Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội. Tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng hơn gấp 2,07 lần.Tích luỹ nội bộ
của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27%GDP. Từ tình trạng
hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân
dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ, kết cấu hạ tầng có b ước chuyển dịch
tích c ực.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế hoạch huy động vốn đầu tư và giải pháp huy động vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kế hoạch huy động vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000.
I.Nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000.
Căn cứ vào chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 1996-2000.
a, Ngành công nghiệp.
Giá trị sản xuất bình quân 12,2%/năm, một số ngành công nghiệp tiếp tục tổ chức
và sắp xếp lại sản xuất, lựa chọn các sản phẩm ưu tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị
trường để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, đạt chất lượng cao.
Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ chốt tăng khá, năm 2000 so với
năm 1995 công suất điện gấp 1,54 lần, xi măng gấp 2,1 lần, phân bón gấp trên 3 lần, mía
đường gấp hơn 5 lần.
Sản lượng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh: Năm 2000 so với năm 1995,
sản lượng dầu thô gấp 2,2 lần, điện gấp 1,8 lần, than sạch vượt 10 triệu tấn, trong đó xuất
khẩu 3,5 triệu tấn...
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp(kể cả tiểu, thủ công nghiệp) tăng nhanh, năm
2000 ước tính đạt 9,6 tỷ USD, gấp hơn 3 lần 1995 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước.
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản
phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công
nghệ cao hiện đại. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị
sản xuất toàn ngành, công nghiệp chế tái chiếm khoảng79%, công nghiệp điện, gas,
nước, chiếm khoảng 6%.
b, Ngành nông nghiệp .
Gía trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 5% so với mục tiêu đề ra 4,5- 5%.
Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa hè thu có
năng suất cao, ổn định. Các loại giống lúa mới đã được sử dụng trên 87% diện tích gieo
trồng. Sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm trên 1,3 triệu tấn, lương thực bình
quân đầu người đã tăng từ 370 kg năm 1995 lên 435 kg năm 2000. Nhiều vùng sản xuất
nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu đước hình thành,
sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm 1995, diện tích một số cây công nghiệp
tăng khá: cà phê gấp hơn 2 lần, cao su tăng 43%, mía tăng 33%, bông tăng 30%. .. Gía trị
sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng/ha
năm1995 lên 17,5 triệu đồng/ha năm 2000.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, sản lượng thịt hơi các loại năm 2000 ước tính lên 1,7 triệu
tấn, bằng 1,3 lần so với năm1995.
Nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản phát triển khá. Sản lượng thuỷ sản năm 2000
đạt 1,9 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1,6-1,7 triệu tấn.Công tác trồng rừng, chăm sóc
và bảo vệ rừng có tiến bộ, trong 5 năm đã trồng 1,12 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ 9,3
triệu ha rừng hiện có, khoanh tái sinh 700 nghìn ha, độ che phủ tăng từ 28,2%
năm 1995 lên 33% năm 2000.
Điểm nổi bật trong nông nghiệp là tạo được 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo
(đứng thứ 2 thế giơí), cà phê( đứng thứ 3 thế giới) và hàng thuỷ sản chiếm 25% giá trị
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2000 đạt 4 tỷ USD gấp 1, 6 lần
năm 1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
C, Ngành dịch vụ.
Gía trị các ngành dịch vụ tăng 6,4%/ năm.
Thương mại phát triển khá,bảo đảm lưu chuyển, cung ứng vật tư hàng hoá trong
cả nước và trên từng vùng. Thương mại quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng bán
buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu, mạng lưới trao đổi
hàng hoá với nông thôn, miền núi bước đầu được cải tổ trở lại. Tổng mức hàng hoá bán
lẻ tăng bình quân 6,2% năm.
Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được nâng lên. Tổng
doanh thu du lịch tăng trên 4,5%.
Dịch vụ vận tải cơ bản đáp ứngđược nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân
dân. Tốc độ tăng lưu chuyển hàng hoá khoảng 17%/ năm, và lưu chuyển hành khách
5,7%/năm. Dịch vụ bưu chính viễn thông có bứoc phát triển và hiện đại hoá nhanh. Gía
trị dịch vụ vận tải , bưu chính viễn thông tăng bình quân hàng năm 9,8%.
Các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm được mở rộng. Thị trường dịch vụ
bảo hiểm đã được hình thành với sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước, dịch vụ tài chính ngân hàng đã có nhiều đổi mới quan trọng, tăng bình quân hàng
năm 7,8%.
Các loại dịch vụ khác như tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ... bắt đầu phát
triển
2. Nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 1996-2000.
a. Tổng nhu cầu: 41-42 tỷ
1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số vốn 79.367 96.870 97.336 103.900 124.000
Vốn Nhà nước 35.894 46.570 52.536 64.000 74.200
Vốn ngoại quốc doanh 20.773 20.000 20.500 21.000 29.000
Vốn đầu tư trực tiếp 22.700 30.300 24.300 18.900 20.800
Như vậy, tổng số vốn đầu tư đã tăng qua các năm, từ năm 1998 đã chậm lại, năm
2000 bắt đầu tăng khá. Điều đó chứng tỏ ngoài yếu tố chính sách quản lý thì sự tăng lên
của vốn đầu tư là yếu tố quyêts định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến lượt nó lại có ý
nghĩa gia tăng vốn đầu tư xét trên cả 2 mặt : tăng trưởng cao- tiền đề để gia tăng đầu tư
và tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ có sức thu hút vốn đầu tư.
b, Cơ cấu theo nguồn lao động.
1996 1997 1998 1999 2000
Cơ cấu lao động 100 100 100 100 100
Vốn Nhà nước 45,2 48,1 54 61,6 59,8
Vốn ngoài quốc doanh 26,2 20,6 21,5 20,2 23,4
Vốn đầu tư trực tiếp 28,6 31,3 24,9 18,2 16,8
Về vốn đầu tư Nhà nước:
Đóng góp lớn nhất vào tổng đầu tư xã hội cũng như sự tăng lên của tổng vốn là nguồn
vốn Nhà nước. Đây là nguồn vốn đã chiếm trên dưới 60% trong vài năm nay, đã góp
phần quan trọng vào việc hình thành nên các công trình trọng điểm của đất nước, có tác
dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế
khác không muốn làm hoặc không làm được và có tác dụng như một nguồn vốn mới để
thu hút các nguồn vốn khác. Hơn thế nữa, đây cũng là nguồn vốn mà Nhà nước có thể
trực tiếp điều hành theo kế hoạch để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước tăng 14,2% và chiếm 23,8% tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển xã hội cao nhất trong các nguồn vốn. Nguồn vốn tín dụng năm nay có 2 sự
chuyển đổi quan trọng, một mặt về cơ chế đã chuyển đổi từ chỗ chỉ định theo kế hoạch
sang cơ chế tín dụng, mặt khác là triển khai chậm trong những tháng đầu năm nhưng
cuối tháng cũng khá hơn, nên cả năm vẫn tăng trưởng khoảng 11,6% và chiếm 17% tổng
vốn đầu tư phát triển xã hội.
