Luận văn Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam

Củng cố hệ thống tài chính ngân hàng từ trung ương đến cơ sở, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu vùng xa, tăng cường thông tin về tài chính -tiền tệ-chứng khoán bảo đảm cung cầu về vốn. Dừng hẳn việc bán lẻ trái phiếu kho bạc của mạng lưới kho bạc nhà nước, vừa tốn kém chi phí, vừa lãi suất cao,. tập trung qua NHNN tổ chức đấu thầu giữa các NHTM, công ty bảo hiểm,.

pdf42 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2804 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy, lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. - Trường hợp tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức: - 11 - ir = in + ii Trong đó: - ir là lãi suất thực - in là lãi suất danh nghĩa - ii là tỷ lệ lạm phát - Trường hợp tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% thì lãi suất thực phải tính theo công thức sau: in - ii ir = ––– ii + 1 Ta thấy tỷ lệ lạm phát càng cao, lãi suất thực càng thấp. 1.3.2. Lãi suất và tỷ suất lợi tức. Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đã đưa vào sử dụng (đầu tư hay cho vay). - Ví dụ về lãi suất và tỷ suất lợi tức: Ông A mua một trái phiếu kho bạc có thời hạn là 1 năm, mệnh giá là 1.000.000 VND với lãi suất cố định là 6% năm. Nếu ông A giữ trái phiếu đó cho đến ngày đáo hạn và nhận khoản thu nhập bằng 6% mệnh giá trái phiếu và đúng bằng lãi suất của trái phiếu. Nhưng nếu lãi suất trên thị trường là 5%, ông A đem bán trái phiếu này và thu được 1.200.000 VND, thì lúc này khoản thu nhập của ông A là 200.000 VND và tỷ suất lợi tức là 20%. Như vậy, lãi suất không nhất thiết phải bằng với tỷ suất lợi tức. Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, ngoài một tỷ lệ lãi nhất định các tổ chức này còn đòi hỏi người vay tiền phải trả thêm các khoản phí, và do đó, tổng thu nhập từ những khoản cho vay không chỉ là phần tiền lãi có được do lãi suất cho vay mang lại mà còn cộng - 12 - thêm các khoản chi phí trên. Tỷ lệ % của tổng thu nhập (còn gọi là chi phí tài chính đối với người đi vay) trên số vốn cho vay chính là tỷ suất lợi tức hay lãi suất hiệu quả của tổ chức tín dụng. 1.3.3. Các lãi suất cơ bản của ngân hàng. Ba loại lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng. - Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại (NHTM) trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền tiết kiệm, lãi suất tiền gửi được xác định thông qua công thức: itg = icb + ii Trong đó: - itg là lãi suất tiền gửi. - icb là tỷ lệ lãi cơ bản của ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau. - Lãi suất cho vay là lãi suất mà ngân hàng cho các cá nhân, tổ chức vay vốn trong thời hạn nhất định, tuỳ theo tính chất của món vay và thời gian vay vốn mà lãi suất cho vay được xác định khác nhau, tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên cơ sở của lãi suất tiền gửi: icv = itg + X Trong đó: - icv là lãi suất cho vay. - X là chi phí nghiệp vụ của ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền tệ như lãi suất LIBOR hay PIBOR... tương ứng với lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng London hay Paris... - 13 - 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. 2.1. Cung cầu của quỹ cho vay. Lãi suất là giá cả của cho vay chính vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường Từ đó cho thấy ta có thể điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường bằng cách tác động vào cung cầu vốn trên thị trường mặt khác muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 2.2. Lạm phát dự tính. Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên (hiệu ứng Fisher). Nguyên nhân: - Xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy để duy trì lãi suất thưc không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. - Công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh… chính điều này sẽ làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các ngân hàng cũng như trên thị trường. 2.3. Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất tăng. Để bù - 14 - đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất. Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên. 2.4. Thay đổi của thuế. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty khi tăng lên có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm tới lợi nhuận sau thuế hay thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa do đó để đảm bảo mức lợi nhuận thực tế họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Vấn đề xác lập và điều chỉnh thuế cho phù hợp nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn. 2.5. Tỷ giá. Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát… trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước, tỷ giá (tỷ giá được niêm yết theo phương pháp biểu hiện trực tiếp) của một - 15 - nước tăng, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên. Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ giá giảm, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và ngược lại. 2.6. Những thay đổi trong đời sống xã hội. Ngoài những yếu tố ở trên, lãi suất còn rất nhạy cảm với những biến đổi của tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới... Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tỡnh trạng suy thoỏi. Cỏc nền kinh tế lớn khỏc trờn thế giới : Tõy Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tỡnh trạng trỡ trệ. Để cứu vón xu thế đó, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED (Ngân hàng trung ương của nước này) đó 11 lần hạ lói suất chủ đạo của mỡnh, từ 6,5%/năm (trước tháng 1- 2001) lần lượt xuống cũn 1,75%/thỏng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong vũng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lói suất của mỡnh xuống bằng 0. Ngõn hàng trung ương châu Âu (ECB) cũng nhiều lần hạ lói suất của mỡnh... Tỏc động dây chuyền của lói suất trờn cỏc thị trường chủ chốt của thế giới : Thị trường liên ngân hàng Luân Đôn (LIBOR), Thị trường liên ngân hàng Xin-ga-po (SIBOR),... cũng liên tục giảm. Ở Việt Nam, để hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu từ đầu năm 2001 đến nay, ngân hàng nhà nước (NHNN) đó cắt giảm lói suất cơ bản đối với đồng Việt Nam (VND) - 16 - tới 4 lần, từ mức 0,75%/tháng, xuống cũn 0,725%, 0,65% và 0,60%/thỏng (từ 1-11-2001) ; đồng thời, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi cấp vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/thỏng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi chiết khấu từ 0,45%/thỏng xuống 0,40% rồi 0,35%. 3. Ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế. 3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH- HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: + Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. + Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay) Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng - 17 - trưởng kinh tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành “vốn chết” không còn tác dụng gì nữa. 3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư. Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. 3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. - 18 - Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. 3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Như ta đã biết, tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát…Lãi suất luôn là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường mở, nếu lãi suất (lãi suất thực tế) trong nước tăng sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ bên ngoài vào làm cho cầu nội tệ tăng lên dẫn đến giảm tỷ giá, tỷ giá giảm sẽ khiến cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy, bằng việc tác động vào lãi suất có thể bình ổn được tỷ giá và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá đơn giản tuy nhiên lại không dễ thực hiện do khi lãi suất trong nước thay đổi sẽ dễ dẫn đến một cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các nước nhằm đảm bảo lợi ích cho nước mình. Mặt khác lãi suất cũng là một công cụ quá mạnh có thể ảnh hưởng đến hàng loạt biến kinh tế vĩ mô khác do đó việc sử dụng chính sách lãi suất phải hết sức thận trọng. 3.5. Lãi suất với lạm phát. Lạm phát là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, - 19 - lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 4. Các chính sách lãi suất cơ bản. 4.1. Tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung-cầu vốn trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình. Tự do hoá tài chính (đặc biệt là tự do hoá lãi suất) góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức và nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tại sao mức độ thành công tự do hoá lãi suất của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau, thậm chí gây hiệu quả tiêu cực? (Úc, Nhật, New Zealand, Mỹ, Malaysia... có những thành công nhất định, trong khi Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Chi Lê, Achentina, Uruguay....lại thất bại). Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Vấn đề ở đây chính là tiến hành những bước đi, cách thức trong quá trình tự do hoá lãi suất ở các quốc gia, nếu quốc gia nào trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất mà có những chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mình thì chúng ta thấy được rằng họ đã thành công, ngược lại những quốc gia tiến hành một cách máy móc không - 20 - chú ý đến những điều kiện khách quan của đất nước mình thì cầm chắc thất bại. Như trường hợp Malaysia, từ năm 1981, đã cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, ngân hàng trung ương nhận thấy rằng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên và nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985-1986), vào năm 1987, Malaysia chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo có sự phối hợp chỉ đạo của ngân hàng trung ương, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Nhờ đó mà lãi suất đã được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, và dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, họ cũng có áp dụng một số lãi suất có điều tiết mà được xây dựng dựa trên cơ sở lãi suất chiết khấu, thông thường theo cách này họ xác định được lãi suất cơ bản chính là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Ngoài ra, lãi suất trên thị trường như lãi suất trên các thị trường liên ngân hàng, lãi suất trên thị trường mở (CD markets và Gensaki markets) là lãi suất tự do, có nghĩa là được tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn. Đối với những nước điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá hoàn toàn như của Anh và Mỹ, lãi suất được công bố dựa hoàn toàn trên cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng - 21 - lãi suất chào hàng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng (như lãi suất LIBOR, SIBOR... ) và lấy đó làm mặt bằng cơ sở chung để điều hành chính sách lãi suất; tuy nhiên, để thực hiện điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế này đòi hỏi các nước áp dụng phải có nền kinh tế thực sự phát triển và ổn định, đồng thời có đầy đủ các công cụ và các chế tài cần thiết để can thiệp khi diễn ra những biến động về tài chính, tiền tệ và ngay cả trong trường hợp lãi suất đang ổn định và do thị trường quyết định thì các nhà quản lý và điều hành chính sách tiền tệ vẫn có thể can thiệp theo cách này hoặc cách khác nhằm đạt được các mục đích kinh tế, chính trị và xã hội đặt ra. 4.2. Kiềm chế lãi suất. Đối với những nước theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế và đặc biệt là các nước có nền kinh tế được tổ chức theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của lãi suất không được nhìn nhận một cách đúng đắn: lãi suất mang nặng tính chất bao cấp về tài chính trong toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh và đảm bảo cho yêu cầu về “giới hạn ngân sách mềm” trong các hoạt động chi tiêu của chính phủ. Thực tế cho thấy hậu quả đối với các nước này là những mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu trong vốn đầu tư; không thể kiểm soát được lạm phát và sự biến động của tỷ giá hối đoái; tình trạng thiếu vốn trầm trọng do không có khả năng huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả; hệ thống thị trường tài chính bị chia cắt manh mún không thể kiểm soát nổi và đầy rãy rủi ro cho nên không thể góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các nước này. Việt Nam trước cải cách là một ví dụ minh hoạ sinh động cho trường hợp này mà ta sẽ nghiên cứu ở chương tiếp theo. - 22 - Chương II. NHỮNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Chính sách lãi suất âm. Trước những năm 1988-1989, vào thời kỳ quan liêu bao cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước trực tiếp quản lý lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất, có thể nói đây là chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu hành chính: Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và 2 pháp lệnh về NH (1/10/1990) NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay. Tuy theo thời gian lãi suất có được điều chỉnh, nhưng do lạm phát phi mã lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là: + Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát + Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < tỷ lệ lạm phát Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực: - Chính sách lãi suất cứng nhắc khiến cho các NHTM không linh hoạt trong hoạt động tín dụng trước mọi biến động của nền kinh tế. - Lãi suất tín dụng luôn ở mức quy định bắt buộc nên không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM. - Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát nên không khuyến khích người dân và các tổ chức gửi tiền vào ngân hàng. Do đó chỉ huy động được vốn ngắn hạn mà lại cho vay trung và dài hạn, kết quả là lỗ. Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. - 23 - - Lãi suất cho vay < lãi suất huy động vốn và tỷ lệ lạm phát nên ngân hàng trong tình trạng bao cấp đối với doanh nghiệp vay vốn và thông qua hệ thống tín dụng lãi suất thấp luôn trong tình trạng lỗ hoạt động Ngân hàng không ổn định. - Vì lãi suất cho vay < lãi suất huy động nên các doanh nghiệp thị nhau vay vốn, tìm mọi cách, mọi cơ hội vay vốn để được hưởng bao cấp. - Doanh nghiệp vay nhiều nhưng lợi nhuận thu được không phải do sản xuất kinh doanh mà do hưởng bao cấp của NHTM tạo mức lợi nhuận giả cho các doanh nghiệp, gây trì trệ quá trình đầu tư phát triển sản xuất. 2. Chính sách lãi suất dương. Sau năm 1988 hệ thống ngân hàng hai cấp hình thành. Chính phủ giao cho NHNN điều hành lãi suất, điều chỉnh lãi suất theo yếu tố biến động của thị trường mà quan trọng nhất là lạm phát. Thực hiện cuộc cải cách, để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất,với quyết định 29/NH ngày 16/3/1989 lãi suất huy động được nâng lên một mức cao theo tỉ lệ lạm phát (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/tháng-tức là 109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng-144 %/năm). Những thành công của việc thực thi chính sách lãi suất dương: - Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. - Xoá bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. - Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn tỉ lệ lạm phát, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, xử lí - 24 - hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. - Lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp buộc phải cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp được tổ chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. - Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng. - Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất. Tuy có nhiều tác động tích cực