Mô hình đo lường các thành phần giá trị thương hiệu trong nghiên cứu này
được phát triển từ mô hình của Aaker (1991), g m nhận biết thương hiệu, liên
tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu. Mặc dù mô
hình này thường được vận dụng nhất, trong cả nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng,
nhưng chưa hẳn là mô hình tối ưu, đúng cho tất cả các sản phẩm. Do vậy, việc sử
dụng các thành phần của mô hình này trong nghiên cứu là có tính áp đặt ban đầu dù
mục tiêu nghiên cứu trọng tâm là đánh giá ảnh hưởng của truyền thông tiếp thị đến
các thành phần giá trị thương hiệu. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng chưa làm rõ mức
độ quan trọng của các thành phần này cấu thành khái niệm giá trị thương hiệu
160 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 683 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tình hình xây dựng thương hiệu trên thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng tăng hay giảm theo. Chú ý r ng liên tưởng thương
hiệu được định nghĩa là những ấn tượng tích cực về thương hiệu trong tâm trí khách
hàng. Kết quả ước lượng cho thấy giá trị p = 0,077 với sai lệch chuẩn SE = 0,060.
Mặc dù mức ý nghĩa p lớn hơn 0,05, nhưng vẫn nhỏ hơn 0,1 nên giả thuyết này vẫn
được xem xét chấp nhận ở độ tin cậy 90%. Điều này có nghĩa r ng khi liên tưởng
thương hiệu càng tăng thì có thể lòng trung thành thương hiệu cũng tăng theo,
nhưng trọng số (chuẩn hóa) về mức độ tác động chỉ đạt 0,066. Điều này hàm ý r ng
sự tác động của liên tưởng thương hiệu đến trung thành thương hiệu là không cao.
Đối với khái niệm tài trợ, thực chất là hoạt động tài trợ được cảm nhận,
thường được sử dụng trong thực tiễn kinh doanh của các công ty nước giải khát. Do
đó, nghiên cứu khám phá và kiểm định sự ảnh hưởng của tài trợ đến các thành phần
giá trị thương hiệu thì cần thiết. Kết quả kiểm định giả thuyết H4a với nội dung “ ài
trợ có tác động t ch c c đ n nhận bi t thương hiệu” cho giá trị p = 0,220 > 0,05 với
SE = 0,049 nên chưa cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê. Đây là một phát
hiện khá bất ngờ, nhưng phù hợp với thực tiễn kinh doanh hiện nay với các hoạt
động tài trợ trong ngành nước giải khát tại Việt Nam. Cụ thể, qua quan sát thực tiễn
cho thấy nhiều chương trình tài trợ chỉ đặt “logo” ngay tại nơi diễn ra chương trình
được tài trợ, còn đối với chương trình trên truyền hình thì đặt “logo” trên phong nền
(backdrop) sân khấu trong khi “logo” chỉ là một trong nhiều dấu hiệu để nhận biết
thương hiệu. Hơn nữa, kích c của “logo” thường quá nhỏ so với màn hình để khán
giả, bao g m khách hàng chú ý, thậm chí trong một số trường hợp “logo” gần như
bị khuất, bị nhòa nếu nơi đặt hay màu sắc được sử dụng không phù hợp (bị ánh đèn
140
sân khấu làm nhòa). Bên cạnh đó, trong hầu hết các chương trình tài trợ (thương
mại) thì người dẫn chương trình thường nhắc đến các nhà tài trợ trước hoặc sau khi
kết thúc chương trình, nhưng việc nhắc này diễn ra khá nhanh cũng như thường có
một số thương hiệu tài trợ được đề cập đến nên khách hàng cũng rất khó nhận diện
hay nhớ nhiều đến nhà tài trợ. Điều này giải thích vì sao trong nhiều chương trình
tài trợ, nhà tài trợ thường phát một đoạn quảng cáo ngắn khoảng 15 hay 30 giây
(TVC) về thương hiệu tài trợ để giúp tăng thêm mức độ nhận biết thương hiệu.
Thêm vào đó, khách hàng xem chương trình tài trợ là xem nội dung của chương
trình nên phần nào cũng hạn chế sự chú ý đến thương hiệu tài trợ, bao g m nhận ra
và nhớ lại các dấu hiệu nhận biết thương hiệu tài trợ trong khi đây là nội dung chính
(định nghĩa) của nhận biết thương hiệu. Ngoài ra, một số công ty đã sử dụng thương
hiệu công ty làm thương hiệu tài trợ trong khi khách hàng chưa có sự liên tưởng rõ
nét (nhận ra) mối quan hệ giữa thương hiệu công ty và thương hiệu sản phẩm.
Chẳng hạn, nếu đặt “logo” Tribeco trên sân khấu một chương trình tài trợ thì rất khó
để người tiêu dùng nhận biết hay nhớ lại thương hiệu Trà xanh 100 nếu như không
biết mối quan hệ giữa hai thương hiệu này trước đó. Từ thực tế qua quan sát được
như trên, nhận thức của khách hàng vế mối quan hệ giữa tài trợ và nhận biết thương
hiệu chưa rõ ràng cũng là điều phù hợp. Mặt khác, kết quả ước lượng giả thuyết H4b
với nội dung “ ài trợ có tác động t ch c c đ n chất lượng cảm nhận” thì được chấp
nhận với giá trị p = 0,037 < 0,05, SE = 0,056 do mối quan hệ này là có ý nghĩa
thống kê, trọng số (chuẩn hóa) ảnh hưởng là 0,133. Phát hiện này có ý nghĩa r ng
khi tài trợ (chi tiêu cho tài trợ) tăng hay giảm thì chất lượng cảm nhận về thương
hiệu cũng tăng hay giảm theo. Điều này được giải thích r ng mặc dù tài trợ và nhận
biết thương hiệu chưa cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê do những dấu
hiệu nhận biết thương hiệu không đủ nhiều (lớn) trong bối cảnh không được chú ý
bởi người xem, nhưng thông qua chương trình tài trợ, người xem, bao g m khách
hàng có sự kết nối (đơn giản) giữa chương trình tài trợ với thương hiệu tài trợ. Hơn
nữa, qua thảo luận sơ bộ cho thấy một thực tế hiện nay là những công ty/ thương
hiệu có nhiều hoạt động tài trợ (được cảm nhận) thì thường được xem là những
141
công ty lớn, kinh phí nhiều nên vấn đề chất lượng sản phẩm cũng được đảm bảo
hơn. Do vậy, phát hiện về mối quan hệ giữa tài trợ và chất lượng cảm nhận trong
nghiên cứu này là phù hợp. Bên cạnh đó, giả thuyết H4c cho r ng “ ài trợ có tác
động t ch c c đ n trung thành thương hiệu”. Kết quả kiểm định giả thuyết này cho
thấy mức ý nghĩa p = *** < 0,05 với SE = 0,045. Do đó, mối quan hệ này là có ý
nghĩa thống kê hay giả thuyết này được chấp nhận. Trọng số (chuẩn hóa) về mối
quan hệ này cũng khá cao, đạt 0,234. Điều này hàm ý r ng tài trợ tăng hay giảm có
tác động làm tăng hay giảm sự trung thành thương hiệu. Như vậy, tài trợ không chỉ
có tác động trực tiếp làm tăng chất lượng cảm nhận để từ đó gián tiếp làm tăng
trung thành thương hiệu mà còn có tác động trực tiếp làm tăng trung thành thương
hiệu. Do vậy, hoạt động này có vai trò rất quan trọng, nên được xem là một trong
những hoạt động chính trong xây dựng thương hiệu nước giải khát.
Tiếp đến, hai giả thuyết về mối quan hệ giữa quảng cáo và các thành phần giá
trị thương hiệu đều được chấp nhận. Cụ thể, giả thuyết H5a phát biểu “Quảng cáo có
tác động t ch c c đ n nhận bi t thương hiệu”. Giả thuyết này có nghĩa r ng khi
quảng cáo tăng hay giảm thì nhận biết thương hiệu của họ cũng tăng hay giảm theo.
