Giữ vững kỷ cương và kỷ luật nhà nước, thiết lập trật tự mới
trong đời sống kinh tế xã hội đất nước, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa sử dụng hệ thống thanh tra kiểm tra kiểm soát,
hệ thống các cơ quan xử lý nhằm đảm bảo việc thi hành pháp luật,
tăng cường trật tự quản lý, thực hiện kỷ cương kỷ luật kinh doanh.
Tiến hành hoạt động kiểm tra kiểm soát trên toàn bộ nền kinh tế quốc
dân làm trong sạch bộ máy Nhà nước, lành mạnh hóa các mối quan hệ
xã hội.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2412 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân định chức năng quản lý về kinh tế của Nhà nước và chức năng kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
phân định chức năng quản lý về
kinh tế của Nhà nước và chức năng
kinh doanh
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thì việc xảy ra
những khuyết tật của nó là điều không thể tránh khỏi. Do đó cần phải
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước để hạn chế những khuyết tật này.
Nhưng nhiều khi Nhà nước lại thực hiện một cách quá lỏng lẻo chức
năng quản lý của mình và nhiều khi nhà nước lại can thiệp quá sâu
vào công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính sự trùng chéo
này làm cho cả hoạt động quản lý về kinh tế của Nhà nước và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên kém hiệu quả gây ách tắc
và lãng phí. Vấn đề được đặt ra cần phải làm rõ chức năng quản lý về
kinh tế và chức năng kinh doanh hay không, giới hạn của công tác
quản lý về kinh tế của nhà nước như thế nào và giới hạn chức năng
kinh doanh là ở đâu. Có hai quan điểm về việc phân định chức năng
quản lý về kinh tế của nhà nước và chức năng kinh doanh.
ý kiến thứ nhất : Cần phải phân biệt tr iệt để hai chức năng, tách
hẳn công tác quản lý nhà nước với công tác kinh doanh. Tạo môi
trường tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ định
hướng, kiểm tra kiểm soát công việc kinh doanh nếu sai pháp luật . ý
kiến này phù hợp với xu thế thời đại , hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
ý kiến thứ hai : Cho rằng không nên phân biệt tách bạch hai chức
năng này, vì nếu tách ra thì nhà nước xã hội chủ nghĩa không khác gì
nhà nước tư bản chỉ có mỗi nhiệm vụ “cai tr ị” , còn các doanh nghiệp
khác nào độc lập như các nhà tư bản.
Phần I
Những lý luận chung về việc cần phải
phân định chức năng quản lý về kinh tế của Nhà nước và chức
năng kinh doanh
Qua điều tra khảo sát , t rao đổi ý kiến với các nhà kinh doanh và
các nhà hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước thì có hai xu hướng
quan điểm nổi lên. Một là ở tầm vi mô thì các nhà doanh nghiệp cho
rằng nhà nước quản lý vĩ mô về kinh tế nhiều khi chưa thực hiện đúng
chức năng quản lý, chưa tạo ra được môi trường thuận lợi cho công
việc kinh doanh của doanh nghiệp, gây ách tắc khó khăn cho hoạt
động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là tầm vĩ mô thì
các nhà hoạch định lại cho rằng doanh nghiệp kinh doanh làm ăn thua
lỗ là do doanh nghiệp không thích ứng kịp thời không sáng tạo, nhiều khi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp vượt quá tầm kiểm soát của các cơ quan nhà nước.
Vậy thực trạng mối quan hệ giữa vĩ mô và vi mô hiện nay như thế nào? Làm thế nào để
giải quyết vấn đề này.
Trong thực tế sai lầm trước đây mà chúng ta đang khắc phục là ở
chỗ không vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan nên tạo ra cơ
sở của sở hữu công cộng tràn lan, kém hiệu quả. Chúng ta đã trộn lẫn
giữa chức năng quản lý của nhà nước về kinh tế với chức năng sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhiều khi nhà nước ôm đồm làm
cả chức năng kinh doanh trong doanh nghiệp, nhà nước trở thành bà
đỡ đầu cho các doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp thì dựa dẫm vào
nhà nước, t ìm mọi cách để che dấu việc làm ăn thua lỗ của mình để
duy tr ì doanh nghiệp mà móc kinh phí của nhà nước hay nói cách
khác là doanh nghiệp chưa thực hiện đúng chức năng kinh doanh của
mình. Cái chính ở đây là chúng ta đã không xác lập rõ phạm vi của sự
quản lý nhà nước về kinh tế và phạm vi sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, không xác lập rõ quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp. Chính sự quản lý yếu kém của nhà nước đã tạo cơ hội phát
tr iển cho nhiều hiện tượng t iêu cực trong xã hội như buôn lậu đầu cơ
tham nhũng, xâm phạm tài sản và vốn nhà nước. . . Điều này đã làm
cho nền kinh tế của chúng ta không phát tr iển lên được, gây thiệt hại
tới lợi ích chung của nhà nước và của nhân dân, làm rối loạn hoạt
động kinh tế và xã hội.