*Về nguồn vốn ở khu vực tư nhân.
Hiện nay Việt nam có khoảng 15 triệu hộ gia đình với thu nhập bình quân 1500-
2000USD/hộ/năm. Nhiều hộ gia đình là những đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh
vực kinh doanh thương mại, dịch vụ.
Chúng ta có trên 3 vạn doanh nghiệp ngoài Nhà nước và khoảng 1,5 triệu hộ kinh doanh
cá thể phi nông nghiệp. Vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường nhỏ, từ
10.000USD đến 100.000USD , số doanh nghiệp có vốn trên 1triệu USD rất ít.Vốn của
hộ kinh doanh cá thể từ vài ngàn USD đến trên dưới 50.000USD.Số doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể có vốn lớn chủ yếu tập trung ở các thành phố. Tuy
nhiên, muốn phát triển mạnh hơn nữa cả về số lượng và nhất là chất lượng thì môi
trường kinh doanh cần được nâng lên một trình độ cao hơn nữam, tạo niềm tin vững chắc
và tinh thần phấn khởi của các nhà doanh nghiệp.
Có gần 3 triệu Việt Kiều tập trung ở Mỹ, Canađa, Pháp, và Đông Âu với mọi lợi thế chủ
yếu là chất xám, song tiềm lực tài chính ở mức trung bình. Gần đây, nhờ nhiều chính
sách mới nên một số Việt Kiều đầu tư về nước đã tăng lên, đóng góp nhiều kinh nghiệm
và tạo lập các mối quan hệ thị trường mới cho sản xuất và kinh doanh trong nước.
Giai đoạn 1996- 2000 , tỷ lệ tiết kiệm của dân cư khoảng 15%GDP, song chỉ có khoảng
ẵ số đó được huy động cho đầu tư.
*Nguồn vốn của DNNN :17,8%,
Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành từ vốn khấu hao cơ
bản và lợi tức sau thuế. Nguồn vốn này trước những năm 1994 đến nay thường thấp, và
giảm. Nhưng từ năm 1997 tăng 47,6%, năm 1995 tăng 6%, năm 1996 tăng 74,2%, năm
1997 tăng 131,7%. Tỷ trọng của vốn đầu tư tự có trong tổng vốn đầu tư, xã hội nhìn
chung là tăng, từ 3,9% năm 1996 lên tới7,7% năm 1997 và còn tăng trong các năm sau.
Song nhìn chung tỷ trọng vẫn còn nhỏ, chứng tỏ việc đánh gí tài sản cố định chưa đúng,
khấu hao chưa hết và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp
*Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Theo số liệu tổng hợp của Bộ kế hoạch đầu tư, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký năm
2000 đạt 2398 triệu USD , tăng hơn 200 triệu USD so với năm 1999. Trong đó, mới cấp
344 dự án với tổng số vốn đăng ký 1973 tỷ USD, tăng 11% về số dự án và 26% về vốn
đầu tư. Đặc biệt, đầu tư Nhà nước vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tăng
mạnh(69%về số dự án và 77% về vốn đăng ký)
Mặt khác, đầu tư nước ngoài trong năm qua đã có sự thay đổi đáng kể về chất, tập trung
chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất vật chất( chiếm gần 95% tổng số vốn đăng ký ). Cụ
thể là:
Lĩnh vực công nghiệp- xây dựng có 269 dự án được cấp giấy phép đầu tư (tăng gần 20%
) với tổng số vốn đăng ký 1795 triệu USD( chiếm 91%).
Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có 36 dự án với vốn đăng ký 122 triệu USD.
Năm 2000 có 2228 triệu USD vốn đầu tư đăng ký được giải ngân, chủ yếu tăng trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp( tăng 13,4%), sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp(tăng
54,1%). Đáng chú ý là hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài có nhiều chuyển biến tích cực, với tổng doanh thu thực hiện 6500 triệu USD (tăng
35%), kim ngạch xuất khẩu 3320 triệu USD(tăng 28%). Tốc độ tăng trưởng của khu vực
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao
18,6%, riêng ở các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp , khu chế xuất chiếm 51%
về doanh thu (3300 triệu USD) và 61,7% về kim ngạch xuất khẩu(2050 triệu USD) của
khu vực này.
Qua số liệu trên ta thấy sự phục hồi của đầu tư Nhà nước là dấu hiệu đáng khích lệ và là
một phần hệ quả từ các tác động tích cực của các giải pháp thu hút đầu tư mà Chính phủ
đã thực thi trong những năm gần đây
II. Thực trạng
1. thực hiện tổng nhu cầu vốn.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư 40 tỷ / 41-42 tỷ đạt 95% kế hoạch khối lượng VĐT.
Tính đến 31-12-2000 đã có 3020 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký
trên 44,3 tỷ USD, có 2620 dự án con hiệu lực với vốn đăng ký trên 36,5 tỷ USD. Vốn
thực hiện 17,6 tỷ USD chiếm gần 45% tổng số vốn đăng ký.
2. Thực trạng huy động vốn đầu tư trong nước.
Đóng góp lớn nhất vào tổng đầu tư toàn xã hội cũng như sự tăng lên của tổng
vốn là nguồn vốn Nhà nước. Đây là nguồn vốn đã chiếm trên 60% trong vài năm nay,
đã đóng góp phần quan trọng vào việc hình thành nên các công trình trọng điểm của đất
nước, có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nguồn vốn NSNN tăng 14,2% và chiếm 23,8% tổng nguồn vốn đẩu tư phát triển
XH cao nhất trong các nguồn vốn. Nguồn vốn tín dụng năm nay có hai sự chuyển đổi
quan trọng, một mặt về cơ chế đã chuyển đổi chỉ định theo kế hoạch sang cơ chế tín
dụng: Mặt khác triển khai chậm trong những tháng đầu năm nhưng cuối năm đã khá
hơn nên cả năm đã tăng khoảng 11,6% và chiếm 17% tổng VĐT phát triển XH. Nằm
trong hai nguồn vốn trên là nguồn vốn ODA được đưa vào nguồn vốn ngân sách và
nguồn vốn tín dụng được cam kết và được giải ngân tăng khá qua các năm. Vậy nguồn
vốn ODA đã giải ngân năm 2000 tăng 25% so với năm 1999.
Nguồn vốn tự có của các DNNN chiếm 17,9% tổng VĐT phát triển
toàn XH và tăng 17,4% so với năm 1999. Đạt được kết quả trên có một phần do khấu
hao được đẩy nhanh hơn và lợi nhuận sau thuế có khá hơn.
Nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn thứ hai, nhưng lại có tốc độ tăng cao nhất
trong các nguồn vốn là nguồn VĐT ngoài quốc doanh nguồn vốn này năm 2000
tăng tới 38% và chiếm 23,4% tổng số VĐt toàn XH. Đạt được tốc độ cao như trên là do
thực hiện luật DN cùng các biện pháp kiên quyết để đưa luật DN vào cuộc sống, một
bước quan trọng trong quá trình tháo gỡ cái rào cản về thủ tục hành chính.