Kết quả ước lượng giả thuyết này có p = *** < 0,005 với SE = 0,057 nên có ý nghĩa
thống kê, nghĩa là chấp nhận giả thuyết này. Trọng số (chuẩn hóa) ảnh hưởng khá
cao, đạt 0,317. Điều này có nghĩa r ng quảng cáo thật sự là một công cụ truyền
thông hiệu quả trong việc làm tăng nhận biết thương hiệu, để từ đó tăng chất lượng
cảm nhận và lòng trung thành thương hiệu. Bên cạnh đó, giả thuyết H5b với phát
biểu “Quảng cáo có tác động t ch c c đ n trung thành thương hiệu” cũng được
chấp nhận do kết quả ước lượng cho thấy mức ý nghĩa p = *** < 0,05 với SE =
0,049 nên có ý nghĩa thống kê. Trọng số (chuẩn hóa) về mức độ tác động là 0,204.
Điều này hàm ý r ng hoạt động quảng cáo tăng hay giảm có ảnh hưởng làm tăng
hay giảm sự trung thành của khách hàng với thương hiệu. Như vậy, quảng cáo
không chỉ tác động trực tiếp làm tăng nhận biết thương hiệu để thông qua đó tăng
chất lượng cảm nhận, sau đó là trung thành thương hiệu mà còn có tác động trực
tiếp là tăng trung thành thương hiệu. Phát hiện này tiếp tục củng cố những phát hiện
142
của một số nhà nghiên cứu trước như Yoo et al. (2000), Villarejo-Ramos and
Sanchez-Franco (2005), Nguyen and Nguyen (2011) hay Nguyen et al. (2011).
Với khái niệm khuyến mãi, hai giả thuyết về mối quan hệ giữa hoạt động tiếp
thị này đến nhận biết thương hiệu và chất lượng cảm nhận đều được chấp nhận. Cụ
thể, giả thuyết H6a phát biểu r ng “Khuy n mãi có tác động tiêu c c (ngược chi u)
đ n nhận bi t thương hiệu” có kết quả ước lượng với mức ý nghĩa p = 0,006 < 0,05,
SE = 0,050 nên có ý nghĩa thống kê, trọng số ảnh hưởng đạt giá trị (-) 0,183, điều
này hàm ý r ng quan hệ giữa khuyến mãi và nhận biết thương hiệu là ngược chiều.
Kết quả này cũng thể hiện (phù hợp) thực tiễn hiện nay trong ngành nước giải khát
bởi các công ty ngành này thường tổ chức khuyến mãi b ng hình thức tặng quà
cũng như đẩy mạnh truyền thông về quà tặng để tạo sự hấp dẫn của chương trình,
nếu việc này xảy ra thường xuyên (tăng lên) có thể dẫn đến sự giảm sút các dấu
hiệu nhận ra và phân biệt thương hiệu trong tâm trí khách hàng, thay vào đó là sự
tăng lên các dấu hiệu nhận biết thương hiệu làm quà tặng. Hơn nữa, nhận biết
thương hiệu được định nghĩa là nhận ra và nhớ lại thương hiệu (Aaker, 1991), cụ
thể là nhận ra và nhớ lại các dấu hiệu nhận biết thương hiệu, nhưng kết quả thảo
luận sơ bộ cho thấy gần như khách hàng không nhớ về các dấu hiệu nhận biết
thương hiệu, thậm chí dần quên đi nếu khuyến mãi được tổ chức thường xuyên,
thay vào đó khách hàng thường nhớ đến các loại quà tặng được sử dụng làm khuyến
mãi hơn. Do vậy, phát hiện này là phù hợp và có ý nghĩa với những người làm công
tác Marketing tại các công ty nước giải khát. Bên cạnh đó, kết quả ước lượng giả
thuyết H6b với phát biểu “Khuy n mãi có tác động t ch c c đ n chất lượng cảm
nhận” cũng cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với p = 0,052, SE = 0,050
nên giả thuyết này được chấp nhận (ở độ tin cậy 90%), trọng số (chuẩn hóa) ảnh
hưởng là 0,116. Theo kết quả ước lượng này hoạt động khuyến mãi càng nhiều càng
làm tăng chất lượng cảm nhận về thương hiệu từ nhận thức của khách hàng. Như
vậy, phát hiện này khẳng định kết quả nghiên cứu định tính sơ bộ, đ ng thời tiếp tục
củng cố phát hiện của Villarejo-Ramos and Sanchez-Franco (2005) mặc dù Yoo et
al. (2000) phát hiện điều ngược lại. Mặt khác, trọng số ảnh hưởng của khuyến mãi
143
đến nhận biết thương hiệu cao hơn ảnh hưởng đến chất lượng cảm nhận. Do vậy,
nếu xét tổng thể, khuyến mãi thường xuyên không cho thấy có lợi trong việc làm
tăng giá trị thương hiệu thông qua tác động đến các thành phần của nó. Như vậy,
phát hiện này tiếp tục củng cố cho những phát hiện của Simon and Sullivan (1993),
Cobb-Walgren et al.(1995) và Yoo et al.(2000), đ ng thời là một lưu ý cho những
người làm công tác Marketing trong ngành nước giải khát tại Việt Nam hiện nay.
Cuối cùng, các giả thuyết về mối quan hệ giữa quan hệ công chúng, thực chất
là hoạt động quan hệ công chúng được cảm nhận với các thành phần giá trị thương
hiệu đều được chấp nhận. Cụ thể, giả thuyết H7a với phát biểu “Quan hệ công
chúng có tác động t ch c c đ n nhận bi t thương hiệu” có kết quả ước lượng cho
mức ý nghĩa p = *** < 0,05 với SE = 0,057 nên mối quan hệ là có ý nghĩa thống kê.
Điều này hàm ý r ng nếu chi tiêu cho hoạt động quan hệ công chúng tăng lên sẽ có
tác động làm tăng nhận biết của khách hàng về thương hiệu. Trọng số ảnh hưởng
(chuẩn hóa) của mối quan hệ này là 0,251. Thêm vào đó, giả thuyết H7b với nội
dung “Quan hệ công chúng có tác động t ch c c đ n chất lượng cảm nhận” cũng
được chấp nhận với kết quả ước lượng có mức ý nghĩa p = 0,003 < 0,05, SE = 0,66
nên mối quan hệ là có ý nghĩa thống kê, trọng số ảnh hưởng là 0,183. Hơn nữa, giả
thuyết H7c với nội dung “Quan hệ công chúng có tác động t ch c c đ n liên tưởng
thương hiệu” cũng được chấp nhận. Kết quả ước lượng mối quan hệ này có mức ý
nghĩa p = 0,099, SE = 0,058, mặc dù mức ý nghĩa này cao hơn 0,05, nhưng nếu xét
ở độ tin cậy 90% thì mối quan hệ là có ý nghĩa thống kê do p < 0,1. Tuy nhiên,
trọng số (chuẩn hóa) về sự ảnh hưởng của quan hệ công chúng đến liên tưởng
thương hiệu là khá thấp, chỉ đạt 0,077. Tóm lại, hoạt động quan hệ công chúng rất
quan trọng, không chỉ có chức năng truyền thông làm tăng nhận biết thương hiệu
mà còn có tác động vào nhận thức của khách hàng làm tăng sự liên tưởng và chất
lượng cảm nhận về thương hiệu, từ đó làm tăng trung thành thương hiệu. Mặt khác,
trong các mối quan hệ giữa quan hệ công chúng với các thành phần giá trị thương
hiệu thì tác động của quan hệ công chúng đến nhận biết thương hiệu là cao nhất,
còn tác động đến liên tưởng thương hiệu là thấp nhất.