nhưng nếu kéo dài tình trạng chênh lệch lớn lãi suất tiền gửi và lạm phát sẽ dẫn đến tác động xấu. - Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền. Bên cạnh đó, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư mà rủi ro lại thâp nên cũng khuyến khích cac doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trong bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có. Như vậy cho dù lãi suất thực dương thì chưa chắc chắn NHTM đã hoạt động kinh doanh có lãi, nếu kéo dài tình trạng như vậy sẽ bị lỗ. - Lãi suất vay vốn không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mà các doanh nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng giảm quy mô đầu tư dẫn đến một lực lượng lớn thất nghiệp không có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế. - Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh - 25 - doanh lớn do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên thị trường. Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng: - Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn lãi suất tiền gửi. - Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối thiểu cụ thể với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng. - Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định và kích thích tăng trưởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ 67,6% (1991) xuống 14,5% , tăng trưởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt mức thấp 5,2% và tăng trưởng kinh tế 8,1%. Mức lãi suất mới đã khắc phục được tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng để khách hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn và tăng nhanh quay vòng vốn. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất và tạo đòn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. 3. Trần lãi suất. Từ ngày 1/ 10/1993: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. - 26 - Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể: a)Trần lãi suất: Đối với doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng. b)Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,2 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khoảng từ 0,7% - 1%/tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn. Tác động tích cực - Nhờ những định mức trần lãi suất mà hạn chế được phần nào tình trạng lãi suất thực dương quá cao trong thời kỳ trước và do đó trong các NHTM cũng dần cân bằng giữa tài sản nợ và tài sản có, đảm bảo được lợi nhuận. Các doanh nghiệp cũng cần có thêm cơ hội vay vốn kinh doanh và mở rộng quy mô vốn đầu tư. - Nhờ có lãi suất thoả thuận mà hoạt động tín dụng giữa NHTM và doanh nghiệp linh hoạt hơn phù hợp với các đặc điểm hoạt động và tình hình cung cầu vốn, chính sách khách hàng va cạnh tranh của từng - 27 - tổ chức tín dụng và chủ động điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất. Những hạn chế - Việc quy định lãi suất trần vẫn mang dáng dấp quản lý hành chính đối với một công cụ vô cùng nhạy bén và mang đậm tính thị trường và do đó vẫn hạn chế tính linh hoạt của NHTM trong hoạt động tín dụng, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. - Sự chệnh lệch cao giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã đem lại cho các NHTM một số lợi nhuận đã khiến cho các ngân hàng không chú trọng việc tiết kiệm chi phí hoạt động. - Cơ chế lãi suất hiện hành thực sự gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn sản xuất nhất là đầu tư sản xuất trong trung và dài hạn do chính các ngân hàng cũng khó huy động và có thể cho vay ở mức lãi suất cao. - Lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất có lợi nhuận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: dịch vụ, thương mại, sản xuất nhỏ mất cân đối trong nền kinh tế Từ thực tế này, quốc hội khoá IX trong kì họp thứ 8 tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng nhân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/ tháng. Đây là lý do để ra đời chế độ lãi suất trần hoàn toàn và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Từ ngày 1/1/1996: Thực hiện chính sách trần lãi suất và khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng - 28 - Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số 381/QĐ- NH1 ngày 28/12/1995 quy định chính sách trần lãi suất có phân biệt theo từng khu vực như sau: - Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị. - Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro. - Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động và địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. - Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Cụ thể : từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2%/tháng dành cho khu vực nông thôn, lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực là 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với vay trung và dài hạn. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện “giá cả” của nó - đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho vay, còn đường biên còn lại thì không cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/tháng. Tác động tích cực. Thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, qua đó các tổ chức tín dụng được tự chủ trong việc ấn định mức lãi suất huy động cụ thể. Chính sách lãi suất này đã kích thích - 29 - hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm; góp phần thực hiện công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước. Những hạn chế Các ý kiến phản đối cho rằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân cuả TCTD được quy định với mức 0,35%/tháng là không có cơ sở, quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu của hạch toán kinh doanh của TCTD. Từ ngày 21/1/1998: Xoá bỏ mức khống chế chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng. Ngày 17/1/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 39/1998/QĐ-NH1, “quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam của các tổ chức kinh tế, dân cư và mức lãi suất tiền gửi bằng đồng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/1/1998. Nội dung chủ yếu của quy định lãi suất lúc này là: - Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các TCTD bằng VND: + Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng + Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25 % tháng. Mức lãi suất trần cho vay nói trên được áp dụng chung đối với cho vay trên địa bàn thành thị và cả trên địa bàn nông thôn. - Quy định trần lãi suất cho vay USD, quy định các mức lãi suất tiền gửi bằng USD của các tổ chức kinh tế. - Quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD. - Ngoài ra trong quyết định 39 còn đưa ra một số mức lãi suất cho vay cụ thể đối với một số đối tượng đặc biệt như: + Cho vay sinh viên, học sinh. + Hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên. Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng. - 30 - + Cho vay các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc khu vực núi cao, hải đảo, vùng đồng bào Khơ me tập trung. Việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau: - Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất. - Để nâng cao lợi nhuận NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động góp vốn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tuỳ theo hình thức cụ thể mà các NHTM đã đưa ra các mức lãi suất phù hợp. Nâng cao khả năng huy động vốn. - Doanh nghiệp được nhà nước bảo vệ, không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các doanh nghiệp không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền. Khi chính phủ quyết định giảm lãi suất cho vay, đồng thời đưa ra các biện pháp ưu tiên trong việc cho vay vốn sẽ khuyến khích doanh nghiệp vay vốn để đầu tư phát triển. Lãi suất là yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, bù đắp chi phí và lợi nhuận cho ngân hàng. - Khi lãi suất giảm làm giá thành sản phẩm rẻ tương đối, kết quả là tiêu dùng tăng và sản xuất tăng. - Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức kinh tế, góp phần hạn chế tình trạng giam giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi tại các TCTD. Trên cơ sở đó, các TCTD có thể sử dụng ngoại tệ một cách triệt để hơn, hữu ích hơn góp phần trong điều tiết tỷ giá, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hạn chế - Về thực chất đó là biện pháp điều hành mang nặng tính can thiệp hành chính của Nhà nước. Chính vỡ vậy, cơ chế này thiếu tính linh - 31 - hoạt, không phản ánh đúng và kịp thời quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân làm hạn chế khả năng cho vay và huy động vốn của các TCTD. Bởi trên thực tế, việc đưa ra một trần lói suất "cứng nhắc" và "chật hẹp" vụ hỡnh chung cũng đồng nghĩa với việc chỉ cho phép các TCTD tiếp cận v ới những dự án có độ rủi ro thấp và thời hạn vay vốn tương đối ngắn. - Trong cơ chế lói suất trần, việc ấn định trần lói suất của NHNN thường mang nặng tính chủ quan và luôn chịu sức ép từ nhiều phía. Vỡ vậy, trần lói suất thường được điều chỉnh theo xu hướng giảm thấp để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất, nhưng lại làm cho chênh lệch giữa lói suất cho vay và huy động của các TCTD ngày càng bị thu hẹp khiến nhiều TCTD gặp khó khăn trong kinh doanh. Cơ chế điều hành lói suất thụng qua ấn định trần lói suất về thực chất quan tõm đến việc bảo vệ quyền lợi của người đi vay hơn là bảo vệ quyền lợi của người cho vay (ngân hàng). Trên thực tế, cơ chế này tỏ ra thiếu linh hoạt trong việc xử lý hài hũa mối quan hệ về lợi ớch giữa người gửi tiền - TCTD - người cho vay, làm hạn chế ngân hàng phát huy hết vai trũ là một trung gian tài chớnh. - Là cơ chế điều hành lói suất thụng qua trần lói suất đó tỏ ra kộm hiệu quả trong việc xử lý những mõu thuẫn giữa lói suất nội tệ và ngoại tệ, giữa lói suất trong nước và ngoài nước. 4. Lãi suất cơ bản. Theo quyết định 241/QĐ ngày 2/8/2000, NHNN đó thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lói suất đó là ban hành chính sách lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Theo đó, bắt đầu từ ngày 5/8/2000, NHNN thay đổi cơ chế điều hành lói suất từ cơ chế trần lói suất sang cơ chế điều hành lói suất cơ bản đối với cho vay - 32 - bằng đồng Việt Nam và cơ chế lói suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Tổ chức tín dụng ấn định lói suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lói suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lói suất cho vay khụng vượt quá mức lói suất cơ bản và biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ. Việc bỏ trần lói