Tỷ lệ VĐT phát triển so với GDP đạt 27,9% tuy chưa bằng tỷ lệ trong
các năm từ 1993-1997 nhưng đã cao hơn tỷ lệ của các năm 1998-1999, tỷ lệ này
là một tiền đề quan trọng để tăng trường GDP cao dần lên trong những năm tới.
Riêng nguồn vốn đẩu tư từ NSNN, ước thực hiện trong 5 năm 1996 - 2000
khoảng 100 nghìn tỷ đồng, đã tập trung hơn cho lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng
KTXH, trong đó đầu tư trong lĩnh vực Nông nghiệp khoảng 22,5% cho Công nghiệp
9,5%, cho giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 29,8%. Khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo, Y tế, văn hoá, thể dục thể thao 18,7%, cho các ngành khác 19,5%.
Nhờ tăng đầu tư, số công trình được đưa vào sử dụng và năng lực của hầu hết các
ngành tăng nhiều, kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước mắt và
tạo được những năng lực gối đầu cho thời kỳ sau năm 2000.
Trong 5 năm đã xây dựng mới 1200 km, nâng cấp 3790 km đường
quốc lộ, sửa chữa phần lớn các cầu yếu trên các tuyến trục giao thông, làm mới 11,5 km
cầu sửa chữa và nâng cấp 200 km đường sắt, khôi phụ 8 cầu với tổng chiều dài là 2,6
km nâng tổng năng lực thông qua hệ thống cảng biển lên 45 triệu tấn/năm, nâng cấp các
sân bay quốc tế... nâng tổng năng lực thông qua hệ thống sân bay lên 6,5 triệu hành
khách/năm. hệ thống bưu chính viễn thông có bước phát triển khá, được hiện đại hoá về
cơ bản. Tất cả các tỉnh và huyện được trang bị tổng đài điện tử, được nối với nhau qua
các tuyến cáp quang và viba số. Mật độ số điện thoại là trên 4 máy/100 dân, các thành
phố như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh đạt khoảng 20 máy/100 dân, trên 85% số xã
trong toàn quốc đã có điện thoại, trên 82% số xã có báo đến trong ngày, 61,5% số xã có
điểm bưu điện, văn hoá xã. Mạng viễn thông quốc tế và CNVT có bước phát triển
nhanh, hiện đại hơn.
Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp và phát triển trên các vùng đặc biệt là
ĐBSH và ĐBSCL. Diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước tăng thêm 82 vạn Ha,
tiêu úng tăng 43,4 vạn ha, góp phần nâng cao năng suất cây trồng tăng diện tích tạo
điều kiện và khả năng hạn chế, phòng tránh thiên tai, ổn đinh sản xuất lâu dài.
Kết cấu hạ tầng ở nhiều thành phố, đô thị nông thôn được đầu tư cải
tạo nâng cấp. Đến năm 2000 đạt mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phường trên
toàn quốc có điện cơ sở vật chất của các ngành GD và ĐT, khoa học và công nghệ, y tế,
văn hoá, du lịch, thể dục thể thao và các nghành khác đều được tăng đáng kể.
3. Thực trạng huy động vốn đầu tư nước ngoài.
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào
phát triển KTXH. Trong 5 năm 1996-2000 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa
vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng VĐT trực
tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD tăng so với thời kỳ trước 34%.
Cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản
xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước liên minh Châu Âu EU, ASEAN có
chiều hướng tăng so với 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của D.A từ EU bình quân
chiếm 23,2% thời kỳ 91-95, tăng lên 25,8% thời kỳ 96-2000; tỷ lệ vốn đăng ký của D.A
từ các nước ASEAN tăng tương ứng từ 17,3% lên 29,8%. Riêng các nước thuộc EU,
Mỹ, Nhật chiếm 44% tổng số vốn đầu tư đăng ký tại Việt nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn
ngành CN, khoảng 23% kim ngạch Xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12%
GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao
động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành XD, TM,
dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
Ngoài ra, các DNVN cũng đã từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đến nay
đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ, chủ yếu trong ngành XD, chế
biến thực phẩm. Tuy quy mô còn nhỏ, nhưng qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt nam có điều kiện nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh được xuất khẩu hàng
hoá dịch vụ và lao động ra nước ngoài.
b. Vấn đề hỗ trợ phát triển chính thức ODA tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát
triển cơ cấu hạ tầng.
Hàng năm nguồn vốn ODA cam kết tăng đáng kể, việc giải ngân ngày càng được
cải thiện. Tính chung cho 5 năm, nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện khoảng 6,1 tỷ
USD, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như điện, giao thông thuỷ lợi, cấp
thoát nước, phát triển y tế giáo dục và đào tạo, tăng cường năng lực và thể chế trong các
lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quản lý kinh tế, hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất
như chế biến thuỷ sản, nông sản... nhiều DA đầu tư bằng vốn ODA đã được đưa vào sử
dụng góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
III. Kết luận.
Hiệu quả đầu tư năm 2000 tăng mạnh. Nguồn vốn huy động tập trung đầu tư cho
các công trình trọng điểm sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Số dự án hoàn
thành nhiều hơn năm trước, chỉ riêng nhóm A và nhóm B đã hoàn thành gần 180 dự án,
trong đó có những dự án quan trọng như một số công trình về điện (2 tổ máy thuỷ điện
sông Hinh, hai tổ máy thuỷ điện Yaly, 3 tổ máy Tourbine khí nhà máy điện Phú Mỹ 1...)
Quốc lộ 1, cầu Mỹ Thuận, các sân bay Cần Thơ, Đà nẵng, các cảng ở Quảng Ninh, Hải
Phòng...
Trung tâm tập huấn thể dục thể thao quốc gia 1, kiên cố hoá kênh mương, bê tông hoá
mặt đường nông thôn một số cơ sở hạ tầng các vụng nghèo, xã nghèo đã được triển
khai tốt.
Các công trình đầu tư đã góp phần tiêu thụ sản phẩm, kích cầu, tiêu dùng, góp
phần giảm bớt sự ứ đọng vốn, ứ đọng sản phẩm hàng hoá từ năm trước, thời kỳ kinh
doanh trước chuyển sang hoặc do sản xuất năm nay tạo thành
Tuy đạt được sự chuyển biến tích cực, nhưng tỷ lệ huy động vốn cho phát triển
còn đang rất thấp so với nhu cầu đầu tư phát triển. Tiềm năng về vốn chỉ tính riêng khu
vực ngoài quốc doanh theo tính toán thì phần tích luỹ từ các hộ khoảng gần 500 nghìn
tỷ, nhưng đến năm 2000 mới huy động được khoảng 29 nghìn tỷ đồng( đó là chưa kể
các khoản tích luỹ từ năm trước hiện đang nằm dưới dạng vàng, đôla); nguồn vốn ODA
được giải ngân cuãng mới đạt trên49,3% số cam kết và trên 60% số vốn đã ký kết, tổng
số vốn FDI thực hiện so với số còn hiệu lực cũng đạt gần 48%, hơn nữa mấy năm nay
tăng thấp (năm 1997 đạt 3032 triệu USD, năm 1998 đạt 2198 triệu USD, năm 2000 đạt
2000 triệu USD). Tình trạng đầu tư phân tán, dàn đều vẫn chưa khắc phục được nhiều.
Việc triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư ở cả bộ, ngành, và địa phương chậm, chất
lượng công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng dự án thấp; việc phê duyệt dự án, đấu thầu,
xét thầu chậm; việc đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc, kéo dài; tín
dụng đầu tư hiệu quả không cao.
Đó cũng là những vấn đề cần được khắc phục trong việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm
2001.
Để đạt được mục tiêu GDP tăng trưởng g=7,5%, một mặt phải tăng lượng vốn
đầu tư phát triển xã hội, một mặt phải nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Lượng vốn đầu tư phải đạt 30%, tức là tăng 20,4% so với năm 2000, vốn tín
dụng tăng 17,9%, vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước tăng 23,3% vốn ngoài
quốc doanh tăng 25,7% và thực hiện vốn FDI tăng 25,9%
Phần III
kế hoạch huy động vốn thời kỳ 2001-2005 và giải pháp
I.Tổng huy động vốn đầu tư.
1.Tổng nhu cầu vốn.
a.Căn cứ.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược từ năm 2001-2010 là đẩy mạnh CNH-HĐH
tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công
nghệ cao, cần thiết để trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiến hoá cho các ngành công
nghiệp nông nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng đưa đất nước ra khỏi tình
trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống văn hoá, vật chất của nhân dân được nâng
cao lên một cách đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được định
hình về cơ bản. Nguồn lực con người. Năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc
tế được nâng cao.
a.1. Đưa GDP năm 2010 ít nhất lên gấp đôi năm 2000. Phát triển được một bước
quan trọng tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức
cạnh tranh sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. ặn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh
toán quốc tế lành mạnh và trong dự trữ ngoại tệ, kiểm soát nội chi ngân sách, lạm phát,
nợ nược ngoài, tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt 30%GDP. Xuất khẩu tăng gấp 2 lần nhịp
độ tăng GDP. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp 40-41%,
dịch vụ 42-43%. Tỷ lệ lao động của nông nghiệp khoảng 50%, tỷ lệ dân cư đô thị hoá
khoảng 32-33%.
a.2. Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển của con người(HĐI) của nước ta trong so
sánh quốc tế. Xoá đói về cơ bản không có hộ nghèo. Giải quyết cơ bản vấn đề việc làm
ở cả đô thị và nông thôn. Nâng tỷ lệ người lao động đào tạo nghề nên khoảng 40%. Trẻ
em đến tuổi đi học đều được đến trường, hoàn thành phổ cập trung học trong nước .
Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 15-20%, chất lượng đời sống văn hoá, tinh
thần được nâng lên rõ rệt trong một xã hội an toàn lành mạnh.
a.3. Năng lực nội sinh về khoa học công nghệ đủ sức ủng hộ các công nghệ hiện
đại, tiếp cận được trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công
nghệ thông tin công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Phát triển mạnh công nghệ
phần mền phục vụ tốt yêu cầu trong nước và trở thành lĩnh vực xuất khẩu quan trọng.
a.4. Kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninhvà có một
bước đi trươc. Hệ thống đường bộ đảm bảo lưu thông an toàn, thông xsuốt quanh năm.
Mạng lưới giao thồn nông thôn được mở rộng và năng cấp. Hệ thống đê xung yếu được
củng cố vững chắc, phần lớn là hệ thống thuỷ lợi nội đồng được kiên cố hoá. Hỗu hết
các xã có điện sử dụng, có điện thoại và các dịch vụ bưu chính viễn thông cơ bản. Bảo
đảm về cơ bản cho trường lớp học phổ thông cho học sinh học cả ngày ở trường. Có đủ
giường bệnh cho bệnh nhân.
a.5. Vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước được tăng cường, doanh nghiệp
Nhà nước được đổi mới, phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chi phối lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế Nhà nước đều
phát triển mạnh. Thể chể kinh tế thị trường định hướng XHCH định hình về cơ bản
thông suốt, có hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển
và cạnh tranh theo luật.
b. Nhu cầu.
Dựa vào căn cứ trên ta thấy tổng vốn đấu tư cho thời kỳ kế hoạch 2001-2001
khoảng 59-61 tỷ USD chiếm 31-32% nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
g= 7,2%
k= 4,5
Nhu cầu vốn đầu tư theo nguồn vốn
Vốn từ ngân sách Nhà nước : 20-21%
Vốn tín dụng :17-18%
Doanh nghiệp Nhà nước :19-20%
Tư nhân 24-25%
FDI 16-17%
Nhu cầu theo ngành
Nhà nước :13%
Công nghiệp :44%
Khoa học công nghệ :8%
Giao thông vận tải 15%
Công cộng 20%
2.Kế hoạch huy động vốn.
2.1 Huy động vốn trung hạn và dài hạn trong điều kiện hiện nay kế hoạch 5 năm
2001-2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 2001-2010.
Mục tiêu là: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Khi đề cặp đến khả năng
tăng trưởng của nền kinh tế, cần phải cân nhắc đến nhu cầu sử dụng các nguồn lực đối
với quá trình tăng trưởng của từng ngành. Đối với các quốc gia đang phát triển mà thiếu
vốn, thiếu công nghệ thì vai trò của vốn càng trở nên quan trọng, các quốc gia ngày
càng phải thu hút nhiều vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả. Nhu cầu về vốn đầu tư và
tăng trưởng phát triển kinh tế quốc gia phụ thuộc rất lớn vào năng suất nguồn vốn, năng
suất của vốn trong các ngành khác nhau, vì vậy nhu cầu của vốn gắn liền với sự thay
đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế
từ 6,7-7,2%, lạm phát di trì ở mức 4-5%, Bộ tài chính ước tính nhu cầu đầu tư cho toàn
xã hội giai đoạn này vào khoảng 55-57tỷ USD.
Trong đó nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng 64-70% tổnh số vốn đầu tư
trong xã hội. Vì vậy cần phải có một kế hoạch huy động vốn nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Huy động vốn từ ngân sách Nhà nước từ các quỹ đầu tư phát triển,từ các doanh nghiệp,
từ nhân dân.
2.2. Huy động và sử dụng vốn qua hệ thống ngân hàng.
Tạo dựng và phát triển thị trường vốn nước ta là quá trình có tính quy luật của
nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, vừa
nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho CNH-HĐH. Văn kiện đại hội biểu toàn
quốc lần thứ VIII cửa Đảng chỉ rõ: “ Phát triển thị trường vốn thu hút tiền gửi trung hạn
và dài hạn của Ngân hàng và công ty tài chính để cho vay và đầu tư phát triển. Mở rộng
việc phát hành trái phiếu.