144
t luận Ch ng 4
Chương 4 đã tiếp tục đánh giá và kiểm định thang đo các khái niệm. Kết quả
xây dựng và phát triển thang đo cho 08 khái niệm trong mô hình nghiên cứu, bao
g m 04 khái niệm là các thành phần giá trị thương hiệu và 04 khái niệm truyền
thông tiếp thị. Các thang đo này được kiểm định chặt chẽ để đảm bảo độ tin cậy,
tính đơn hướng, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Những thang đo này được sử dụng
để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu. Kết quả kiểm định cho thấy mô
hình nghiên cứu giải thích thị trường tốt hơn mô hình cạnh tranh. Hơn nữa, kết quả
phân tích Bootstrap cho thấy tính tin cậy trong các ước lượng của mô hình nghiên
cứu; đ ng thời, kết quả kiểm định phân tích đa nhóm cho thấy không có sự khác
biệt về mối quan hệ giữa truyền thông tiếp thị và các thành phần giá trị thương hiệu
do xuất xứ của thương hiệu. Thêm vào đó, kết quả kiểm định cho thấy có 12 giả
thuyết được chấp nhận; trong đó, 09 giả thuyết được chấp nhận ở độ tin cậy 95%,
còn lại 03 giả thuyết được xem xét chấp nhận ở độ tin cậy 90%. Ngoài ra, giả thuyết
về mối quan hệ giữa tài trợ và nhận biết thương hiệu chưa thấy có ý nghĩa thống kê.
Những phát hiện này tiếp tục củng cố cho những phát hiện của một số nhà
nghiên cứu trước trong việc làm tăng tính đại diện bởi nghiên cứu tại một thị trường
khác (Việt Nam), lĩnh vực khác (nước giải khát) và thời điểm khác (2013 – 2014).
Hơn nữa, nghiên cứu này cũng có những bổ sung và phát hiện mới. Đầu tiên là phát
triển thang đo các thành phần giá trị thương hiệu cho ngành nước giải khát, được
kiểm định tại Việt Nam, đ ng thời điều chỉnh thang đo khái niệm quảng cáo và
khuyến mãi cho phù hợp ngành này. Tiếp đến là xây dựng thang đo cho hai khái
niệm quan hệ công chúng và tài trợ, được kiểm định trong ngành nước giải khát.
Cuối cùng là đánh giá sự ảnh hưởng đ ng thời của quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ
công chúng và tài trợ đến các thành phần giá trị thương hiệu. Những phát hiện từ
đánh giá đ ng thời này được xem là có ý nghĩa thực tiễn hơn là đánh giá riêng lẻ vì
nhà quản trị Marketing cần cơ sở chọn loại công cụ truyền thông tiếp thị phù hợp để
tập trung làm tăng các thành phần giá trị thương hiệu. Do vậy, những phát hiện từ
nghiên cứu này có ý nghĩa trong cả lĩnh vực học thuật và thực tiễn kinh doanh.
145
CHƯƠNG 5: T LUẬN V H NGHI N C U
5.1. T LUẬN
Nghiên cứu này được đề xuất thực hiện trong bối cảnh nhiều thương hiệu
nước giải khát tại Việt Nam chưa được xây dựng thành công như ý muốn nhà quản
trị; đ ng thời có khe hổng về mặt lý thuyết khi chưa thấy có nghiên cứu phát triển
mô hình giá trị thương hiệu cho ngành nước giải khát tại thị trường Việt Nam cũng
như chưa thấy thang đo khái niệm quan hệ công chúng, tài trợ và đánh giá sự ảnh
hưởng của chúng cùng với quảng cáo và khuyến mãi đến các thành phần giá trị
thương hiệu. Hơn nữa, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến đề xuất
thực hiện nghiên cứu này xuất phát từ thực tiễn quan sát được là các công ty nước
giải khát thường cùng lúc thực hiện nhiều chương trình tiếp thị để quảng bá thương
hiệu trong bối cảnh ngân sách có hạn. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần có cơ sở lựa
chọn loại hình thức truyền thông tiếp thị phù hợp để đầu tư xây dựng thương hiệu
được hiệu quả. Tuy nhiên, qua tổng hợp lý thuyết thì không nhiều nghiên cứu sự
ảnh hưởng đ ng thời của nhiều hình thức truyền thông tiếp thị đến các thành phần
giá trị thương hiệu ngoại trừ nghiên cứu của Yoo et al. (2000) hay Villarejo-Ramos
and Sanchez-Franco (2005) trong ngành hàng tiêu dùng lâu bền, nghiên cứu của
Amarette & Hendriana (2011) trong lĩnh vực dịch vụ hoặc nghiên cứu của Nguyen
et al.(2011) trong ngành dầu gội. Do vậy, nhu cầu cần nghiên cứu sự tác động đ ng
thời của nhiều hình thức truyền thông tiếp thị phổ biến, thường được sử dụng, đặc
biệt trong ngành nước giải khát đến các thành phần giá trị thương hiệu là rất lớn.
Từ đó, thông qua phương pháp luận suy diễn, phương pháp nghiên cứu định
tính và định lượng cùng với các k thuật phân tích độ tin cậy Cronbach’s alpha,
phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), mô hình
cấu trúc tuyến tính (SEM), phân tích Bootstrap, phân tích đa nhóm trên phần mềm
SPSS20 và Amos 20 với dữ liệu thu thập từ 628 khách hàng trong 05 ngành hàng
chủ lực của ngành nước giải khát với 10 thương hiệu có thị phần lớn nhất (nghiên
cứu chính thức), kết quả nghiên cứu đã xây dựng và phát triển được thang đo cho
các khái niệm trong mô hình nghiên cứu, bao g m thang đo của 04 khái niệm là các
146
thành phần giá trị thương hiệu và thang đo của một số khái niệm truyền thông tiếp
thị như quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công chúng và tài trợ. Thêm vào đó, nghiên
cứu cũng đã đánh giá sự ảnh hưởng đ ng thời của các khái niệm truyền thông tiếp
thị này đến các thành phần giá trị thương hiệu. Kết quả nghiên cứu có 02 đóng góp
chính, đó là xây dựng, phát triển thang đo các khái niệm và kiểm định mô hình, giả
thuyết nghiên cứu để phát triển mô hình lý thuyết. Những đóng góp chính này được
trình bày cụ thể trong các phần tiếp theo.
5.1.1. t quả dựng v phát triển th ng đo khái niệm
Kết quả nghiên cứu đã điều chỉnh, bổ sung để phát triển thang đo cho một số
khái niệm đã có thang đo cho phù hợp lĩnh vực nước giải khát tại thị trường Việt
Nam. Các thang đo này đều có tính đơn hướng, đạt độ tin cậy và giá trị (hội tụ và
phân biệt), cụ thể như sau:
- Nhận biết thương hiệu được đo lường bởi 04 biến BA2, BA3, BA4 và BA6.
- Liên tưởng thương hiệu được đo lường bởi 04 biến AS1, AS4, AS11 và AS12.
- Chất lượng cảm nhận được đo lường bởi 03 biến PQ10, PQ11 và PQ12.
- Trung thành thương hiệu được đo lường bởi BL5, BL7, BL8, BL11, BL14, AS8.
- Quảng cáo được đo lường bởi 05 biến AD2, AD5, AD6, AD7 và AD8.
- Khuyến mãi được đo lường bởi 04 biến PD2, PD4, PD5 và PD6.
Như vậy, các thang đo được phát triển này có số lượng biến quan sát (biến đo
lường) và giá trị nội dung có những khác biệt so với thang đo ban đầu. Những khác
biệt này được trình bày cụ thể trong Phụ lục 22. Đặc biệt, thang đo thành phần chất
lượng cảm nhận được đo lường bởi các biến mô tả cảm nhận về hương, vị sản phẩm
thay vì sự cảm nhận tổng thể (chung chung) như thang đo ban đầu lấy từ nghiên cứu
của Yoo and Donthu (2001). Thêm vào đó, thang đo thành phần trung thành thương
hiệu có thêm sự bổ sung một số biến quan sát, đặc biệt là biến AS8 mô tả những
thuộc tính đủ thuyết phục khách hàng là ngu n gốc tạo sự trung thành. Hơn nữa, hai
biến PQ13 và PQ15 mô tả sự hài lòng khi được thỏa mãn cơn khát là ngu n gốc tạo
sự trung thành thương hiệu cũng có thể được xem xét đưa vào thang đo lường trung
thành thương hiệu trong một số nghiên cứu liên quan vì điểm trung bình khá cao
147
(3,74 và 3,61; Bảng 4.4) và nếu loại hai biến này thì độ tin cậy Cronbach’s alpha sẽ
giảm (mặc dù chúng bị loại trong kiểm định b ng CFA để cải thiện phương sai
trích). Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng đã tách biệt thang đo hai thành phần nhận
biết thương hiệu và liên tưởng thương hiệu trong khi Yoo and Donthu (2001) chưa
làm được. Điều này có ý nghĩa làm tăng sự hiểu biết về mô hình giá trị thương hiệu
như đề xuất của hai tác giả này là cần nghiên cứu trong các thị trường khác, lĩnh
vực khác để bổ sung thêm các thành phần và các biến đo lường cho các thang đo.
Từ kết quả này cho thấy việc nghiên cứu kiểm định lại các phát hiện của những nhà
nghiên cứu trước, đặc biệt là các phát hiện từ những thị trường phát triển như M và
Tây Ban Nha, có đặc điểm nhân khẩu học khác với Việt Nam thì rất cần thiết
nh m góp phần tăng thêm tính khả thi cho quá trình vận dụng các tri thức khoa học
vào thực tiễn tại Việt Nam. Ngoài ra, kết quả phát triển thang đo cũng có những
khác biệt so với một số thang đo khái niệm tương tự được nghiên cứu tại Việt Nam.
Chẳng hạn, thang đo khái niệm quảng cáo được phát triển trong nghiên cứu này
(cho ngành nước giải khát) g m 05 biến quan sát có sự khác biệt với thang đo
quảng cáo g m 03 biến quan sát do Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang
(2002: 2011) đề xuất cho ngành dầu gội đầu, cụ thể là bổ sung thêm 02 biến “Tôi
nghĩ quảng cáo của X nói chung là hiệu quả (tốt)” (AD2) và “Các quảng cáo của X gây
được ấn tượng tốt với tôi” (AD8); hoặc thang đo khuyến mãi g m 04 biến quan sát có
sự khác biệt khi bổ sung thêm một biến “Tôi thích các khuyến mãi của X” (PD2) so
với thang đo khuyến mãi của hai tác giả này đề xuất cũng cho ngành dầu gội đầu.
Thêm vào đó, nghiên cứu này cũng đã khám phá xây dựng 02 thang đo mới
dựa vào nhận thức của khách hàng, đó là thang đo khái niệm quan hệ công chúng,
được đo lường bởi 04 biến quan sát, g m PR4, PR5, PR6, PR8 và thang đo khái
niệm tài trợ, được đo lường bởi 05 biến quan sát g m SP1, SP2, SP3, SP4, SP10.
Nội dung các biến quan sát của hai thang đo này được trình bày cụ thể trong Phụ lục
23. Ngoài ra, khi đánh giá điểm trung bình của các biến bởi phân tích thống kê mô
tả cho kết quả các giá trị trung bình đều khá cao (thang điểm từ 1 đến 5 với 1 là
hoàn toàn không đ ng ý và 5 là hoàn toàn đ ng ý).
148
Như vậy, kết quả nghiên cứu có đóng góp ý nghĩa khi góp phần xây dựng và
phát triển thang đo lường các thành phần giá trị thương hiệu và một số khái niệm
truyền thông tiếp thị phổ biến, thường được sử dụng cho thị trường nước giải khát
tại một nền kinh tế đang chuyển đổi là Việt Nam. Điều này góp phần giúp cho một
số nhà nghiên cứu có thang đo lường để thực hiện các nghiên cứu liên quan tại Việt
Nam. Thêm vào đó, với kết quả nghiên cứu xây dựng thang đo cho khái niệm quan
hệ công chúng và tài trợ được kỳ vọng có thể đóng góp cơ sở để phát triển thang đo
thống nhất trong các nghiên cứu đa quốc gia có liên quan đến hai khái niệm này
thuộc lĩnh vực nước giải khát cho những nền kinh tế đang chuyển đổi.
Mặt khác, một số nghiên cứu trong lĩnh vực Marketing với ngành hàng tiêu
dùng nhanh khác cũng có thể sử dụng các thang đo này vì nước giải khát là ngành
có dung lượng thị trường lớn với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành hàng
tiêu dùng nhanh (Nielsen, 2012). Tuy nhiên, khi sử dụng các thang đo này cho các
nghiên cứu liên quan cần nghiên cứu định tính để điều chỉnh, bổ sung biến quan sát
cho phù hợp với đặc tính của ngành hàng. Cách làm này đã được chứng minh là phù
hợp khi nghiên cứu này sử dụng thang đo ban đầu được lấy từ nghiên cứu của Yoo
et al.(2000) phát triển trong ngành hàng tiêu dùng lâu bền, nhưng kết quả nghiên
cứu điều chỉnh thang đo đã có bổ sung thêm biến quan sát mới hoặc thay thế các
biến ban đầu thành những biến mới cho phù hợp lĩnh vực (ngành hàng) nghiên cứu.
5.1.2. t quả đề uất mô h nh lý thu t
Kết quả kiểm định cho thấy mô hình nghiên cứu tương thích với dữ liệu thị
trường tốt hơn mô hình cạnh tranh, đ ng thời các giả thuyết nghiên cứu đều được
chấp nhận ngoại trừ giả thuyết mối quan hệ giữa tài trợ và nhận biết thương hiệu
chưa thấy có ý nghĩa thống kê. Từ đó, mô hình lý thuyết được đề xuất sau khi đã
loại mối quan hệ chưa có ý nghĩa thống kê này (Hình 5.1). Mô hình này có các mối
quan hệ đều cùng chiều (tích cực) ngoại trừ quan hệ giữa khuyến mãi và nhận biết
thương hiệu là nghịch chiều. Kết quả này có ý nghĩa cho những đối tượng liên quan,
bao g m các công ty nước giải khát, các công ty cung ứng dịch vụ Marketing cho
các công ty nước giải khát và một số người quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực
149
Marketing, đặc biệt là về thương hiệu. Ngoài ra, các công ty trong ngành hàng tiêu
dùng nhanh cũng có thể tham khảo kết quả nghiên cứu này.
H nh 5.1: ô h nh tru ền thông ti p thị v giá trị th ng hiệu
Ngu n: Tác giả đề xuất
Đầu tiên, kết quả nghiên cứu đã kiểm định các mối quan hệ giữa các thành
phần giá trị thương hiệu. Kết quả kiểm định khẳng định mô hình giá trị thương hiệu
trong ngành nước giải khát g m các thành phần: nhận biết thương hiệu, liên tưởng
thương hiệu, chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu. Bên cạnh đó, nghiên
cứu này cũng phát hiện nhận biết thương hiệu có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng
cảm nhận; chất lượng cảm nhận và liên tưởng thương hiệu đều có ảnh hưởng tích
cực đến trung thành thương hiệu, nhưng tác động của chất lượng cảm nhận cao hơn.
Kết quả này củng cố những phát hiện của một số nhà nghiên cứu trước trong lĩnh
vực khác, chẳng hạn nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang
(2002: 2011) trong ngành dầu gội đầu tại Việt Nam hay nghiên cứu của Nguyen et
al.(2011) trong ngành dầu gội đầu tại Việt Nam và Thái Lan, hoặc nghiên cứu của
Iranzadeh et al. (2012) trong ngành thực phẩm tại Iran phát hiện nhận biết thương
hiệu ảnh hưởng tích cực đến chất lượng cảm nhận, còn chất lượng cảm nhận ảnh
hưởng tích cực đến trung thành thương hiệu34. Điều này cũng có nghĩa là giá trị liên
hệ lý thuyết của các thang đo là các thành phần giá trị thương hiệu được khẳng định
do tất cả các giả thuyết liên quan đều được chấp nhận.
34
Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2002: 2011) phát hiện chất lượng cảm nhận ảnh hưởng tích
cực đến đam mê thương hiệu, là một thành phần được xây dựng từ trung thành và ham muốn thương hiệu.
150
Phát hiện này có hàm ý r ng các nhà quản trị tại công ty nước giải khát, công
ty nghiên cứu thị trường, công ty truyền thông, công ty tư vấn thương hiệu có thể
đánh giá hiệu quả xây dựng thương hiệu thông qua đo lường mức độ gia tăng 04
thành phần nhận biết thương hiệu, liên tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận và
trung thành thương hiệu. Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu cũng hàm ý r ng để tăng
giá trị thương hiệu nh m tăng lợi thế cạnh tranh, các công ty nước giải khát cần đẩy
mạnh các chiến dịch tiếp thị để tăng sự nhận biết và liên tưởng thương hiệu nh m
tăng chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu. Mặt khác, để tăng chất lượng
cảm nhận các nhà quản trị công ty cần nghiên cứu k nhu cầu khách hàng để phát
hiện loại hương, vị phù hợp, từ đó không ngừng cải tiến sản phẩm để đáp ứng loại
hương, vị đó cho khách hàng; đ ng thời, thông điệp truyền thông để tăng nhận biết
thương hiệu và chất lượng cảm nhận cần thể hiện đặc tính hương, vị này. Hơn nữa,
để tạo lòng trung thành thì thương hiệu cần có những thuộc tính đủ thuyết phục
khách hàng (AS8). Những thuộc tính này nên là các thuộc tính thể hiện lợi ích chức
năng của thương hiệu, cụ thể là khả năng thỏa mãn cơn khát của khách hàng. Nhận
định này có được từ nội dung của PQ15 là “Tôi nghĩ chất lượng tổng thể của X thỏa
mãn tốt nhu cầu giải khát của tôi”. Mặc dù biến này bị loại để tăng phương sai trích của
thang đo thành phần trung thành thương hiệu nh m đảm bảo độ tin cậy và giá trị của
thang đo trước khi kiểm định các giả thuyết nghiên cứu. Nhưng nếu xét ở góc độ xây
dựng thang đo thì biến này vẫn có thể được giữ lại do có điểm trung bình khá cao
(3,61). Hơn nữa, khi loại biến thì hệ số Cronbach’s alpha (α) giảm, đ ng thời khi phân
tích CFA thì trọng số của biến này là 0,554, cao hơn mức chuẩn (0,5), còn phương sai
trích không quá thấp, đạt 49% (mức chuẩn là 50%). Ngoài ra, từ kết quả hội thảo
với một số chủ doanh nghiệp, chuyên gia Marketing cho thấy lợi ích cảm tính cũng
cần được quan tâm khi truyền thông xây dựng thương hiệu; đ ng thời, một số lợi
ích cảm tính thường được khách hàng, chủ yếu là giới trẻ quan tâm trong lĩnh vực
nước giải khát, bao g m: trẻ trung, năng động, sành điệu, sang trọng, đẳng cấp. Do
vậy, “những thuộc tính đủ thuyết phục khách hàng” của biến quan sát AS8 nên
được hiểu bao g m lợi ích chức năng và lợi ích cảm tính của thương hiệu.
151
Cuối cùng, mục tiêu quan trọng nhất của nghiên cứu này là khám phá và kiểm
định sự ảnh hưởng đ ng thời của một số khái niệm truyền thông tiếp thị phổ biến
được lựa chọn nghiên cứu, g m tài trợ, quảng cáo, khuyến mãi và quan hệ công
chúng đến các thành phần giá trị thương hiệu. Kết quả đánh giá các mối quan hệ
nhân quả này không chỉ có ý nghĩa trong học thuật mà cả trong thực tiễn kinh
doanh. Cụ thể, kết quả nghiên cứu có một số phát hiện với ý nghĩa như sau:
Tài trợ có tác động tích cực đến chất lượng cảm nhận và trung thành thương
hiệu trong mối tương quan với các hoạt động tiếp thị khác; trong đó, trọng số tác
động đến trung thành thương hiệu (0,234) cao hơn tác động đến chất lượng cảm
nhận (0,133). Như vậy, tài trợ không chỉ tác động gián tiếp làm tăng trung thành
thương hiệu thông qua tăng chất lượng cảm nhận mà còn tác động trực tiếp đến
thành phần này. Do vậy, đây là hoạt động truyền thông tiếp thị quan trọng trong
việc tạo ra giá trị thương hiệu nước giải khát. Phát hiện này không chỉ có ý nghĩa
làm tăng thêm sự hiểu biết về tài trợ với kết quả ước lượng đáng tin cậy mà còn tạo
cơ sở để các nhà quản trị tại các công ty liên quan có cơ sở lựa chọn tài trợ như một
công cụ tiếp thị để tăng chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu.
Quảng cáo làm tăng nhận biết thương hiệu (0,317) và trung thành thương
hiệu (0,204) với trọng số ảnh hưởng lên nhận biết thương hiệu cao hơn. Phát hiện
này cho thấy quảng cáo vẫn là công cụ tiếp thị hiệu quả để tăng giá trị thương hiệu
thông qua tăng nhận biết và trung thành thương hiệu trong ngành nước giải khát.
Kết quả này có ý nghĩa làm tăng tính đại diện cho một số phát hiện của Yoo et al.
(2000), Villarejo-Ramos and Sanchez-Franco (2005), Nguyen and Nguyen (2011),
Nguyen et al. (2011) khi nghiên cứu trong các lĩnh vực, thị trường khác.
Khuyến mãi nếu được thực hiện thường xuyên, một mặt làm tăng chất lượng
cảm nhận, nhưng mặt khác có thể làm giảm nhận biết thương hiệu. Hơn nữa, trọng
số ảnh hưởng đến nhận biết thương hiệu cao hơn ảnh hưởng đến chất lượng cảm
nhận, (-) 0,183 so với 0,116. Điều này có nghĩa r ng hoạt động khuyến mãi thường
xuyên không có lợi trong việc làm tăng giá trị thương hiệu, thậm chí có nguy cơ làm
tổn hại đến giá trị thương hiệu. Phát hiện này là một lưu ý quan trọng cho các nhà
152
quản trị tại các công ty thuộc ngành nước giải khát ở Việt Nam. Như vậy, kết quả
này tiếp tục củng cố cho những phát hiện của Simon and Sullivan (1993), Cobb-
Walgren et al.(1995) và Yoo et al.(2000) là khuyến mãi thường xuyên không có tác
động tích cực trong việc làm gia tăng giá trị thương hiệu, thậm chí là có tác động
ngược lại mặc dù có thể làm tăng thành phần chất lượng cảm nhận như Villarejo-
Ramos and Sanchez-Franco (2005) đã phát hiện.
Quan hệ công chúng có tác động trực tiếp và tích cực đến các thành phần
nhận biết thương hiệu, chất lượng cảm nhận và liên tưởng thương hiệu, từ đó tác
động gián tiếp làm tăng trung thành thương hiệu; trong đó, sự tác động đến nhận
biết thương hiệu là cao nhất (0,251), tiếp đến là chất lượng cảm nhận (0,183), còn
tác động đến liên tưởng thương hiệu không đáng kể (0,077). Phát hiện này không
những có ý nghĩa trong học thuật mà còn góp phần tạo cơ sở để các nhà quản trị
xem xét đầu tư vào hoạt động quan hệ công chúng để gia tăng giá trị thương hiệu.
Tóm lại, sự tác động đ ng thời của quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công
chúng và tài trợ đến các thành phần giá trị thương hiệu được tóm tắt trong Bảng 5.1.
Những phát hiện này có sự đóng góp ý nghĩa trong việc làm tăng sự hiểu biết về mô
hình giá trị thương hiệu và mối quan hệ giữa truyền thông tiếp thị và các thành phần
giá trị thương hiệu cũng như góp phần tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả truyền thông
tiếp thị nh m nâng cao giá trị thương hiệu trong thực tiễn kinh doanh.