suất và ỏp dụng lói suất cơ bản theo một biên độ dao động cho phép, trên cơ sở có sự liên hệ giữa lói suất đồng USD trong nước với lói suất của USD trờn thị trường quốc tế (thông qua lói suất đồng USD trên thị trường tiền tệ Singapore) là một bước đệm quan trọng trong việc tiến gần thêm đến tự do hoá lói suất. Lãi suất cơ bản xác định trên các cơ sở: - Chỉ tiêu tăng trưởng dự kiến hàng năm - Chỉ số lạm phát dự kiến hàng năm - Tỷ suất lợi nhuận bình quân hàng năm - Lãi suất thực của người gửi tiền thoả mãn điều kiện: tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi tiết kiệm < tỷ suất lợi nhuận bình quân. - Tình hình cung cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ. - Lãi suất bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hàng. - Lãi suất đấu thầu, tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước. - Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. Nội dung cơ chế điều hành lãi suất. Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam lãi suất cho vay cao nhất của TCTD = lãi suất cơ bản + %tỷ lệ. Lói suất cơ bản được NHNN đưa ra trên nguyên tắc tham khảo mức lói suất cho vay ngắn hạn thương mại (nay là 9 tháng), khi đó là 0,75%/tháng, biên độ trên đối với lói suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/thỏng, biờn độ trên đối với lói suất cho vay trung - dài hạn là 0,5%/thỏng. - 33 - Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. Cho vay bằng USD bỏ qua quy định trần lãi suất cho vay, lãi suất cho vay ngắn hạn không vượt qua mức SIBOR kỳ hạn 3 tháng + 1%/năm, lãi suất trung và dài hạn không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng + 2,5%tháng. Tác động tích cực - Tạo điều kiện thực sự cho các TCTD quyền chủ động trong việc ấn định lói suất cho vay một cỏch linh hoạt. Khả năng mở rộng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn của các TCTD được giải phóng, cho phép tổ chức tín dụng có thể tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển nền kinh tế theo xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế đồng thời nâng cao năng lực tài chính và năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lói suất VND trong mối quan hệ với lói suất ngoại tệ và chớnh sỏch tỷ giỏ, quản lý ngoại hối.. - Tăng cường hoạt động chủ động của các TCTD góp phần giải quyết vấn đề vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, phát triển sản xuất phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Hạn chế : chính sách còn mang nhiều tính chủ quan của nhà nước trong việc ban hành lãi suất cơ bản, chưa phản ánh đúng thực tế, chưa phát huy đúng tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong quản lý kinh tế. 5. Lãi suất thoả thuận. 5.1. Nội dung của chính sách lãi suất thoả thuận. Quyết định 546/2002/QD-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN VN viết: "TCTD xác định lói suất cho vay bằng VND trờn cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân VN; pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt - 34 - động tại VN". Như vậy, từ ngày 1/6/2002, lói suất cho vay bằng VND của cỏc TCTD chỉ dựa vào hai yếu tố: một là cung cầu vốn tớn dụng ngõn hàng và sự tớn nhiệm của bờn vay đối với TCTD. 5.2. Thực trạng thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận. Từ khi thực hiện lói suất thỏa thuận cho vay bằng VND, cỏc TCTD cạnh tranh với nhau bằng lói suất huy động vốn rất quyết liệt. Huy động vốn bằng VND, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên của các Ngân hàng ngoại thương VN (VCB) 8,4%/năm; ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) 8,64%/năm. Với lói suất huy động vốn bằng VND quá cao của NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần đành chịu thua mà phải đi sâu vào tiền gửi dưới 6 tháng: từ 1 tuần lễ đến 5 tháng với lói suất tăng vài phần mười nghỡn trong một thỏng so với lói suất huy động vốn bằng VND của NHTM quốc doanh. Hiệu ứng của việc cạnh tranh huy động vốn bằng VND với lói suất cao đó phỏt sinh việc di chuyển tiền tệ từ NHTM này sang NHTM khỏc, thậm chớ từ vựng này đến vùng khác. Giá cả của nguồn vốn huy động bằng VND của các TCTD tăng lên, khiến lói suất cho vay bằng VND của cỏc TCTD cũng tăng lên. Hiện nay, không có một TCTD nào cho vay VND với lói suất bằng lói suất cơ bản do NHNN VN công bố là 0,62%/tháng. Lói suất cơ bản cho vay của các TCTD bằng VND do NHNN VN đưa ra, dựa vào lói suất cho vay bằng VND của 5 NHTM đối với khách hàng có tín nhiệm nhất. Hiện nay, lói suất cho vay của cỏc TCTD bằng VND ở đô thị phổ biến là 0,75%/tháng. Quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn cho vay với lói suất cao nhất là 1,2%/thỏng; cỏc chi nhỏnh NHNo&PTNT cho hộ nụng dõn vay ngắn hạn bằng VND với lói suất 0,95%/thỏng. Cỏc chi nhỏnh NHTM cạnh tranh với nhau về lói suất cho vay, khiến độ sinh lời của các NHTM - 35 - giảm thấp. Chênh lệch giữa lói suất huy động bằng VND của một số TCTD thấp hơn 0,1%/tháng! Khụng những thế, một số NHTM quốc doanh cũn đầu tư vào tín phiếu kho bạc (TPKB), với lói suất cao nhất 5,95%/năm, thấp hơn lói suất cao nhất huy động vốn bằng VND của VCB là 2,45%/năm (8,4%-5,95% = 2,45%). Biết lỗ nhưng các NHTM quốc doanh vẫn phải đầu tư vào TPKB, vỡ nú là tài sản động của NHTM quốc doanh. Khi NHTM quốc doanh thiếu vốn khả dụng, bán TPKB cho NHNN ở "thị trường mở" với lói suất 5,8%/năm. Như vậy, các NHTM quốc doanh lại bị lỗ lần thứ hai là 0,15%/năm (5,95% - 5,8% = 0,15%). 