Trong quá trình đổi mới cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu Nhà nước luôn chú
trọng đề ra các biện pháop khuuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu,
và đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất khẩu
thuận tiện đơn giản hơn nhiều nhưng vẫn tồn tại một số thủ tục phiền hà, cần sớm
hoàn thiện điều chỉnh.
Về hệ thống thuế xuất nhập khẩu, cần hoàn thiện một số điểm để thực sự trở thành
công cụ quản lý có hiệu quả, như nhận xét của các chuyên gia kinh tế thì biểu thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam v\ừa quá đơn giản vừa quá phức tạp và thuế xuất đối
với một số mặt hàng tiêu dùng quá cao làm tăng buôn lậu và giảm hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
75 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2390 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất khẩu rau quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au quả hộp: dứa khoanh, dứa rẻ quạt, dứa miếng nhỏ, nước dứa được
đống trong nước đường đậm, nhạt hoặc trong nước dứa tự nhiên, vải
nước đường, chôm chôm, xoài, thanh long, nấm hộp, dưa chuột và các
loại hoa quả nhiệt đới khác đóng hộp.
- Rau quả đông lạnh: Dứa, xoài, chôm chôm, đậu, nước dứa
- Rau quả sấy khô: Chuối, xoài, thanh long, nhãn, vải khô
- Rau quả muối: Dưa chuột, gừng, nấm, mơ, ớt
Ngoài ra, TCT còn kinh doanh một số mặt hàng rau quả tươi (khoai tây, bắp
cải, su hào, cà rốt ...); Hạt giống rau (hành tây, cà chua, dưa chuột, đậu) quả
tươi (cam, quýt, chanh, bưởi, nhãn, xoài ...); gia vị (ớt quả khô, ớt bột, gừng
bột, quế thanh, tiêu đen, hoa hồi ...) và một số loại nông sản khác như lạc,
đậu xanh, vừng vàng, đậu tương ...
2.3.3 Thị trường và cơ cấu thị trường của TCT rau quả Việt Nam
Trong kinh doanh XNK, việc mở rộng thị trường là vấn đề thiết yếu của
mỗi đơn vị kinh doanh và là chiến lược quan trọng cần phải quan tâm. Đối với
TCT rau quảViệt Nam cũng vậy, việc tìm kiếm thị trường là một vấn đề quan
trọng.
Từ năm 1989 –1989, TCT có quan hệ buôn bán với 18 nước trên thế giới
thì năm 1990 là 21 nước và đến năm 2001 là 43 nước.
STT Tên nước Tổng KN (USD) Xuất khẩu (USD)
1 Mỹ 2.840.305 2.140.478
2 Đức 1.800.650 712.421
3 Italia 2.205.947 2.124.146
4 Nhật 4.524.825 3.247.234
5 Trung Quốc 4.909.994 3.864.031
6 Liên bang Nga 2.544.788 1.124.146
... ... ... ...
Đây là một số thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm của TCT
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nga ngày một giảm đi, song
nó vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cảu TCT, vì vậy
TCT nhận định rằng Nga vẫn là thị trường rau quả lớn của mình. Do vậy TCT
phảo có các biện pháp làm tăng tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nga cũng như
các thị trường khác.
3. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của TCT rau quả Việt Nam.
Trong quá trình hoạt động của mình, TCT rau quả Việt Nam đã tăng nhanh
được kim ngạch sang các thị trường nước ngoài với nhiều mặt hàng mới như dứa
khoanh hỗn hợp chôm chôm và dứa, dứa nghiền đóng hộp, nước dứa đông lạnh,
măng hộp, nấm muối, dưa chuột dầm giấm đóng lọ thuỷ tinh ... Chất lượng cũng
đã đáp ứng phần lớn các yêu cầu về chất lượng nêu trong hợp đồng. Trong quan hệ
ngoại thương, những năm vừa qua Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều, trong
đó có một số thị trường kim ngạch ngày càng tăng với các mặt hàng phong phú đa
dạng. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho TCT trong việc mở rộng thị trường
và không ngừng nang cao chất lượng mặt hàng cho phù hợp thị hiếu và sở thích
của người tiêu dùng.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, TCT vẫn còn các hạn chế và
khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cảu mình. Vì vậy, TCT càng
cần phải sớm đề ra các biện pháp các khó khăn và hạn chế này.
4. Thực trạng xuất khẩu rau quả của TCT rau quả Việt Nam vào thị trường
Mỹ
4.1 Xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường Mỹ
4.1.1 Xâm nhập thị trường
Quyết định xâm nhập thị trường Mỹ của TCT là sự đúng đắn dựa trên cơ sở
tiềm lực sẵn có và cơ hội thị trường. Với nhiều nông trương quy mô lớn nhỏ khác
nhau, với sản lượng hàng năm luôn ở mức cao cùng nhiều nhà máy chế biến tương
đối hiện đại vầ công suất khá lớn, TCT có khả năng đáp ứng được những đơn đặt
hàng từ phí Mỹ, mặc dù là không lớn.
Trong hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài, các doanh nghiệp có thể tiến
hành xuất khẩu gián tiếp qua các đại lý, công ty điều hành XNK, công ty TM hoặc
tiến hành xuất khẩu trực tiếp. Trên thực tế, cho đến năm 1993 chưa có 1 tấn hàng
hoá nào của Việt Nam vào được thị trường theo con đường chính ngạch, chỉ có
một số ít hàng hoá vào được thì do đi vòng vèo qua nước thứ 3 như Singapore,
Hồng Kông và Đài Loan ... Còn hiện nay phương thức giao dịch chủ yếu của các
doanh nghiệp Việt Nam là lựa chọn phương thức xuất hàng trực tiếp cho nhà nhập
khẩu Mỹ; liên doanh liên kết với nước ngoài dựa vào các nhà nhập khẩu từ nước
thứ 3 như Hồng Kông, Đài Loan ... để thâm nhập vào thị trường Mỹ, đáp ứng yêu
cầu về số lượng và chất lượng của thị trường Mỹ. Đối với các sản phẩm của TCT
rau quả Việt Nam, những nhà nhập khẩu Mỹ do luôn coi trọng uy tín và chất
lượng nên khi tiến hành nhập khẩu họ tổ chức các cuộc viếng thăm trực tiếp các
nông trường, các dây chuyền sản xuất chế biến đồng thời kiểm tra uy tín cảu TCT.
Lần đầu tiên nhập hàng của Việt Nam các nhà nhập khẩu từ Mỹ đã đặt với một
khối lượng nhỏ và chỉ khi các sản phẩm của TCT được người Mỹ chấp nhận thì
các nhà nhập khẩu này mới chính thức đặt quan hệ làm ăn lâu dài với TCT. Riêng
đối với các mặt hàng dứa, mặt hàng được người Mỹ ưu thích và tiêu dùng nhiều
nhất thì TCT và các nhà nhập khẩu Mỹ ký một bản thoả thuận độc quyền tức là
TCT chỉ xuất khẩu cho nhà nhập khẩu độc quyền và ngược lại, nhà nhập khẩu chỉ
có thể nhập khẩu từ TCT, đồng thời hai bên cũng quy định kim ngạch tối thiểu
một năm phải đạt 100 container tương đương 1500-2000 MT và phía Việt Nam
phải giúp đõ các nhànhập khẩu tìm kiếm các hãng tàu vận chuyển hàng sang Mỹ
cũng như giải quyết các khó khăn về thiếu thông tin, về khoảng cách mà các nhà
nhập khẩu không thể cáng đáng được.
Bước đầu tiên xâm nhập thị trường Mỹ, hiệu quả đạt được là không đáng
kể. Điều quan trọng của việc thâm nhập này là để có cơ hội làm ăn lâu dài với thị
trường Mỹ, một thị trường lớn nhất và giàu có nhất thế giới này. Nhận định được
tầm quan trọng này, TCT đang có kế hoạch mở các văn phòng giao dịch trên đất
Mỹ và tham gia nhiều hơn vào các hội trợ, triển lãm ...
4.1.2 Cạnh tranh trên thị trường Mỹ
Các sản phẩm rau quả mà Mỹ nhập khẩu chủ yếu đến từ Mexico, Canada
còn lại là từ một số nước Châu Phi, Châu âu và Châu á ... Các nước đứng đầu về
kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ là Mexico, Canada, Tây Ban Nha, Trung Quốc ...
Sản lượng các mặt hàng rau quả Việt Nam cũng khá lớn và xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường Mỹ mấy năm gần đây có dấu hiệu khả quan nhưng rõ ràng
tiềm năng này không bằng các nước khác, ví dụ như nước láng giềng Thái Lan.
Điều thua thiệt là quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ rất phức tạp; ta lại mới vào thị
trường Mỹ được hơn 5 năm do đó thị phần xuất khẩu rau quả cảu ta sang Mỹ chỉ
chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 0,65% năm 1998; 0,87% năm 1999; 0,38% năm
2000 và 0,85% năm 2001. Để nâng cao thị phần trên thị trường Mỹ các sản phẩm
rau quả của Việt Nam phải cạnh tranh được với các sản phẩm cảu nước khác mặc
dù vấn đề này đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là rất khó. Trong sự cạnh
tranh, cso 4 vấn đề mà công ty phải đương đầu là: sản phẩm, giá cả, phân phối và
xúc tiến bán hàng.
Trước hết là cạnh tranh về sản phẩm. Các sản phẩm rau quả xuất khẩu sang
Mỹ tương đối đa dạng, nhất là mặt hàng dứa: dứa khoanh, dứa nghiền, dứa hạt dẻ
quạt .. và cũng đã đem lại lợi nhuận. Tuy nhiên hầu hết các sản phẩm còn lại đều
không có kim ngạch lớn bởi không đủ sức cạnh tranh đối với các sản phẩm cùng
loại cảu các nước khác như Canada, Thái Lan ..., một số mặt hàng khác tuy sản
xuất được nhiều như chôm chôm dứa, dứa thanh ... cũng ít được phía Mỹ quan tâm
nhiều.
Chất lượng các mặt hàng rau quả xuất khẩu đi Mỹ hiện nay tương đối ổn
định và đáp ứng được yêu cầu cảu bạn hàng. Điều này đạt được là do các nông
trường đã bỏ ra rất nhiều tiền nghiên cứu, sản xuất và nhập khẩu các loại giống có
chất lượng cao, đồng thời các nhà máy chế biến cũng đầu tư nhiều vào công nghệ,
các khâu từ phân loại, sản xuất, bao bì - đóng góp, vận chuyển ... cũng ngày được
coi trọng và thực hiện tốt hơn. Những năm gần đây, các lô hàng xuất sang Mỹ của
TCT chưa bị phía Mỹ phàn nàn về hiện tượng chất lượng kém, đó là một thành
công rất lớn của TCT trong việc xây dựng và bảo vệ uy tín sản phẩm và công ty
nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung.
Cạnh tranh về giá cả:
TCT có rất nhiều cách định giá đối với các sản phẩm rau quả cảu mình khi
xuất khẩu ra nước ngoài nói chung hay sang Mỹ nói riêng như:
Định giá dựa vào mức phí tổn
Giá bán = giá thành + lợi nhuận
Định giá dựa trên giá trị cảm nhận được của người mua
Định giá dựa vào cạnh tranh tức là căn cứ vào giá cuả đối thủ cạnh tranh để
ra quyết định về giá của sản phẩm của TCT.
Dù có rất nhiều cách định giá như trên nhưng so giá của TCT với giá của
các đối thủ cạnh tranh khác ở các nước khác nhau thì giá của TCT ở các cách đều
cao hơn. Điều đặt ra đối với TCT là làm sao hạ thấp được giá thành sao cho giá
bán hợp lý hơn đề có thể cạnh tranh được với sản phẩm của nước khác. giá thành =
biến phí + định phí. Khoản định phí là khó thay đổi nên muốn giảm giá thành,
TCT chú ý vào việc giảm yếu tố biến phí như: chi phí nguyên liệu, bao bì, các chi
phí lưu thông, quản lý, giao dịch ... Các khó khăn này là chủ quan nhưng đứng về
mặt khách quan thì việc làm cho giá của TCT cao là do thuế nhập khẩu mà Mỹ áp
dụng cho Việt Nam đối với mặt hàng rau quả là 35% (đến tận cuối năm 1999) và
giảm xuống 20% (kể từ sau 3 năm khi Hiệp định Thương mại được ký kết ngày
13/7/2000) trong khi các nước khác, Mỹ chỉ áp dụng mức thuế 3 –6%.
Phân phối
Phân phối là một khâu phức tạp trong quá trình tiếp thị. Nó bao hàm việc
lựa chọn kênh phân phối, tổ chức quản lý các mối quan hệ với trung gian và khách
hàng. Tuy nhiên, khâu phân phối của TCT lại đơn giản, chỉ bao hàm mối quan hệ
với người mua trực tiếp, không có liên hệ với người bán buôn thứ 2 những người
bán lẻ và khách hàng, do đó thông tin trong kênh phân phối không đầy đủ, khả
năng truyền thông với khách hàng rất ít, giá bán lẻ, vận chuyển và lưu kho đầu
năm ngoài tầm điều chỉnh điều chỉnh của TCT, thậm chí TCT không biét hàng của
mình được bán tiếp cho ai, cách phân phối như thế nào?
ở đây, đường dây phân phối của TCT là kiểu phân phối truyền thống. Nhà
sản xuất bán sỉ, bán lẻ hoạt động độc lạp, không có thành viên nào thực sự nắm
quyền kiểm soát thành viên khác và không có guông máy nào chính thức phân
chia nhiệmvụ hay giải quyết xung đột. Điều này rõ ràng hạn chế hiệu quả phân
phối. Trong khi đó nhiều nước đã hướng sang kiểu tiếp thị dọc, một hệ thống gồm
nhà sản xuất, bán sỉ, bán lẻ hoạt động như 1 thể thống nhất, đưa alị sự tiết kiệm chi
phí theo quy mô, tăng khả năng mua bán xoá bỏ được những công việc trùng lặp
và cung cấp thông tin nhạy bén.
Sự lựa chọn kênh phân phối này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó
chủ yếu là TCT không có tiềm năng đủ lớn để tham dự đầy đủ vào 1 kênh phân
phối hoàn chỉnh, không có khả năng tài chính đủ để trang trải các chi phí cho các
mối quan hệ trong kênh, không có kinh nghiệm trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt
trên thị trường mới như Mỹ. Trong thời gian này, TCT đang tiến hành mở văn
phòng đại diệnc ùng với mở các đại lý phân phối ở những địa điểm thuận lợi trên
đất Mỹ.
Xúc tiến bán hàng: TCT thực hiện phương pháp chào hàng ngẫu nhiên tức
là tận dụng các mối quan hệ quen biết từ bạn hàng các nước và một số doanh
nghiệp mỹ đã từng làm ăn trong các mặt hàng khác, qua con đường đại sứ quán,
thương vụ của ta ở nước ngoài để tìm người mua rôid gửi đơn chào hàng kèm
những catalogue được chuẩn bị kỹ càng, in ấn đẹp cho phía bạn. Ngoài ra, TCT
cững gửi các mặt hàng của mình trên báo thông tin quảng cáo, báo Business
Directory và năm 1999, TCT đã có mặt trong cuốn sách giới thiệu về Thương mại
Việt Nam, một mối thông tin chung quan trọng đối với doanh nghiệp 2 nước.
So với các nước khác, do có được quan hệ quen biết từ lâu nên việc gĩư bạn
hàng họ có thể trợ cấp mua tức là trừ bớt 1 khoản phải thanh toán sau thời gian
làm ăn nhất định hay tài trợ hàng, tài trợ trưng bày ... Họ giới thiệu hàng trên nhiều
mặt báo, qua triển lãm, hội chợ ... do vậy, hình ảnh về sản phẩm của họ sẽ in đậm
hơn so với sản phẩm của Việt Nam.
Trong hoàn cảnh tiềm lực sản xuất chưa cao, kinh phí hạn hẹp, quan hệ
chưa được khai thông hàon tàon, TCT phải lựa chọn cách thức cạnh tranh phù hợp
nhất - đó là tập trung giảm chi phí trong khi vẫn bảo đảm chát lượng. Khâu phân
phối và cổ động được quan tâm ở bậc thứ 2 và cũng theo hướng tiết kiệm giảm chi
phí.
4.2 Quy trình ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu sang Mỹ
Thực hiện một hợp đồng xuất khẩu phải qua các bước sau:
- Chuẩn bị giao dịch
- Đàm phán ký kết hợp đồng
- Thực hiện hợp đồng
Công việc chuẩn bị giao dịch bao gồm việc nghiên cứu và lập phương án
kinh doanh. Sau khi đánh giá được khả năng đạt hiệu quả, phòng kinh doanh thực
hiện bước tiếp theo là đàm phán ký kết hợp đồng.
Giai đoạn đàm phán ký kết hợp đồng được coi là khâu quan trọng quyết
định việc hợp đồng có được ký kết hay không. Trong giao dịch đàm phán ký kết
hợp đồng bằng thư tín thương mại và trình tự như sau:
* Chào hàng
- Chào hàng tự do: không ràng buộc trách nhiệm của người chào hàng,
chủ yếu là để quảng cáo, thăm dò thị trường, duy trì bạn hàng ... Hình
thức này được TCT sử dụng trong thời gian đầu chưa có bạn hàng. Sau
này khi đã có bạn hàng thường xuyên, TCT sử dụng đơn chào hàng cố
định.
- Chào hàng cố định; là chào hàng ràng buộc trách nhiệm của người phát
đơn chào hàng.
* Chấp nhận chào hàng: là thể hiện ý muốn ký kết hợp đồng của người được
chào với người chào. Trong trường hợp phía bạn chấp nhận có sử đổi một số điểm,
TCT phải thông báo cho phía bạn là chấp nhận sửa đổi đó.
Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý những điểm sau:
- Đối tượng hợp đồng: phải ghi rõ tên hàng với số lượng, chất lượng và
bao bì ra sao.
- Giá cả, điều kiện thanh toán
Giá cả: Ghi rõ đơn giá, tổng giá trị, đồng tiền tính giá và đông ftiền thanh
toán
Điều kiện thanh toán; TCT thường chọn điều kiện thanh toán tín dụng
chứng từ nhưng riêng hợp đồng xuất khẩu sang Mỹ, bạn hàng thương lo
ngại phương thức này vì phức tạp, tốn kém và ưa hình thức nên dễ có tranh
chấp nên họ thường yêu cầu pá dụng phương thức chuyển tiền. So với L/C
tuy phương thức này nhanh hơn nhưng không đảm bảo thanh toán cho
người xuất khẩu.
- Giao hàng: ghi rõ thời hạn giao hàng và điều kiện giao...
Giai đoạn thực hiện hợp đồng xuất khẩu
- Chuẩn bị hàng để xuất khẩu: TCT là đầu mối cuối cùng tập trung hàng
từ các xí nghiệp chế biến vì vậy phải kiểm tra hàng kỹ để làm các thao
tác tiếp theo ví dụ: kiểm tra độ an toàn cảu kiện, độ an toàn của các
thanh gỗ, các nút đinh, kẻ ký mã hiệu, lập phiếu đóng gói theo mẫu
riêng của TCT ...
- Kiểm nghiệm, kiểm dịch xin giấy chứng nhận vệ sinh; trước khi giao
hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá về phảm chất, ssó
lượng, trong lượng, bao bì. Việc kiểm dịch vệ sinh là một khâu bắt buộc
tiến hành nagy tại đơn vị sản xuất hay nơi thu mua: nông trường, trạm,
cửa khẩu ... ở Việt Nam, TCT xin giấy chứng nhận vệ sinh ở Bộ Y tế,
các giấy tờ này chỉ có giá trị 7 ngày nếu hàng không xuất khẩu được.
- Thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm.
Trước kia, do điều kiện bảo hiểm và vận tải trong nước kém phát triển nên
TCT chủ yếu bán hàng theo điều kiện FOB do đó không chịu trách nhiệm
thuê tàu và mua bảo hiểm. Hiện nay, do điều kiện thay đổi, TCTC đã bán
hàng được theo điều kiện CIF
Công ty bảo hiểm thường xuyên cảu TCT là Bảo Việt. Do xuất khẩu sang
Mỹ được giao thành nhiều chuyến hàng nhỏ hàng năm nên TCT thường
chọn mua bảo hiểm cho cả năm. khi giao hàng xong chỉ cần gửi đến Bảo
Việt 1 văn bản gọi là giấy báo băt đầu vận chuyển.
Hãng tàu thường xuyên của TCT là Vietran. Do có mối quan hệ lâu dài nên
thủ tục thuê tàu diễn ra đơngiản, thuận tiện.
- Làm thủ tục hải quan, được thực hiện theo 3 bước
Khai báo hải quan: phải kê khai chính xác, chuẩn bị một số giấy tờ
như hoá đơn, phiếu đóng gói, giấy phép kinh doanh XNK, bảng kê chi tiết...
Kiểm tra hàng hoá: TCT có bộ phận sắp xếp sẵn hàng hoá theo trật
tự để thuận tiện việc kiểm tra và chịu chi phí nhân công về mở và đóng các
kiện hàng.
Thực hiện quyết định của hải quan – theo quyết định của hải quan
hàng hoá sẽ được phép thông quan.
- Giao hàng: TCT có thể giao hàng trực tiếp lên tàu hoặc thông qua
VIETRANS. Một số mặt hàng xuất khẩu bằng container thì TCT có
trách nhiệm thuê container, đóng gói vào container và lập bản kê khai
hàng trong container. Trong trường hợp không dủ 1 container, TCT phải
lập “bản đăng ký hàng chuyên chở”, sau khi được chấp nhận TCT mới
giao hàng đến bãi container cho người vận tải.
- Thanh toán và giải quyết khiếu nại: Sau khi giao hàng, TCT lập bộ
chứng từ thanh toán gồm hoá đơn, vận đơn, các loại giấy chứng nhận,
đơn bảo hiểm và một số chứng từ khác. Cho đến nay, chưa có một hợp
đồng xuất khẩu sang Mỹ gặp phải trường hợp khiếu nại.
Trên đây là toàn bộ quy trình đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng xuất
khẩu sang Mỹ nói chung. Tuỳ từng mặt hàng cụ thể mad ta có các phát sinh đòi
hỏi TCT phải nắm bắt linh hoạt kịp thời để có các biện pháp đối phó.
4.3 Các kết quả cụ thể về hoạt động xuất khẩu rau quả vào thị trường Mỹ của
TCT rau quả Việt Nam.
Xâm nhập được vào thị trường Mỹ là một trong những bước đột phá của
TCT rau quả Việt Nam. Có thể nói, giai đoạn 1998 –2001 là giai đoạn đầy thăng
trầm của TCT trong lĩnh vực xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là hoạt
động xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Sau đây ta sẽ đi phân tích một số kết quả nổi
bật về hoạt động xuất khẩu của TCT sang thị trường Mỹ.
Trước hết là về tổng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 1997 –2001.
Trong giai đoạn này, khi mà nền kinh tế đang vấp phải những bước rất khó khăn;
Việt Nam lại năm trong khu vực khủng hoảng tiền tệ năm 1997 nên hoạt động của
TCT nói chung cũng rất khó khăn. Thị trường qua các năm hầu như không tăng,
Đơn vị
USD
kim ngạch xuất khẩu cũng không ổn định và thị trường mới là Mỹ cũng vậy. Ta
quan sát bảng số liệu sau về kim ngạch xuất khẩu của TCT sang thị trường Mỹ
STT Năm Giá trị So sánh
1 1997 2.369.748
2 1998 1.476.301 62,3 %
3 1999 2.288.201,5 154,99 %
4 2000 2.454.125 107,25 %
5 2001 1.875.906 76,43 %
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
1997 1998 1999 2000 2001
n¨m
G
i¸
t
rÞ
(
U
S
D
)
Mặc dù là nước có sản lượng rau quả lớn trên thế giới nhưng hàng năm Mỹ
vẫn nhập khẩu hàng tỷ USD các mặt hàng này từ các nước khác trong đó có Việt
Nam. Từ khi bỏ cấm vận với Việt Nam, lương xuất khẩu rau quả của Việt Nam
sang thị trường Mỹ chiếm khoảng 0,056% năm 1998; năm 1999 là 0,071%; năm
2000 là 0,061% và năm 2001 là 0,058%. Như vậy ta thấy tỷ trọng rau quả xuất
khẩu cảu Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ chiếm 1 phần rất khiêm tốn. Điều này
cũng là một điều dễ hiểu đối với Việt Nam bởi vì Mỹ tuy là thị trường lớn đầy
tiềm năng nhưng hàng hoá của Việt Nam mới được biết trên thị trường Mỹ; các
sản phẩm cảu Việt Nam chưa đủ đa dạng, phong phú để thoả mãn được nhu cầu
thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng Mỹ.
Về kim ngạch xuất khẩu các năm trên bảng số liệu trên ta thấy có sự tăng
giảm bất thường. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu là 2.369.748 USD nhưng đến
năm 1998 lại giảm 62,3% còn 1.476.301 USD. Các năm 1999 và 2000 đều có sự
tăng lên hết sức đáng kể và tưởng chừng dến năm 2001, khi mà Hiệp định thương
mại được ký kết thì kim ngạch sẽ tăng lên nhưng điều này không xảy ra. Năm
2001, kim ngạch chỉ đạt 1.875.906 USD, chỉ bằng 76,43% năm 2000 (2.454.125
USD năm 2000). Sự biến động của kim ngạch xuất khẩu này có nhiều nguyên
nhân:
Các năm 1997, 1998 và 1999 do Việt Nam chưa ký được Hiệp định thương
mại với phía Mỹ nên việc cạnh tranh với hàng hoá các nước cùng trong mặt hàng
rau quả là rất khó khăn.
Do giá bán các mặt hàng rau quả của Việt Nam qúa cao so với sản phẩm
cùng loại của các nước khác nên không được phí Mỹ chấp nhận.
Việc xuất khẩu sng Mỹ chỉ dừng lại ở mức bán sản phẩm cho các nhà nhập
khẩu phí Mỹ chứ chưa có hệ thống phân phối của mình tại Mỹ.
Sang năm 2001, khi mà hiệp định thương mại có hiệu lực, song việc xuất
khẩu sang thị trường Mỹ gặp nhiều khó khăn và theo như các nhà phân tích thì
việc xảy ra tình trạng này là do giá sản phẩm vẫn cao.
Thứ hai ta nghiên cứu về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Có thể nói, các sản phẩm của TCT tương đối đa dạng với nhiều loại sản phẩm và
mẫu mã khác nhau, ta có thể chia thành các nhóm chính sau:
- Rau quả tươi
- Rau quả hộp: dứa khoanh, dứa rẻ quạt, dứa miếng nhỏ, nước dứa được
đóng trong nước đường, chôm chôm, thanh long, nấm hộp, dưa chuột...
- Rau quả đông lạnh: dứa, xoài, chôm chôm, đậu, nướ dừa
- Rau quả sấy khô - muối: chuối, xoài, long nhãn, vải khô...
- Các loại gia vị và các sản phẩm khác
STT Nhóm hàng 1998 1999 2000 2001
1 Rau quả tươi 2,6 % 4 % 8 % 8,4 %
2 Rau quả hộp 28 % 27 % 25 % 26,5 %
3 Rau quả đông lạnh 0 3 % 9 % 14 %
4 rau quả sấy – muối 10,6 % 6 % 7 % 7,4 %
5 Các loại khác 58,8 % 60 % 51 % 43,7 %
Biểu cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ của TCT các năm
Nhìn bảng số liệu ta thấy cơ cấu các loại sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ có
sự biến động qua các năm. Trong khi các loại rau quả tươi và rau quả đông lạnh có
sự tăng lên (cụ thể là rau quả tươi năm 1998 chiếm 2,6% nhưng đến năm 2001 đã
chiếm tới 8,4%; rau quả đông lạnh từ con số 0% năm 1998 đã tăng lên và chiếm
tới 14% vào năm 2001) thì rau quả hộp và rau quả sấy muối có xu hướng giảm
xuống, đặc biệt lad rau quả hộp, 1 loại sản phẩm được coi là nòng cốt, chủ lực của
TCT trong các năm qua. Sự biến động này phản ánh sự cố gắng của TCT trong
việc tìm kiếm 1 cơ cấu sản phẩm hợp lý, phù hợp với đòi hỏi về xu hướng biến
động của thị trường Mỹ từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu.
Điều quan tâm tiếp theo khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ là vấn đề giá cả.
Xuất khẩu sang thị trường Mỹ, TCT chọn việc định giá tổng hợp trên cơ sở chi phí
sản xuất nhu cầu thị trường, sự cảm nhận của khách hàng về sản phẩm và giá của
các đối thủ cạnh tranh. Diễn biến theo quy luật thị trường, giá cả xuất khẩu các
mặt hàng rau quả sang Mỹ có những biến động và được thể hiện dưới biểu sau đây
Giá FOB bình quân một số sản phẩm xuất khẩu của TCT
Stt Tên sản phẩm
Trọng
lượng
Số hộp
/carton
Số carton/
can (20
feat)
Giá FOBHP
(USD/tấn)
98 99 2000 2001
1 Dứa miếng nhỏ 800 24 1300 8,46 7,24 6,64 6,13
2 Dứa khoanh 800 24 1300 10,57 9,74 8,57 8,21
3 Nước dứa 830 24 900 7,85 7,40 5,60 5,26
4 Ngô rau 450 24 1650 9,88 8,74 7,12 7,01
5 Nước quả 250 24 3200 6,42 6,48 4,27 4,05
Qua các số liệu đưa ra chúng ta thấy rằng hầu hết giá của các laọi sản phẩm
xuất khẩu sang Mỹ đều có xu hướng giảm đi. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này
là vào các năm 1999 và 200, các nước trong khu vực sản xuất các sản phẩm này
được mùa lớn nên giá xuất khẩu cảu họ giảm xuống. Mặt khác bước sang năm
2000 TCT thực sự đi vào cạnh tranh và chấp nhận giá cạnh tranh sau một thời gian
dài thăm dò thị trường Mỹ. Đây là một giai đoạn cực kỳ khó khăn đối với TCT
trên con đường khai thác tiềm năng thị trường Mỹ.
Nhận xét chung
Trong các hợp đồng xk của TCT rau quả Việt Nam ra thị trường nước ngoài
thì xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm một vị trí quan trọng. Tuy xét về lợi nhuận
và kim ngạch xuất khẩu có thể chưa đáng kể nhưng xét về cơ hội làm ăn là rất lâu
dài, và như vậy TCT thực sự đã đạt được 1 số thành công nhất định. Trong khi
nhiều doanh nghiệp còn chưa ám nghĩ tới thị trường Mỹ để xuất khẩu sang đó thì
từ năm 1995, TCT đã nghiên cứu thị trường tranh thủ các nguồn thông tin, giới
thiệu mặt hàng và tìm được bạn hàng khá ổn định trong 7 năm liền góp phần giúp
ngành rau quả nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung có những khởi sắc trong
những năm qua, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng ngàn công nhân ở các xí
nghiệp chế biến và hàng vạn lao động ở các nông trường. Mối quan hệ giữa sản
xuất chế biến, xuất khẩu và thị trường nếu được giải quyết tốt sẽ đem lại lợi ích
kinh tế và xã hội hoàn hảo. Vấn đề đặt ra cho TCT hiện nay là làm như thế nào để
phối hợp các mối quan hệ này trong vai trò người làm chủ, tận dụng và tạo dựng
hoàn cảnh để phát triển.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯớng, giải pháp và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu rau quả sang thị trường mĩ tại tổng Công ty rau quả việt nam
I. mục tiêu và định hướng xuất khẩu của tổng Công ty rau quả đến năm 2010.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đều phải tìm cho
mình những mục tiêu, những hướng đích để đạt đến. Đặc biệt là xu thế tự do hoá
thương mại nói chung và thực hiện công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu nói
riêng, thì mục tiêu của hoạt động kinh doanh xuất khẩu là thu được các kết quả tốt
qua các nghiệp vụ xuất khẩu , cụ thể là tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tăng
nguồn thu ngoại tệ để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu ( máy
móc, thiết bị, nguyên liệu, hàng hoá, ... ). Nhưng với mỗi doanh nghiệp tuỳ theo
đặc điểm, lĩnh vực kinh doanh, thực trạng kinh doanh và các yếu tố môi trường
khác nhau mà họ tự tìm ra cho mình những cách khác nhau để đạt được kết quả
đó.
ở Tổng Công ty rau quả Việt Nam, thực tế đặt ra là phải đưa được những
mục tiêu và định hướng đúng đắn, khả thi và áp dụng các biện pháp thực hiện hữu
hiệu nhằm đạt được kết quả và mang lại sự phát triển vững chắc cho tổng Công ty
trong thời gian tới.
1.Mục tiêu của Tổng Công ty đến năm 2010
- 2005 kim ngạch xuất khẩu đạt 100 triệu USD
- 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD
Quy hoạch hoá lại vùng lạuvùng sản xuất cho hợp lý, có hiệu quả hơn nhằm
góp phần nâng coa sản lượng và chất lượng nguyên liệu chế biến.
Tạo việc làm ổn định cho đội ngũ cán bộ công nhân viên và người lao động
trong Tổng Công ty.
Từng bước xây dựng một đội ngũ cán bbộ giỏi, vững vàng trong quản lí
kinh doanh; một hệ thống thiết bị máy móc, chế biến bảo quản, vận chuyển rau
quả tiên tiến, hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, hình thức
đẹp, khối lượng lớn, giá thành đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và thế
giới.
2. Phương hướng xuất khẩu của Tổng Công ty trong thời gian tới
2.1 Định hướng về kim ngạch và tiến độ xuất khẩu .
Bảng17 Tiến độ xuất khẩu dự kiến đến 2010 của Tổng Công ty
Năm Kim ngạch Tăng trưởng (%)
2002 52 15
2003 62 19
2004 74 19
2005 100 35
2006 112 12
2007 125 12
2008 140 12
2009 160 14
2010 200 25
Nguồn: Định hướng phát triển của Tổng Công ty rau quả Việt Nam giai
đoạn 1998- 2000)
Cơ sở để đề ra kim ngạch và tiến độ xuất khẩu là dựa trên tình hình thực tế
những năm qua và dự báo của tình hình tiêu thụ rau quả của thế giới cũng như các
mặt hàng của Tổng Công ty trong thời gian tới. Ngoài ra còn căn cứ vào mức phát
triển ngành rau quả trong nước từ nay đến 2010.
2.2 Định hướng về sản phẩm và chiến lược xuất khẩu của Tổng Công ty .
Trong những năm tới, thị trường sẽ ngày càng trở nên phức tạp, đối thủ
cạnh tranh ngày càng nhiều đó là những khó khăn của Tổng Công ty, chắc chắn
rằng Tổng Công ty rau quả Việt Nam sẽ phải có những nỗ lực vượt bậc, những
định hướng và kế hoạch phát triển cụ thể. Nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng
với những gì đã đạt được hiện nay sẽ là cơ sở để Tổng Công ty có được những
bước tiến vững chắc trong quá trình phát triển của mình.
Trong định hướng về cơ cấu sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu giai đoạn
1998- 2010 Tổng Công ty sẽ cố gắng phấn đấu để tới 2005 tổng khối lượng sản
phẩm xuất khẩu đạt 160 nghìn tấn, trong đó rau quả hộp, nước quả cô đặc đông
lạnh chiếm vai trò chủ đạo với 57 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu là 40 triệu USD
( chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Rau quả sấy muối và gia vị đều chiếm
20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặt hàng nông sản thực phẩm theo định hướng
chỉ đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu là 5 triệu USD với tỉ trọng rất nhỏ là 5%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2010 sẽ là thời điểm đỉnh cao trong định hướng
phát triển giai đoạn1998 tới 2010 của Tổng Công ty với tổng sản lượng sản phẩm
xuất khẩu sẽ là 350 nghìn tấn, kim ngạch đạt 200 triệu USD. Tuy nhiên tỉ trọng
kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng sẽ không có nhiều thay đổi lớn, mặt hàng
rau quả tươi sẽ tăng 5% thay cho sự giảm xuống 5% mặt hàng gia vị trong tỉ trọng
kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty so với năm 2005.
Bảng 18 Cơ cấu sản phẩm và tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2005-
2010 của Tổng Công ty .
Năm
Sản phẩm
2005 2010
Kim
ngạch
xuất khẩu
tỉ trọng
(%)
Khối lượng
(Nghìn tấn)
Kim
ngạch
xuất khẩu
Tỉ
trọng
(%)
Khối lượng
(Nghìn tấn)
1. Rau quả
tươi
15 15 50 40 20 130
2. Rau quả
hộp, nước
quả cô đặc,
đông lạnh
40 40 57 80 40 120
3. Rau quả
sấy muối
20 20 33 40 20 68
4. Gia vị 20 20 13 30 15 20
5. Nông sản
thực phẩm
5 5 7 10 5 12
Tổng 100 100 160 200 100 350
( Nguồn: Định hướng phát triển của Tổng Công ty rau quả Việt Nam giai đoạn
1998- 2000)
Về sản phẩm và thị trường của mình, tới năm 2010 thì rau quả tươi, đồ hộp
nước quả đông lạnh, rau quả sấy muối, gia vị và nông sản thực phẩm, ... sản xuất
vẫn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Tổng Công ty. Giai đoạn này Tổng
Công ty cũng sẽ thực hiện việc đa dạng hoá các sản phẩm ( phát triển thêm các sản
phẩm mới nâng cao hơn nữa chất lượng mẫu mã sản phẩm cũ) để phù hợp với xu
hướng phát triển và nhu cầu thị trường .
Các thị trường truyền thống như liên bang Nga, Đông Âu, Nhật Bản, Trung
Quốc, Italia,... sẽ được củng cố và giữ vững. Bên cạnh đó Tổng Công ty cũng sẽ
tiến hành thăm dò, xâm nhập và phát triển một số thị trường mới có triển vọng đặc
biệt là thị trường Mỹ.
Bảng 19. Định hướng cơ cấu sản phẩm và thị trường đến 2010 của Tổng Công ty
rau quả Việt Nam.
Sản phẩm chủ lực Sản phẩm đa dạng khác Thị trường chính
1. Rau quả tươi
-Bắp cải, khoai tây, hành tây, dưa
hấu tỏi, cà rốt, gừng, nghệ, muối
tiêu..
- Hoa lay ơn, loa kèn, phong lan...
-Su hào, súp lơ, tỏi tây, đậu quả, cà
chua, dưa chuột,...
ởi, chan - -Dứa, chôm chôm, đuđủ, sầu
-Liên Bang Nga, một số nước châu
á.
-Đông Bắc á, Trung Quốc, Trung
Cận Đông...
2. Đồ hộp, nước quả đông lạnh
-Dứa, dưa chuột, vải, thanh long,
xoài,...
-Nước giải khát hoa quả tự nhiên
-Đông lạnh: dứa,...
- Cô đặc và pure: dứa, xoài, cà
chua,...
-Chuối, ổi, na, đậu cô ve, đậu Hà lan,
măng tre, nấm, rau, gia vị khác.
-Rau đông lạnh
-Pure quả khác
Liên bang Nga, Bắc Âu, Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc,...
3.Rau quả sấy muối
-Chuối sấy nhân hạt điều
- Dưa chuột nấm muối
Các loại rau quả muối khác Liên Bang Nga, Nhật Bản, một số
nước Bắc Mỹ.
4.Gia vị
-Hạt điều ớt tỏi gừng
Nghệ, quế, hồi, gừng Châu Phi, Liên bang Nga, Trung
Đông
5. Giống rau: Hạt rau muống,
cải các loại, tỏi...
Các loại hạt giống rau, đậu,
gia vị nhiệt đới khác
Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi,
Châu á...
6. Nông sản khác: cao su, cà
phê, lạc, vừng,...
Nông sản khác Trung Quốc
(Nguồn: Định hướng phát triển của Tổng Công ty rau quả Việt Nam giai đoạn
1998- 2000)
2.3 Định hướng về giá cả
Trong những năm trước kim ngạch xuất khẩu được tính theo giá FOB. Mức
giá chung cho các nhóm hàng là: rau tươi 300 USD/tấn., rau hộp và đông lạnh là
700 USD/tấn, rau sấy muối là 600USD/ tấn, gia vị 1500 USD/tấn. Các loại nông
sản khác 800 USD/tấn.
Tuy nhiên mức giá này không phải là cố định, nó phụ thuộc vào từng hàng
trong nhóm hàng, dựa vào mặt bằng giá cả chung của thế giới. Mức giá chính thức
được xác định sẽ là mức giá mà Tổng Công ty đàm phán kí kết hợp đồng với
khách hàng. Mức giá cũng có thể dần dần giảm đi khi Tổng Công ty sử dụng
những biện pháp kỹ thuật để tăng năng suất.
2.4 Định hướng nghiên cứu thị trường và thâm nhập
Trong giai đoạn này chủ yếu là tăng cường các đoàn của Tổng Công ty đi khảo sát
tìm hiểu, tham gia các hội chợ khảo sát về rau quả, cụ thể là ở khu vực thị trường
như; Châu á, Nga, Trung Quốc, Mỹ. Đặc biệt là cử chuyên gia sang thị trường Mỹ
nghiên cứu các vấn đề về thuế quan hàng rào chất lượng, tình hình cạnh tranh cùng
loại sản phẩm của Thái lan, Inđônêxia, Philipin...
2.5 Các định hướng chủ yếu về xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty
.
Về sản phẩm: đa dạng hoá sản phẩm nhưng vẫn xác định các sản phẩm chế
biến từ dứa vẫn đóng vai trò chủ đạo trong chiến lược xuất khẩu. Trong giai đoạn
bước đầu thâm nhập đầy khó khăn, để cạnh tranh được với các sản phẩm của các
nước khác cũng như bản thân các mặt hàng của các nhà sản xuất Việt Nam thì việc
đa dạng hoá là cần thiết. Ngoài các sản phẩm truyền thống như rau quả tươi, rau
quả hộp đông lạnh, rau quả sấy muối thì Tổng Công ty có kế hoạch kết hợp các
loại rau quả có tính chất khác nhau để tạo ra các sản phẩm hỗn hợp có tính hấp dẫn
cao, phù hợp với thị hiếu yêu cầu của người dân Mỹ.
Về kim ngạch xuất khẩu : Định hướng của Tổng Công ty năm 2005 đạt
100.000.000 USD và năm 2010 đạt 200.000.000 USD. Riêng đối với thị trường
Mỹ trong giai đoạn 2002- 2010 Tổng Công ty sẽ cố gắng để đạt tới mức giá trị
bình quân 4.200.000 USD/năm.
Định hướng về thị trường : đa dạng hoá thị trường , trong giai đoạn mới
thâm nhập, các sản phẩm của Tổng Công ty chỉ được một số rất nhỏ những danh
nhân nhập khẩu và các sản phẩm này Tổng Công ty cũng không biết sẽ được phân
phối như thế nào. Vì vậy trong giai đoạn 2002- 2010 Tổng Công ty sẽ mở các đại
lý phân phối và văn phòng đại diện của mình trên những vùng có nhu cầu lớn và
nhạy cảm với mặt hàng rau quả này.
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ
của Tổng Công ty rau quả Việt Nam.
Giai đoạn thâm nhập thị trường Mỹ là có một khó khăn, tuy vậy Tổng Công
ty xác định rằng thị trường Mỹ những năm tới chắc chắn sẽ trở thành nguồn quan
trọng đối với Việt Nam và với Tổng Công ty. Dự kiến đến năm2020 buôn bán 2
chiều sẽ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Để hoạt động xuất
khẩu sang thị trường Mỹ đạt hiệu quả cao, em xin đè xuất một số giả pháp và kiến
nghi sau:
1. Về phía Tổng Công ty rau quả Việt Nam
1.1 Đối với vùng nguyên liệu:
Với mục tiêu 15000 ha diện tích đất gieo trồng, Tổng Công ty cần có các
chính sách nhằm phát triển cây ăn quả, tiến hành công tác quy hoạch, xây dựng
vùng rau quả tập trung làm nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu .Cần có bước đi
thích hợp ch từng năm. Từng vùng và có các dự án cụ thể cho từng vùng và từng
loại cây cụ thể là:
Nâng cao khả năng khai thác, hoạt động của các nông trường, các vùng
nguyên liệu hiện có. Xác định các tiểu vùng quy hoạch sản xuất, mỗi tiểu vùng
sinh thái rà soát lại quy hoạch sản xuất, bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp với
điều kiện đất đai, khí hậu của từng vùng, gắn phát triển vùng nguyên liệu với cơ sở
chế biến. Trước mắt tập trung cải tạo vườn tạp, xây dựng các vùng chuyên canh
tập trung, thâm canh một số cây trồng có lợi thế, có khả năng cạnh tranh như: dứa,
chuối, vải, xoài, rau sạch...
Ngoài ra Tổng Công ty cũng cần có những hỗ trợ thêm về vốn, cơ sở vật chất
và những điều kiện khác để đảm bảo khâu bao thâu sản phẩm cho các vùng
nguyên liệu này.
1.2 Công tác tạo nguồn hàng
Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên phải có hàng
hoá để xuất khẩu nghĩa là phải có nguồn hàng để xuất khẩu. Công tác tạo nguồn
xuất khẩu chiếm phần lớn thời gian quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu
và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty . ở Tổng
Công ty rau quả Việt Nam đối với mặt hàng rau quả mặc dù trong số năm qua
Tổng Công ty đã thực hiên việc mở rộng các loại hình thu gom, tránh được việc
tạo nguồn hàng chỉ trong nội bộ mang tính chất tự túc, tự cấp, khép kín. Song các
hình thức thu mua còn manh mún chưa tập trung thành các đầu mối lớn làm giảm
chất lượng nguyên liệu sản xuất, công tác kiểm tra sản phẩm thu mua kém chặt chẽ
sát sao, từ đó dẫn đến chất lượng các sản phẩm sản xuất ra thấp mà giá thành lại
rất cao. Đòi hỏi trong những năm tới Tổng Công ty phải thành lập được mạng lưới
thu mua rộng khắp, với các đầu mối thu mua quy tụ lớn, giám định sản phẩm thu
mua chặt chẽ, đảm bảo số lượng và chất lượng nguyên liệu chế biến, giảm chi phí
lưu thông từ đó nâng cao được chất lượng sản phẩm sản xuất, hạ giá thành, nâng
cao sức cạnh tranh của các sản phẩm nói chung và sản phẩm dứa trên thị trường
Mỹ nói riêng.
1.3 Đối với sản xuất chế biến.
Đầu tư cho công nghệ sau chế biến: Để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu , cần
đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch (bảo quản và chế biến). Nghành chế biến rau
quả đã hình thành và phát triển trên 30 năm. Tuy nhiên cho đến nay hầu hết các
nhà máy chế biến ở tình trạng lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu bảo quản, chế
biến phục vụ xuất khẩu (trừ một số nhà máy mới được xây dựng và đầu tư mới
thuộc Tổng Công ty). Để nâng cao sức cạnh tranh của rau quả trên thị trường thế
giới cần triển khai việc đầu tư mở rộng các nhà máy hiên có và xây dựng mới theo
hướng:
- Nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, mở rộng quy mô tương xứng với
nhu cầu chế biến.
- Xây dựng một số nhà máy chế biến đặt tại vùng nguyên liệu đã được quy
hoạch nhằm giảm chi phí vận tải, cung cấp nguyên liệu kịp thời cho chế biến và
giải quyết việc làm cho lực lượng lao động tại chỗ. Khi xây dựng các nhà máy chế
biến rau quả đặt tại vùng nguyên liệu nên tính đến khả năng chế biến các sản phẩm
khác thời vụ để có thể tận dụng tối đa công suất máy.
Làm tốt công tác bảo quản rau quả: đối với rau quả, trong tương lai nhu cầu
xuất khẩu tươi sẽ chiếm tỉ trọng lớn. Do vậy việc đầu tư cho công nghệ bảo quản
tươi là rất quan trọng. Những giải pháp đặt ra đối với vấn đề này là kết hợp xử lí
bảo quản tại vùng nguyên liệu, tại các kho cảng bến bãi, phụ thuộc vào đặc tính
của từng loại rau quả để vừa giữ được chất lượng rau quả, vừa giảm tỉ lệ hư hao,
hạ giá thành sản phẩm. Cần áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm cổ truyền về bảo
quản rau quả, kết hợp với các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào bảo quản để đảm
bảo chất lượng sản phẩm khi thời gian cung cấp rau quả cho thị trường xuất khẩu
đòi hỏi kéo dài.
Riêng đối với thị trường Mỹ, ngoài đảm bảo các yêu cầu trên thì công tác
kiểm nghiệm đảm bảo vệ sinh cũng cần hết sức chú ý, do đó Tổng Công ty cần có
những cán bộ chuyên viên nắm vững nghiệp vụ kiểm tra về chất lượng hàng hoá.
Thêm vào đó, Tổng Công ty cũng phải đầu tư vào dây truyền sản xuất nhãn mác,
vỏ hộp để phù hợp với thị hiếu và yêu cầu của người dân Mỹ.
1.4 Đối với thông tin thị trường .
Thị trường Mỹ có tiềm năng rất lớn đối với Việt Nam nói chung và các sản
phẩm của Tổng Công ty nói riêng nhưng thị trường Mỹ cũng là thị trường khắt
khe, phức tạp và có sức cạnh tranh lớn. Điều đó đòi hỏi Tổng Công ty phải xâu
dựng một đội ngũ giỏi về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, biết thu thập và
xử lí thông tin, biết thông thạo một đến hai ngoại ngữ ( nhất là tiếng Anh) và phải
được trang bị đầy đủ thiết bị thu thập thông tin, qua đó nắm bắt nhạy bén các
thông tin, những sự biến động của thị trường Mỹ. Đắc biệt Tổng Công ty nên có
các chuyến đi thực tế sang thị trường để nắm bắt các thông tin một cách chính xác
hơn đồng thời qua đó tạo lập các mối quan hệ làm ăn trực tiếp với bạn hàng.
Thành lập phaòng Marketing thay thế cho phòng tổng hợp. Ngoài việc đảm
nhân chức năng thông tin của phòng tổng hợp, nó sẽ đi sâu nghiên cứu các khu
vực thị trường cụ thể, đề ra các chiến lược thị trường , phối hợp chặt chẽ với các
phòng ban để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu.
1.5 Đối với việc xúc tiến hoạt động xuất khẩu :
Tổng Công ty cần chú trọng công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm bằng
nhiều hình thức: truyền tin, tạp chí, panô, áp phích, cơ hội triển lãm trong và ngoài
nước. Một thực tế chứng minh rằng: mặc dù thị trường Liên Xô và Đông Âu đã
mất song kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty sang liên bang Nga vẫn cao là do
Tổng Công ty có văn phòng đại diên bên đó làm nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu. Do đó Tổng Công ty cần thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài, đặc
biệt là cần mạnh dạn sử dụng các dịch vụ tư vấn trên thị trường Mỹ. Hiên nay các
Công ty nước ngoài đã sử dụng dịch vụ tư vấn của các Công ty Mỹ, kể cả trong
việc đàm phán Hiệp định cấp chính phủ. Để có thể cạnh tranh được, Tổng Công ty
cũng nên xem xét khả năng này.
2. Về phía chính phủ và nhà nước.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu nói chung phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó cực
kỳ quan trọng là quản lí vĩ mô.
Quản lý vĩ mô đối với hoạt động xuất khẩu có thể thấy trong các mặt: hệ
thống thuế, tỉ giá hối đoái, các biện pháp quản lý phi thuế quan, các chính sách tài
chính và chính sách xuất khẩu.
Xuất phát từ thực trạng của hoạt động xuất khẩu nước nhà nói chung và hoạt
động xuất khẩu của Tổng Công ty rau quả Việt Nam nói riêng ( đặc biệt là hoạt
động xuất khẩu dứa sang Mỹ) cùng với kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của các
nước như Trung Quốc, các nước đang phát triển trong khu vực như đã nghiên cứu.
Em có một số kiến nghị đối với nhà nước về quản lý vĩ mô như sau:
2.1 Nhà nước nên có chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để thực
hiện chiến lược ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái chính
thức (TGHĐCT) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGHĐTT) .
Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá hối đoái do nhà nước công bố tại một
thời điểm nhất định. Nhưng tỷ giá hối đoái thực tế thì không phải là như vậy mà
còn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong nước và lạm phát ở các nước có quan hệ
thương mại. TGHHTT và TGHĐCT có mối liên hệ sau:
TGHĐC T* chỉ số giá cả trong nước
TGHĐTT =
Chỉ số giá cả nước ngoài.
Việc đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính giá thực tế cần phải được thực
hiện cẩn thận và cân nhắc kỹ vì một nước có thể buôn bán với nhiều nước khác.
Để sử dụng có hiệu quả chính sánh tỷ giá hối đoái có thể phải tính toán tỷ giá hối
đoái song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng. Nếu tỷ giá hối
đoái chính thức là cố định và chỉ số giá cả trong nước tăng lên hơn so với chỉ số
giá cả nước ngoài thì tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên và ngược lại.
TGHĐTT thay đổi ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các Công ty,
các doanh nghiệp. Do đó nó có thể gây tác động kìm hãm hay khuyến khích hoạt
động xuất khẩu. Điều này thể hiện: Nếu tỷ giá hối đoái thực tế quá cao thì hàng
nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng ta chịu chi phí cao
hơn do lạm phát nhưng hoạt động xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu
được, bán với tỷ giá cố định thấp. Nếu các nhà xuất khẩu tăng giá xuất khẩu để bù
đắp chi phí thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường. Như
vậy, tỷ giá thực tế tăng so với tỷ giá chính thức sẽ khuyến khích nhập khẩu nhưng
lại kìm hàm nhập khẩu.
Chính vì vậy, Để đảm bảo cho việc khuyến khích xuất khẩu nhà nước cần
có các giải phát giảm lạm phát ổn định giá trị đồng tiền nội địa và có tỷ giá chính
thức hợp lý phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển.
Là một đơn vi xuất khẩu đang bước đầu tạo lập quan hệ với thị trường Mỹ,
một quốc gia có đồng tiền mạnh trên thị trường thế giới, thì chính sách trên của
chính phủ cũng tạo động lực và là cơ sở để đẩy mạnh hoạt đông xuất khẩu rau quả
sang thị trường này ở Tổng Công ty rau quả Việt Nam.
2.2 Nhà nước nên thực hiện các biện pháp tài chính tín dụng nhằm khuyến
khích xuất khẩu.
Việc nhà nước áp dụng các biện pháp tài, chính tín dụng nhằm mở rộng xuất
khẩu là rất quan trọng, nhất là các nhà xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ. Để chiếm
lĩnh thị trường nước ngoài, thị trường mà ở đó cạnh tranh cực kỳ khốc liệt nhà
xuất khẩu cần phải thực hiện trả hoặc chậm dưới hình thức tín dụng hàng hoá với
lãi suất ưu đãi cho nhười mua. Trong trường hợp này, sự hỗ trợ của nhà nước là rất
cần thiết đối với các đơn vị. Sự hỗ trợ trong việc đảm bảo tài chính tín dụng, thể
hiện qua các hình thức:
Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu
+ Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu:
Vốn bỏ ra cho việc thực hiện hợp đồng sản xuất xuất khẩu thường rất lớn.
Người xuất khẩu phải có vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng
xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cần phải có vốn để kéo dài khoản tín dụng
dành cho khách hàng. Đặc biệt với các Công ty hay Tổng Công ty, vấn đề vố đang
là vấn đề rất khó khăn nên rất cần đến sự cung cấp tín dụng của nhà nước với lãi
suất ưu đãi. Cấp tín dụng trực tiếp cho Tổng Công ty không chỉ đơn thuần là sự hỗ
trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp cho Tổng Công ty giảm chi phí về
vốn cho khách hàng xuất khẩu và giá thành xuất khẩu. Việc đảm bảo tín dụng
ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng cao hiệu quả xuất khẩu vì: Có vốn Tổng
Công ty có thể thực hiện việc mà giá bán chịu thường bao gồm cả giá bán trả ngay
cộng với phí tổn bảo đảm lợi tức. Các ngân hàng nên hỗ trợ cho Tổng Công ty để
đẩy mạnh xuất khẩu cả trước và sau khi giao hàng.
+ Một là tín dụng trước khi giao hàng. Trước khi giao hàng Tổng Công ty
cần một lượng vốn để mua vật liệu phục vụ sản xuất thu gom hàng xuất khẩu,
trang trải các khoản chi phí, vận chuyển hàng tới cảng quy định trả tiền cước, bảo
hiểm, thuế... Lãi suất tín dụng xuất khẩu là yếu tố ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của
tổng Công ty. Lãi suất thấp cho phép Tổng Công ty bán được giá thấp để cạnh
tranh với hàng hoá khác, đặc biệt là đối với nhà xuất khẩu nước ngoài như: Trung
Quốc, Hà Lan...
+Hai là tín dụng sau khi giao hàng: Đây là hình thức mua hối phiếu xuất khẩu
tạm ứng theo chứng từ hàng hoá cuả ngân hàng đối với Tổng Công ty. Loại tín
dụng này thường để trả các khoản tín dụng trước khi giao hàng.
Nhà nước bảo đảm tín dụng
Như nhiều đơn vị xuất khẩu khác, trong điều kiện cho phép để chiếm lĩnh thị
trường , Tổng Công ty, thực hiện bán chịu, trả chậm cho nước ngoài. Việc bán
chịu như vậy thường có rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp này, để khuyến
khích xuất khẩu nhà nước cần phát huy hơn hiệy quả của dịch vụ bảo hiểm xuất
khẩu, đền bù mất vốn để Tổng Công ty cũng như các nhà xuất khẩu khác yên tâm
hoạt động và tránh được rỉu ro. Tuy nhiên bản thân Tổng Công ty cũng sẽ rất quan
tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu và thu tiền bán hàng
khi hết thời hạn sử dụng tín dụng.
2.3 Nhà nước nên đẩy mạnh việc thực hiện trơ cấp xuất khẩu.
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp cho Tổng Công ty tăng thu nhập, nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu do đó đẩy mạnh được xuất khẩu.
Đối với mặt hàng rau quả xuất khẩu sanh thị trường Mỹ hiện nay của Tổng
Công ty đanh chịu mức lỗ rất cao (Do bị cạnh tranh mạnh mẽ mà chưa được
hưởng thuế GSP và MSN.) Chính vì vậy việc trợ cấp xuất khẩu cho tổng Công ty
sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động này đạt hiệu quả tốt hơn vượt qua được khó
khăn trong hiện tại.
Trợ cấp trực tiếp: Là việc áp dụng thuế ưu đãi với hàng xuất khẩu, miễn hoặc
giảm thuế đối với nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, cho nhà
xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất. Đối với
Tổng Công ty, do được khuyến khích xuất khẩu nên thuế xuất khẩu được miễn,
mặc dù vậy hình thức xuất khẩu trực tiếp cần phải được phát huy tác dụng hơn
nữa, nhất là việc hoàn lại thuế nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất và giá ưu
đãi với các đầu vào khác.
Trợ cấp gián tiếp: là hình thức trợ cấp của Nhà nước thông qua việc Nhà nước
dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triễn lãm, quảng cáo...tạo điều kiện thuận
lợi cho giao dịch xuất khẩu hoặc nhà nước trợ giúp về kĩ thuật, đào tạo chuyên gia,
Tổng Công ty rất cần sự giúp đỡ của Chính phủ trong việc nghiên cứu thị trường,
cung cấp thông tin về thị trường, giới thiệu, triển lãm, quảng cáo hàng. Những vấn
đề này bản thân Tổng Công ty làm không có hiệu quả cao đặc biệt là đối với thị
trường Mỹ.
2.4 Biện pháp về thể chế tổ chức.
Nhà nước tạo điều kiện cho xuất khẩu bằng phương pháp thâm nhập thị
trường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài thông
qua việc:
-Công nhận hoặc thừa nhận, tham gia ký kết các công ước chung về thương
mại...
- Lập các viện nghiên cứu cung cấp thông tin đầy đủ,kịp thời chính xác
cho các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty nói riêng.
- Đào tạo cán bộ chuyên gia giúp tổng công ty.
2.5 Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu:
trong quá trình đổi mới cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu Nhà nước luôn chú
trọng đề ra các biện pháop khuuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu,
và đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế... Tuy cơ chế mới làm cho thủ tục xuất khẩu
thuận tiện đơn giản hơn nhiều nhưng vẫn tồn tại một số thủ tục phiền hà, cần sớm
hoàn thiện điều chỉnh.
về hệ thống thuế xuất nhập khẩu, cần hoàn thiện một số điểm để thực sự trở thành
công cụ quản lý có hiệu quả, như nhận xét của các chuyên gia kinh tế thì biểu thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam v\ừa quá đơn giản vừa quá phức tạp và thuế xuất đối
với một số mặt hàng tiêu dùng quá cao làm tăng buôn lậu và giảm hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
một số vấn đề quan trọng nữa là trong thời gian tới nhà nước và chính phủ cần có
những chính sách, biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy thông qua hiệp định thương
mại Việt Mỹ đã ký kết được hưởng các quy chế đãi ngộ tối huệ quốc MFN và chế
độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP.
Biểu 21. Biểu thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng vào Mỹ
Hàng hoá Không có MFN Có MFN Có GSP
1. Hàng may 80-90 45-50 -
2. Cao su giầy dép 88 37 -
3. Đồ chơi 70 0 -
4. Sản phẩm thép 20 0-5 -
5. áo khoác nữ 55 19 -
6. áo Jacket nam 54,5 21 2
7. áo sơ mi cọc tay 90 21 2
8. Dứa 35 6 3
( Nguồn: Vụ âu Mỹ- Bộ Thương Mại )
Đây sẽ là động lực và thuận lợi cho Tổng công ty rau quả Việt Nam trong hoạt
động xuất khẩu dứa sang Mỹ trong những năm tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100253_0643.pdf