thuỷ điện theo hình thức tổng thầu EPC tại Tổng công ty Sông Đà ,
Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trƣờng Đại học Xây dựng.
38. Lê Nết (2017), Sổ tay luật sư – Tập 3 – Chương 6: Tư vấn lĩnh vực xây dựng,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
39. Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (2010), “100 câu hỏi về hợp
đồng trong xây dựng , NXB Lao động, Hà Nội.
40. Vũ Ngọc Phƣơng (2009), “Hoàn thiện quản lý nhà nước về hợp đồng trong
hoạt động xây dựng công trình sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam , Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Trƣờng Đại học Xây dựng.
41. Trƣơng Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng – Các vấn đề pháp lý cơ
bản, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội.
42. Trƣơng Nhật Quang và Phạm Hoài Huấn (2019), “Phạt vi phạm trong hợp đồng
xây dựng , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng 12/2019.
43. Trƣơng Nhật Quang và Lê Trần Quỳnh Thy (2020), “Nguyên tắc giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng , Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số tháng
9/2020.
44. Nguyễn Thế Quân (2015), “Hợp đồng kỹ thuật và xây dựng (ECC) trong bộ hợp
đồng NEC 3 của Vương quốc Anh , Tạp chí Kinh tế Xây dựng, số 1, tr.44-51.
45. Hồ Ngọc Sơn (2013), “Nghiên cứu xây dựng những chính sách quản lý hợp
đồng xây dựng , Đề tài NCKH – Bộ Xây dựng.
46. Tạp chí điện tử Tài chính, Nhiều sai phạm tại dự án Nhà máy nhiệt điện Thái
Bình 2,
nha-may-nhiet-dien-thai-binh-2-326380.html truy cập ngày 28/6/2020
47. Tạp chí điện tử Tài chính, Thanh tra Chính phủ kiến nghị Bộ Công an điều tra
dự án Đạm Hà Bắc,
chinh-phu-kien-nghi-bo-cong-an-dieu-tra-du-an-dam-ha-bac-323396.html truy
cập ngày 28/6/2020
48. Thanh tra Chính phủ (2019), số 167/KL-TTCP ngày 14/2/2019, Kết luận thanh
tra Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 – Công ty gang thép Thái Nguyên.
49. Thoả thuận hợp đồng, Điều kiện chung, Điều kiện riêng – Dự án đƣờng sắt đô
thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông
50. Hà Đức Thắng (2013), “Nghiên cứu một số kinh nghiệm quản lý hợp đồng thầu
phụ quốc tế, vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam , Đề tài NCKH – Bộ
Xây dựng.
51. Nguyễn Phƣớc Thiện, Trần Trí Thông (2017), BIM ở Việt Nam và câu chuyện
thay đổi cách làm việc, Tạp chí Kiến trúc số 3.
52. Nguyễn Bắc Thuỷ (2014), “Nghiên cứu phương pháp xác định chi phí bồi
thường thiệt hại ở nước ngoài trong hợp đồng xây dựng; Khảo sát đánh giá
phương pháp xác định chi phí bồi thường thiệt hại ở nước ngoài trong hoạt
động xây dựng”, Đề tài NCKH – Bộ Xây dựng;
53. Trƣơng Thị Thu Thanh (2015), “Nghiên cứu thực trạng cơ chế chính sách quản
lý hợp đồng xây dựng trong thời gian qua làm cơ sở soạn thảo Nghị định của
Chính phủ về quản lý thực hiện hợp đồng trong hoạt động xây dựng theo Luật
Xây dựng số 50/2014/QH13”, Đề tài NCKH – Bộ Xây dựng;
54. Trƣơng Thị Thu Thanh (2015), “Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý hợp đồng
trong các dự án đầu tư xây dựng của Trung Quốc vận dụng vào điều kiện thực
tế của Việt Nam”, Đề tài NCKH – Bộ Xây dựng.
55. Phạm Quang Thanh, Nguyễn Thế Quân (2014), “Phân tích phương thức thực
hiện dự án Thiết kế - Xây dựng trong điều kiện Việt Nam , Tạp chí Kinh tế xây
dựng, số 4.
56. Nguyễn Kim Tuấn (2015), “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự án trong
giai đoạn thực hiện dự án tại Ban quản lý Dự án Điện lực Dầu khí Vũng Áng –
Quảng Trạch, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam , Luận văn thạc sỹ kinh tế,
Trƣờng Đại học Xây dựng.