Sau khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường nhiều thành phần
thì nhiều doanh nghiệp đã không đứng vững trên thương trường do đó
lâm vào t ình trạng phá sản. Nhưng cũng có rất nhiều doanh nghiệp đã
tỏ ra được thế mạnh của mình, biết chuyển hướng đi đúng đắn, sáng
tạo cho kinh doanh, tự do kinh doanh trong khuôn khổ nhà nước cho
phép và đã tạo cho mình một t iềm lực và chỗ đứng của mình trong xã
hội.
Như vậy qua xem xét thực tế ta thấy mấu chốt của vấn đề nhìn
nhận doanh nghiệp như thế nào để từ đó có những chính sách thích
hợp với nó để tạo cho nó thế phát tr iển. Chúng ta đều phải thừa nhận
rằng doanh nghiệp là nơi tạo ra của cải cho xã hội, xã hội có giàu hay
không là nhờ doanh nghiệp có phát tr iển hay không. Thừa nhận đó đòi
hỏi chúng ta phải giải quyết những vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
Phần II
Phân biệt chức năng quản lý của nhà nước về kinh tế và chức năng
kinh doanh
Liên t iếp các đại hội Đảng toàn quốc quốc khóa IV, V, VI, VII,
VIII đều nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt rõ chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp
nhằm đảm bảo chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh, tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp đồng thời tăng cường công
tác quản lý nhà nước về kinh tế ở các cơ quan hành chính nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân nhiều thành phần, do đó sự
phân biệt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng kinh
doanh của các đơn vị kinh tế là một vấn đề mang t ính nguyên tắc.
Việc phân biệt làm rõ chức năng quản lý của nhà nước về kinh tế và
chức năng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tạo cho doanh nghiệp
được tự chủ, tự do trong sản xuất kinh doanh và có môi trường kinh
doanh tốt hơn. Vậy trước khi nghiên cứu việc phân định chức năng
quản lý của nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh của doanh
nghiệp cần làm rõ môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
I-/ Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh là sự vận động tổng hợp tương tác lẫn
nhau giữa các yếu tố gây ảnh hưởng trực t iếp hoặc gián t iếp đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố đó được hình thành
theo bốn nhóm dưới đây:
Nhóm 1 : Các loại thị trường gồm:
Thị trường hàng hóa, dịch vụ
Thị trường bất động sản
Thị trường sức lao động
Thị trường khoa học - công nghệ - thông t in
Thị trường t iền tệ ( thị trường vốn, thị trường chứng khoán, các
yếu tố: giá, t ỉ giá hối đoái , lãi suất t ín dụng, ngân hàng tài chính. . . )
Các loại thị trường nói trên tạo các điều kiện “đầu vào”, “đầu ra”
cần thiết cho kinh doanh. Tuy nhiên, ở nước ta chủ yếu mới có thị
trường hàng hóa mang t ính cổ điển còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, các thị trường khác mới được hình thành còn manh mún hoặc đang
hình thành như thị trường bất động sản, thị trường khoa học công
nghệ, thông t in.
Nhóm 2 : Môi trường kinh tế - chính tr ị - xã hội
Được thể hiện ở tr ình độ phát tr iển kinh tế - xã hội, các yếu tố
thuộc chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, những
đặc điểm truyền thống tâm lý xã hội. . . Những yếu tố này cũng ảnh
hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn
nước ta có kinh tế phát tr iển sẽ tạo ra thị trường rộng lớn về hàng
hóa, dịch vụ, thị trường đầu vào lẫn đầu ra cho doanh nghiệp. Cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội phát tr iển cao cũng là yếu tố quan trọng mở
rộng thị trường cho các doanh nghiệp. Sự ổn định về kinh tế, chính
tr ị , xã hội trật tự an toàn, an ninh quốc gia cũng tạo thuận lợi rất cơ
bản cho kinh doanh.