Bảng 5.1: T ng hợp k t quả đánh giá ảnh h ởng củ tru ền thông ti p thị
Các hoạt động tru ền
thông ti p thị
Trọng số ảnh h ởng trực ti p (chuẩn hó )
Nhận bi t
th ng hiệu
Chất l ợng
cảm nhận
Liên t ởng
th ng hiệu
Trung th nh
th ng hiệu
Quảng cáo 0,317 - - 0,204
T i trợ - 0,133 - 0,234
Qu n hệ công ch ng 0,251 0,183 0,077 -
hu n mãi (-) 0,183 0,116 - -
Ngu n: Phát hiện của Tác giả
153
5.2. H QU N TRỊ I VỚI CÔNG TY NƯỚC GI I H T
5.2.1. N ng c o giá trị th ng hiệu để tăng lợi th cạnh tr nh
Tạo dựng, duy trì và gia tăng giá trị thương hiệu có vai trò rất quan trọng trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. Quá trình này giúp cho công ty tạo lợi
thế cạnh tranh qua việc tạo “chỗ đứng” trong tâm trí khách hàng bởi các giá trị mà
thương hiệu có thể mang lại cho khách hàng. Bên cạnh đó, theo kết quả kiểm định
trong ngành nước giải khát, giá trị thương hiệu được đo lường bởi nhận biết thương
hiệu, liên tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu. Do
vậy, để gia tăng giá trị thương hiệu cần làm tăng các thành phần của nó. Từ đó, một
số định hướng nâng cao giá trị thương hiệu cho công ty nước giải khát như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận biết thương hiệu thông qua tác động đến các biến
đo lường khái niệm thành phần này. Cụ thể, dựa vào trọng số (chuẩn hóa) thang đo
nhận biết thương hiệu, một số giải pháp được đề xuất như sau:
- Các chương trình truyền thông cần được triển khai đủ mạnh, tập trung thể
hiện rõ ràng hệ thống nhận diện thương hiệu để khách hàng có thể nhận ra thương
hiệu (BA3; 0,87) để từ đó dễ dàng nhận biết (BA2; 0,73), phân biệt thương hiệu
trong số các thương hiệu nước giải khát khác (BA6; 0,73). Cụ thể hơn, nội dung
truyền thông không chỉ b ng “lời” (câu chữ) mà còn bao g m hình ảnh và âm thanh.
- Thông điệp truyền thông cần làm rõ loại sản phẩm mà thương hiệu đại diện
(BA4; 0,83); đ ng thời, thông điệp phải thống nhất, xuyên suốt và tập trung.
Thứ hai, nâng cao liên tưởng thương hiệu để tăng trung thành thương hiệu.
Giải pháp là tạo ra và tăng sự liên tưởng trong tâm trí khách hàng về thương hiệu
dựa vào các dấu hiệu nhận biết, đặc biệt là thiết kế logo dễ nhận diện và có tính
khác biệt (AS11; 0,90) nh m giúp cho khách hàng có sự liên tưởng dễ dàng và rõ
nét về thương hiệu trong tâm trí họ (AS12; 0,79). Thêm vào đó, xác định những thế
mạnh nổi trội của thương hiệu về đặc tính sản phẩm, lợi ích mang lại để tạo sự liên
tưởng rõ ràng và nhanh chóng trong tâm trí khách hàng (AS1; 0,76). Hơn nữa, nước
giải khát có một số đặc tính như được mua sử dụng thường xuyên, nhu cầu thay đổi
liên tục và không ngừng nâng cao. Do vậy, bản thân thương hiệu không ngừng được
154
cải tiến, đặc biệt về sản phẩm và mẫu mã bao bì; đ ng thời, truyền thông nhấn mạnh
những đổi mới này để khách hàng có sự liên tưởng cụ thể (AS4; 0,68).
Thứ ba, nâng cao chất lượng cảm nhận để tăng lòng trung thành thương hiệu,
từ đó gia tăng giá trị thương hiệu. Giải pháp là đẩy mạnh truyền thông để tăng nhận
biết thương hiệu; đ ng thời, cần liên tục nghiên cứu nhu cầu khách hàng về loại
hương, vị sản phẩm mà họ mong muốn để từ đó cải tiến sản phẩm liên tục để cung
cấp cho khách hàng loại nước giải khát có hương thơm dễ chịu (PQ11; 0,81), hấp
dẫn (PQ10; 0,70) và vị ngon (PQ12; 0,70) được khách hàng cảm nhận.
Thứ tư, nâng cao lòng trung thành thương hiệu là một thành phần rất quan
trọng để tạo giá trị thương hiệu. Giải pháp là truyền thông tăng sự nhận biết thương
hiệu, tạo sự liên tưởng thương hiệu rõ ràng và chất lượng được cảm nhận đáp ứng
đúng nhu cầu khách hàng. Thêm vào đó, khách hàng có lòng trung thành với thương
hiệu khi thật sự thích thương hiệu (BL11; 0,77), thể hiện sự quyết tâm tiêu dùng
thương hiệu (BL14; 0,72) hay nhận thức tiếp tục mua dùng thương hiệu (BL5;
0,72), từ đó, dẫn đến hành vi thích mua dùng (BL8; 0,70) và giới thiệu cho người
khác mua dùng (BL7; 0,70). Muốn vậy, thương hiệu phải có những thuộc tính đủ
thuyết phục khách hàng (AS8; 0,70). Do đó, các công ty nước giải khát cần thực
hiện giải pháp đ ng bộ, từ nghiên cứu nhu cầu khách hàng để hoàn thiện sản phẩm,
đặc biệt là hương, vị sản phẩm, thiết kế các dấu hiệu nhận biết thương hiệu cũng
như nhãn mác bắt mắt, thông điệp truyền thông cần thể hiện lợi ích chức năng và lợi
ích cảm tính của thương hiệu đến truyền thông tổng lực làm tăng sự nhận biết
thương hiệu, sự thích thú về thương hiệu, tạo cho khách hàng tin tưởng mua dùng
sản phẩm, từ đó, nâng cao lòng trung thành của khách hàng đối với thương hiệu.
5.2.2. N ng c o hiệu quả tru ền thông ti p thị
Kết quả nghiên cứu cho thấy truyền thông tiếp thị có tác động đến các thành
phần giá trị thương hiệu, nhưng mức độ tác động và tính chất tác động khác nhau.
Do vậy, các quản trị viên Marketing tại công ty nước giải khát cần lựa chọn hoạt
động truyền thông tiếp thị phù hợp để đảm bảo việc gia tăng giá trị thương hiệu
được hiệu quả nhất, đặc biệt trong từng giai đoạn cụ thể. Từ kết quả nghiên cứu,
155
một số giải pháp nh m nâng cao hiệu quả truyền thông tiếp thị trong việc làm tăng
giá trị thương hiệu thông qua các thành phần của nó như sau:
Đầu tiên, với những thương hiệu đang trong giai đoạn cần ưu tiên làm tăng
mức độ nhận biết thương hiệu, thường là giai đoạn đang được tung ra thị trường thì
quảng cáo là hoạt động nên được xem xét trước tiên. Cụ thể, theo kết quả nghiên
cứu quan hệ giữa một số hoạt động truyền thông tiếp thị phổ biến, thường được sử
dụng như quảng cáo, quan hệ công chúng, tài trợ và khuyến mãi đến các thành phần
giá trị thương hiệu trong ngành nước giải khát thì trọng số (chuẩn hóa) ảnh hưởng
của quảng cáo là 0,31 so với sự tác động của quan hệ công chúng là 0,25 đến nhận
biết thương hiệu, còn tài trợ chưa thấy có mối quan hệ với nhận biết thương hiệu rõ
ràng (chưa được khẳng định) trong khi khuyến mãi thường xuyên có thể làm giảm
nhận biết thương hiệu. Điều này cũng được khẳng định qua phỏng vấn chuyên gia.