5.3. Những ưu điểm và hạn chế. Những ưu điểm: - Tạo cơ hội cho các TCTD chủ động trong việc đề ra các mức lãi suất trong quá trình hoạt động phù hợp với từng trường hợp, từng đối tượng nâng cao khả năng huy động vốn. - Tạo sự linh hoạt cho lãi suất, phát huy đúng tầm quan trọng của công cụ lãi suất trong quản lý kinh tế: thúc đẩy khả năng huy động và sử dụng vốn; gia tăng đầu tư phát triển sản xuất; phù hợp với tỷ lệ lạm phát, tỷ giá thực tế... Những hạn chế: - Cỏc chi nhỏnh NHTM cạnh tranh với nhau về lói suất cho vay, khiến độ sinh lời của các NHTM giảm thấp. - Lói suất cho vay của cỏc TCTD cao, làm nản lũng bờn vay để phát triển kinh doanh, trong lúc nước ta đang cần tăng trưởng GDP với tốc độ cao. - Thụng qua lói suất tớn dụng ngõn hàng (huy động vốn và cho vay), các TCTD tạo ra luồng tiền tệ từ nông thôn chạy ra thành thị; từ miền Nam chạy ra miền Bắc (các TCTD ở đô thị - 36 - và miền Bắc luôn luôn thừa nguồn vốn huy động) và từ người nghèo chạy sang người giàu. Chương III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM-TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 1. Tại sao phải tiến hành tự do hoá lãi suất 1.1. Hạn chế của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp Trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng phải tuyệt đối tuân theo. Cơ chế này tuy có những mặt thuận lợi như: dễ thực hiện, phù hợp với các nước đang phát triển, mức độ cạnh tranh kém, ...bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế. -Việc kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ, phân bổ nguồn tín dụng, khả năng cạnh tranh thấp làm giảm chức năng trung gian tài chính của ngân hàng do sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt. -Nguồn tiết kiệm có thể bị chảy ra thị trường tài chính phi chính thức và không bị quản lý biểu hiện: các loại hình ngân hàng kiểu chính sách tăng lên, cho vay qua thị trường không chính thức, các doanh nghiệp và công chúng tăng nắm giữ bằng ngoại tệ hoặc tích luỹ dạng kim loại quý và hàng hoá lâu bền. -Kiểm soát lãi suất sẽ kích thích kiểm soát chi tiết các điều kiện tiền tệ bằng cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp gây ra hậu quả làm - 37 - kém hiệu quả và biến dạng hơn. Việc kiểm soát lãi suất sẽ làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ vì sự gia tăng và mở rộng các thị trường không được kiểm soát. -Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh, các tổ chức tín dụng hoạt động kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh tranh làm cho quá trình giải quyết khó khăn của họ kéo dài. Những khó khăn lớn gắn với việc kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng tăng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. 1.2. Nguyên nhân thực hiện tự do hoá lãi suất Như trên đã nêu, chính sách kiểm soát lãi suất có những hạn chế lớn, tác động không tích cực với sự phát triển của nền kinh tế. Muốn khắc phục, thay thế vào đó là một cơ chế mới: cơ chế tự do hoá lãi suất. -Lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu về vốn có thể phân bổ nguồn tín dụng cho người vay hiệu quả nhất, thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý. -Lãi suất tự do hoá sẽ linh hoạt hơn lãi suất bị kiểm soát, dễ điều tiết thích nghi với sự thay đổi tự động tạo ra sự kích thích tăng trưởng tài chính. -Không một chính phủ, một NHTM nào có được khả năng phân bổ và kiểm soát nguồn vốn có hiệu quả cho hàng ngàn các nhu cầu sử dụng vốn khác nhau. Tự do hoá lãi suất sẽ làm tốt nhiệm vụ này. -Tự do hoá lãi suất sẽ giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong vấn đề tối đa hoá lợi nhuận, người cho vay và giảm thiểu chi phí của người đi vay. - 38 - -Đưa lại quyền tự do trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, cơ chế lãi suất tự do sẽ làm cho lãi suất tiền gửi và vay cao hơn nên đã kích thích tăng trưởng kinh tế phục vụ quá trình toàn cầu hoá. Như vậy, việc tiến hành tự do hoá lãi suất là cần thiết với bất cứ một quốc gia nào để phát triển nền kinh tế lành mạnh, nhưng trong quá trình thực hiện tự do hoá lãi suất cần phải thận trọng, hợp lý, tránh nóng vội để loại bỏ những mặt tiêu cực của nó có thể gây ra cho nền kinh tế xã hội. 2. Điều kiện để tiến hành tự do hoá lãi suất Tự do hoá lãi suất chỉ thành công khi nền kinh tế có đủ các điều kiện sau: -Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và khá chắc chắn đủ để chịu đựng các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra. -Hành lang pháp lý tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ có tính chất quốc tế. -Thị trường tài chính hình thành và vận hành có hiệu quả. -Hệ thống các cơ quan phát triển lành mạnh, có uy tín, không những có công nghệ hiện đại mà còn phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lý trên nhiều khía cạnh. -Hệ thống ngân hàng ổn định và hoạt động hữu hiệu. -Các tổ chức kinh tế đều bảo đảm khả năng sử dụng vốn triệt để có hiệu quả. -Chọn thời điểm bắt đầu tốc độ và lộ trình tự do hoá lãi suất phù hợp với điều kiện của nền kinh tế, nếu không sẽ làm tăng tính bất định của nền kinh