Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, thu nhập người dân được nâng cao, đời sống vật chất
và tinh thần được cải thiện, do đó nhu cầu chi tiêu trong nền kinh tế cũng gia tăng không
ngừng, làm đòn bẩy đối với mở rộng CVTD. Nếu ví hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng là giống như một dây chuyền không ngừng vận động thì TDTD là một mắt xích không
thể thiếu, nó không chỉ mang lại nguồn thu mà còn có tác động tích cực thúc đẩy các bộ phận
khác cùng phát triển. Đẩy mạnh TDTD là xu hướng tất yếu khách quan trong điều kiện kinh
tế thị trường, đồng thời cũng là chiến lược, mục tiêu và thị trường đầy tiềm năng của các ngân
hàng thương mại.
62 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3897 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dư nợ trung hạn. Dư nợ dài hạn chiếm tỷ lệ thấp, chỉ khoảng trên dưới
5%. Sở dĩ như vậy là do chi nhánh tập trng cho vay ngắn trung hạn, thận trọng trong cho vay
dài hạn bởi tính rủi ro của hình thức này là cao nhất.
2.2.4.3. Cơ cấu CVTD theo mục đích tài trợ
Bảng 10: Cơ cấu dư nợ CVTD theo mục đích tài trợ giai đoạn 2004-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2004 2005 2006
Loại hình CV Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng Dư nợ Tỷ trọng
-Sửa chữa, mua nhà, đất 7,7 64,17% 11,6 61,05% 24,1 65,14%
-Mua ôtô và động sản khác 3,7 30,83% 6,2 32,63% 11,6 31,35%
-Du học 0,6 5% 1,2 6,32% 1,3 3,51%
(Nguồn: báo cáo tổng hợp NHCT chi nhánh Ba Đình năm 2004-2005-2006)
Biểu 3: Cơ cấu dư nợ CVTD theo mục đích tài trợ giai đoạn 2004-2006
Dư nợ năm 2004
bất động sản,
64.17%
du học,
5.00%ô tô và động
sản khác,
30.83%
Dư nợ năm 2005
du học, 6.32%
bất động sản,
61.05%
ô tô và động sản
khác, 32.63%
Dư nợ năm 2006
du học ,
3.51%
bất động sản ,
65.14%
ô tô và động
sản khác ,
31.35%
Cơ cấu CVTD theo mục đích tài trợ cũng được duy trì qua các năm. Dư nợ cho vay
phục vụ mục đích mua nhà, đất ở hay xây dựng, sửa chữa nhà ở luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Đặc điểm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết đây là hình thức tín dụng trung, dài
hạn, giá trị món vay lớn nên dư nợ thường khá cao. Hiện nay, Hà Nội đang chịu sức ép về dân
số khi mật độ dân số ngày càng cao, đời sống người dân được cải thiện nên nhu cầu của họ về
bất động sản cũng vì thế mà tăng theo. Quá trình đô thị hóa với rất nhiều khu chung cư mọc
lên càng kích cầu về nhà ở. Hơn nữa, việc mua sắm nhà đất hay sửa chữa nhà luôn đòi hỏi số
vốn lớn mà không phải ai cũng có, do đó số người có mong muốn sử dụng dịch vụ này ngày
càng nhiều. Nhờ vậy, dư nợ của loại hình tín dụng này tăng khá nhanh. Riêng năm 2005, thị
trường bất động sản đóng băng, tỷ trọng dư nợ có giảm đi đôi chút song vẫn ở mức cao (gần
gấp đôi so với dư nợ cho vay mua ô tô và động sản khác).
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân phong phú hơn, không chỉ có chi tiêu về bất
động sản gia tăng mà các chi tiêu cho phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt cũng được nâng
lên. Vì vậy, CVTD tài trợ mua ô tô và các động sản khác cũng luôn tăng trong ba năm, chiếm
tỷ trọng khoảng trên 30% trong tổng dư nợ CVTD. Với việc giảm giá và cho nhập khẩu xe ô
tô cũ, số lượng người vay vốn ngân hàng mua ô tô sẽ còn gia tăng. Ngoài ra, nền kinh tế mở
cửa, hội nhập với thế giới cũng tạo điều kiện cho học sinh Việt Nam đi du học nên hình thức
CVTD phục vụ mục đích du học cũng được mở rộng, tuy nhiên tỷ trọng vẫn còn thấp do chưa
phổ biến trong dân cư.
2.2.4.4.Nợ quá hạn
Hoạt động CVTD chứa đựng rất nhiều rủi ro, vì thế phòng khách hàng cá nhân kết hợp
với các phòng ban khác luôn cố gắng hoàn thành tốt khâu thẩm định, quản lý món vay và thu
hồi nợ khi đến hạn. Hầu hết các món vay tiêu dùng của chi nhánh có chất lượng tốt, một số
trường hợp còn trả nợ trước hạn. Dư nợ quá hạn của từ hoạt động TDTD trong ba năm qua là
rất nhỏ so với tổng dư nợ quá hạn, đặc biệt năm 2005 không có dư nợ quá hạn. Cùng với việc
mở rộng CVTD, việc quản lý kiểm soát các món vay trở nên khó khăn phức tạp hơn, gây trở
ngại cho công tác thu nợ, do đó năm 2006 dư nợ quá hạn lại gia tăng, tuy nhiên con số này là
rất nhỏ (100 triệu đồng, chiếm 2,7% dư nợ)
Bảng 11: Tình hình dư nợ quá hạn từ hoạt động cho vay (CV) và CVTD giai đoạn 2004-
2006
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: báo cáo tổng hợp NHCT chi nhánh Ba Đình năm 2004-2005-2006)
2.2.4.5.Lợi nhuận
Bảng 12: Lợi nhuận từ hoạt động cho vay (CV) và CVTD giai đoạn 2004-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2004 2005 2006
Lợi nhuận từ CV 59,8 69,7 71,2
Lợi nhuận từ CVTD 3,12 4,2 5,57
Tỷ trọng 5,22% 6,03% 7,82%
(Nguồn: báo cáo tổng hợp NHCT chi nhánh Ba Đình năm 2004-2005-2006)
Biểu 4: Lợi nhuận từ hoạt động CVTD giai đoạn 2004 - 2006
Năm 2004 2005 2006
-Dư nợ quá hạn từ CV 5,904 19,6 4,461
-Dư nợ quá hạn từ CVTD 0,237 0 0,1
Tỷ trọng 4,01% 0% 2,24%
3.12
4.2
5.57
0
1
2
3
4
5
6
2004 2005 2006
tỷ đồng
Lợi nhuận
Biến động đi lên của cột biểu đồ lợi nhuận từ CVTD là kết quả tất yếu của hoạt động
mở rộng CVTD trên tất cả các hình thức. Năm 2006, lợi nhuận từ CVTD tăng đáng kể:
32,62% so với 2005 và 78,53% so với 2004. Điều này cho thấy ngân hàng đã bước đầu khai
thác được tiềm năng trong lĩnh vực này. Tỷ trọng lợi nhuận từ TDTD gấp 6-7 lần so với tỷ
trọng dư nợ TDTD, chứng tỏ mức lợi nhuận trên một đồng vốn cho vay là rất lớn. Thị trường
TDTD rõ ràng là một thị trường hấp dẫn đối với ngân hàng.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ MỨC ĐỘ MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
NHCT CHI NHÁNH BA ĐÌNH
2.3.1.Những kết quả đạt được
Từ 2004 đến nay, nắm bắt được xu thế vận động của nền kinh tế, thấy được cơ hội phát
triển hoạt động CVTD, chi nhánh đã có sự quan tâm đẩy mạnh CVTD trên nhiều phương
diện.
Qua ba năm, dịch vụ CVTD của ngân hàng đã được mở rộng cả về doanh số và dư nợ,
trong đó tất cả các hình thức TDTD đều tăng trưởng. Kết quả đáng ghi nhận này có được
trước hết là do nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân và hộ gia đình không ngừng tăng lên dẫn
đến số lượng hồ sơ vay vốn ngày càng lớn. Các quy định về thủ tục cho vay và quy trình
nghiệp vụ cũng dần được bổ sung và hoàn thiện, làm nền tảng cho hoạt động CVTD. Thêm
vào đó không thể không kể đến nỗ lực của các cán bộ phòng khách hàng cá nhân trong việc
tạo lập và thắt chặt mối quan hệ với khách hàng, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với
ngân hàng.
Về mặt cơ cấu, ba hình thức CVTD chủ yếu là cho vay mua bất động sản và sửa chữa
nhà; mua ô tô và các động sản khác, du học đều có sự gia tăng về quy mô. Điều này cho thấy
dịch vụ TDTD đã bước đầu có chỗ đứng trên địa bàn hoạt động của chi nhánh, ngày càng đáp
ứng tốt hơn nhu cầu nhân dân.
Chất lượng tín dụng của các món vay nhìn chung là tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn
nhiều so với tổng dư nợ, một phần vì giá trị, số lượng các khoản TDTD còn nhỏ bé so với
toàn bộ hoạt động tín dụng, một phần do kết quả của quá trình thẩm định đánh giá kỹ lưỡng,
theo dõi quản lý sát sao các món vay và tiến hành thu nợ kịp thời của cán bộ tín dụng ngân
hàng.
Về phạm vi hoạt động, với uy tín và vị thế của mình, chi nhánh không chỉ đáp ứng nhu
cầu của cá nhân hộ gia đình trên địa bàn quận Ba Đình mà còn tài trợ cho các đối tượng ngoài
địa bàn. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thực hiện công tác giới thiệu, quảng bá dịch
vụ, mở rộng thị phần.
Đối tượng cho vay của ngân hàng đã được mở rộng, nếu như trước kia khách hàng chủ
yếu là nhân viên trong ngân hàng thì nay danh sách khách hàng đã đa dạng hơn cả về ngành
nghề và mức thu nhập, cho phép ngân hàng linh hoạt hơn trong nghiệp vụ CVTD.
Mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng, TDTD đang dần trở thành loại hình kinh
doanh có mức sinh lời trên một đồng vốn cho vay cao nhất. Lợi nhuận từ CVTD không ngừng
tăng lên, đồng thời nguy cơ thất thoát vốn từ hoạt động này ngày càng được hạn chế đến mức
tối thiểu. Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất hiệu quả và thành công ban đầu của ngân hàng trên
lĩnh vực CVTD. Mở rộng hoạt động CVTD của chi nhánh đã bước đầu phát huy được tác
dụng.
2.3.2.Những tồn tại hạn chế
a.Những tồn tại hạn chế
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ kể trên, dịch vụ TDTD của chi nhánh vẫn còn
nhiều hạn chế cần khắc phục.
Trước hết, dù có sự tăng trưởng khá ấn tượng nhưng tỷ trọng doanh số và dư nợ CVTD
so với tổng hoạt động tín dụng vẫn ở mức thấp. CVTD chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
ngày một nâng lên trong dân cư. Do đó, chi nhánh chưa khai thác được nhiều tiềm năng từ
hoạt động này.
Trong khi những hàng hóa có độ thỏa mãn ngày càng cao, thị trường ngày càng phong
phú thì danh mục dịch vụ ngân hàng lại chưa đa dạng và kém dặc sắc. Dịch vụ TDTD chưa
bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các hình thức TDTD mà ngân hàng cung cấp như tài
trợ mua nhà đất, ôtô, du học đều là là những dịch vụ truyền thống đã quá phổ biến. Đó là
những sản phẩm cơ bản mà bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể cung ứng. Một số loại hình cho
vay mới có khả năng phát triển như tài trợ phát hành thẻ tín dụng, cho vay gián tiếp, cho vay
tài trợ chi phí khám chữa bệnh, du lịch vẫn chưa được chi nhánh triển khai. Danh mục sản
phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm cũng chưa cao, chưa tạo ra sự khác biệt để hấp dẫn
khách hàng. Do đó nghiệp vụ TDTD tại chi nhánh chưa phát huy được hiệu quả.
Chi nhánh vẫn còn thận trọng trong việc cung ứng TDTD dài hạn mặc dù số lượng người
dân mong muốn sử dụng dịch vụ này ngày càng đông. Quy mô và hạn mức các món cho vay dài
hạn thường bị hạn chế để đảm bảo an toàn, tránh nguy cơ mất vốn. Vì thế, khả năng sinh lời từ
hoạt động TDTD bị giảm bớt.
Đối tượng CVTD của chi nhánh còn hạn hẹp. Hầu hết các khoản cho vay đều yêu cầu
có tài sản bảo đảm. Hình thức cho vay không có bảo đảm chỉ áp dụng đối với cán bộ công
nhân viên. Điều này đã cản trở nhiều cá nhân không phải là nhân viên nhà nước và không có
tài sản bảo đảm tiếp cận với vốn ngân hàng. Hơn nữa, mức cho vay đối với cán bộ công nhân
viên chức cũng chưa thực sự hợp lý. Khách hàng chỉ được vay tối đa là 12 lần thu nhập
thường xuyên hàng tháng những không quá 30 triệu. Mức cho vay này là quá nhỏ so với số
vốn cần có để mua đất hay xây dựng sửa chữa nhà. Thời hạn cho vay cũng khá ngắn, tối đa là
sau ba năm khách hàng phải hoàn đủ số vốn cho ngân hàng. Quy định về hạn mức và thời hạn
cho vay đã loại trừ rất nhiều cá nhân có thu nhập thấp hay có nhu cầu chi tiêu lớn được sử
dụng vốn ngân hàng. Quy định chặt chẽ này không chỉ thu hẹp đối tượng cho vay mà còn hạn
chế phạm vi CVTD.
Ngoài ra, thời gian thẩm định và quyết định định cho vay là không quá 5 ngày làm việc
đối với vay ngắn hạn và 10 ngày đối với vay trung dài hạn kể từ khi cán bộ tín dụng nhận
được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và thông tin cần thiết từ khách hàng. Tuy nhiên nhiều khi kéo dài
lâu, gây tâm lý không tốt, ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu của khách hàng.
b.Nguyên nhân
*Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý trong lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn là vấn đề bất cập. Hiện
nay ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể về lĩnh vực CVTD của các
tổ chức tín dụng. Các ngân hàng dựa trên cơ sở các luật, quy định về cho vay nói chung để
triển khai dịch vụ CVTD. Hệ thống pháp luật thiếu tính đồng bộ và thống nhất nhiều khi gây
khó khăn cản trở ngân hàng khi tiến hành cho vay. Cụ thể, việc cung ứng dịch vụ cho vay
mua nhà chịu phải nằm trong khuôn khổ luật cho vay đồng thời cũng bị điều chỉnh bởi luật
đất đai. Việc chưa có một nền tảng pháp lý hoàn thiện vững chắc khiến ban lãnh đạo chi
nhánh còn dè dặt khi quyết định cho vay bởi khi các tranh chấp phát sinh sẽ rất khó giải quyết.
CVTD là hoạt động đặc thù riêng, là lĩnh vực kinh doanh nhiều triển vọng, do đó nhất thiết phải
có một khung pháp lý riêng đối với hoạt động này.
Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ tăng trưởng, thu nhập của người dân được nâng
lên rõ rệt, tuy nhiên mức tăng thu nhập này không đồng đều giữa các tầng lớp dân cư, khoảng
cách giàu nghèo đang bị nới rộng. Hoạt động CVTD của chi nhánh mới chỉ hướng vào những
đối tượng có thu nhập khá, có khả năng kinh tế bảo đảm cho món vay, chưa thể hiện được vai
trò cải thiện đời sống của số đông dân cư.
Người dân Việt Nam có thói quen tích lũy đủ nguồn lực tài chính rồi mới chi tiêu, nếu
thiếu thì thường vay của người thân và bạn bè, rất ít vay tiền từ ngân hàng. Sử dụng vốn của
ngân hàng khiến họ có cảm giác mình là con nợ và mang tâm lý không thoải mái, bị áp lực
trước những quy định về thời hạn vay, số tiền phải trả định kỳ hay thời điểm hoàn trả. Thêm
vào đó, số đông người dân Việt Nam còn thiếu hiểu biết về quy chế thủ tục cho vay của ngân
hàng, nhất là trong lĩnh vực TDTD mới phát triển. Do đó, tâm lý ngại đến ngân hàng vay vốn
xuất hiện trong một số lượng lớn dân cư, ảnh hưởng đến mục tiêu mở rộng CVTD của chi
nhánh.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng đang diễn ra gay gắt cũng là một nguyên nhân dẫn đến
các hạn chế trên. Trong bối cảnh nước ta đã ra nhập WTO, một loạt các ngân hàng mới ra đời,
trong đó không ít ngân hàng lựa chọn lĩnh vực CVTD làm chiến lược phát triển. Nhiều ngân
hàng không ngừng cải tiến, đưa ra các hình thức TDTD mới hấp dẫn. Sự chạy đua giữa các ngân
hàng trong hoạt động tín dụng này đã gây sức ép đối với việc mở rộng thị phần CVTD của chi
nhánh.
*Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân hàng đầu khiến dịch vụ CVTD của chi nhánh còn nhiều tồn tại là do
ngân hàng chưa thực sự quan tâm đến dịch vụ này. Đi đầu trong lĩnh vực tài trợ cho hoạt động
công nghiệp và thương mại, ngân hàng thường tập trung vào các món vay có quy mô lớn
nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt động CVTD gần đây mới
được chú ý nhưng vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của ban lãnh đạo. Chính vì thế
mà doanh số cũng như dư nợ CVTD chỉ bằng một phần nhỏ so với số vốn ngân hàng phục vụ
sản xuất kinh doanh. Hoạt động CVTD không được chú trọng đầu tư nên sản phẩm tín dụng
này đơn điệu, kém hấp dẫn, chưa thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
Là chi nhánh có uy tín của một trong những NHTM quốc doanh hàng đầu, chi nhánh
NHCT Ba Đình vẫn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ và các cơ quna quản lý khác,
đồng thời nhận được sự bảo trợ của NHNN trên một số lĩnh vực. Nguyên nhân này nhiều khi
làm ngân hàng kém chủ động, nhạy bén trên thương trường, nhất là trong hoạt động CVTD,
một hoạt động mới phát triển và chịu nhiều áp lực cạnh tranh.
Công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng mở rộng CVTD của ngân
hàng, đặc biệt là trong điều kiện ngày nay khi khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão. Tuy
nhiên công nghệ tại chi nhánh còn chưa được áp dụng một cách đồng bộ. Việc lưu giữ, quản
lý thông tin khách hàng trên máy vi tính và trên sổ sách thiếu thống nhất, đôi khi có sai lệch,
gây khó khăn cho quá trình theo dõi món vay cũng như công tác thu lãi, thu nợ khi đến hạn.
Thêm vào đó, nhiều phòng ban còn chưa được trang bị đầy đủ các thiết bị văn phòng dẫn đến
hiện tượng các nhân viên chờ nhau khi có nhiều người cần sử dụng cùng lúc, gây gián đoạn
quá trình làm việc của cán bộ ngân hàng.
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của đội ngũ nhân viên ngân hàng chưa cao.
Các cán bộ tín dụng thường ngồi chờ khách hàng đến, chưa chủ động đi tìm kiếm khách hàng.
Các cá nhân hộ gia đình đến với ngân hàng chủ yếu dựa trên quen biết, giới thiệu chứ không
phải là kết quả của quá trình quảng cáo tiếp thị, tuyên truyền của cán bộ tín dụng. Họ cũng
chưa linh hoạt với những thay đổi trong chính sách hay công nghệ ngân hàng. Đây cũng là
một trở ngại rất lớn đối với việc mở rộng TDTD.
Thủ tục cho vay còn rườm rà, phức tạp khiến việc tiếp cận vốn ngân hàng của nhiều
người dân gặp khó khăn, đồng thời việc có quá nhiều giấy tờ với độ tin cậy không cao cũng
làm ảnh hưởng đến khâu xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng của chi nhánh.
Công tác Marketing kém hiệu quả cũng là một nguyên nhân đáng kể. Ngân hàng chưa
thực sự đi sâu đi sát nắm bắt nhu cầu của khách hàng để có những điều chỉnh về sản phẩm
cho phù hợp. Thông tin về các hình thức dịch vụ và thủ tuc vay vốn chưa được phổ biến rộng
rãi trong dân cư. Vì vậy, việc thay đổi tâm lý ngại đến ngân hàng vay vốn của số đông người
dân nhằm mở rộng đối tượng khách hàng, khai thác tốt tiềm năng từ các cá nhân, hộ gia đình
vẫn còn là vấn đề đáng phải bàn đến.
Chương 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI NHCT CHI NHÁNH BA ĐÌNH
3.1.ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
Hoạt động CVTD hiện nay đang có rất nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế, chính trị,
công nghệ để phát triển. Đây cũng là lĩnh vực được nhiều ngân hàng chú trọng đầu tư mở
rộng. Quy mô, chất lượng sản phẩm CVTD đã trở thành một trong những yếu tố đánh giá hoạt
động và vị trí của ngân hàng đó trong công chúng. Nắm bắt được tình hình đó, chi nhánh
NHCT Ba Đình xác định bên cạnh mảng cho vay sản xuất kinh doanh truyền thống cần giữ
vững vị thế, hoạt động CVTD cũng cần được quan tâm mở rộng. Để thực hiện mục tiêu này,
ban lãnh đạo chi nhánh cũng như các phòng ban với trung tâm là phòng khách hàng cá nhân
phải thống nhất đề ra chiến lược phát triển cụ thể làm kim chỉ nam cho hoạt động TDTD. Chi
nhánh cũng cần đầu tư kết hợp mọi nguồn lực, đảm bảo thành công trên lĩnh vực mới mẻ và
hấp dẫn này.
3.2.GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
NGÂN HÀNG
3.2.1.Giải pháp về nguồn vốn
Tăng quy mô vốn là tiền đề để mở rộng bất kỳ hoạt động tín dụng nào của ngân hàng
trong đó có hoạt động CVTD. Có nguồn vốn dồi dào ngân hàng mới có thể gia tăng giá trị
cũng như số lượng món cho vay mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản. Đặc biệt, NHCT chi
nhánh Ba Đình là lá cờ đầu của NHCT trong hoạt động cung ứng vốn phục vụ sản xuất kinh
doanh, phần lớn vốn huy động được sử dụng cho vay trong lĩnh vực này. Do đó, để thực hiện
mục tiêu giữ vững vị trí hàng đầu về cho vay doanh nghiệp trên địa bàn đồng thời mở rộng thị
trường CVTD, chi nhánh Ba Đình nhất thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động. Đẩy mạnh
huy động vốn vừa tạo cơ sở tài chính cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ CVTD, vừa giúp
ngân hàng mở rộng quan hệ khách hàng gửi tiền, thu hút những người này vay vốn khi có nhu
cầu chi tiêu.
Đặc điểm của CVTD tại chi nhánh là tỷ trọng CV ngắn và trung hạn rất cao (trên
90%), đây cũng là hình thức mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, vì vậy việc huy động
vốn của chi nhánh nên tập trung vào vốn ngắn và trung hạn. Bên cạnh đó, khi mục đích vay
tiêu dùng của dân cư ngày càng đa dạng, nhu cầu sử dụng tín dụng dài hạn cũng tăng theo,
đây là xu thế tất yếu do đó ngân hàng cũng không thể xem nhẹ nghiệp vụ huy động vốn dài
hạn. Một số biện pháp chi nhánh có thể thực hiện:
- Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động. Phạm vi hoạt động của chi nhánh là
trên địa bàn quận Ba Đình, nơi có mật độ dân số cao và đời sống nhân dân khá ổn định, nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa được khai thác hết. Vì vậy chi nhánh cần tiếp tục phát triển
các hình thức thu hút vốn truyền thống như tiền gửi tiết kiệm; tiền gửi thanh toán; phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, tiếp tục áp dụng loại hình tiết kiệm bậc thang, tiết
kiệm dự thưởng tăng sức hấp dẫn cho sản phẩm tiền gửi. Ngân hàng cũng có thể cung ứng các
dịch vụ mới như tiết kiệm không kỳ hạn kết nối với tài khoản cá nhân, thấu chi trên tài khoản,
tiết kiệm giáo dục, hưu trí, tài khoản chuyên dùng để chi trả kiều hối …phù hợp với nhu cầu
dân cư.
- Tích cực quảng cáo tuyên truyền thu hút vốn thông qua nhiều cách thức như qua báo
chí truyền hình, tổ chức các buổi hội thảo, tài trợ các chương trình văn hóa, xã hội có tính chất
quần chúng…Chi nhánh cũng nên bố trí nhân viên trực tiếp giới thiệu và cung cấp các thông
tin về dịch vụ mới và những tiện ích của nó cho khách hàng, thu thập ý kiến đóng góp xây
dựng từ khách hàng về hoạt động huy động vốn . Đặc biệt đối với các cá nhân, hộ gia đình có
nhu cầu gửi tiền, nhân viên nguồn vốn có thể giới thiệu thêm cho họ về dịch vụ CVTD của
ngân hàng, tạo mối quan hệ mật thiết với mỗi đối tượng trên cả hai mảng huy động vốn và
CVTD.
- Nâng cấp cải tiến các máy ATM, tăng số lượng thẻ phát hành bởi đây là kênh thu hút
vốn rất tiềm năng, nhất là trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay. Hơn nữa, những cá
nhân sử dụng thẻ thường là những người có chi tiêu nhiều, rất có thể họ sẽ là đối tượng của
CVTD trong tương lai. Vì thế mở rộng hình thức huy động vốn này sẽ thúc đẩy quá trình mở
rộng đối tượng CVTD của chi nhánh.
CVTD có tính chất thời vụ. Vào những dịp cuối năm, nghỉ Tết, trước những kỳ nghỉ
dài con người thường có nhu cầu chi tiêu cao, nhiều cá nhân, hộ gia đình sẽ có mong muốn
được sử dụng dịch vụ CVTD của ngân hàng. Vào thời gian này, thị trường TDTD rất sôi
động. Đây chính là cơ hội cho chi nhánh đẩy mạnh CVTD tăng lợi nhuận. Tuy nhiên đây
cũng là thời điểm nhiều khách hàng rút vốn từ ngân hàng phục vụ mục đích chi tiêu. Ngân
hàng cần tính đến đặc điểm này để có đưa ra những dự đoán về nhu cầu vay của dân cư, từ đó
có kế hoạch về nguồn vốn cho phù hợp, vừa tăng khả năng sinh lợi vừa đảm bảo an toàn trong
thanh toán. Chi nhánh cần gia tăng nguồn vốn trung dài hạn trước những thời điểm này.
Trong thời gian này chi nhánh có thể tăng cường các hình thức khuyến mại, tăng cường tiện
ích để thu hút thêm vốn cho ngân hàng.
3.2.2.Giải pháp về dịch vụ
Điều quan trọng đầu tiên để thu hút khách hàng đến với ngân hàng chính là chất lượng
các sản phẩm của ngân hàng. Vì vậy, muốn mở rộng CVTD nhất thiết phải nâng cao chất
lượng các sản phẩm hiện có. Chất lượng sản phẩm tín dụng này có thể được đo lường bằng
khả năng cung ứng vốn nhanh chóng, kịp thời; mức độ thoả dụng của người đi vay về số tiền
được vay, thủ tục vay, lãi suất và thời hạn trả nợ; sự nhiệt tình và cởi mở của nhân viên tín
dụng. Những món cho vay tài trợ mua sắm bất động sản, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh
hoạt hay tài trợ du học của chi nhánh luôn phải đảm bảo tốt các yếu tố đó. Đối với từng loại
hình CVTD chi nhánh cũng nên có những cải tiến tăng sức cuốn hút. Cụ thể:
- Chi nhánh có thể cung ứng dịch vụ trọn gói cho cá nhân đi du học. Thông qua việc
tạo lập mối quan hệ với các tổ chức giáo dục đào tạo ở nước ngoài, chi nhánh không chỉ tài
trợ vốn cho việc học tập của khách hàng mà còn tư vấn về trường học, cung cấp thông tin về
chương trình đào tạo cũng như chính sách học bổng của trường, thực hiện bán ngoại tệ và
chuyển ngoại tệ thanh toán. Hình thức này có rất nhiều tiện ích cho khách hàng, góp phần
hoàn thiện dịch vụ cho vay du học hiện có.
- Chi nhánh có thể cung ứng dịch vụ trọn gói về nhà ở, đồ dùng gia đình, phương tiện
đi lại để tạo dựng cuộc sống ổn định và tiện nghi cho khách hàng. Các đối tượng sử dụng dịch
vụ trọn gói này sẽ được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất mà chi nhánh áp dụng cho từng loại
hình cho vay. Hình thức tài trợ này rất thích hợp với những cặp vợ chồng trẻ - những người
luôn mong muốn được tận hưởng cuộc sống hiện đại nhưng điều kiện tài chính chưa cho
phép.
- Chi nhánh có thể liên kết với những đơn vị bán hàng như siêu thị, công ty mua sắm
đưa ra các chương trình ưu đãi như giảm lãi suất, nới rộng thời hạn trả nợ, giảm giá hàng bán,
tặng quà… đối với các cá nhân hộ gia đình sử dụng vốn do ngân hàng cung cấp để mua hàng
hóa tại các đơn vị trên. Hình thức này giúp ngân hàng mở rộng TDTD, vừa xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp với cả người đi vay và tổ chức bán hàng, tạo điều kiện cho các hoạt động khác
của ngân hàng như huy động vốn, cho vay sản xuất kinh doanh phát triển.
- Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên kết hợp dịch vụ TDTD với các dịch vụ khác để
người đi vay có thể sử dụng toàn diện các sản phẩm và tiện ích của ngân hàng. Chi nhánh có
thể thực hiện chính sách gói sản phẩm, cung cấp một danh mục sản phẩm nhiều tiện ích cho
khách hàng như:
+Đối với khách hàng cá nhân có thu nhập cao, ngân hàng có thể xây dựng một
gói sản phẩm gồm: sản phẩm lõi là cho vay mua nhà và sản phẩm bao quanh là thẻ tín dụng
hạn mức cao, ủy nhiệm chi tự động cho những khoản chi sinh hoạt, bảo hiểm nhân thọ...
+Đối với khách hàng cá nhân có thu nhập trung bình khá, gói sản phẩm bao gồm
sản phẩm lõi là cho vay mua nhà trả góp lãi suất thấp và sản phẩm bao quanh gồm tiết kiệm gửi
góp, ủy nhiệm chi tự động, chuyển tiền, thẻ ATM...
+Đối với khách hàng cá nhân có thu nhập thấp: sản phẩm lõi là cho vay mua
sắm tài sản trả góp lãi suất thấp và sản phẩm bao quanh sử dụng thẻ ATM, thẻ tiền mặt.
Ngân hàng cũng phải có chính sách lãi suất phù hợp, linh hoạt với từng loại hình cho
vay, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Ví dụ, ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất thấp
thời gian đầu cho du học sinh, sau đó khi việc học tập và cuộc sống của họ ổn định hơn, lãi
suất sẽ được nâng lên một mức mới cho phù hợp hơn. Các khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ
hay dịch vụ trọn gói mà chi nhánh cung ứng cũng có thể được hưởng ưu đãi về lãi suất. Hoàn
thiện các dịch vụ truyền thống này sẽ góp phần nâng cao uy tín, tạo chỗ đững vững chắc cho
ngân hàng trên thị trường TDTD.
Chi nhánh cũng nên thường xuyên thu thập ý kiến của mọi người về dịch vụ CVTD để
có những điều chỉnh cho phù hợp, tối đa hóa độ thoả dụng cho khách hàng. Các cách thức thu
thập ý kiến mà chi nhánh có thể áp dụng là gửi bảng câu hỏi, tổ chức hội nghị, giao lưu với
khách hàng, hoặc cử nhân viên tín dụng trao đổi trực tiếp với người đi vay...
Một vấn đề mà chi nhánh cũng phải hết sức quan tâm trong chiến lược phát triển sản
phẩm là việc đa dạng hoá danh mục sản phẩm. Những dịch vụ mà ngân hàng đang cung ứng
hiện nay đều mang tính truyền thống, chưa có các dịch vụ mới, độc đáo, điều này làm giảm
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường TDTD. Trên nền tảng các dịch vụ cơ bản
và mối quan hệ sẵn có với người đi vay, ngân hàng nên mở rộng các hình thức cho vay, tạo
danh mục sản phẩm phong phú cho khách hàng lựa chọn. Hình thức cho vay qua thẻ là hình
thức nhiều triển vọng mà ngân hàng có thể triển khai. Thị trường thẻ Việt Nam đang phát
triển chóng mặt và doanh số sử dụng thẻ tăng tương ứng. Song số lượng thẻ phát hành và tỷ
trọng thanh toán qua thẻ hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng và so với các nước trong khu
vực cũng như quốc tế. Nền kinh tế đang phát triển, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao,
nhu cầu về học tập, chữa bệnh, đi du lịch ở nước ngoài ngày càng nhiều, đó là thị trường rất
hấp dẫn để ngân hàng mở rộng tín dụng bằng việc cho vay qua thẻ đáp ứng nhu cầu chi tiêu
cá nhân.
Hiện nay số lượng học sinh sinh viên ngày càng đông, các lĩnh vực học tập ngày càng
phong phú, chi phí giáo dục, đào tạo ngày càng gia tăng. Chi nhánh nên mở rộng phạm vi tài
trợ vốn cho hoạt động giáo dục. Nguồn vốn sẽ được cung ứng cho không chỉ những người đi
du học ở nước ngoài mà còn có thể đến tay những học sinh sinh viên không có điều kiện tài
chính đầy đủ để đi học. Hình thức này sẽ làm tăng đáng kể khối lượng món vay, đồng thời với
tính chất nhân văn, nó cũng góp phần xây dựng uy tín và hình ảnh của ngân hàng.
Một hình thức khác mà chi nhánh nên áp dụng là CVTD gián tiếp. Đối với hình thức
này, ngân hàng không trực tiếp quan hệ với khách hàng mà cho vay thông qua trung gian là
các công ty bán lẻ, đại lý phân phối. CVTD gián tiếp mang lại lợi ích cho cả ngân hàng, khách
hàng và nhà cung ứng. Tuy nhiên thị trường này hiện nay ở nước ta vẫn còn bỏ ngỏ. Khai thác
thị trường mới mẻ này, chi nhánh có thể thu hút được khối lượng khách hàng lớn, mở rộng
quan hệ tín dụng và tăng lợi nhuận từ CVTD.
3.2.3.Giải pháp về điều kiện và quy trình CVTD
Điều kiện CVTD của chi nhánh hiện nay có nhiều giới hạn, khiến không ít khách hàng
khó có cơ hội sử dụng vốn ngân hàng. Nới lỏng điều kiện tín dụng trong một mức độ nhất
định sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng mở rộng CVTD. Chẳng hạn, chi nhánh có thể nâng mức
cho vay và thời hạn cho vay đang áp dụng với cán bộ công nhân viên, cho phép họ vay số tiền
lớn trong thời gian dài, phục vụ mục đích mua nhà, chữa bệnh...Chi nhánh cũng nên đơn giản
hóa một số yêu cầu trong hồ sơ vay vốn, vừa mở rộng đối tượng cho vay vừa giảm bớt thời
gian giải ngân, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu khách hàng.
Về quy trình nghiệp vụ, đôi khi không có sự liền mạch giữa các bước, dẫn đến thời
gian kéo dài, gây khó khăn cho cả ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể sử dụng công
nghệ hiện đại thực hiện tự động hóa quy trình nghiệp vụ CVTD. Khách hàng chỉ cần gửi nhu
cầu qua hệ thống tự động mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng. Các dữ liệu về khách
hàng sẽ kết hợp với hệ thống chấm điểm tín dụng để ra quyết định cho vay và cung ứng dịch
vụ tự động. Cơ chế này đã được áp dụng ở các nước phát triển, tạo ra sự thuận tiện cho các cá
nhân muốn vay ngân hàng để chi tiêu.
Mỗi đối tượng cho vay, mỗi hình thức cho vay đều có đặc thù riêng nên việc thiết kế
riêng qui trình, thủ tục hồ sơ, chính sách lãi suất, phí dịch vụ, chính sách marketing khai thác
thị trường... quảng bá trên hệ thống tờ rơi, cẩm nang dịch vụ là rất quan trọng. Nhiều ngân
hàng TMCP từ lâu đã xây dựng và chào bán đến khách hàng những quy trình nghiệp vụ cụ thể
đối với từng loại sản phẩm từ hướng dẫn thủ tục, hồ sơ, quy trình giao dịch đến chính sách
giá, lãi suất, chăm sóc khách hàng. Trong khi đó, hoạt động CVTD của chi nhánh đến nay chỉ
dựa vào qui định chung về CVTD ban hành theo quyết định 066/QĐ-HĐQT-NHCT19 ngày
3/4/2006, chưa có quy trình chi tiết cho từng hình thức, đối tượng vay vốn, điều này làm cho
ngân hàng nhiều lúc lúng túng khi triển khai cho vay. Đơn cử, nghiệp vụ cho vay phục vụ du
học đang có nhiều cơ hội phát triển bởi nguồn cầu trên thị trường gia tăng, ít rủi ro và lợi
nhuận thu được đáng kể. Tuy nhiên cho vay tài trợ du học tại chi nhánh hầu như chỉ lác đác
vài món vay không thật chuyên nghiệp. Nguyên nhân là do chưa có quy định hướng dẫn cụ
thể như: xác định các trường hợp cần ký quỹ khi cho vay chứng minh tài chính, mức ký quỹ,
việc giải ngân mở sổ tiết kiệm / chứng chỉ tiền gửi tại ngân hàng cho vay và phong tỏa tài
khoản... Việc hình thành từng qui trình cụ thể cho từng loại món vay chắc chắn sẽ mở đường
cho chi nhánh đồng loạt triển khai tất cả các sản phẩm CVTD.
Hiện nay một số ngân hàng đã mở ra nhiều điều kiện để khách hàng có thể tiếp cận vốn
ngân hàng một cách nhanh nhất như ngân hàng Á châu với dịch vụ cho vay siêu tốc 24 h-cam
kết giải ngân trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận đủ hồ sơ, Eximbank với dịch vụ cho vay trong
48 giờ. Nhu cầu vay vốn ngày càng gia tăng, ngày càng xuất hiện nhiều nhu cầu có tính chất
cấp bách như đi du lịch hay có tính chất đột xuất như chữa bệnh, do đó các bộ phận thẩm định
hồ sơ vay vốn tại chi nhánh phải luôn linh hoạt đối với từng khách hàng, từng hoàn cảnh, từng
loại hình cho vay để thỏa mãn khách hàng ở mức độ cao nhất. Chẳng hạn các khoản vay phục
vụ mục đích cấp thiết như chữa bệnh hay đi du lịch, du học nên được xem xét trong thời gian
ngắn nhất có thể để nhanh chóng cấp vốn, đáp ứng yêu cầu gấp gáp về mặt thời gian cho
người vay.
Nhiều món vay tại chi nhánh không có sự đồng bộ trong việc lưu giữ thông tin, một số
món vay không có đầy đủ dữ liệu về khách hàng như số chứng minh thư, ngày sinh, nghề
nghiệp, gây khó khăn cho việc kiểm soát thu hồi nợ. Đặc biệt một số món vay có sự chuyển
đổi người quản lý thì việc thiếu sót thông tin chưa được phát hiện và bổ sung một cách kịp
thời. Do đó khi tiến hành kiểm tra các thủ tục để cho vay, các nhân viên tín dụng phải hết sức
chú ý tránh gây ra những thiếu sót làm phát sinh chi phí cho ngân hàng.
Song song với việc đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cho vay và quy trình nghiệp vụ,
công tác thẩm định, theo dõi kiểm tra khoản vay cũng phải luôn được chú ý để đảm bảo an
toàn trong CVTD.
3.2.4.Giải pháp về Marketing
Người dân Việt Nam thường có thói quen tiết kiệm rồi mới chi tiêu, hoặc có chi tiêu thì
vay tiền người thân chứ rất ngại đến ngân hàng vay vốn. Do đặc điểm tâm lý đó, việc mở rộng
thị phần CVTD phải luôn gắn liền với công tác Marketing, bởi đây là hoạt động có vai trò rất
lớn trong việc thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Tuy nhiên, do chi nhánh đã có uy tín và
chỗ đứng trên thị trường nên hoạt động Marketing chưa được chi nhánh quan tâm đúng mức.
Các cá nhân, hộ gia đình vay vốn tại chi nhánh chủ yếu là nhân viên ngân hàng, hoặc là
những người có quen biết, quan hệ với ngân hàng từ trước. Với điều kiện cạnh tranh gay gắt
như hiện nay, nếu không thực hiện công tác Marketing, bất kỳ một ngân hàng nào cũng có thể
bị mất thị phần. Do đó, nhanh chóng triển khai hoạt động Marketing trên lĩnh vực CVTD là
một vấn đề cấp thiết đối với chi nhánh. Ngân hàng có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, ngân hàng cần tăng cường nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục
tiêu.
Đối tượng CVTD là rất rộng, bao gồm tất cả các cá nhân và hộ gia đình mong muốn
được sử dụng dịch vụ ngân hàng để trang trải các khoản chi tiêu. Hành vi tiêu dùng của họ có
nhiều biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu thị
trường là rất cần thiết. Nghiên cứu thị trường bao gồm việc tìm hiểu những nhu cầu của cá
nhân hộ gia đình cùng các yếu tố ảnh hưởng; xem xét hành vi mua sản phẩm tài chính của
khách hàng và xác định các yếu tố tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng của họ. Đây là
cơ sở để ngân hàng tiến hành phân đoạn thị trường, xác định thị trường mục tiêu nhằm chủ
động đón đầu những cơ hội, phòng ngừa những thách thức, từ đó khai thác thị trường một
cách tốt nhất.
-Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi thông tin trên thị trường nhà đất, thị trường
ôtô, sự phát triển của giáo dục để có những dự đoán chính xác về nhu cầu của dân cư. Chẳng
hạn, khi Việt Nam gia nhập WTO, rất nhiều mặt hàng ngoại nhập trong đó có ôtô sẽ được
miễn giảm thuế thu nhập, vì vậy sự gia tăng nhu cầu vay mua ôtô trong thời gian tới là có cơ
sở.
- Định kỳ hoặc trước những biến động của thị trường có thể ảnh hưởng tới nhu cầu chi
tiêu, ngân hàng nên gửi phiếu câu hỏi, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, mở diễn đàn trao đổi
trên mạng Internet…để đánh giá và dự đoán nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
-Hoạt động trên địa bàn một quận lớn, đời sống nhân dân ổn định, thu nhập tương đối
khá, lại có nguồn vốn dồi dào, đảm bảo tài trợ cho một lượng lớn các món vay, chi nhánh Ba
Đình nên phát triển dịch vụ cho vay mua sắm tài sản có giá trị lớn như nhà đất, xe hơi đời
mới, các hàng hóa xa xỉ …với khách hàng mục tiêu là những cá nhân, hộ gia đình có thu nhập
cao. Chi nhánh nên tổ chức các buổi hội nghị gặp gỡ, đi du lịch, phát tặng phẩm, áp dụng các
ưu đãi khi sử dụng các dịch vụ khác với khách hàng truyền thống.
Thứ hai, ngân hàng cần xây dựng chiến lược giao tiếp-khuếch trương cụ thể và hiệu
quả. Ngân hàng có thể tăng cường quảng cáo trên báo chí, truyền hình, tờ rơi, tạo ấn tượng tốt
đẹp về sản phẩm với khách hàng; bố trí các nhân viên giao dịch trực tiếp giới thiệu về dịch vụ
ngân hàng qua các cuộc gặp gỡ, đối thoại, điện thoại, gửi thư, hội nghị khách hàng. Hoạt động
TDTD là hoạt động đòi hỏi sự xông xáo, linh hoạt và sáng tạo của các nhân viên tín dụng, và
công tác tiếp thị sản phẩm là khâu không thể bỏ qua. Tuy nhiên tại chi nhánh, nhân viên của
phòng khách hàng cá nhân chủ yếu cung cấp dịch vụ cho các đối tượng đã quen biết, chưa
bám sát, đi sâu vào thị trường, trực tiếp giới thiệu sản phẩm cho các đối tượng khác. Vì thế
ngân hàng cần có chủ trương đẩy mạnh hình thức tiếp thị dịch vụ qua cán bộ tín dụng ngân
hàng. Phòng khách hàng cá nhân nên cử các nhân viên tín dụng tiếp thị sản phẩm tại các khu
dân cư, hội phụ nữ, các doanh nghiệp, tổ chức đông lao động. Mặt khác ngân hàng cũng có
thể triển khai hình thức quan hệ công chúng- một hình thức mới đang ngày càng phổ biến
trong xã hội. Chi nhánh nên phối hợp sử dụng nhiều công cụ như tham gia các hoạt động từ
thiện, tài trợ các chương trình truyền hình, tổ chức hội thảo theo chuyên đề…, nhằm tạo dựng
và duy trì sự hiểu biết rộng rãi trong quần chúng về ngân hàng. Để thực hiện những điều này
chi nhánh phải nhanh chóng xây dựng trang web riêng-kênh thông tin tổng quát và tòan diện
của chi nhánh đến mọi người.
Các hình thức quảng bá sản phẩm của chi nhánh nên được tăng cường trong những thời
điểm nhạy cảm khi thị trường đang nóng để phát huy hiệu quả tối đa. Cụ thể, trong mùa cưới,
các cặp vợ chồng có nhiều nhu cầu mua sắm nhà cửa, chi nhánh có thể giới thiệu sản phẩm
qua mạng Internet, quảng cáo trên truyền hình, treo băng rôn tại các khách sạn nhà
hàng…Trong thời điểm học sinh sinh viên kết thúc khóa học có nguyện vọng đi du học, chi
nhánh nên thực hiện hình thức phát tờ rơi, treo băng rôn tại các trường học, cung cấp thông tin
trên Internet… Thông tin về dịch vụ CV mua nhà đất, ôtô, tài sản khác cũng có thể đến được
với những khách hàng tương lai của chi nhánh qua các tờ giới thiệu, hình ảnh, tranh vẽ tại các
trung tâm tư vấn nhà, cơ sở sản xuất và kinh doanh ôtô. Việc liên kết với những địa điểm này
sẽ góp phần thu hút sự chú ý của cá nhân, hộ gia đình đang và sắp có ý định vay vốn ngân
hàng để chi tiêu.
Thứ ba, chi nhánh nên áp dụng hình thức khuyến mại cho người đi vay, nhất là trong
thời gian thị trường TDTD không sôi động. Chi nhánh có thể khuyến mại bằng cách tặng quà,
miễn phí dịch vụ, tổ chức các chương trình quay số trúng thưởng…Đối với khách hàng vay
với giá trị lớn, trả nợ trước hạn…cũng nên được ngân hàng tạo những tiện ích và ưu đãi như
được phục vụ tại nhà, không phải đến ngân hàng.
Thứ tư, phát triển các kênh phân phối hiện đại cũng là một giải pháp hiệu quả. Địa bàn
hoạt động của chi nhánh là một quận lớn do đó đối tượng khách hàng CVTD thường có trình
độ dân trí cao. Tận dụng lợi thế đó, ngân hàng có thể thực hiện việc phân phối sản phẩm qua
kênh giao dịch tự động, qua hệ thống phone-banking, home-banking, đáp ứng các nhu cầu
khách hàng với mức độ tiện ích cao nhất.
Thứ năm, chi nhánh nên tuyển dụng và đào tạo các cán bộ chuyên trách về Marketing
trong TDTD, làm việc tại phòng khách hàng cá nhân. Hiện tại, chi nhánh chưa có những cán
bộ chuyên đảm nhận nhiệm vụ Marketing về TDTD. Hoạt động của những nhân viên này
giống như cầu nối giữa dịch vụ CVTD của chi nhánh với cá nhân, hộ gia đình, thúc đẩy quá
trình gặp gỡ và hợp tác giữa người đi vay và ngân hàng với sự hài lòng tuyệt đối của cả hai
bên.
3.2.5.Giải pháp về công nghệ
Hiện nay ở Việt Nam nhiều ngân hàng đang có cuộc chạy đua về công nghệ để tạo ra
nhiều sản phẩm đa dạng, hàm lượng chất xám cao, đồng thời đánh vào tâm lý của một số
đông khách hàng muốn được tận hưởng những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Công nghệ cao sẽ
tạo ra lợi thế rất lớn cho các ngân hàng.
Trước hết, chi nhánh cần áp dụng trang bị đầy đủ máy móc cho các phòng ban nói
chung và phòng khách hàng cá nhân nói riêng. Với điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại,
các thiết bị văn phòng như máy vi tính, máy in, máy phôtô, máy fax đã trở nên rất cần thiết.
Tuy nhiên tại chi nhánh vẫn có hiện tượng thiếu thốn máy móc, khiến các nhân viên phải chờ
đợi nhau để được sử dụng máy. Điều này rất bất tiện và cản trở hoạt động của họ. Đặc biệt khi
có những thay đổi về quy cách lưu trữ thông tin trên máy tính, việc thiếu máy vi tính góp
phần làm cho việc sửa đổi không được thực hiện đúng thời gian. Thêm vào đó, nó còn làm ảnh
hưởng đến thái độ và tâm lý khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng, và gián tiếp làm giảm
hình ảnh của ngân hàng. Do đó, việc đảm bảo đầy đủ về cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ đồng
bộ là điều cấp bách mà chi nhánh cần thực hiện.
Chi nhánh cũng cần xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, đảm bảo hoạt động liên tục,
ổn định, thông suốt. Việc quản lý lưu trữ thông tin trên mạng máy tính cần được các nhân
viên thực hiện thành thạo, tránh trường hợp hoạt động của các nhân viên chi nhánh bị đình trệ
do lỗi mạng, ảnh hưởng đến khách hàng, nhất là các khách hàng có nhu cầu cấp bách. Vì vậy,
khi xuất hiện trục trặc kỹ thuật ngân hàng phải nhanh chóng yêu cầu bộ phận chuyên trách về
kỹ thuật kịp thời tìm biện pháp xử lý, giải quyết, tránh gây những tổn thất không đáng có cho
ngân hàng và khách hàng.
Bên cạnh đó, một điều rất quan trọng nữa mà chi nhánh cần chú ý là trang bị kiến thức
về công nghệ đầy đủ và rộng khắp cho các nhân viên ngân hàng, đặc biệt là bộ phận tín dụng.
Đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng có mặt bằng tuổi tác, kinh nghiệm và kiến thức không
đều nhau, nhiều người gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng công nghệ mới. Vì thế
ngân hàng nên tiến hành bổ sung kiến thức cho nhân viên, đảm bảo sử dụng hiệu quả và triệt
để nhất công nghệ ngân hàng.
Chi nhánh cũng nên đầu tư nhuốm màu công nghệ hiện đại cho các món vay tiêu dùng.
Chi nhánh nên thiết lập và triển khai hệ thống thông tin trực tuyến giữa khách hàng và bộ
phận chuyên trách về TDTD, nhờ đó khách hàng có thể liên hệ với ngân hàng, trao đổi thông
tin tại chỗ mà không phải đến ngân hàng, tiến tới thực hiện các bước hướng dẫn thủ tục vay
vốn và lập hồ sơ qua mạng. Hiện tại hệ thống này ở nước ta còn mới mẻ nhưng trong tương
lai nó sẽ là cầu nối được sử dụng nhiều nhất bởi những tiện lợi về mặt không gian thời gian
dành cho khách hàng.
Ngoài ra, chi nhánh cũng nên nghiên cứu công nghệ, học hỏi công nghệ của các ngân hàng
nước ngoài và vận dụng phù hợp với điều kiện riêng của mình.
3.2.6.Giải pháp về con người
Đội ngũ nhân viên ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng đối với công chúng. Để
có được thế mạnh trên lĩnh vực TDTD, chi nhánh nhất thiết phải có lợi thế về chất xám.Với
phương châm chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ = con người hiện đại + công nghệ hiện đại,
chi nhánh cần tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực song song với các biện pháp về
sản phẩm, Marketing, công nghệ…Cụ thể:
-Làm tốt công tác tuyển dụng đầu vào để sàng lọc, lựa chọn được những cá nhân toàn
vẹn cả trí và tài, cống hiến hết mình cho sự phát triển của ngân hàng, nhất là đối với hoạt
động tín dụng luôn đòi hỏi sự nhanh nhạy và sáng tạo của nhân viên. Việc tuyển dụng được
những cán bộ giỏi sẽ giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả và sáng tạo, đồng thời cũng làm
giảm chi phí đào tạo của ngân hàng. Hơn nữa những cán bộ có năng lực, có sự đồng đều về
trình độ sẽ hoà nhập tốt hơn, và công tác bồi dưỡng trình độ cho nhân viên cũng được thực
hiện dễ dàng hơn.
-NHCT Ba Đình là một ngân hàng đã hoạt động từ khá lâu, do đó nguồn nhân lực có
sự giao thoa của các cán bộ có thâm niên trong nghề và các cán bộ trẻ. Kinh tế đất nước nói
chung cũng như ngành ngân hàng nói riêng đang phát triển từng ngày, vì thế nhiều cán bộ
không theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật nghiệp vụ và kiến thức chuyên
môn. Ngân hàng cần tổ chức nhiều khóa học bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ và
giáo dục trau dồi đạo đức cho cán bộ tín dụng, tổ chức các buổi sinh hoạt định kỳ, thảo luận
những vướng mắc trong công tác TDTD, các văn bản, quy định, quy trình. Chi nhánh cũng có
thể phát động phong trào tự học, tự nghiên cứu, tổ chức thi tay nghề hàng năm.Bên cạnh đó
cũng cần quan tâm đến việc nâng cao kỹ năng giao tiếp, điều tra, phân tích của những nhân
viên này- một yếu tố hết sức quan trọng tác động tới kết quả hoạt động CVTD.
-Chi nhánh cũng nên có chính sách sàng lọc, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
thuộc lĩnh vực TDTD. Hàng năm ngân hàng nên tổ chức thi tuyển để rà soát đánh giá phân
loại cán bộ, từ đó có hướng đào tạo phù hợp.
-Hiện nay trong chính sách của NHCT, hoạt động tín dụng đã được quan tâm nhiều
hơn, một số quy chế về CVTD đã được thay đổi cho phù hợp như việc đơn giản hoá các thủ
tục, áp dụng hình thức chấm điểm tín dụng mới trên máy tính, việc mở rộng và chuyển đổi
mã, ký hiệu loại hình cho vay...Nhiều khi những cải tiến này không được các cán bộ nắm
vững kịp thời, dẫn đến hiện tượng thiếu đồng nhất trong việc quản lý món vay, nhất là các cải
tiến về công nghệ. Lãnh đạo ngân hàng và các phòng ban cần phổ biến kịp thời các đổi mới
cho cán bộ tín dụng để họ có thể vận dụng một cách nhanh chóng, linh hoạt trong từng nghiệp
vụ, hoàn thành tốt công việc được giao. Chi nhánh cũng có thể cử một số cán bộ ưu tú trực
tiếp tiếp xúc với cấp trên để nắm bắt đầy đủ và rõ ràng những thay đổi đó.
-Trong CVTD, năng lực và hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng được thể hiện rất rõ
qua doanh số, dư nợ và chất lượng món vay. Chi nhánh nên có chính sách khen thưởng bằng
cách tuyên dương, tăng lương, đặc cách đào tạo đối với những nhân viên có thành tích như
thu hút nhiều khách hàng, cho vay các món có giá trị lớn và an toàn, sáng tạo trong phát triển
sản phẩm, mở rộng hoạt động CVTD. Đó là nguồn động lực khuyến khích họ hăng say làm
việc, góp phần vào sự thành công của chi nhánh.
-Tổ chức nhiều buổi giao lưu giữa các phòng ban của chi nhánh các chi nhánh cùng và
khác hệ thống, một mặt tạo không khí vui vẻ, đoàn kết trong đơn vị, mặt khác các cán bộ tín
dụng có thể gặp gỡ, trao đổi học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, áp dụng vào công việc của mình.
3.3.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Việc mở rộng hoạt động CVTD tại NHCT Ba Đình không chỉ đòi hỏi nỗ lực của toàn
thể lãnh đạo và nhân viên chi nhánh mà nó còn cần có sự ủng hộ của Chính phủ, các cơ quan
chức năng, NHNN cũng như NHCT Việt Nam.
*Đối với Chính phủ và các bộ ngành liên quan
Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động CVTD nói riêng đều chịu sự kiểm
soát chặt chẽ của Chính phủ và các bộ ngành. Mở rộng CVTD có thành công hay không một
phần không nhỏ là nhờ các điều kiện thuận lợi từ phía các cơ quan này, bao gồm:
-Ban hành khung pháp lý đầy đủ và thống nhất đối với hoạt động cho vay và CVTD
cũng như các hoạt động khác liên quan đến lĩnh vực tiêu dùng như luật nhà đất, luật thuế, tạo
nền tảng pháp luật cho hoạt động TDTD được mở rộng một cách nhanh chóng và hiệu quả.
-Ổn định nền kinh tế vĩ mô, tạo môi trường lành mạnh thúc đẩy CVTD. Chính phủ cần
có những thay đổi, điều chỉnh để ổn định giá cả, tỷ giá, duy trì lạm phát ở mức hợp lý, đảm
bảo cho nhu cầu chi tiêu và nhu cầu sử dụng dịch vụ CVTD không nằm ngoài dự kiến của
ngân hàng.
-Đầu tư phát triển các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, đa dạng hóa sản phẩm trên thị
trường để kích cầu chi tiêu, tạo đà cho cầu về TDTD gia tăng, là cơ sở đẩy mạnh cho vay tiêu
dùng.
-Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tạo cơ
hội cho nhiều cá nhân hộ gia đình đến với ngân hàng, mở rộng đối tượng CVTD. Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hay sở hữu nhà là yêu cầu bắt buộc đối với các món vay thế chấp
bằng bất động sản. Hiện nay nhiều cá nhân hộ gia đình gặp phải trở ngại trong việc xin cấp
các giấy tờ này, vì thế không thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng.
-Các cơ quan chức năng tại nơi khách hàng cư trú cần hợp tác với ngân hàng trong việc
xác nhận thông tin về khách hàng, cũng như triển khai công tác thu hồi nợ quá hạn, góp phần
nâng cao chất lượng các món vay tiêu dùng.
-Cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ giữa các ngân hàng, tòa án và cơ quan quản lý
nhà nước để nhanh chóng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, bảo vệ lợi ích cho các bên tham
gia.
*Đối với NHNN
-NHNN cần ban hành các quy định cụ thể về lĩnh vực CVTD, đảm bảo hoạt động này
đi theo đúng quỹ đạo. Việc có một khung pháp lý rõ ràng và chặt chẽ sẽ giúp các ngân hàng
yên tâm hơn khi ra quyết định cho vay, mở rộng số lượng khoản cho vay, đáp ứng mong
muốn tiêu dùng của người dân.
-Hạn chế bảo trợ đối với ngân hàng quốc doanh, phát huy tính linh hoạt, chủ động của
ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực mới mẻ như CVTD.
*Đối với NHCT
Là đơn vị trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chi nhánh, NHCT Việt Nam cần có chính
sách khuyến khích đối với việc mở rộng CVTD.
-Hoạch định chiến lược phát triển hoạt động CVTD, xác định các biện pháp mở rộng
CVTD phù hợp với ngân hàng sao cho đạt kết quả cao nhất.
-Chỉ thị các ngân hàng tập trung đầu tư vào nguồn lực công nghệ và con người- hai yếu
tố được coi là chìa khóa dẫn mở cánh cửa thành công cho lĩnh vực CVTD.
-Đưa ra một danh mục sản phẩm TDTD mà các ngân hàng có thể cung ứng dựa trên
việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các tổ chức tín dụng trong nước và quốc tế.
-Khi có các thay đổi trong quy chế chính sách về CVTD cần nhanh chóng thông báo
cho các chi nhánh, đặc biệt phải hướng dẫn cụ thể từng trường hợp, tránh xảy ra sai sót không
đáng có.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, thu nhập người dân được nâng cao, đời sống vật chất
và tinh thần được cải thiện, do đó nhu cầu chi tiêu trong nền kinh tế cũng gia tăng không
ngừng, làm đòn bẩy đối với mở rộng CVTD. Nếu ví hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng là giống như một dây chuyền không ngừng vận động thì TDTD là một mắt xích không
thể thiếu, nó không chỉ mang lại nguồn thu mà còn có tác động tích cực thúc đẩy các bộ phận
khác cùng phát triển. Đẩy mạnh TDTD là xu hướng tất yếu khách quan trong điều kiện kinh
tế thị trường, đồng thời cũng là chiến lược, mục tiêu và thị trường đầy tiềm năng của các ngân
hàng thương mại.
Hoạt động trên địa bàn rộng lớn, mức sống người dân cao, lại có nguồn vốn khá dồi
dào, NHCT chi nhánh Ba Đình có nhiều lợi thế mở rộng CVTD. Hoạt động tín dụng này tại
ngân hàng đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ trong vài năm gần đây, tuy nhiên để đạt được
thành công, ban lãnh đạo cũng nhu toàn thể cán bộ ngân hàng còn phải nỗ lực rất nhiều.
Trên cơ sở lý thuyết về CVTD và thực trạng hoạt động này tại chi nhánh NHCT Ba
Đình, luận văn đưa ra một số giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh, đồng thời
mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước, nhằm khai thác tốt nhất thị
trường tín dụng đầy tiềm năng này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Ngân hàng-Tài chính, Tài chính doanh
nghiệp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Tài chính DN và Kinh doanh
tiền tệ, Ngân hàng thương mại, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Ngân hàng-Tài chính, Ngân hàng thương
mại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Học viện Ngân hàng, Tín dụng ngân hàng , Nxb Thống kê, Hà Nội 2001.
6. Lê Văn Tư (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại
7. Báo cáo tài chính thường niên của NHCT chi nhánh Ba Đình
8. Báo, Tạp chí: Tạp chí Ngân Hàng, Tạp chí Tài chính, Công Báo, Diễn đàn doanh
nghiệp,Thời báo Kinh tế, Tạp chí các văn bản pháp quy từ năm 1998 đến 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình.pdf