Như vậy, đẩy mạnh quảng cáo thường xuyên (AD5; 0,57) là gần như bắt buộc trong
giai đoạn này để tăng nhận biết thương hiệu. Thêm vào đó, dựa vào trọng số chuẩn
hóa của các biến đo lường khái niệm quảng cáo cho thấy để tăng hiệu quả quảng
cáo cần ưu tiên xây dựng nội dung quảng cáo phù hợp để tạo sự thích thú (AD7;
0,83
35) và hấp dẫn (AD6; 0,81) của khách hàng đối với chương trình quảng cáo, cụ
thể là chú ý đến hình ảnh, âm thanh và thông điệp, nên tập trung và lợi ích chức
năng thông qua hương, vị sản phẩm cũng như thể hiện sự trẻ trung, năng động đánh
đúng vào nhu cầu, tâm lý của giới trẻ; hơn nữa, cần tạo cho khách hàng có ấn tượng
tốt với quảng cáo (AD8; 0,79), điều này rất quan trọng. Giải pháp gợi ý là thông
điệp quảng cáo gắn liền với công dụng, lợi ích thật của sản phẩm với hình ảnh minh
họa phù hợp, đ ng thời nhạc hiệu nên sống động, vui nhộn. Thực hiện những gợi ý
này nh m tạo ấn tượng tốt về chương trình quảng cáo từ khách hàng (AD2; 0,61), từ
đó giúp cho khách hàng quan tâm hơn để tăng nhận biết thương hiệu. Ngoài ra, đẩy
mạnh quảng cáo không chỉ làm tăng nhận biết về thương hiệu mà còn nh m duy trì
sự quan tâm, yêu thích, khuynh hướng tiếp tục sử dụng thương hiệu từ khách hàng.
Cụ thể, theo kết quả nghiên cứu, quảng cáo cũng có tác động làm tăng lòng trung
35
Trọng số chuẩn hóa của biến đo lường khái niệm quảng cáo dựa vào kết quả kiểm định mô hình nghiên cứu
156
thành thương hiệu với trọng số ảnh hưởng là 0,20. Do vậy, đối với giai đoạn sau khi
thương hiệu được tung ra thị trường, các quản trị viên Marketing cũng nên dành
ngân sách cho quảng cáo định kỳ để góp phần làm tăng trung thành thương hiệu.
Mặt khác, chỉ quảng cáo thôi thì chưa đủ, khách hàng cần biết nhiều về thương
hiệu hơn cũng như cần tạo niềm tin, sự tin tưởng của khách hàng về thương hiệu,
đặc biệt là về chất lượng sản phẩm mà thương hiệu đại diện. Do vậy, đẩy mạnh hoạt
động quan hệ công chúng là điều nên làm. Điều này được khẳng định bởi kết quả
nghiên cứu khi quan hệ công chúng là thành phần truyền thông tiếp thị vừa tăng
nhận biết thương hiệu (0,25) vừa tăng chất lượng cảm nhận (0,18) và liên tưởng
thương hiệu (0,07). Phát hiện này cũng phù hợp với thực tiễn khi qua quan sát trong
ngành nước giải khát cho thấy hầu như các công ty đều thực hiện hoạt động quan hệ
công chúng cùng với quảng cáo khi tung sản phẩm, thậm chí là tổ chức hoạt động
quan hệ công chúng trước cả khi sản phẩm có mặt trên thị trường thông qua các bài
viết để tạo sự chú ý của cộng đ ng, đặc biệt là khách hàng tiềm năng. Điều này
cũng được nhiều chuyên gia Marketing tán đ ng khi được phỏng vấn. Từ đó, dựa
vào trọng số chuẩn hóa (mức độ quan trọng) của biến đo lường khái niệm quan hệ
công chúng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này là thực hiện đ ng thời hai
vấn đề: một, khẳng định rõ sự t n tại của thương hiệu là vì sự phát triển cộng đ ng,
thương hiệu phát triển thông qua đáp ứng những lợi ích thiết thực cho khách hàng,
đ ng thời gắn kết sự phát triển của thương hiệu với sự phát triển của cộng đ ng;
hai, đẩy mạnh hoạt động phát triển cộng đ ng và truyền thông những việc đã và
đang làm (hoạt động phát triển cộng đ ng) cho khách hàng biết, từ đó hướng khách
hàng có sự liên tưởng thương hiệu với các đặc tính như “có đạo đức trong kinh
doanh” (PR6; 0,75), “có năng lực kinh doanh” (PR5; 0,74), “quan tâm đến lợi ích
của khách hàng” (PR4; 0,69) và “biết lắng nghe ý kiến phản h i của khách hàng”
(PR8; 0,68). Từ đó, hoạt động quan hệ công chúng không chỉ làm tăng nhận biết
thương hiệu mà còn làm tăng chất lượng cảm nhận về thương hiệu và tạo sự liên
tưởng tích cực về thương hiệu. Ngoài ra, trong giai đoạn sản phẩm phát triển nên ưu
tiên ngân sách tiếp thị cho các hoạt động khác, như tài trợ hoặc khuyến mãi nhưng
157
cũng cần duy trì hoạt động quan hệ công chúng với mức độ vừa phải. Nguyên nhân
vì hoạt động này vẫn hữu ích trong việc làm tăng nhận biết thương hiệu, tăng chất
lượng cảm nhận và liên tưởng thương hiệu để từ đó tăng trung thành thương hiệu.
Tiếp đến, với những thương hiệu đã được nhiều khách hàng biết đến, thường
là giai đoạn sản phẩm đã được tung ra thị trường một khoảng thời gian thì mục tiêu
cần ưu tiên là tăng doanh thu (và có thể là tăng lợi nhuận); đ ng thời, theo một số
chuyên gia Marketing qua phỏng vấn và tọa đàm thì để tăng doanh thu cần phải tạo
niềm tin của khách hàng về chất lượng của sản phẩm mà thương hiệu đại diện cũng
như củng cố và tăng lòng trung thành của khách hàng để lôi kéo, thuyết phục (gián
tiếp) khách hàng tìm mua sản phẩm thay vì ưu tiên tăng nhận biết thương hiệu. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy tài trợ và cả khuyến mãi có vai trò quan trọng
để thực hiện mục tiêu này. Cụ thể, hoạt động tài trợ có ý nghĩa làm tăng cả chất
lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu với trọng số ảnh hưởng làm tăng trung
thành thương hiệu cao hơn làm tăng chất lượng cảm nhận, 0,23 so với 0,13. Thêm
vào đó, nếu khuyến mãi được tổ chức hợp lý và với mức độ phù hợp thì cũng có ý
nghĩa trong việc làm tăng chất lượng cảm nhận với trọng số ảnh hưởng là 0,11,
nhưng cần phải cẩn trọng với hoạt động này vì có thể làm giảm (tương đối) nhận
biết thương hiệu nếu tập trung truyền thông quá mức về loại quà tặng khuyến mãi.
Từ đó, giải pháp để tăng hiệu quả tài trợ là cần tạo sự yêu thích (SP3; 0,85), sự ấn
tượng (SP4; 0,79) và cảm tình (SP1; 0,77) của khách hàng với thương hiệu thông
qua hoạt động tài trợ nh m tạo sự tích cực của khách hàng tìm hiểu về thương hiệu
tài trợ (SP2; 0,77) cũng như mua dùng thương hiệu đã tài trợ (SP10; 0,71). Để thực
hiện được điều này nên ưu tiên lựa chọn những chương trình mà khán giả mục tiêu
nhắm đến là giới trẻ để tài trợ, đặc biệt là những chương trình có sự tham gia của
những người nổi tiếng mà giới trẻ quan tâm, yêu thích như các hoạt động văn hóa
nghệ thuật hoặc hoạt động thể thao, cụ thể là các chương trình âm nhạc, các chương
trình truyền hình thực tế mà đối tượng tham gia là giới trẻ. Thêm vào đó, để tăng ấn
tượng của khách hàng với thương hiệu thì nên ưu tiên chọn những chương trình có
quy mô lớn với sự tham dự của người nổi tiếng mà nhiều bạn trẻ (cũng là khách
158
hàng của công ty nước giải khát) yêu thích để tài trợ; hơn nữa, cần truyền thông
mạnh về chương trình này cũng như phối hợp tốt với đơn vị tổ chức để tránh những
sự cố, sơ suất có thể xảy ra. Bên cạnh đó, các quản trị viên Marketing nên dành
ngân sách cho hoạt động tài trợ phù hợp, bao g m tài trợ theo chương trình (có thể
đột xuất) và tài trợ định kỳ (chương trình kéo dài nhiều tập như truyền hình thực tế).