Vốn Vốn
Hệ thống ngân hàng
(Tài chính gián tiếp)
Nhà nước người vay
(người chi tiêu)
1. Các doanh nghiệp
2. Chính phủ
3. HGĐ
4. Người nước ngoài
Nhà nước người cho vay
(gửi tiết kiệm)
1. Các HGĐ
2. Các doanh nghiệp
3. Chính phủ
4. Người nước ngoài
thị trường vốn
Sau 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Một số nhân tố cơ bản của thị trường vốn đã xuất hiện nhưng
còn ở trình độ sơ khai và thiếu đồng bộ, các quan hệ thị trường chưa phát triển nên hạn
chế rất lớn đối với mức độ huy động vốn.
- Một là: Vừa phát triển tài chính trực tiếp vừa phát triển tài chính gián tiếp.
ở nước ta, hiện nay vốn giao lưu chủ yếu qua hệ thống ngân hàng, vì chưa có thị
trường chứng khoán nên rất hạn chế năng lực huy động vốn và tốc độ chu chuyển vốn.
- Hai là: Vừa phát triển các hình thức tín dụng chính thức vừa phát triển các hình
thức tín dụng phi chính thức. Trên thị trường vốn ngoài sự có mặt của các định chế tài
chính chính thức như: Ngân hàng, công ty tài chính, thị trường chứng khoán, quỹ tín
dụng nhân dân với các hình thức huy động vốn chính thức còn tồn tại các hình thức phi
chính thức như là một vấn đề tất yếu kinh tế. Ngay cả ở nước phát triển khi mà hệ thống
tài chính chính thức rất mạnh mẽ nhưng một số hình thức tín dụng phi chính thức
nhưng một số hình thức tín dụng phi chính thức không những không mất đi mà còn xu
hướng ngày càng phát triển. Nước ta hiện nay đang tồn tại các hình thức tín dụng phi
chính thức phổ biến như chơi hụi, cho vay nặng lãi.
Ba là: Vừa phát triển thị trường trái phiếu, vừa phát triển thị trường cổ phiếu.
ở nước ta hiện nay đã xuất hiên một số trái phiếu đó là: Trái phiếu kho bạc Nhà
nước, trái phiếu ngân hàng thương mại, trái phiếu công ty,Tổng công ty khối lượng vốn
huy động thông qua hình thức phát hành trái phiếu mới đạt khoảng 4%GDP.
Bốn là: Kết hợp sự phát triển hài hoà giữa thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2
của thị trường chứng khoán.
Thị trường cấp 1 là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu để huy động vốn
vì vậy nó là nền tảng của thị trường chứng khoá, tuy không làm tăng vốn nhưng nó tạo
ra sự giao lưu vốn mang lại tính khả dụng cho thị trường, tạo khả năng tích tụ vốn để
thực hiện nhiều dự án lớn. Nếu không chú trọng thị trường phát triển cấp 2 thì sẽ ảnh
hưởng đến phát hành chứng khoán mới.
Năm là: Gắn thị trường vốn trong nước và thị trượng vốn quốc tế.
Trong vài thập niên gần đây xuất hiện hai xu hướng chuyển giao điển hình là
chuyển giao vốn và chuyển giao công nghệ với sự cạnh tranh quyết liệt tạo nên sự sôi
động trên thị trường đầu tư Việt nam bước vào thị trường quốc tế
Hiện nay, thị trường vốn đã từng bước hoà nhập quốc tế với sự tham gia của 19
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài, một công ly
liên doanh cho thuê tài chính cùng với nguồn viện trợ phát triển tài chính thức ODA và
đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) đã mở rộng kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.3. Huy động vốn trong nước để phát triển cùng khả năng hợp tác vốn đầu tư
nước ngoài góp phần thiết lập quỹ đầu tư.
Do nhu cầu đầu tư trong nước rất lớn, vốn nội địa chưa đáp ứng đủ. Vì vậy, cần
khai thác mọi nguồn vốn từ bên ngoài nhưng phải quán triệt quan điểm của Đảng: Vốn
trong nước quyết định vốn nước ngoài quan trọng. Mặc khác, cần thấy tiến trình hoà
nhập với thị trường vốn quốc tế phải thận trọng từng bước, không đồng nhất ”mở” nền
kinh tế với “mở” thị trường vốn. Trên thực tế các nước đều thực hiện chủ trương phát
triển nền kinh tế hướng ra bên ngoài nhưng không phải là tất cả các nước đều mở thị
trường vốn cho các công ty nước ngoài thâm nhập tự do. Một số nước đóng kín hoàn
toàn hoặc đặt các điều kiện giới hạn hết sức khắt khe như Hàn Quốc, Inđô, Đài loan.
* Vốn trong nước gồm có vốn đầu tư từ ngân sách, từ các doanh nghiệp Nhà
nước và vốn đầu tư nhân dân.
- Đầu tư ngân sách Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối
lượng vốn đầu tư. Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận
lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư cho mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế
hoạch, chính sách và pháp luật, bảo đảm theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch
phát triển KT-XH
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì được chủ động huy động vốn và được sử
dụng vốn. Trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa cùng loại hình hoạt
động, nếu không có những quy định đặc biệt thì đều có cùng cơ chế về thuế, tín dụng.
* Vốn đầu tư nước ngoài.
Trong giai đoạn khởi động nền kinh tế hiện nay, vốn trong nước không đảm bảo
đủ nhu cầu do trình độ tích tụ và tập trung tư bản chưa cao. Vì vậy vốn nước ngoài là
nguồn bổ sung quan trọng, muốn phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm 10% là chỉ tiêu ICOR ngày càng tăng khoảng 3,3-3,5% thì mức đầu tư gộp
phải lên tới 33-35% GDP.
Như vậy, gần 50% tổng số vốn còn thiếu, nếu như chỉ dùng nguồn vốn trong
nước. Khi đó chúng ta có thể bổ sung bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ODA( đến nay đã đạt được cần kể tên 6 tỷ USD, phần lớn là cho các công trình thuộc
lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và hỗ trợ kỹ thuật)
Qua 8 năm thi hành luật đầu tư nước ngoài, chính phủ ta đã câp giấy phép hơn
1400 dự án, với tổng vốn đầu tư lên tới gần 20tỷ USD. Trong đó vốn thực hiện đế nay
đã đạt được 5,5 tỷ USD, đó là nguồn bổ sung quan trọng.
- Sớm xây dựng, thông qua và điều phối chặt chẽ theo quy hoạch huy động và sử
dụng vốn ODA, bao gồm cả vốn cho các dự án đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật. Quy hoạch
đầu tư ODA này cần gắn chặt với quy hoạch đầu tư nói chung và phải thích ứng với
chức năng của vốn ODA là chủ yếu hướng vào đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
- Do vấn đề hạn chế trong việc thu hút vốn FDI trong thời gian ngắn vừa qua,
cần gấp rút điều chỉnh đảm bảo đầu tư có trọng điểm không dàn trải, song vẫn đảm bảo
cơ cấu chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH .
2.4 Huy động vốn đầu tư cho phát triển.
Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư cho
phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước. Số công trình được đưa vào sử dụng nhiều
hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây, năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ và
kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội được nâng lên rõ rệt.
Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 400 tỷ đồng, khoảng
36 tỷ USD, gấp 1,7 lần so với năm trước. Trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà
nước bình quân 5 năm chiếm 21,5%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 17,5% vốn đầu tư của
doanh nghiệp Nhà nước chiếm 16%, vốn đầu tư của tư nhân chiếm 22%, vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài chiếm 23%.
Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 60% tổng vốn đầu
tư, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp,
nông thôn xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa
học và công nghệ, đặc biệt là phát triển kết cấu hạ tầng.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội được tập trung cho nông nghiệp và nông thôn
khoảng 43,7%, tăng 14,5%/năm, trong đó đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến và
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chiếm khoảng 30% vốn đầu tư cho ngành công
nghiệp, cho hạ tầng giao thông và thông tin liên lạc khoảng 15,7% tăng 14,2%/năm.
Cho lĩnh vực khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá khoảng 6,2% tăng
12%/năm.
Nhờ tăng đầu tư, số công trình được đưa vào sử dụng và năng lực của hầu hết
các ngành tăng nhiều. Giá trị tài sản cố định đến cuối năm 2000 tăng khoảng 30%.
Cùng với việc đáp ứng yêu cầu trước mắt còn tạo được những năng lực gối đầu cho thời
kỳ sau.
2.5 Huy động vốn cho tăng trưởng.
Mục tiêu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 là đảm bảo tăng trưởng kinh tế từ
6,7-7,2% lạm phát duy trì ở mức 4-5%, Bộ tài chính ước tính đên nhu cầu đầu tư của
toàn xã hội trong giai đoạn 2001-2005 là 55-57 tỷ USD. Ước tính tỷ lệ đầu tư trong
GDP của nền kinh tế trong giai đoạn này sẽ đạt mức trung bình khoảng 28-29% so với
GDP. Theo bộ tài chính, trong thời gian tới Việt Nam có thể định hướng cơ cấu đầu tư
như sau: Phân bố khoảng 15% tổng số vốn cho nông nghiệp, 44-45% tổng vốn đầu tư
cho các ngành công nghiệp có lợi thế, có khả năng cạnh tranh. Để đạt được yêu cầu này
cần phải có định hướng của Nhà nước thông qua vốn ngân sách, thông qua chính sách
ưu đãi, các đầu tư có hiệu quả trong hiện tại cũng như lâu dài đối với nền kinh tế. Việc
thu hút vốn đầu tư xã hội cũng được quan tâm, trong đó khả năng của khu vực tư nhân
sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng 28%. Vì vậy, triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong thời gian tới sẽ trở nên sáng sủa nếu chúng ta duy trì được hệ thống ICOR
và cơ cấu hợp lý, tỷ lệ đầu tư nước ngoài và gia tăng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng , các
ngành có hàn lượng vốn cao, hệ số ICOR có thể ảnh hưởng tới khả năng tăng trưởng
nhanh của nền kinh tế . Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, thực hiện CNH-
HĐH, việc tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, đầu tư cho các ngành
công nghiệp non trẻ các ngành có tính chất sống còn đối với nền kinh tế là tất yếu.
Việt Nam cần phải nâng cao sử dụng vốn hiệu quả thông qua việc hạn chế sự
lãng phí vốn, chi phí vốn cao trong quá trình đầu tư.
II.Giải pháp huy động vốn.
1.Giải pháp huy động vốn từ nguồn vốn trong nước.
a.Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách.
Nguồn ngân sách bao gồm nguồn thu trong nước và nguồn bổ sung từ bên ngoài,
chủ yếu thông qua vốn ODA. Để năng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn Ngân sách, trong
thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư bằng các biện pháp các khâu như.
- Xây dựng và quy hoạch về huy động và sử dụng ODA, làm rõ những ưu tiên
vận động vốn, theo các đối tác các loại hình phát triển. Đồng thời tăng cường “năng lực
hấp thu vốn” để giải ngân theo đúng tiến độ công trình, tăng hiệu quả đầu tư.
- Hạn chế đi tới chấm dứt vay thương mại, nhất là thương mại ngắn hạn để bù
đắp thiếu hụt ngân sách,làm cho việc vay nợ thêm phức tạp.
- Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo vấn đề nợ và tính toán kỹ các điều kiện vay trả
trước khi ký hiệp định khung vay vốn và hiệp định cho vay từng công trình, chương
trình, dự án đầu tư. Chủ yếu nên vay nợ dài hạn( trên 12 năm và lãi suất thích hợp). Các
nước Hàn Quốc, Xingapo có số vay nợ dài hạn chiếm tới 80-90% tổng số nợ. Việc kết
hợp giữa vay ODA và huy động vốn FDI cũng là cách quản lý gánh nặng nợ nần trong
giai đoạn khởi động nền kinh tế.
- Cần tăng quy mô đầu tư từ ngân sách và sử dụng đúng hướng nguồn vốn này,
muốn vậy cần chống thất thu và tiết kiệm chi thường xuyên để tăng quy mô của nguồn
đầu tư từ Ngân sách. Hiện nay, khoảng 30% Ngân sách được dùng cho đầu tư từ Ngân
sách chiếm dưới 10% GDP. Trong tương lai các nguồn ODA được giải ngân nhanh hơn
thì có khả năng nâng cao quy mô và tỷ trọng đầu tư trong Ngân sách.
- Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn Ngân sách:
+ Nâng cao và cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống giao thông, bến
cảng, sân bay.
+ Nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội nhất là trong các lĩnh vực
phát triển và nguồn nhân lực và bảo đản xã hội.
+ Đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp then chốt vùng kinh tế còn khó
khăn, chưa hấp dẫn về kinh tế nhưng lại rất quan trọng về an ninh quốc phòng về giải
quyết các vấn đề xã hội.
-Quản lý chặt chẽ các quá trình đầu tư cho mọi dự án, chú trọng ngay từ giai
đoạn xây dựng quy hoạch, báo cáo khả thi, tổ chức đấu thầu
- Xây dựng và áp dụng rộng rãi quy chế đấu thầu quốc gia đối với lĩnh vực lựa
chọn tư vấn mua sắm thiết bị và xây dựng công trình. Từng bước xoá bỏ cơ chế bao cấp
trong lĩnh vực cấp phát và quản lý đầu tư xây dựng bằng vốn Nhà nước.
- Tăng cường công tác quản lý dự án. Những dự án dùng vốn Nhà nước thường
có quy mô rất lớn. Hiện nay việc thẩm định các dự án là tương đối chặt chẽ, thì trái lại
việc quản lý sau dự án lại buông lỏng dẫn tới tình trạng chỉ tiết kiệm trên danh nghĩa,
nhưng lại lãng phí trên thực tế. Vì vậyviệc quản lý lỏng lẻo trong quản lý sau dự án có
thể gây lãng phí lớn. Điều cần thiết là không chỉ tiến hành tổ chức đấu thầu mà phải
quản lý cả quá trình đưa công trình vào hoạt động và phát triển hiệu quả.
- Sử dụng nhiều cơ chế khác nhau để quản lý nguồn vốn, với một số vốn Nhà
nước có được thông qua vay vốn nước ngoài với điều kiện ưu đãi thì cho vay lại để tạo
điều kiện bình đẳng trong sản xuất và kinh doanh và tái tạo nguồn vốn xoá bỏ tình trạng
cho vay gần như cho không hiện nay.
b. Vốn đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong lĩnh vực đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước cần tiến hành gấp
một số giải pháp.
- Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp thật
cần thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức chủ sở hữu đan xen cổ phần hoá. Đồng
thời trong các cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đảng tối đa, cùng loại hình hoạt
động.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế , cần xây dựng cơ chế chính
sách đồng bộ để tránh hình thành thêm tâng lớp trung gian, gây khó khăn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của cơ sở. Với một số khoản đầu tư nào đó, doanh nghiệp được chủ
động huy động vốn và sử dụng vốn. Việc tổ chức đấu thầu và xét thầu do cơ sở chịu
trách nhiêm không phẳi toàn bộ chủ quản hoặc cấp trên phê duyệt. Các bộ chỉ làm chức
năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực mình phụ trách như về tài chính, quy hoạch,
công nghệ, môi trường mà không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh.
c. Vốn đầu tư cho nhân dân.
Để tăng cường đầu tư bằng nguồn vốn của nhân dân hay đúng hơn là vốn ngoài
vốn Ngân sách, cần có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Việc quốc hội ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước một số khoản ưu
đãi đã có tác dụng nhất định.
- Vấn đề sử dụng đất đai, cần bảo đảm vừa sử dụng hợp lý và tiết kiệm đất, vừa
tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng trong việc giao đất cho các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và nhân dân.
- Vấn đề thuế, phải đảm bảo công bằng, khuyến khích đầu tư theo đúng quy
hoạch, kế hoạch, pháp luật của Nhà nước.
- Đẩy mạnh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp , trong đó ưu tiên cho các cán bộ
công nhân trong xí nghiệp được mua cổ phần, bảo đảm ích lợi đúng đắn và trách nhiệm
xây dựng chung.
- Trong tương lai cần tiến hành các biên pháp để thông thoáng thị trường vốn,
tích cức chuẩn bị để hình thành thị trường chứng khoán. Để tăng sường đầu tư trong
khu vực ngoài Ngân sách cần tổ chức tốt hơn hoạt động tín dụng, ngân hàng đầu tư phát
triển, ngân hàng nông nghiệp và mới đây là ngân hàng dành cho người nghèo đang có
ngữơng lỗ lực rất lớn để huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
- Phát triển hệ thống tín dụng và ngân hàng trong nước, hình thành thị trường
chứng khoán để tái đầu tư các khoản tích luỹ được, phục vụ phát triển sản xuất. Điều đó
cho phép quá trình tích tụ vốn đi cùng với tập trung quá nhiều vốn để phát triển sản
xuất . Nếu chỉ các doanh nghiệp và nhân dân tự tiết kiệm, tự đầu tư thì vốn bị phân tán
không hiệ quả.
Đồng thời Chính phủ cũng đã cho phép thành lập các quỹ tín dụng nhân dân
cũng như ngân hàng dành cho người nghèo để hỗ trợ các khu vực còn đang khó khăn.
2, Biện pháp huy động vốn đầu tư nước ngoài.
a. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Sớm xây dựng, thông qua và điều phối chặt chẽ theo quy hoạch huy động và sử
dụng vốn ODA gắn với quy hoạch đầu tư nói chung và quy hoạch đầu tư công cộng.
- Xây dựng được doanh mục các dự án ưu tiên gọi vốn trong đó có vốn ODA,
bao gồm cả vốn cho các dự án đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật.
- Nhiên cứu chính sách vay vốn với quy mô hợp lý, cân đối khả năng vay trả để
đảm bảo nguồn vốn đầu tư pháp triển và phù hợp với khả năng trả nợ cả gốc lẫn lãi.
- Nghiên cứu hệ thống chính sách đối sách hợp lý với các đối tác khác nhau, bảo
đảm lợi ích của đất nước, khai thác hết các lợi thế của từng loại ODA(xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật như đường xá, cầu cống, cấp thoát nước) bảo đảm sự phát triển bền
vững.
- Tổ chức huấn luyện đào tạo cán bộ trong hệ thống điều phối ODA ở các ngành
các địa phương. Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi và quản lý chặt chẽ việc huy
động và sử dụng sau khi cấp tiền và huy động vào sử dụng.
- Xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan tham gia vào
quá trình quản lý, điều phối và sử dụng ODA.
- Cùng với chức năng nhiệm vụ cụ thể cũng như đối nộ cũng như đối ngoại cần
phải quy định trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp, từng cơ quan trong quản lý và
điều phối ODA nhưng không được để xẩy ra tình trạng cửa quyền, quan liêu gây ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện thông qua sự phân cấp và ra quyết định liên quan tới
quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA.
- Phải duy trì nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý ODA. Song nguyên tắc
này được thực hiện thông qua sự phân cấp và quyết định liên quan tới quản lý điều phối
sử dụng ODA.
- Bộ tài chính cần công bố quy trình rút vốn các loại dự án ODA để các chủ dự
án và các nhà tài trợ nước ngoài nắm vững trong quá trình thực hiện các chương trình,
dự án ODA theo ý kiến chỉ đạo tại công văn của thủ tướng Chính phủ.
- Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ tài chính, ngân hàng Nhà nước,
soạn thảo và trình Thủ Tướng Chính Phủ để phê duyệt khung lãi suất thời gian cho vay
lãi cũng như cơ chế tài chính trong nước nói chung đối với các loại chương trình, dự án.
- Tăng cường công tác kế hoạch hoá các chương trình, dự án ODA để cân đối
nguồn vốn trong nước từ khâu chuẩn bị đầu tư cho tới thực hiện chương trình dự án.
- Tổ chức hệ thống cơ quan quản lý, điều phối và sử dụng ODA từ trung ương
tới cơ sở theo chế độ một cửa.
- Thiết lập hệ thống thông tin hữu về ODA, bao gồm các nội dung sau:
+ Quy trình và thủ tục của từng nhà tài trợ.
+ Bộ kế hoạch và đầu tư cấp cho các cơ quan hữu quan, trước hết là tổng cục
thuế và tổng cục hải quan các điều ước quốc tế về hợp tác phát triển cũng như quy chế
của các tổ chức quốc tế cũng như tổ chức phi chính phủ mà Chính phủ ta đã ký kết với
các nhà tài trợ để đảm bảo thi hành nhất quán và nghiêm túc.
- Bộ khoa học và Đầu tư tiến tới thiết lập một quỹ thông tin ODA về các văn
bản pháp quy, các văn kiện dự án, các quy trình ODA của các nhà tài trợ cũng như văn
bản hướng dẫn và thủ tục ODA của Việt Nam.
- Tăng cường năng lực cho đơn vị đầu mối ODA của bộ khoa hoạc và Đầu tư có
trách nhiệm tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị đầu tư và các đơn vị đầu mối
ODA ở các cấp.
b. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
-Tiếp tục hoàn thiện thu hút vốn đầu tư.
Mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp là nhằm tranh thủ nguồn vốn công nghệ và
kinh nghiệm quản lý phát triển kinh tế.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy sau một thời gian thu hút đầu tư nước
ngoài, cơ cấu kinh tế đã trở thành vấn đề cần giải quyết nền kinh tế vốn đã phát triển
thiếu cân đối lại càng mất cân đối thêm.
Đây là vấn đề tất yếu xảy ra nếu Nhà nước không có điều chỉnh vì mỗi nhà đầu
tư đều có mục tiêu riêng cũng như thế mạnh riêng của mình nên đương nhiên họ phát
huy tiềm năng vốn có của họ để khai thác tiềm năng vốn có của nước chủ nhà. Do vậy
cần phải có chỉnh của Nhà nước.
- Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư.
Việc lựac chọn đối tác đầu tư là vấn đề hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt.
Do vậy lựa chọn đối tác phải quán triệt hai vấn đề quan trọng.
+ Một là; Lựa chọ đối tác đầu tư nước ngoài cần phải hướng lâu dài vào các
công ty xuyên quốc gia thực thụ, bởi vì nơi có vốn, nguồn kỹ thuật, kinh nghiệm quản
lý, đồng thời ở mức độ đúng đắn, mức độ tin cậy trong quan hệ cũng cao hơn. Đồng
thời làm tốt công tác xúc tiến đầu tư thông qua việc tổ chức Forum, qua cái hỗ trợ triển
lãm và các công ty tư vấn cũng như quốc tế.
+ Hai là; Lựa chọn đối tác cho từng lĩnh vực.
Phương án tốt nhất là kêu gọi được những nhà đầu tư đầu đàn trong mỗi lĩnh
vực, song trước mắt nếu không đạt được yêu cầu đó, vẫn cần tranh thủ những công ty
nhỏ môi giới, rồi từng bước hướng tới mục tiêu trên.
Thông qua thông tin nhiều chiều, cần nắm chắc các đối tác và kịp thời sàng lọc
cũng như biện pháp đối phó với những nhà đầu tư có ý đồ xấu muốn phá hoại ngầm,
hoặc không có khả năng thự thi dự án. Một trong những yếu tố có tầm quan trọng trong
lĩnh vực lựa chọn đối tác là sự lựa chọn ngay cả đối tác phía Việt Nam. Có nhiều lý do
khách quan cũng như chủ quan làm cho đối tác trong nước hiện đang ở tình trạng yếu
kém về nhiều mặt. Do vậy cần có kết hoạch đào tạo bồi dưỡng cần phải có sự hỗ trợ của
Nhà nước dưới nhiều hình thức.
- Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư nướ ngoài.
Thủ tục đầu tư cũng như một vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng
bước. Kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm túc những trường hợp gây phiền hà, nhận ăn
hối lộ.
- Tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích. Kết cấu
hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút vốn FDI.
Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng, hạn chế nhiều việc thu hút đầu tư vào Việt Nam. Vì
vậy, trong thời gian tới cần phải tập trung thích đáng cho công việc này, nhất là hệ
thống giao thông cấp thoát nước khu đô thị, hệ thống công nghệ phụ trợ và các khu
trung tâm công nghệ phụ trợ. Cần điều chỉnh chính sách để đạt độ khuyến khích cao
nhất đối với các nhà đầu tư thực hiện vào kết cấu hạ tầng nông lâm nghiệp.
Chính sách giá: Cần điều chỉnh giá cho thuê đất thích hợp, nhất là có thể miễn
giảm cho thuê đất ở miền núi trong thời gian là 5 năm để các nhà đầu tư có điều kiện
đầu tư.
Về giá dịch vụ: Cần nghiên cứu chỉ đạo khung giá dịch vụ đối với các nhà đầu
tư. Không nên để các cơ sở tuỳ tiện nâng giá.
Về chính sách thuế: Cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế, nên tăng
thời gian miễm giảm thuế đối với các dự án đầu tư vào ngành, vùng trọng điểm.
Cần nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài theo phương hướng
tinh giảm, gọn nhẹ, có hiệu lực. Cần phải có chiến lược đào tạo cán bộ. Đội ngũ cán bộ
chuyên môn nghiệp vụ phải là những chuyên gia trong từng lĩnh vực, có phong cách
giao tiếp về lâu dài cần có khoa học đào tạo chuyên ngành đầu tư nước ngoài trong
trường Đại học. Cần hoàn thiện hệ thống ngân hàng và sự hoạt động của nó phải phù
hợp hoà nhập với ngân hàng các nước trong khu vực và các nước phát triển.
III. Kết luận
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với chính
sách sử dụng vốn hợp lý của Đảng và Nhà nước ta đã giúp cho quá trình thực hiện
chiến lược 1991-2000 đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng.
Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội. Tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng hơn gấp 2,07 lần.Tích luỹ nội bộ
của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27%GDP. Từ tình trạng
hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân
dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ, kết cấu hạ tầng có bước chuyển dịch
tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp
và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%.
Mỗi năm tạo hơn 1,2 triệu việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống
10%. Người có công với nước được quan tâm chăm sóc. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi tăng lên 68,3 tuổi.
Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, phòng, chống dịch bệnh
có nhiều tiến bộ. Phong trào thể dục rèn luyện sức khoẻ phát triển
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của
các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa
học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình
sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người
lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất.
Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội VIII
2. Văn kiện Đại hội IX.
3. Hội thaỏ khoa học: Chiến lược và quy hoạch phát triển đất nước bước vào thế kỷ 21
Bộ kế hoạch đầu tư.
4.Kinh tế Việt nam- Thế giới 2000-2001.
5.Giáo trình kinh tế phát triển.
Nhà xuất bản Thống kê năm 1999.
6. Những yếu tố ảnh hưởng đến vốn đầu tư nước ngoài.
Tài chính quốc tế.
7.Chiến lược huy động và sử dụng vốn.
Nguyễn Anh Tuấn.
8. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế xã hội của Việt nam.
Tài chính vĩ mô.
9. Cơ cấu vốn đầu tư.
Trần Trọng Hà.
10. Bàn về mô hình phát triển thị trường vốn ở nước ta.
Trần Hùng Mạnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Kế hoạch huy động vốn đầu tư và giải pháp huy động vốn.pdf