57. Nguyễn Anh Tuấn (2007), “Hợp đồng EPC, một hình thức quản lý mới trong
đầu tư xây dựng công trình , Tạp chí Kinh tế xây dựng số 2/2007.
58. Nguyễn Anh Tuấn (2010), “Nghiên cứu tình hình thực hiện lựa chọn nhà thầu và
hình thức tổng thầu trong hoạt động xây dựng , Đề tài NCKH – Bộ Xây dựng.
59. Trần Trịnh Tƣờng (2013), “Luật đấu thầu – Những vấn đề pháp lý và thực tiễn
cần nghiên cứu giải quyết , Tạp chí Kinh tế Xây dựng, số 1, tr.14-19.
60. Trƣơng Văn Thiện (2012), “Cần hiểu và vận dụng đúng bản chất loại hợp đồng
EPC , Tạp chí Dầu khí, số 9.
61. Trƣơng Văn Thiện (2015), “Quản lý các giao diện hợp đồng trong quá trình
thực hiện đầu tư các dự án nhà máy nhiệt điện , Tạp chí Dầu khí, số 7.
62. Nguyễn Nam Trung (2019), Mẫu phụ lục hợp đồng cho dự án áp dụng mô hình
thông tin công trình, Tạp chí Kinh tế xây dựng số 4/2019, tr. 47-51.
63. Viện Nghiên cứu Đào tạo về quản lý (2007), “Quản lý dự án công trình xây
dựng , NXB Lao động và Xã hội.
64. VIAC, Hội thảo giải quyết hiệu quả tranh chấp từ các hợp đồng tổng thầu
EPC-Khơi thông tắc nghẽn tại các dự án trọng điểm của Việt Nam, 19/4/2019,
VIAC.Vn,
mot-hop-dong-nhap-khau-a544.html truy cập ngày 28/6/2020
Tài liệu Tiếng Anh
65. Albert P.Chan, Daniel W.Chan và John F.Yeung (2010), Relational
Contracting for Construction Excellence – Principles, Practices and Case
Studies, Spon Press.
66. Albertus Laan, Hans Voordijk and Geert Dewulf (2011), “Reducing
opportunistic behavior through a project alliance , International Joural of
Managing Projects in Business Vol. 4 No.4, 2011, p.660-679;
67. Abdulaziz A Bubshait and Soliman A Almohawis (1994), Evaluating the
general conditions of construction contract, p.133, International Journal of
Project Management 12 (3) 133-136
687. Andy Hewitt (2014), The FIDIC Contracts: Obligations of the Parties, Wiley
Blackwell.
69. Arnold H.Olyan and John K. Taylor (2006-2007), “The EPC contract and the
enegy lawyer , Heionline 44 Alta. L.Rev. 539;
70. Ben Beaumont (2009), “Dispute resolution in NEC3 – user unfriendly ,
Construction Law Journal, 25(8), p.591-612.
71. Brian Eggleston (2006), The NEC3 engineering and construction contract – A
Commentary, Blackwell Science.
72. Civil Procedure Law of the People’s Republic of China (1991), Chapter VI:
Evidence
73. Construction Law of The People’s Republic of China (1997),
74. Contract Law of The People’s Republic of China (1993),
75. Capacity Enhancement of the Mass Transit Systems in Metro Manila, LRT Line
1 – South (Cavite) Extension Project, Part 2, Employer’s Requirements, Section
VI – 2, Technichcal Requirements,
76. Cheng Zusong (2013), “Research on the Relational Governance of
Construction project transaction , Applied Mechanics and Materials Vols. 368-
370, p.1922-1926;
77. Chuan CHEN, Canhui JIAN và Hongjjang LI (2013), Modification to the
FIDIC Silver Book in a Buyer’s market context: A case study of the HaiPhong
Power Plant II Project , Applied Mechanics and Materials Vol. 357-360,
p.2498-2504.
78. Cyril Chern (2008), Chern on Dispute Boards – Practice and Procedure,
Blackwell Publishing,
79. David Chappell (2011), Building Contract Claims (fith edition), Wiley
Blackwell,
80. Department for Education (2019), Employer’s Requirements, DfE Construction
Framework, Open Goverment Licence v3.0
81. Directive 2014/24/EU on Public Procurement and repealing Directive
2004/18/EC,
82. Dominique R. Williams (2015), Critical factors leading to the success of large
EPC projects from the perspective of project personnel representing the
contractor, Dotor of Philosophy, Cappella University, Minnesota, USA,
83. Douglas D. Gransberg, James A. Koch, Keith R.Molenaar (2006), Preparing
for Design-Built Projects – A primer for Owners, Engineers and Contractor,
ASCE Press Publishing,
84. Ewen Maclean (2013), “The program under NEC3: the unacceptable truth ,
Construction Law Journal, 29(3), 205-210
85. Edward Whitticks (2005), Construction Contracts: How to manage and control
Disputes in a Volatile Industry, Gulf Publishing Company.
86. Ellis Baker, Ben Mellors, Scott Chalmers, Anthony Lavers (2019), FIDIC
Contract: Law and Practice, Informa Law,
87. FIDIC (1999), Conditions of Contract for EPC/Turnkey Projects (Silver Book),
88. FIDIC (2017), Conditions of Contract for EPC/Turnkey Projects (Silver Book),
89. FIDIC (2017), Plant and Design-Build Contract (Yellow Book),
90. Florence Y.Y. Ling, Yongjian Ke, Mohan M. Kumaraswamy, M.ASCE and
ShouQing Wang (2013), “Key relational contracting practices affecting
performance of public construction projects in China , American Society of
Civil Engineers;
91. Florence Y.Y.Ling, Peng Chong Tan, Yan Ning, Albert Teo and Asanga
Gunawansa (2015), “Effect of adoption of relational contracting practices on
relationship quality in public projects in Singapore , Engineering, Construction
and Architectural Management Vol.22 No.2, p.169-189;
92. Fabio Solimene (2014), “Use of FIDIC forms in the oil and gas construction
sector and possible amendments to the Yellow and Silver Books , Journal of
Energy Law and Business, Vol. 7, No.6;
93. Government of India (2018), “Engineering – Procurement and Construction of
Civil Works, Model Agreement”,
94. Greg Goldfayl (2004), “Construction Contract Administration”, Second
Edition, University of New South Wales Press Ltd, 282p.
95. George E. Baram and David M. Barken (2001), “EPC project management –
the SNC-Lavalin Approach , AACE International Transactions,
96. George E. Baram, P.Eng. CCE (2005), “Project execution risks in
EPC/Turnkeys contracts and the project manager’s roles and responsibilities ,
AACE International Transactions, RISK.05;
97. Ghang Lee and Andre Borrmann (2020), “Bim Policy and Management ,
Construction Management and Economics Journal, Volume 38, Issue 5.
98. Hemanta Doloi (2009), “Relational partnerships: the importance of
communication, trust and confidence and joint risk management in achieving
project success , Construction Management and Economics, 27, p.1099-1109.
99. Howard M Steinberg (2016), “Understanding and Negotiating EPC Contracts”
(2 Volume Set: Volume 1: The Project Sponsor’s Perspective; Volume 2:
Annotated Sample Contract Forms), Gower Publishing Ltd,
100. Hong Ke, Zhipeng Cui, Kannan Govindan, Edmundas Kazimieras Zavadskas
(2015), “The impacts of contractual governance and trust on EPC Projects in
Construction Supply Chain Performance”, Engineering Economics, 26(4),
p.349-363;
101. Holly Sorney-Darby (2012), “Design Build for Water and Wastewater
Projects”, American Water Works Association Publiction,
102. Mai Sy Hung, Jian Qiong Wang, Mai Sy Thanh (2017), “Research on Delay
Risks Identification and Control in the Construction Progress of EPC
Hydropower Projects in Viet Nam”, Technicall Bulletin, Vol. 55, Issue 13, pp.
610-623
103. ICLG.com (2019), “India: Construction and Engineering Law 2019”, 1.4;
104. ICLG (2018), “The International Comparative Legal Guide to: Construciton
and Engineering Law 2018”, 5th edition,
105. ICE (2005), NEC3
106. ICE (2017), NEC4
107. Jan Picha, Ales Tomek, Harry Lowitt (2015), “Application EPC contract in
international power projects”, Procedia Engineering 123, 397-404, Crative
Construction Conference;
108. Jason Underwood and Umit Isikdag (2010), “Handbook of Research on
Building Information Modeling and Construction Informatics: Concepts and
Technologies”, Preaface, Information Sience Reference;
109. Jeffrey L.Beard, Michael C.Loulakis, Edward C. Wundram (2001), “Design-
Built Planning through Development”, McGraw-Hill Global Education
Holdings,
110. James Pickavance (2017), “Some thoughts on Succeeding in EPC Projects”,
International Law Review, Part 1,
111. Jennifer Charlson and James Smalley (2015), “Expert witnesses update for
2104 , Construction Law Journal, 31(4), 210-219
112. Jeremy Glover (2006), “The civil codes and common law jurisdictions
compared: Good faith and force majeure-Construction projects from
conception to completion”, IBA Construction Conference Brussels;
113. John Adriaanse (2010), “Construction Contract Law , 3rd Edition, Palgrave
Macmillan, 404p
114. John Redmond (2001), “Adjudication in construction contracts”, Blackwell
Science;
115. Joseph A.Huse (2002), “Understanding and Negotiating Turnkey and EPC
Contracts , Sweet and Maxwell,
116. Joseph Grynbaum (2004), “Alliance Contracting Eliminates the Risk of EPC
Contracts”, Power Engineering Barrington then Tulsa, 108(7): 56-60;
117. Julio Cesar Bueno (2019), “The Projects and Construction Review”, 6th edition,
Law Business Research;
118. Klein (1995), “Precontractual liability and the duty of good faith negotiation in
international transactions , 17, Hous.J.Int’l L. 1;
119. K.W. Chau. Isabelle Y.S. Chan, Weisheng Lu. Chris Webster (2018),
“Proceedings of the 21st International Symposium on Advance of Construction
Management and Real Estate”, 120.2.1, Springer;
120. Kwok Kit Cheung (2019), “Hong Kong: Construction and Engineering Law
2019”, ICLG,
121. Koki Yanagisawa and Hiroyuki Ebisawa (2020), “Japan: Litigation and
Dispute Resolution 2020”, ICLG,
122. Lei Du, Wenzhe Tang, Chunna Liu, Shuli Wang, Tengfei Wang, Wenxin Shen,
Min Huang and Yongzhi Zhou (2016), “Enhancing engineer-procure-construct
project performance by partnering in international markets: Perspective from
Chinese construction companies , International Journal of Project Management
34, p. 30-43.
123. Linh Hong Pham và Harimurti Hadikusumo (2014), “Schedule delays in
engineering, procurement, and construction petrochemical projects in Vietnam
– A qualitative research study , International Journal of Energy Sector
Management Vol. 8 No.1, p.3-26,
124. Li Huimin, Wang Zhuofu (2009), “Grey relational grade decision model for
selection of Project Delivery System , Proceedings of 2009 IEEE International
Conference on Grey Systems and Intelligent Services, November 10-12-2009,
Nanjing, China;
125. Li Weifang (2014), “The study on EPC engineering contract dispute and
resolution mechanism , Applied Mechanics and Materials Vols. 584-586, p.
2581-2584
126. Lijia Wang, Xu Huang and Rongyue Zheng (2012), “The application of BIM in
intelligent construction , Applied Mechanics and Materials Vol. 188, p.236-241;
127. Lukas Klee (2015), “International Construction Contract Law”, Wiley
Blackwell Publishing.
128. Michelle Li, Murphy Mor (2019), China: “Construction and Engineering
Law”, ICLG. Com,
129. Michael Rowlinson (2006), “A Practical guide to the NEC3 Engineering and
Construction Contract”, Wiley Blackwell Publishing.
123. Philip Wolfe (2013), “Solar Photovoltaic Projects in the Mainstream
Power Market”, Routledge;
130. P. Ramachandra Reddy Kovvuri, Anil Sawhney, Ritu Ahuja and Aiswarya
Sreekumar (2016), “Effcient project delivery using Lean principles – An Indian
case study J. Inst. Eng. India Ser. A 97(1); p.19-26;
131. Qi GUO, Zhong-ping XU (2010), Guang-fei ZHANG, Ting-ting TU,
“Comparative analysis between the EPC contract mode and the traditional
mode based on the transaction cost theory , Industrial Engineering
Management (IE&EM), 2010 IEEE 17th International Conference on;
132. Qi GUO, Zhong-ping XU, Guang-fei ZHANG, Ting-ting TU (2010),
“Comparative analysis between the EPC contract mode and the traditional
mode based on the transaction cost theory , Industrial Engineering
Management (IE&EM), 2010 IEEE 17th International Conference on;
127. Raghavan N, Venkata S.K. Delhi, Ashwin Mahalingam, Koshy Varghese
(2016), “Introducing Lean Construction in Phylosophy E-P-C Phases of A
Large Industrial Project”, section 7, pp. 13-22, Proceeding IGLC-24, USA
133. Robert Horne and John Mullen (2013), “The Expert Witness in Construction”,
Wiley Blackwell;
134. Russell K Kawahara and Miho Niunoya, Atsumaiand and Sakai (2019),
“Construction and projects in Japan: Overview”, Practical Law;
135. R Venkata Raghavan (2014), “Dealing with “fit for purpose” obligation in
international arbitrations”, p. 210, Proceeding of International Conferenc: Role
of Arbitration in Engineering Contracts;
136. SIGMA ad OECD (2016), “Public Procurement Brief 35, Abnormally Low
Tenders”;
137. Seyed Y.Banihashemi and Li Liu (2014), “Differentiating the Role of Ex-ante
and Ex-post relational governance mechanisms in regulating client-contractor
relationships , 2014 Proceedings of PICMET’14: Infrastructure and Service
Integration;
138. Tarek Haggag (2006), “Tracking and Controlling of Engineering Deliverables
for EPC Projects”, Master of Applied Science, Concordia University, Quebec,
Canada,
139. Tao Hong, Haiyan Ju and Changtai Luo (2014), “Characteristic Analysis and
Management of Human Resource in EPC Project , Applied Mechanics and
Materials Vol 638-640, p.2319-2322;
140. Tan Jinghui (2016), “Annual review of construction project dispute resolution
in China (2015) , Construction Law Journal, 32(1), p.43-86 162. Vincent
Hooker (2010), “Major oil and gas projects – the real risks to EPC contractors
and owners , Construction Law Journal 26(2), p.98-124.
141. The World Bank (2018), “Procurement Guidance: Contract Management
Practice”;
142. The Asian Development Bank (2018), “Contract Management: Guidance Note
on Procurement”;
143. Wancai Xu, Zhouya Wang, Cheng Shen and Xiaodong Li (2013), “The
research of international EPC project risk factors – A case study of Congo
(Brazzaville), State Highway, Applied Mechanics and Materials, Vol. 438-439,
p. 1958-1963;
144. Walter A. Salmon (2020), Practical Risk Management for EPC/Design-Build
Project, 2.8. Selecting EPC Contractor, Wiley Blackwell,
145. Weifang Li (2014), “The study on Sub-contract management in EPC
engineering , Applied Mechanics and Materials Vols 638-640, p.2342-2345.
146. Yan Chen (2012), “Study on the application of Lean construction supply chain
management in EPC project , Applied Mechanics and Materials Vol. 201-202,
p. 1207-1212
147. Yan Ning and Florence Yean Yng Ling (2013), “Reducing Hindrances to
Adoption of Relational Behaviors in Public Construction Projects , American
Society of Civil Engineers,
148. Yan Ning and Florence Yean Yng Ling (2013), “Boosting public construction
project outcomes through relational transactions , American Society of Civil
Engineers;
149. Yan Ning and Florence Yean Yng Ling (2015), “The effects of project
characteristics on adopting relational transaction strategies , Internatioanal
Journal of Project Management 33 (2015) 998-1007.
150. Yan Tan (2020), Lagre – Scale Construction Project Management, p. 24, CRC
Press,
151. Yunna Wu, Yisheng Yang and Heyun Dong (2010), “EPC contractor risk
early-warning model based on principal component analysis and neural
network , Information Science and Engineering (ICISE), 2nd International
Conference on;
152. Zhang Jing-xiao, Bai Li and SU Chaun-chaun (2010), “Empirical Study on the
performance of EPC contractor management module: A Chinese case ,
International Conference on E-Business and E-Government, p.5157-5163,
153. Zheng Yang & Shuibo Zhang (2011), “Analysis and solution of Procurement
risk in international EPC Projects , E-Business and E-Government (ICEE),
International Conference on;
154. Zhou Yang and Li Wenhua (2014), “The research and application of BIM
technology in over seas EPC project , Sixth International Conference on
Measuring Technology and Mechatronics Automation;
155. Zhu Jiong and Han Weigang (2013), “Research on the application of BIM in
EPC delivery model , Applied Mechanics and Materials Vol. 357-360,
p.2845-2848;