tế do lạm phát, nợ nước ngoài, giảm sức sản xuất trong nước. -Tự do hoá lãi suất gắn liền với tự do hóa tỷ giá. - 39 - Nhìn chung, có thể thấy những yếu tố cần và đủ để thực hiện tự do hóa lói suất VND đó chớn muồi, nhất là qua thực tiễn chứng minh tỏc động của việc thay đổi lói suất cơ bản trong năm qua. Chúng ta cũng không nên lo sợ việc thả nổi lói suất sẽ khụng kiểm soỏt được. Thực tế ở nước ta, trước đây đó thả nổi giỏ lương thực nhưng thị trường lương thực vẫn ổn định và phát triển. Điều cần lưu ý là chỳng ta cú 6 ngõn hàng quốc doanh giữ vai trũ chi phối thị trường. Hơn nữa, nguồn vốn dự trữ của NHNN luôn dồi dào, sẵn sàng can thiệp vào thị trường vốn khi cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần linh hoạt sử dụng có hiệu quả các công cụ khác của chính sách tiền tệ, như dự trữ bắt buộc, lói suất tỏi cấp vốn, lói suất tỏi chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,... theo hướng chuyển dần sang sử dụng các công cụ gián tiếp. 3. Những giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất 3.1. Thực tế tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam Vào năm 1992 NHNN đó thực hiện đổi mới về điều hành chính sách lói suất bằng việc chuyền từ cơ chế lói suất õm (Ngõn hàng kinh doanh thua lỗ và Nhà nước bù) sang cơ chế lói suất dương. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lói suất và tạo đũn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang cú lói. Bước cải cách đáng kể tiếp theo vào năm 1996 là việc tự do hoá lói suất tiền gửi và chỉ qui định trần lói suất cho vay. Với cơ chế này các NHTM được phép tự do qui định mức lói suất huy động (trong mức trần theo qui định của NHNN). Tháng 8/2000, NHNN đó thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lói suất. Việc bỏ trần lói suất và ỏp dụng lói suất cơ bản theo một biên độ dao động cho phép, trên cơ sở có sự liên hệ giữa lói suất đồng - 40 - USD trong nước với lói suất của USD trờn thị trường quốc tế (thụng qua lói suất đồng USD trên thị trường tiền tệ Singapore) là một bước đệm quan trọng trong việc tiến gần thêm đến tự do hoá lói suất. Từ ngày 1/6/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều hành lói suất cho vay bằng VND của cỏc tổ chức tớn dụng (TCTD) từ lói suất cơ bản cộng (+) với biên độ sang lói suất cho vay thỏa thuận như vậy cánh cửa của tự do hoá lãi suất đã mở ra ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta vẫn chưa có tự do hoá lãi suất theo đúng nghĩa, có thể thấy môi trường pháp lý cho tự do hoá lãi suất đã mở ra và chúng ta cần sớm tiến hành tự do hoá lãi suất thực sự. 3.2. Các giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất - Ổn định kinh tế vĩ mô về các mặt: tốc độ tăng GDP, kiểm soát lạm phát, cân đối ngân sách nhà nước. - Xác định và phân chia rõ ràng nhiệm vụ , các mục tiêu chính sách quốc gia về kinh tế xã hội cho hệ thống tín dụng- ngân hàng -ngân sách. - Nâng cao năng lực quản lý kinh tế của các cơ quan vĩ mô đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình kinh tế. - Củng cố hệ thống tài chính ngân hàng từ trung ương đến cơ sở, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu vùng xa, tăng cường thông tin về tài chính - tiền tệ- chứng khoán bảo đảm cung cầu về vốn. Dừng hẳn việc bán lẻ trái phiếu kho bạc của mạng lưới kho bạc nhà nước, vừa tốn kém chi phí, vừa lói suất cao,... tập trung qua NHNN tổ chức đấu thầu giữa các NHTM, công ty bảo hiểm,... - 41 - - Đẩy mạnh phát triển hơn nữa các công cụ tài chính để thực hiện có hiệu quả các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho vai trò của lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. - Ổn định và làm lành mạnh thị trường tài chính các NHTM tăng cường vốn tự có, xử lý các khoản nợ khó thu hồi, nợ quá hạn, đổi mới nghiệp vụ và chất lượng của đội ngũ cán bộ. Tăng cường công tác thanh kiểm tra của NHNN. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN làm ăn có lãi, trả được nợ. Mạnh dạn cổ phần hóa nhanh các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, nhưng Nhà nước không cần phải nắm giữ sản phẩm như : Công ty bia Sài Gũn, Cụng ty bia Hà Nội, Cụng ty sữa Việt Nam, Cụng ty sản xuất thuốc lỏ, một số cụng ty xi măng,... tạo khối lượng hàng hóa đủ lớn cho hoạt động của thị trường chứng khoán. - KẾT LUẬN Lói suất, là một trong những cụng cụ chớnh sỏch kinh tế vĩ mụ hết sức quan trọng để thông qua đó Nhà nước có thể tiến hành việc kiểm soát và điều hành nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đó đề ra. Vấn đề lói suất về mặt lý luận cũng như thực tiễn luôn là vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều người từ nhiều lĩnh vực. Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài, đề án đã làm rõ những lý luận cơ bản về lãi suất, tìm hiểu về các chính sách lãi suất ở Việt Nam từ đó rút ra - 42 - những ưu điểm và những mặt hạn chế. Thông qua đó đề án cũng đã đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả của các chính sách lãi suất bằng việc chỉ rõ tính tất yếu và những lợi ích to lớn của tự do hoá lãi suất đem lại đồng thời đưa ra những giải pháp tiến hành tự do hoá lãi suất một cách phù hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận Văn- Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan