Sau hàng chục năm thực hiện đổi mới nhằm phát triển một nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định : ổn
định nền kinh tế , tạo công ăn việc làm cho người lao động , nâng cao chất
lượng cuộc sống .
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2768 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những luận điểm của Chủ nghĩa Mac-Lênin và quan điểm của Đảng ta về vấn đề tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một là do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các
vùng, các ngành và trong nội bộ từng vùng , dẫn tới trình độ khác nhau của lực
lượng sản xuất , tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất
và nhiều thành phần kinh tế.
Hai là do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi
lên chủ nghĩa xã hội , không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ,nước ta tất yếu còn
có kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể của nông dan, thợ thủ công , người làm
thương nghiệp , dich vụ và kinh tế tự nhiên. Để phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , các thành phần kinh tế
không thể “xoá bỏ” hay “ chuyển đổi” một cach chủ quan duy ý chí mà phải
căn cứ vào trình độ phát triển của từng ngành nghề mà từng bước hình thành
quan hệ sản xuất mới từ thấp tới cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu .
Ba là trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ dần dần xuất
hiện những thành phần kinh tế mới như kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể,kinh
tế tư bản nhà nước.
Từ khi tiến hành đổi mới nước ta không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách
quan nhiều thành phần kinh tế mà còn phải thực hiện nhất quán chính sách cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.Luận điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về vấn đề tồn tại nhiều
thành phần kinh tế
Lịch sử nhân loai đã chứng minh rằng sản xuất nhỏ tất yếu sẽ tiến lên
sản xuất lớn hiện đại. Xét về hình thái tổ chức sản xuất và trao đổi sản phẩm
thì chủ nghĩa tư bản ngày nay đã đạt tới đỉnh cao của nền kinh tế thị trường .
Song về bản chất kinh tế – xã hội thì nó vẫn là một chế độ người bóc lột người
tinh vi nhất trong lịch sử nhân loai và sớm muộn tát yếu sẽ bị xã hội loài
người xoá bỏ thay thế bằng một xã hội tiến bộ và văn minh hơn đó là xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Ơ thời đại ngày nay nền kinh tế hàng hoá phát triển hay còn gọi là kinh
tế thị trường theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh,moi người đều được hưởng hạnh phúc dang là xu thế khách quan và
mong muốn phát triển của nhân loại nói chung, cũng như các nước lạc hậu
đang ở thời kì phát triển nói riêng . Sở dĩ nó trở thành xu thế khách quan bởi
các lẽ sau đây :
Một là,nền kinh tế thị trường tuy có những mặt tiêu cực và hạn chế
,song xét về ưu thế hiệu quả kinh tế đem lại cho xã hội thì có nhiều ưu điểm
hơn các hình thái kinh tế xã hội đã từng tồn tại trong xã hội loài người từ trườc
tới nay .
Hai là , chủ nghĩa tư bản ngày nay đã bộc lộ rõ tất cả những mặt xấu xa
và lỗi thời của nó, không còn là “hình mẫu” hấp dẫn để các nước lạc hậu noi
theo.
Ba là , bản thân giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư
bản phát triển hiệnnay cung đều tự thấy rằng chủ nghĩa tư bản đã đến lúc phải bị
xoá bỏ đẻ thay thế bằng một xã hội mới tiến bộ và văn minh hơn ,dảm bảo công
bằng về kinh tế chính trị,văn hoá và xã hội cho tất cả moi ngưòi. Chủ nghĩa
Mac-lênin gọi đó là chủ nghĩa ccộng sản mà giai đoạn thấp của nó là xã hội xã
hội chủ nghĩa.Xã hội này hàm chứa trong dó những nhân tố kinh tế ,chính trị
văn hoá và xã hội gắn với mục tiêu độc lập chủ quyền dân tộc giải phóng giai
cấp và giải phóng con người.
Sự nghiệp cách mạng của đảng ,nhà nước ta trước đây,hiện nay và mẫi
sau này là nhằm phấn đấu xây dựng một xã hội như thế ở nước ta để nhân dân ta
được đời đời được ấm no hạnh phúc.
Điều đáng lưu ý là xã hội xã hội chủ nghĩa theo Cac- mac thì nó phải ra đời ở
một nước có nền kinh tế phát triển cao khi mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tương ứng.
V.I.Lênin cho rằng theo tiến trình lịch sử tự nhiên của sư phát triển lực luợng sản
xuất thì chủ nghĩa xã hội là “một bước tiến liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản
nhà nước “vì “chủ nghiã tư bản độc quyền –nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội ,là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội,là nấc thang lịch
sử mà giưa nó (nấc thang đó ) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không
có một nấc nào ở giữa cả”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu
phải khuyến khích phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng theo Lê-nin
thì”hễ có trao đổi thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư
sản,một sự phát triển tư bản chủ nghĩa …nếu tìm cách ngăn cấm sự phát triển
kinh tế tư bản chủ nghĩa thì chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng
nao muốn áp dụng nó .Dại dột vì về phương diện kinh tế chính sách đấy là không
thể nào thực hiên đựơc;tự sát,vì những đảng nào định thi hành một chính sach
mhư thế nhất định sẽ bị phá sản”nên chinh sách cuối cùng có thể áp dụng được
và duy nhất hợp lí là không tìm cách ngăn cấm và chặn đứng sự phát triển của chủ
nghiã tư bản mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nứoc vì “từ chủ
nghĩa tư bản tiểu tư sản đi đến chủ nghĩa tư bản nhà nước vơí qui mô lớn cũng
như đi đến chủ nghĩa xã hội đều trải qua cùng một con đường”.
Như vậy ,định hướng lên chủ nghĩa xã hội ,bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa không có nghĩa là đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản ,bỏ qua
tất cả những gì đã có trong chủ nghĩa tư bản mà là sử dụng chủ nghĩa tư bản để
xây dựng cơ sở vật chất –kĩ thuât cho chủ nghĩa xã hội, là hướng kinh tế tiểu tư
sản và kinh tế tư bản chủ nghĩa vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước
để đi lên chủ nghia xã hội.Bởi vì “chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ ,với nền tiểu sản xuất, với
chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những ngưòi tiểu sản xuất tạo
nên . Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên
chủ nghĩa xã hội ,bởi vậy trong một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là không
thể tránh khỏi ,nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi.Bởi vậy
chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giũa nền tiểu sản
xuất và chủ nghĩa xã hội ,làm phuơng tiện, con đường, phương pháp ,phương
thức để tăng lực lượng sản xuất lên ”.Đây chính là giai đoạn lịch sử mà chủ
nghĩa Mác-Lênin gọi là thời kì quá độ mà thực chất của thời kì nay là nhà nước
của giai cấp vô sản và nhân dan lao động tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát
triển sức sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với những điều kiên vật
chất ấy làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội –một nhiệm vụ mà đáng lẽ
giai cấp tư sản phải đảm đưong nếu như đất nước trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
1.3.Quan điểm của Đảng ta
Xác định đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một hướng đi đúng đắn
phù hợp với xu thế thời đại và nguyện vong của nhân dân ta. Song đi lên chủ
nghĩa xã hội không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái “cốt
vật chất” của một nền kinh tế phát triển , cơ cấu hạ tầng vật chất thấp, kém khả
năng cạnh tranh ,sản xuất phân tán nhỏ lẻ,phân công lao động chưa sâu
sắc,trình độ lao động không cao, thị trường còn sơ khai. Trước tình hình đó
Đảng ta xác định :để đi tới chủ nghiã xã hội nước ta đương nhiên phải trải qua
những bước quá độ lich sử đặc biệt với mô hình tổ chức quá độ, với các hình
thức kinh tế quá độ ,với các bước đi và khâu trung gian quá độ để có thể rút
ngắn đáng kể thời gian thực hiện các trình tự phát triển tự nhiên và đạt được
những mục tiêu định hướng đã chọn.Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đường lối đổi mới xuất phát từ tất yếu đó.
Kinh tế nhiều thành phần là thể hiện và đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ thấp và không đều của lực lượng sản xuất , đồng thời khơi
dậy tiềm năng của từng thành phần kinh tế trong nèn kinh tế quốc dân.Ngoài ra
,việc chuyển cơ chế quản lí hành chính ,tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
quản lí thị trường là đảm bảo sự thích ứng của quan hệ sản xuất với điểm xuất
phát thấp của lực lượng sản xuất ở nước ta. Sự chuyển đổi này đã làm cho cơ
chế quản lí từ bảo thủ ,trì trệ thành sự quản lí năng động và hiệu quả , chuyển
chế độ sở hữu từ một hình thức (quốc doanh và tập thể )sang đa chủ thể sở hữu
về tư liệu sản xuất .Điều này đã khắc phục được sự trì trệ tư duy của “ông chủ
tập thể”,khơi dậy tiềm năng sáng tạo của từng chủ sở hữu .Mọi người lao động
, từng ông chủ sở hữu trăn trở tìm tòi sáng tạo tìm cách làm giàu cho mình và
cho toàn xã hội .quan điểm dân giàu nước mạnh là hoàn toàn biện chứng .Dân
có giàu thì nước mới mạnh .Việc chuyển phương thúc phân phối “cào bằng”
bình quân triệt tiêu động lực lợi ích của người lao động sang phương thức phân
phối theo lao động và và hiệu quả đã tạo chất men kích thích lợi ích chính
đáng của toàn thể người lao động . Phân phối theo lao động và hiệu quả của sản
xuất –kinh doanh không chỉ khơi dậy động lực lợi ích mà còn tạo ra nhu cầu
khơi dậy đông lực lợi ích .Đây là hai yếu tố hết sức quan trọng quyết định sự
tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta đang tồn tại trong điều kiện quốc tế mới ,thời đai mới –thời đại
lực lượng sản xuất quốc tế hoá. Đại hội Đảng VI cũng khắc phục sự hạn chế
của tư duy “khép kín” ,đóng kín với với thế giới bên ngoài trước đây , chuyển
sang tư duy “mở”-mở cửa ra thế giới ,hội nhập với cộng động nhân loại . Sự
chuyển biến cơ bản này vừa xuất phát từ đặc điểm thời đại và tình hình đất
nước, vừa có tác dụng hội tụ sức mạnh thời đại với sức mạnh Việt Nam .
Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở thời kì
quá độ theo định huớng xã hội chủ nghĩa ,vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước là một định hướng chiến lược cực kì quan trọng mang
tính khách quan và có khả năng thắng lợi ở nước ta ,bởi vì:
Một là,chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới phù hợp với
thực trạng của lực lượng sản xuất chưa đồng đều ở Việt Nam .
Hai là, nó phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại ngày
nay –thời đại các nước đều hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí
vĩ mô của nhà nước .Sự phù hợp này sẽ giúp nước ta có thêm thế và lực để phát
triển kinh tế nhanh hơn.
Ba là, phù hợp với mong muốn thiết tha của nhân dân ta là được đem
hết tài năng, sức lực để lao động làm giaù cho đất nước và cho bản thân mình.
Bốn là ,nó cho phép có điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả nhất
các tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước , có thể tranh thủ tốt
nhất sự giúp đỡ,hợp tác từ bên ngoài nhằm phát triển nền kinh tế nuớc ta
hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh và hiện đại hoá . Chỉ có nhiều thành
phần kinh tế , chúng ta mới có khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn ,kỹ
thuật, mới phát huy được mọi tiềm năng của con người Việt Nam ,mới áp dụng
nhanh nhạy các thành tựu khoa học và công nghệ, mới vận dụng sáng tạo có
hiệu quả các thành phần kinh tế “các mắt xích trung gian ,các nấc thang hợp lí ,
các nhịp cầu thích hợp” vào trong quá trình quản lý và phát triển kinh tế – xã
hội .
Rõ ràng chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mà đại hội
VI của Đảng đề ra phù hợp với kinh tế xã hội của đất nước và đặc điểm thời đại
.Chủ trương đó khẳng định sự tồn tai khách quan của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở Việt Nam hiên nay.
2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên Chủ
Nghĩa Xã Hội.
Căn cứ vào nguyên lí chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam ,Đảng
cộng sản Việt Nam xác định : nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội Việt Nam có 6 thành phần.Đó là :
-Kinh tế nhà nước .
-Kinh tế tập thể.
-Kinh tế cá thể tiểu chủ.
-Kinh tế tư bản tư nhân.
-Kinh tế tư bản nhà nước .
-Kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài
2.1.Kinh tế Nhà nước(KTNN)
2.1.1.Quan niệm mới về kinh tế Nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công
cộng(công hữu )về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước ).Kinh
tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước ,các quĩ dự trữ quốc gia , các
quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào
vòng chu chuyển kinh tế.
Với quan niệm trên , KTNN có nội hàm và ngoại diện khá rộng.Quan
niệm này đã là một nhạn thức mới có ý nghĩa lý luận góp phần khắc phục sai
lầm mà một thời chúng ta đã đồng nhất KTNN với khái niệm doanh nghiệp
Nhà nước .Và một khi số doanh nghiệp Nhà nước có những tiêu cực , làm ăn
thua lỗ so với kinh tế tư nhân,làm nảy sinh sự hoài nghi lý luận về vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế này.
Như vậy KTNN là một khái niệm rộng , trong đó doanh nghiệp nhà
nước là một bộ phận rất quan trọng,là chỗ dựa để KTNN có điều kiện giư vai
trò chủ đạo.
2.1.2.Vai trò của KTNN
Kinh tế nhà nước gữi vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân
tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quanh trọng và
công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phân quan trọng nhất của nền kinh tế
phải giữ vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ,
nêu gương về năng xuất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp
luật.
Để làm như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ
cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có,
đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ
phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những
hướng sau:
- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tông công ty
nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện
tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện
đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
- Thục hiên tôt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hóa sở hữu đối với
những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%.
- Giao bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước
không cần nắm giữ.
- Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không
co hiệu quả và không thực hiện được các biên pháp trên.
Về mặt quản lí kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu
và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lí công ty đối
với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một
chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho hội đồng
quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ
trong kinh doanh. Tiếp tục đỏi mới cơ chế, chính sách đới với doanh nghiệp
nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ
triệt tiêu để bao cấp,doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên tthị trường;tự chịu
trách nhiệm sản xuất kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp .
2.1.3.Thực trạng phát triển
2.1.3.1.Thành tựu.
Khu vực kinh tế nhà nước chiém giữ phần lớn các nguồn lực tài sản, đất
đai đến nguồn vốn tài chính, vốn con người ,đồng thời có những đóng góp
nhiều nhất cho tăng trưởng kinh tế .
Trong năm 2003, khu vực kinh tế nhà nước hiện có khoảng 5175 doanh
nghiệp , chiếm 56,5% tổng vốn đầu tư phát triển và đóng góp hơn 38%
GDP.doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thậm chí độc quyền trong
nhiều ngành kinh tế , nhất lá những ngành có vị trí then chốt như bưu chính-
viễn thông, hàng không, điện lực…khu vực này đã sản xuất ra 39,5%giá trị sản
lượng công nghiệp ,trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 23,7% tổng thu ngân
sách nhà nước. Hầu hết các hoạt động sản xuất và dịch vụ công ích đều do
doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm
2001 2002 2003
Dóng góp cho GDP(giá trị thực tế) 38.4 38.31 38.22
Đóng góp cho tổng vốn đầu tư và
phát triển (giá trị thực tế)
58.1 56.2 56.5
Đóng góp cho tổng thu ngân sách 22.28 23.37 23.71
Tỷ trong đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế (đơn
vị tính %)
2.1.3.2.Hạn chế.
Tuyvậy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước hiện nay chưa thực sự xuất
phát từ thực lực vượt trội của khu vực này so với các thành phần kinh tế khá và
so vói các doanh nghiệp trên thế giới. đạc điểm này thể hiện rõ ở một số điểm
sau :
Thứ nhất ,năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp
kém ,nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Nợ của khu vực doanh
nghiệp nhà nước quá lớn ,nợ quá hạn ,nợ khó đòi chưa có dấu hiệu thuyên giảm
(chiếm tới 74,8% trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc
doanh).so với các doanh nghiệp trên thế giới ,doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
có qui mô nhỏ bé ,công nghệ lạc hậu ,tạo gía tri gia tăng thấp ,sản xuất ra
những hàng hoá và dịch vụ ít có khả năg canh tranh trên thi trường thế giới .
Thứ hai , so với các thành phần kinh tế khác ,doanh nghiệp nhà nước
được nhận nhiều sự hỗ trợ và hưởng những đặc quyền mà các doanh nghiệp
khác không thể có được. Doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế
chấp ;đựoc giao đất mà không phải thuế đất ,được giao thực hiện các dự án lớn
của nhà nước mà nắm chác sẽ thu lãi lớn …tong 4 năm 97-00, ngân sách nhà
nước đã đầu tư gần8200 tỷ đồng cho doanhnghiệp nhà nước, miễn giảm thuế
1351 tỷ đồng , xoá nợ 1086 tỷ đồng,giãn nợ 540 tỷ đồng ,giảm trích khấu hao
200 tỷ đồng. Hiện nay , nhà nước vẫn đang tiép tục cấp thêm bổ sung vốn cho
các doanh nghiệp nhà nước ,để trong 5 năm 2001-2005,cơ bản tạo đủ vốn cho
doanh nghiệp.
Thứ ba, bên cạnh sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước,hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng nhà nước và các dịch vụ khác, kể cả dịch vụ công
ích ,vẫn còn thấp. Hệ thống ngân hàng chưa đảm bảo cung cấp nguồn vốn đầy
đủ và thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Các dịch vụ công,nhất
là những dịch vụ phục vụ khu vực doanh nghiệp còn yếu kém ,chi phí cao chất
lượng thấp .
. 2.2.Kinh tế tập thể.
2.2.1.Quan niệm về kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do
ngưòi lao động tự nguyện góp vố ,cùng kinh doanh ,tự quản lí theo nguyên tắc
tập trung, bình đẳng cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa
trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể ;liên kết rộng rãi những người
lao động ,các hộ sản xuất ,kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ thộuc các
thành phần kinh tế ;không giới hạn quy mô và địa bàn ;phân phối theo lao động
,theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ ;hoạt động theo nguyên tác tự chủ tự
chịu trách nhiệm.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính ,bao gồm lợi ích các thành
viên và lợi ích tập thể ,đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên góp
phần xoá đói giảm nghèo,tiến lên làm giàu cho các thành viên .
Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực,vững chắc,xuất
phát từ nhu cằu thực tế, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát
triển của sản xuất .
Khu vực nông nghiệp nông thôn ,phát triển kinh tế tập thể phải trên cơ sở đảm
bảo quyền tự chủ kinh tế của kinh tế hộ ,trang trại ,hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ
,trang trại phát triển gắn với tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới ;không ngừng nâng năng suất, hiệu quả và
sức cạnh trnah trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.2.Vai trò.
Kinh tế tập thể là một thành phần kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.Nó bổ xung và cùng với KTNN hợp thành
nền tảng cho chế độ xã hội mới _xã hội XHCN.Cùng với KTNN,kinh tế tập thể
sẽ đảm bảo cho nền kinh tế nước ta giữ đúng định hướng XHCN.
Bên cạnh đó kinh tế tập thể cũng tạo điều kiện để xây dựng cơ sở vật chất
, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá nông thôn.Kinh tế tập thể trong
công nghiệp đóng góp một phần đáng kể trong giá trị tổng sản lượng của toàn
ngành công nghiệp có năm đạt tới 40%.
2.2.3.Thực trạng phát triển.
2.2.3.1. Thành tựu.
Về mô hình hoạt động, sau nhiều nỗ lực cải cách của nhà nước ,so với
trước đây khu vực kinh tế tập thể đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã kiểu
mới có cơ chế hoạt đông và quản lí năng đông hơn, loại hình đa dạng hơn (kể
cả hình thức và lĩnh vực hoạt đông ).Các hình thức liên doanh giữa hợp tác với
doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác cũng có xu hướng phát
triển.
Các hợp tác xã kiểu mới có hiệu quả làm ăn tăng lên đáng kể , đã đưa
đất nước từ chỗ sản xuất lương thực không đủ cung cấp nhu cầu vươn lên trở
thành quốc gia xuất khẩu gạo và một số hàng nông sản khác hàng đầu thế
giới,chất lượng nông sản cũng tăng lên,nhiều loại đã đáp ứng được tiêu chuẩn
của khu vực và thế giới.
Chúng ta đã thành lập được khá nhiều quỹ tín dụng để hỗ trợ cho các
HTX nói chung và hộ gia đình nông dân nói riêng làm ăn ngày càng hiệu quả
hơn,nâng cao thu nhập và mức sống.
Kinh tế tập thể trong các ngành khác như công nghiệp , thương nghiệp,
giao thông vận tải cũng đã có những thành tựu nhất định , thu hút được ngày
càng nhiều lao động,đóng góp vào tổng giá trị sản phẩm của mỗi ngành và của
đất nước với tỷ trọng ngày một lớn.
2.2.3.2.Hạn chế.
Mặc dù chuyển sang mô hình HTX kiểu mới nhưng quy mô , cơ sở vật
chất vẫn chưa hài hoà và vẫn chưa xứng với tiềm năng .Công cụ lao động chủ
yếu vẫn còn thủ công ,máy móc và trang thiết bị chưa nhiều,do đó chưa đáp
ứng được nhu cầu và mong muốn,năng suất lao động vẫn còn rất hạn chế.
Vốn của HTX trong kinh tế tập thể chưa lớn ,trình độ tổ chức sản xuất
kinh doanh còn yếu kém , nhiều sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao,dịch vụ
đơn giản và chất lượng phục vụ còn thấp nên chưa đủ khả năng cạnh
tranh.Nhiều HTX chìm sâu trong thua lỗ.có tới 52%HTX mua bán thu không
đủ chi.
Đội ngũ cán bộ quản lý trong kinh tế tập thể còn cồng kềnh,trình độ
chưa cao và hoạt động còn kém hiệu quả. Thêm vào đó ,do ảnh hưởng của cơ
chế quan liêu bao cấp ,một bộ phận cán bộ quản lý còn tham nhũng ,quan liêu
làm thất thoát ngân sách Nhà nước gây trì trệ cho kinh tế tập thể nói riêng và
cho nền kinh tế nói chung.
2.3Kinh tế cá thể tiểu thủ.
2.3.1.Quan niệm về kinh tế cá thể tiểu thủ.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và giađình.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa
vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
2.3.2.Vai trò.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ hiện đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều
ngành,nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả
tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao
động. Do đó,việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ
cần được khuyến khích.
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này chủ yếu hoạt động dưới
hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo,có tiềm năng to lớn,có vị
trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh
tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết
việc làm cho người lao động-một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh
tế-xã hội. Trong những năm qua,thành phần kinh tế này phát triển nhanh trong
nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Nó đã góp
phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế-xã hội.Tuy nhiên,cũng cần thấy
rằng,thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không
thể loại bỏ những hạn chế vốn có như :tính tự phát, manh mún, hạn chế về kĩ
thuật.Do đó, Đảng ta chỉ rõ:cần giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ, giải quyết các
khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ,về thị trường tiêu thụ sản
phẩm.”Nhà nước tạo điều kiện, giúp đỡ để phát triển,khuyến khích các hình
thức tổ chức hợp tác tự nguyện,làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát
triển lớn hơn”.Phát triển các loại hình thông tin với quy mô phù hợp trên từng
địa bàn.
2.3.3.Thực trạng phát triển.
2.3.3.1.Thành tựu.
Khu vực kinh tế cá thể có quy mô lớn và đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế.Hàng năm,khu vực kinh tế này đã tạo ra khoảng 31%
GDP,không kém phần đóng góp so với khu vực kinh tế nhà nước.Thành phần
kinh tế này có mặt ở mọi địa bàn,cả nông thôn và thành thị.ở khu vực nông
thôn,kinh tế hộ phát triển rộng khắp,phát triển mạnh từ chủ trương xoá bỏ mô
hình hợp tác xã gượng ép của cơ chế cũ.Năm 2000,cả nước có khoảng 10 triệu
hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo
nghị định 66.Số lượng các trang trại đanh có xu hướng ngày càng gia
tăng.Trong các thành phố lớn,kinh tế cá thể vẫn chiếm một vị trí nhất
định,khoảng 23,9% GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.Trong những
năm gần đây,với chính sách khuyến khích sản xuất,kinh doanh của nhà
nước,nhiều cá nhân đã năng động tự đầu tư kinh doanh với quy mô nhỏ,tự tạo
việc làm cho mình và tạo thu nhập.Khu vực kinh tế cá thể có vai trò quan trọng
trong tạoviệc làm cho người lao động với lượng vốn ít,huy động được trong
nhân dân.Nừu như doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn các nguồn lực trong
xã hội nhưng chỉ thu hút được 4,8%lực lượng lao động trong cả nước,thì khu
vực kinh tế cá thể với nguồn lực ít nhưng lại tạo ra việc làm cho hơn 50% số
lao động hiện có.
Trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa làm tốt vai trò huy động
tiền nhàn rỗi trong nhân dân,khu vực kinh tế cá thể đã làm nhiệm vụ đưa nguồn
vốn nhàn rỗi đó lưu thông trong nền kinh tế thông qua quan hệ họ hàng,quen
biết.Sự phát triển của kinh tế cá thể và tiểu chủ đã tạo ra sự năng động cho nền
kinh tế,đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.Tuy nhiên,sự lớn mạnh của khu
vực kinh tế này đã thể hiện sự manh mún và trình độ phát triển thấp của nền
kinh tếViệt Nam.
2.3.3.2.Hạn chế
Các hộ kinh doânh cádoaanh nói chung còn gặp khó khăn về vốn hoạt
đọng , phai vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời hạn ngắn,
rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng cua các ngân hàng thương mại,nhất
là nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Sản xuất của hộ gia đình cá thể vẫn sử dụng kỹ thuật thủ công là chính
,chưa đàu tư được trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất,năng suất lao động
còn thấp ,đời sống chưa cao,hiệu quả kinh doanh còn kém.
Môi trường pháp lý cho khu vực kinh tế này chưa đồng bộ dẫn đến tình
trạng các cơ quan thừa hành và cá hộ kinh doanh lúng túng trong chấp hành
pháp luật ,gây khó khăn cho việc đăng ký hoạt động của các hộ cá thể.Và chính
yeeus điểm này gây ra tình trạng kinh doanh không lành mạnh ở khu vực kinh
tế này như chốn thuế ,làm hàng giả... gây mất lòng tin người tiêu dùng ,ảnh
hưởng tới doanh thu cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh .
2.4.Kinh tế Tư bản tư nhân.
2.4.1.Quan niệm về kinh tế Tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột
sức lao động làm thuê.
2.4.2.Vai trò.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,thành
phầnkinh tế này còn đóng vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực
lượng sản xuất,xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn
đề xã hội.Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động,nhạy bén với kinh tế thị
trường,do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh
tế của đất nước.Hiện nay,kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát
triển,nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại,dịch vụ và kinh doanh
bất động sản,đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô vừa,nhỏ.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân còn góp phần giảI quyết công ăn việc
làm cho người lao động tạo thu nhập và do đó cảI thiện đời sống nhân dân.
NgoàI ra kinh tế tư bản tư nhân dã và đang đóng góp một phần vào tổng
sản phẩm quốc dân ,thúc đẩy cạnh tranh và làm tăng kim ngạch xuất khẩu ở
nước ta .
2.4.3.Thực trạng phát triển.
2.4.3.1 Thành tựu
Khu vực kinh tế cá thể có quy mô lớn và đóng vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế.Hàng năm,khu vực kinh tế này đã tạo ra khoảng 31%
GDP,không kém phần đóng góp so với khu vực kinh tế nhà nước.Thành phần
kinh tế này có mặt ở mọi địa bàn,cả nông thôn và thành thị.ở khu vực nông
thôn,kinh tế hộ phát triển rộng khắp,phát triển mạnh từ chủ trương xoá bỏ mô
hình hợp tác xã gượng ép của cơ chế cũ.Năm 2000,cả nước có khoảng 10 triệu
hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo
nghị định 66.Số lượng các trang trại đanh có xu hướng ngày càng gia
tăng.Trong các thành phố lớn,kinh tế cá thể vẫn chiếm một vị trí nhất
định,khoảng 23,9% GDP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.Trong những
năm gần đây,với chính sách khuyến khích sản xuất,kinh doanh của nhà
nước,nhiều cá nhân đã năng động tự đầu tư kinh doanh với quy mô nhỏ,tự tạo
việc làm cho mình và tạo thu nhập.Khu vực kinh tế cá thể có vai trò quan trọng
trong tạoviệc làm cho người lao động với lượng vốn ít,huy động được trong
nhân dân.Nừu như doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn các nguồn lực trong
xã hội nhưng chỉ thu hút được 4,8%lực lượng lao động trong cả nước,thì khu
vực kinh tế cá thể với nguồn lực ít nhưng lại tạo ra việc làm cho hơn 50% số
lao động hiện có.
2.4.3.2 Hạn chế
Các doanh nghiệp thuốc khu vực kinh tế tư bản tư nhân nói chung cũng
vấp phải những khó khăn như khu vực kinh tế cá thể tiểu thủ .Ngoài ra còn có
những khó khăn khác như:
Hầu hết các doanh nghiệp thiếu mặt bằng kinh doanh phải đi thuê dất
với giá thuê cao hơn rất nhiều so với gái thuê mà nhà nước qui định.
Hơn nữa chúng ta chưa xây dựng được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh tạo
điệt kiện cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển có hiệu quả .
Qui mô doanh nghiệp nói chung còn nhỏ .Trong các doanh nghiệp phi
nông nghiệp bình quân vốn sử dụn của một doanh nghiệp chi là 3,7 tỉ .Bên
cạnh đó nhiều doanh nghiệp chưa đảm bảo tính công khai minh bạch trong
kinh doanh chưa thực hiện đúng các qui định của pháp luật về lao động ,chế độ
bảo hiểm, tiền lương....... Vẫn còn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và
hoạt động phi pháp như buôn lậu chốn thúe sản xuất hàng hoá kém chất lượng .
2.5.Kinh tế Tư bản Nhà Nước.
2.5.1.Quan niệm về kinh tế Tư bản Nhà Nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức
liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nớc với n trong nớc và ngoài nớc, mang lại
lợi ích thiết thực cho các bên đầu t, kinh doanh.
2.5.2.Vai trò.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế t bản nhà nớc là một
thành phần kinh tế, đồng thời là một hình thức kinh tế trung gian quá độ kết
hợp chặt chẽ lợi ích của hai giai cấp đối lập: lợi ích trực tiếp của nhà t bản và
lợi ích, mục tiêu XHCN của giai cấp công nhân. Bởi vậy, với cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần của thời kì quá độ, kinh tế tư bản nhà nước được coi là hình
thức kinh tế hội tụ đầy đủ, đồng thời cả hai mục tiêu kinh tế-xã hội giữa tư bản
tư nhân và nhà nước vô sản. Kinh tế tư bản nhà nước hội tụ được nhiều xu thế,
nó kết hợp tối sức sức mạnh của nhà tư bản với vai trò, sức mạnh của nhà nước
trong khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển để giành lợi thế
cạnh tranh trên thơng trờng. Nó không chỉ là chiếc cầu nối giữa nhà nước với t-
ư bản tư nhân trong nớc mà còn mở rộng bàn tay nhà nước với tư bản nước
ngoài, hớng chúng vào thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của
CNXH và chuyển dần nền sản xuất tiểu nông lên sản xuất lớn.
ở nớc ta, thông qua phát triển kinh tế t bản nhà nớc còn tạo điều kiện cải
tạo t sản dân tộc,củng cố địa vị thống trị của giai cấp công nhân.
Sự tồn tại, vận động, phát triển kinh tế tư bản nhà nớc ở nớc ta là nhu
cầu tất yếu để xây dựng kinh tế thị trờng. Với cơ sở vật chất hiện đại hơn, sản
phẩm làm ra chất lợng hơn nên tạo ra một lợi thế cạnh tranh trên thị trờng lớn.
2.5.3.Thực trạng phát triển.
2.5.3.1. Thành tựu
Khu vực kinh tế tư bản nhà nớc đóng góp khoảng 4% cho GDP hàng
năm. Đây cha phải là con số lớn so với sự đóng góp của các thành phần kinh tế
khác nhng sự ra đời của khu vực kinh tế này có nhiều ý nghĩa gián tiếp, thúc
đẩy quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam. Trong thời kì đầu thu hút đầu t nớc
ngoài, khu vực này
là đường dẫn cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đồng thời là kênh truyền
dẫn những kiến thức quản lý và công nghệ, tác động tích cực đến doanh nghiệp
nhà nớc, đối tác trong liên doanh.
Có nghiên cứu cho rằng, trong tương lai, thành phần kinh tế t bản nhà n-
ớc sẽ phát triển mạnh hơn do: Thứ nhất, các thành phần kinh tế khác muốn liên
doanh với kinh tế nhà nớc để tìm chỗ dựa và yên tâm phát triển lâu dài. Thứ
hai, nhà nớc có thể định hớng phát triển khu vực tư nhân thông qua liên doanh
và liên kết với khu vực này. Trờng hợp này rất có thể xảy ra, nhất là trong tình
hình hiện nay khi khu vực kinh tế nhà nớc đang đợc hởng nhiều u đãi từ phía
nhà nớc. Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang có chính sách thúc đẩy cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc.
2.5.3.2. Hạn chế
Việc thực hiện hình thức liên doanh liên kết với nước ngoàI diễn ra còn
chậm .Thục tục giấy tờ rườm rà , phức tạp
Năng lực đIều hành của đội ngũ quản lí còn rất hạn chế .
Lợi dụng Việt Nam thiếu vón và thiếu năng lực bên đầu tư nước ngoàI
đã vi phạm một ssố khía cạnh như mua chuộc cán bộ quản lí và cán bộ đối tác
,đầu tư chui ,chèn ép hà khắc công nhân ,chốn thuế, tăng giá đầu tư thiết bị ….
Những hạn chế này cần được giảI quyết thoả đáng tạo đIũu kiện thúc
đẩy mở rộng hình thức liên doanh liên kết với nước ngoàI một cách có hiệu quả
trong thời gian tới ở nước ta .
2.6.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2.6.1.Quan niệm về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể có
100% vốn nước ngoài ( một thành viên hoặc nhiều thành viên ) , có thể liên
kết, liên doanh với doanhnghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước
ta.
2.6.2.Vai trò.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
của nước ta. Trong mười năm qua (1991-2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm.
Trong 5 năm (1996-2000) , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện
khoảng 10 tỷ USD, chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công
nghiệp, trên 22% kinh ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của
cả nước
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn
đầu tư của nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều
việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư
nước ngoài”.
2.6.3.Thực trạng phát triển.
2.6.3.1. Thành tựu
Từ năm 1987 đến nay, vị trí của khu vực này trong nền kinh tế ngày
càng được cải thiện và đóng vai trò quan trọng. Năm 2002, mức đóng góp của
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 14% GDP. Đến năm 2003, cả nước có trên
4500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn
đăng kí là 42 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện 25 tỷ USD, chiếm khoảng 18%
trong tổng vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Khu vực kinh tế này thường
đầu tư vào các ngành kinh tế có công nghệ cao, hiện đại, theo định hướng xuất
khẩu. Năm 2003, nếu tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn
đầu tư của nước ngoài đạt khoảng 7,5 tỷ USD,chiếm trên 50% tổng kinh ngạch
xuất khẩu của cả nước.Đầu tư nước ngoài hiện thu hút trên 45 vạn lao động
làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và hàng chục vạn lao động làm việc
trong các khu xây dựng,cung ứng dịch vụ với gần 10000 cán bộ quản lý và 5
vạn cán bộ kĩ thuật.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế Việt Nam.
1992 1996 2000 2001 2002
Tổng vốn FDI (triệu USD) 492 2518 2043 2300 1333
Tỷ trọng trong tổng đầu tư (%) 21 28,6 18,6 18,3 18,8
Đóng góp cho GDP (%) 2 7,4 13,2 13,7 13,9
Tỷ trọng xuất khẩu trong tổng
giá trị xuất khẩu (%)
5,3 23,4 22,2 24 30
Tỷ trọng trong tổng LĐ (%) 0,4 0,7 0,95 1,17 1,22
Đóng góp vào tổng thu ngân
sách Nhà nước (%)
4,8 5,2 6 6
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần rất lớn vào ổn định kinh
tế vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Khu vực này
hướng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và
dịch vụ có công nghệ cao. Phần lớn các ngành có công nghệ cao, hiện đại đều
do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm giữ như khai thác dầu khí,
lắp ráp ô tô, xe máy, công nghiệp điện tử, thiết bị văn phòng. Năm 2002, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản xuất dầu thô,hơn 90% sản
xuất,lắp ráp ô tô,máy giặt,điều hoà nhiệt độ,hơn 80% trong sản xuất và lắp ráp
xe máy và tivi,60% sản lượng thép...
2.6.3.2. Hạn chế
Theo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010,trong 5 năm 2001-
2005,Việt Nam sẽ phải thu hút khoảng9-10 tỷ USD. Tuy nhiên, từ đầu năm
2001 đến tháng 8 năm 2003,cả nước mới thu hút được khoảng 4,58 tỷ USD
vốn đầu tư nước ngoài.Nguyên nhân chính là do mức độ cạnh tranh trong thu
hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng,trong khi môi trường đầu
tư của Việt Nam hiện nay vẫn chưa đủ hấp dẫn và thuận lợi.Chính sách và cả
thể chế ở Việt Nam hiện chưa thật rõ ràng,minh bạch,khó có thể dự đoán được
do hay thay đổi.Chính vì vậy đã gây cho nhà đầu tư nước ngoài tâm lý lo ngại
vì môi trường đầu tư không ổn định,còn nhiều rủi ro.Nhiều lĩnh vực còn hạn
chế sự tham gia của đầu tư nước ngoài như dịch vụ vận tải nội địa,tài chính-
ngân hàng,bảo hiểm,viễn thông,quảng cáo.
Thành phần kinh tế nay vẫn chưa đồng nhất với các thành phần trong
nước cả về mục tiêu và cơ chế vận hành nhiều lúc còn vi phạm lợi ích của các
thành phần kinh tế khác .
Cần phảI có chính sách thu hút mạnh hơn , bên cạnh đó phảI quan tâm,
theo dõi , phân thích đIũu chỉnh để đảm bảo mối tương quan hợp lí với các
thành phần kinh tế trong nước và lợi ích đất nước.
3.Xu hướng vận động của các thành phần kinh tế trong quá trình đi
lên CNXH.
3.1.Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của KTNN để khẳng định vai
trò chủ đạo.
Nguồn lực kinh tế của đất nước là do nhà làm chủ sở hữu hay kinh tế
nhà nước bao gồm ngân sách nhà nước , dự trữ quốc gia và phần sở hữu của
nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước .Để điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã
hội theo đường lối , chính sách của Đảng và nhà nước trong từng thời kì nhà
nước cần sử dụng tổng thể các nguộn lực thuộc kinh tế nhà nước chứ không
phải chỉ dựa vào hệ thống doanh nghiệp nhà nước . Từ góc độ này nhận thấy
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước tỏng xây dựng quan hệ sãn
xuất theo đinh hướng Xã Hội Chủ Nghĩa .
Để nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nàh nước, chúng ta
cần phải thực hiện túc Nghị quyết Trung ương lần thứ ba, khóa IX về đổi mới,
sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nàh nước. Cụ thể, cần tập trung giải quyết tốt một số việc sau đây:
- Đẩy nhanh tiến độ cố phần hóa donah nghiệp nhà nước và mở rộng
việc mua bán cổ phiếu công khai trên thị trường.
- Tổng kết việc chuyển các công ty nhà nước sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ – con; hình thành mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên.
- Đổi mới việc quản lý với doanh nghiệp nhà nứoc; xóa bỏ bao cấp và
những bảo hộ bất hợp lý; thực hiện đầu tư vốn thông qua công ty tài chính, đưa
các doanh nghiệp nhà nước thật sự đối mặt với các yêu cầu của thị trường và
cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
- Tăng quyền tự chủ kinh doanh cảu doanh nghiệp Nhà nước; nâng cao
hiệu quả hoạt động của các công ty mạnh, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn.
- Kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp nhà nưúơc hoạt động trong lĩnh
vực độc quyền; điều tiết lưọi nhuận độc quyền do nhà nước mang lại.
3.2.Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác.
Trong phong trào hợp tác hoá nước ta đã xây dựng dược hàng vạn HTX
các loại . Nhưng khi chuyển sang cơ chế mới HTX đã bộc lộ nhiều nhược điểm
như là kinh daonh kém hiệu quả, sản xuất chậm phát triển, lợi ích kinh tế của
người lao động và quyền làm chủ không được bảo đảm .
Trước thực trạng làm ăn thua lỗ kém hiệu quả của kinh tế tập thể đã xuất
hiện những quan điểm đòi giải thể HTX . Đây là một quan điểm sai lầm. Yêu
cầu khách quan đặt ra là kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX cần phải được tổ
chức với qui mô, trình độ quản lí và phương thức hoạt động phù hợp với điều
kiện cụ thể . Phương hướng chung là :
-Hợp tác hoá phải căn cứ vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, cắn
cứ vào đặc điểm công nghệ, trình độ kĩ thuật và trinh độ quản lí .
-Phát triển đa dạng ngành nghề với qui mô và mức độ khác nhau .
-Trong quá trình sản xuất kinh doanh các HTX từng bước xây dựng tích
luỹ về cơ sở vật chất kĩ thuật để tăng cường sức mạnh kinh tế .
-Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ban quản lí HTX cần phối hợp với
chính quyền thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới .
-Nha nước cần có chính sách ưu đãi khuyến khích giúp đỡ kinh tế hợp
tác phát triển có hiệu quả .
3.3.Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế Tư bản Nhà nước.
áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà
kinh doanh tư nhân trong và ngoài nước coi trọng llieen doanh với tư bản tư
nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát
triển tăng sức cạnh tranh với bên ngoài .
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí để thu hút có
hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác kinh doanh.
3.4.Hỗ trợ tạo điều kiện kinh tế cá thể ,tiểu thủ phát triển.
Kinh tế cá thể tiểu thủ có vị trí uan trọng lâu dài . Nhà nước cần giúp đỡ
kinh tế cá thê tiểu thủ giải quyết khó khắn về vốn, khoa học và công nghẹ, về
thị trường tiêu thụ sản phẩm .
Trong một số nghành nghề, kinh tế cá thể tiểu thủ tỏ ra ưu thế hơn các
thành phần kinh tế khác. Nhin chung đến một giới hạn nhất định , kinh tể cá thể
tiểu thủ sẽ phát huy heets tiềm năng của mình. Vì thế cần hướng dẫn nó vi lợi
ích thiết thân và nhu cầu phát triển sản xuất, từng bước đi vào hợp tác với
những hình thức và qui mô thích hợp.
3.5.Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển trong các
ngành nghề , lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Kinh tế tư bản tư nhân mới được khôi phục và phát triển trong thời gian
gần đây song sự đóng góp của nó đối với nền kinh tế là không nhỏ .Do đó cần
khuyến khích, tạo điều kiện và hướng dẫn nó phát triển nhằm : huy động vốn,
tạo việc làm, tăng tổng sản phẩm xã hội, tăng thu cho ngân sách nhà nước .. .. ..
Sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân không thể là mục đích tự thân
nố đòi hỏi phải có sự giúp đỡ và định hướng của nhà nước .
Để khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển và định hướng nó vào
con đường tư bản nhà nước , cần phải :
-Xoá bỏ mặc cảm với kinh tế tư bản nhà nước : đặt lòng tin và gây chữ
tín giữa nhà nước với các chủ thể kinh tế tư bản tư nhân . Bảo vệ quyền sở hữu
và lợi ích hợp pháp của họ .
-Tạo lập môi trường và điều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân hoạt động :
khuôn khổ luật pháp, kết cấu hạ tầng , tiếp thị .. .. ..
-Tăng cường quản lí nhà nước đối với kinh tế tư bản tư nhân thông qua
việc cấp giấy phép kinh doanh, kiểm tra kiểm soát theo luật dịnh. Nhà nước
tăng cường các biện pháp hướng dẫn các nhà tư bản tư nhân làm giàu đúng
pháp luật, chống ăn gian dối người tiêu dùng, lừa đảo góp vốn kinh doanh,
chốn lậu thuế đối với nhà nước .
-Cần khuyến khích các chủ doanh nghiệp tư nhân bán cổ phần ưu đãi
cho người lao động trong doanh nghiệp ,xây dựng quan hệ hợp tác giữa chủ và
thợ trên cơ sở bảo đảm lợi ích hợp pháp của hai bên. Khuyến khích ,tạo điều
kiện cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển, thường xuyên phải đấu tranh chống
tính tự phát của nó . Tuỳ theo sự phát triển của lực lương sản xuất mà hướng nó
vào kinh tế tư bản nhà nước bằng những hình thức, bước đi khác nhau, gắn liền
với quá trình tổ chức lại nền sản xuất xã hội. Chỉ có nhu vậy mới đảm bảo hình
thành các nghành kinh tế thống nhất trong cả nước, tạo ra cơ cấu kinh tế mới
trong phạm vi cả nước, cũng như từng địa phương, việc liên kết, liên doanh
giữa các thành phần kinh tế , các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh mới
đem lịa hiệu quả kinh tế cao .
Tóm lại có thể hình dung quá trinh xây dựng và phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần theo đinh hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là phát triển mạnh mẽ
sản xuất hàng hoá của nhiều thành phần.Để thực hiện tốt xu hướng vận đông
các thành phần kinh tế,trước hết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước trong việc phát triển các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên
CNXH.Phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta
hoàn toàn phụ thuộc vào việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan, trước hết
là vai trò của Đảng và Nhà nước. Do đó, phải cải cách bộ máy Nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực sự là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Trọng tâm là cải cách nền hành chính Nhà nước, đẩy mạnh
chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, quan liêu. Đây là việc rất khó khăn, lâu
dài, đòi hỏi phải dựa vào khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy cao độ quyền làm
chủ của nhân dân.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập thị trường đồng bộ của các yếu
tố: sản xuất, tổ chức, quản lý. Như vậy, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn
chỉnh luật kinh tế và thực thi nghiêm luật pháp kinh tế.
Mặt khác, năng lực quản lý của Nhà nước phụ thuộc vào năng lực đội
ngũ cán bộ quản lý. Bởi vậy, cần đặc biệt coi trọng việc đào tạo mới và đào tạo
lại đội ngũ cán bộ quản lý để họ tiếp cận và tham gia chủ động vào các liên
doanh trong và ngoài nước.
Sau nữa cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách của Nhà nước . Tiếp
tục tạo hành lang pháp lý, điều kiên, môi trường thuận lợi, bình đẳng để các
thành phần kinh tế phát huy tiềm năng. Cần tiếp tục rà soát sự chồng chéo,sự
bất hợp lý giữâ các văn bản đã ban hành để bổ sung, chỉnh sửa đồng htời tiếp
tục ban hành một số đạo luật mới để tạo môit trường thuận lợi cho các thành
phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
Đẩy mạnh tiến độ cải cách hành chính nhà nước. Hiện nay, thái độ, tâm
lý làm việc và phương thức, công cụ quản lý của hầu hết các cơ quan nhà nước
có liên quan chưa có sự thay đổi rõ nét, và do đó, chưa thật sự phù hợp với cưo
chế, chính scáh mới về phát triển kinh tế. Trước mắt, cần hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị quản lý hành chính
các cấpđể nâng cao hiệu quả uqản lý của nhà nước đói với các thành phần kinh
tế.
Hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nền kinh tế. Có chính
sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng
ngân hàng bằng cách đơn giản hóa thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức
cho vay vốn như bảo lãnh tín dụng, thuê mua tài chính.
Ngoài ra cũng cần nâng cao vai trò quản lý kinh tế cảu chính quyền các
cấp, nâng cao tính chhủ động và hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh
tế, nâng cao vai trò của các hiệp hội kinh doanh ...
C_ Kết luận.
Sau hàng chục năm thực hiện đổi mới nhằm phát triển một nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định : ổn
định nền kinh tế , tạo công ăn việc làm cho người lao động , nâng cao chất
lượng cuộc sống ... Bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được vẫn còn
tồn tại một số hạn chế khó khăn đã làm ảnh hưởng đến tiến trình đổi mới. Hơn
nữa chúng ta còn phải luôn luôn chống lại các âm mưu thu địch và diễn biến
hoà bình .Có ổn định được chính trị thì mới có thể tạo đà cho phát triển kinh tế
vì vậy luon đòi hỏi có sự quản lí và dẫn đương của Đảng và nhà nước.
Là một sinh viên kinh tế em tự nhận thấy mình cần nỗ lực học tập các
môn khoa học Mac-Lênin để tạo cho bản thân một cơ sở lý luận góp phần hoàn
thiện hệ thống chính trị
Danh mục tài liệu tham khảo:
-Giáo trình Kinh Tế Chính Trị Mac-Leenin-NXB Chính Trị Quốc Gia.
-Giáo trình Kinh Tế Chính Trị chương trình cao cấp –NXB Chính rị
Quốc Gia.
-Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh
tế trong thời kì quá độ lên CNXH. TS Trương Tuấn Biểu- Học Viện Chính Trị
Quân Sự
-Kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp .
GS.TS Lê Hữu Nghĩa Học Viện Chính Trị Quân Sự
-Các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay . TS Nguyễn Tất Thắng –
Tạp chí Cộng Sán
-Đổi mới , tăng cường thành phần kinh tế nhà nước .Lí luận , chính sách
và giải pháp .GS.TS Vũ Đình Bách .NXB Chính Trị Quốc Gia.
-Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII,IX. NXB
Chính Trị Quốc Gia.
Mục lục
Trang
A-Đặt vấn đề 1
B-Nội dung 2
1 Những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Leenin và quan điểm của
Đảng ta về vấn đề tồn tại nên kinh tế nhiều thành phần trong thời kì
quá độ lên CNXH ở Việt Nam
2
1.1.Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH
ở Việt Nam là một tất yếu khách quan
2
1.2Luận điểm của chủ nghĩa Mác-Leenin 3
1.3.Quan điểm của Đảng ta 5
2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH
ở Việt Nam
6
2.1.Kinh tế nhà nước 6
2.2.Kinh tế tập thể 9
2.3Kinh tế cá thể tiểu thủ 10
2.4.Kinh tế tư bản tư nhân 12
2.5.Kinh tế tư bản nhà nước 13
2.6.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 15
3 Xu hướng vận động của các thành phần kinh tế trong quá trình đi
lên CNXH
16
C-Kết luận 21
Danh mục tài liệu tham khảo 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Những luận điểm của Chủ nghĩa Mac-Lênin và quan điểm của Đảng ta về vấn đề tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.pdf