Mặt khác, khuyến mãi thì cần thiết, nhưng cần cân đối lợi ích giữa đẩy mạnh
truyền thông sản phẩm dùng làm quà tặng khuyến mãi với truyền thông về chương
trình khuyến mãi và về thương hiệu khuyến mãi. Nguyên nhân vì nếu chương trình
khuyến mãi được tổ chức thường xuyên mà tập trung truyền thông về quà tặng
khuyến mãi thì mức độ tăng nhận biết thương hiệu không tương xứng với tăng chi
phí thực hiện khuyến mãi, thậm chí có thể xảy ra hiện tượng làm nhạt đi các dấu
hiệu nhận biết thương hiệu. Bên cạnh đó, dựa vào trọng số (chuẩn hóa) của biến đo
lường khái niệm khuyến mãi, giải pháp được đề xuất để tăng hiệu quả khuyến mãi
là chú trọng tính hấp dẫn của chương trình khuyến mãi (PD5; 0,86), như quà tặng
hấp dẫn, dễ có cơ hội trúng thưởng (được khuyến mãi) để tạo sự quan tâm, thích thú
của khách hàng (PD2; 0,69), từ đó thôi thúc khách hàng tham gia mua sản phẩm để
được khuyến mãi (PD6; 0,78). Bên cạnh đó, mặc dù tổ chức khuyến mãi thường
xuyên là một biến quan trọng của khái niệm khuyến mãi (PD4; 0,70), nhưng nếu
thực hiện thường xuyên có thể không hiệu quả b ng thực hiện các hoạt động truyền
thông tiếp thị khác, thậm chí có tác dụng ngược. Do vậy, khuyến mãi không nên
được tổ chức thường xuyên, thường là mỗi năm một lần và không nên kéo quá dài.
Ngoài ra, từ kết quả kiểm định cho thấy yếu tố “thương hiệu quốc tế” không
có ảnh hưởng tạo sự khác biệt đến hiệu quả của hoạt động truyền thông tiếp thị lên
các thành phần giá trị thương hiệu nước giải khát tại Việt Nam. Do vậy, các công ty
nước giải khát không cần đưa yếu tố này vào thông điệp truyền thông. Mặt khác,
với các công ty nước giải khát của Việt Nam, kết quả này có hàm ý là các công ty
có thể đẩy mạnh các chiến dịch Marketing phù hợp để cạnh tranh trực tiếp (sòng
phẳng) với các công ty đa quốc gia trong ngành để giành lấy thị phần mà không
phải ái ngại yếu tố “thương hiệu quốc tế” của các công ty này.
159
5.3. H N CH V HƯỚNG NGHI N C U TI P THEO
Như các nghiên cứu khác, nghiên cứu này cũng có hạn chế của nó, cụ thể sau:
Mô hình đo lường các thành phần giá trị thương hiệu trong nghiên cứu này
được phát triển từ mô hình của Aaker (1991), g m nhận biết thương hiệu, liên
tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu. Mặc dù mô
hình này thường được vận dụng nhất, trong cả nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng,
nhưng chưa hẳn là mô hình tối ưu, đúng cho tất cả các sản phẩm. Do vậy, việc sử
dụng các thành phần của mô hình này trong nghiên cứu là có tính áp đặt ban đầu dù
mục tiêu nghiên cứu trọng tâm là đánh giá ảnh hưởng của truyền thông tiếp thị đến
các thành phần giá trị thương hiệu. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng chưa làm rõ mức
độ quan trọng của các thành phần này cấu thành khái niệm giá trị thương hiệu.
Thang đo khái niệm quan hệ công chúng và tài trợ được xây dựng đảm bảo
độ tin cậy và giá trị cho phép, nhưng cần được nghiên cứu bổ sung thêm để tăng giá
trị nội dung của hai thang đo này vì nghiên cứu này chỉ tập trung vào khía cạnh
công dụng của các hoạt động liên quan đến các khái niệm này mặc dù đây là một
loại giá trị định tính. Hơn nữa, thang đo hai khái niệm này được xây dựng dựa vào
nhận thức của khách hàng đối với việc chi tiêu cho hai hoạt động này hơn là dựa
vào thái độ của họ đối với chúng. Hướng nghiên cứu tiếp theo nên phát triển bổ
sung thành phần hoặc biến quan sát cho hai thang đo này, tập trung vào các yếu tố
cấu thành của các khái niệm này và thái độ của khách hàng.
Mặc dù sinh viên là nhóm khách hàng chính của các công ty nước giải khát,
thậm chí là lớp người tạo ra xu hướng tiêu dùng trong cộng đ ng trong tương lai
gần, nhưng nhóm đối tượng thuộc giới trẻ không phải là sinh viên cũng có thể là
khách hàng của một số thương hiệu nước giải khát cho dù chiếm thị phần nhỏ chưa
đề cập đến. Do đó, những nghiên cứu tiếp theo cần kiểm định thêm thang đo đã
được xây dựng cũng như các mối quan hệ tác động trong nhóm khách hàng này.
Nghiên cứu này nh m mục đích làm tăng sự hiểu biết và bổ sung thêm một
số phát hiện liên quan đến quan hệ giữa truyền thông tiếp thị và giá trị thương hiệu
trong ngành nước giải khát nói chung, được kiểm định trong 05 ngành hàng chính
160
của nước giải khát là trà đóng chai uống liền, nước ngọt có ga, nước trái cây, nước
tinh khiết đóng chai và nước tăng lực. Tuy nhiên, mỗi ngành hàng này cũng có
những đặc tính riêng, do vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo cần nghiên cứu cho từng
ngành hàng riêng biệt để nâng cao khả năng ứng dụng.
Nhiều hình thức tiếp thị khác được sử dụng như phát quà tặng, chứng minh
công dụng sản phẩm, trưng bày sản phẩm tại điểm bán,... nhưng nghiên cứu này
chưa đề cập đến, do vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo là bổ sung thêm các khái niệm
liên quan đến các hoạt động này; hoặc có thể cân nhắc tách riêng từng hình thức cụ
thể trong quảng cáo, quan hệ công chúng và tài trợ để nghiên cứu, chẳng hạn nghiên
cứu sự khác nhau giữa quảng cáo trên truyền hình và quảng cáo trên báo, quảng cáo
trên mạng xã hội trong việc ảnh hưởng đến các thành phần giá trị thương hiệu.
t luận Ch ng 5
Chương này đã trình bày kết quả nghiên cứu chính và những đóng góp của
nghiên cứu, đó là điều chỉnh, bổ sung và phát triển thang đo khái niệm các thành
phần giá trị thương hiệu, thang đo khái niệm quảng cáo và khuyến mãi cũng như
khám phá xây dựng thang đo khái niệm quan hệ công chúng và tài trợ. Nghiên cứu
này cũng đã kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu để phát triển mô hình lý
thuyết. Phần tiếp theo của Chương này trình bày hàm ý quản trị đối với các công ty
nước giải khát, bao g m định hướng nâng cao giá trị thương hiệu và nâng cao hiệu
quả truyền thông tiếp thị để gia tăng giá trị thương hiệu. Phần cuối của Chương này
trình bày một số hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã giải đáp được các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
Những phát hiện này có ý nghĩa góp phần làm tăng tính đại diện cho một số nghiên
cứu trước do được thực hiện trong một thị trường mới nổi như Việt Nam, đ ng thời
bổ sung thêm sự hiểu biết về truyền thông tiếp thị và giá trị thương hiệu cũng như
góp phần tạo cơ sở để nhà quản trị Marketing trong ngành nước giải khát tham khảo
vận dụng trong quá trình lựa chọn hình thức truyền thông tiếp thị phù hợp để đầu tư
xây dựng hương hiệu mạnh nh m giúp cho công ty có thể t n tại và phát triển trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tinh_hinh_xay_dung_thuong_hieu_tren_the_gioi_va_viet.pdf