Nhóm 3 : Môi trường sinh thái
Cũng là các yếu tố tác động quan trọng tới môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp. Ông cha ta thường nói “Thiên thời, địa lợi ,
nhân hòa”. Thời t iết thuận lợi , kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thuận
lợi nhất là nhưng doanh nghiệp nông - công nghiệp, sẽ có nguồn
nguyên l iệu bảo đảm ổn định có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu chế
biến sản phẩm, bảo đảm vệ sinh, có sức cạnh tranh hơn.
Nhóm 4 : Môi trường hành chính - kinh tế, bao gồm các yếu tố về
mô hình tổ chức hoạt động của bộ máy và cơ chế quản lý kinh tế - xã
hội của nhà nước.
Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn nhau, chúng phát sinh
và vận động theo những quy luật khách quan - cơ chế thị trường (bàn
tay vô hình), có sự quản lý của nhà nước (bàn tay hữu hình). Trong
đó sự quản lý của nhà nước đóng vai trò quyết định đến bản chất ,
mục đích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
vì vậy sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích đảm bảo cho các
doanh nghiệp hoạt động thuận lợi có hiệu quả. Nhà nước phải nhận
thức đúng đắn về vai trò chức năng của mình để từ đó có những tác
động tốt nhất , tạo đòn bẩy, khuyến khích kinh doanh. Như vậy qua
phân t ích về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp ta thấy ngoài
các yếu tố khách quan (các quy luật , các điều kiện kinh tế - xã hội)
còn các yếu tố chủ quan (Nhà nước và chính bản thân mỗi doanh
nghiệp). Do đó cần phải phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.
II-/ Mục tiêu của Nhà nước và mục tiêu của doanh nghiệp
1-/ Mục tiêu của Nhà nước
Do mục t iêu của Nhà nước là phát tr iển nền kinh tế quốc dân, ổn
định chính tr ị , xã hội, tăng thu nhập quốc dân. . . nên Nhà nước thực
hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản
lý khu vực kinh tế nhà nước mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lý
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để quản lý được nền kinh tế quốc dân,
Nhà nước với bộ máy quản lý của mình phải thực hiện rất nhiều loại
công việc khác nhau, những công việc này hình thành nên khái niệm
chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Vậy chức năng quản lý Nhà
nước về kinh tế là hình thức chỉ biểu hiện phương hướng và giai đoạn
tác động có chủ đích của nhà nước lên đối tượng và khách thể quản lý
nhà nước về kinh tế. Là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà
nước phải t iến hành trong quá tr ình quản lý kinh tế đất nước.
Quản lý Nhà nước về kinh tế là quản lý kinh tế vĩ mô, nghĩa là
quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân với t ính cách là một hệ thống
lớn phức tạp do nhiều phần tử nhỏ hơn với cấp độ khác nhau hợp
thành trong mối quan hệ tương tác. Đó là tổng thể các ngành kinh tế,
các vùng, các địa phương cùng các cơ sở kinh tế của chúng. Nhà nước
quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô toàn xã hôi với việc thực
hiện hàng loạt chức năng của nó.
2-/ Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp:
Do mục t iêu của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận cao nhất, ổn
định doanh nghiệp, tăng thị phần, tạo uy t ín cho sản phẩm của mình. . .
do đó doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh của mình thông
qua việc tổ chức, điều hành hệ thống trong doanh nghiệp nhằm đạt tới
mục t iêu đã đề ra. Do doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường
nên doanh nghiệp phải tuân theo những quy luật của thị trường tùy
theo những giai đoạn để có những tác động có lợi nhất cho doanh
nghiệp trong kinh doanh. Vậy chức năng kinh doanh của doanh
nghiệp là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có
chủ đích của doanh nghiệp lên đối tượng kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà doanh nghiệp
phải t iến hành trong quá tr ình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói đến kinh doanh của doanh nghiệp là nói ở tầm vi mô trong đó các
mối quan hệ của doanh nghiệp trong quá tr ình sản xuất kinh doanh
như là bạn hàng, đầu ra đầu vào những doanh nghiệp có l iên quan
trực t iếp tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
III-/ Phân biệt chức năng quản lý kinh tế của nhà nước và chức
năng kinh doanh.
1-/ Về quan hệ quản lý
Quản lý Nhà nước về kinh tế và quản tr ị kinh doanh ở các doanh
nghiệp là một hệ thống gồm hai phân hệ.
Một bên là Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý. Nhà nước
định hướng cho sự phát tr iển đất nước, đề ra những mục t iêu dài hạn,
trung hạn và ngắn hạn để tạo điều kiện cho phát tr iển kinh tế. Nhà
nước phải ngăn chặn những chiều hướng xấu có thể xảy ra cho việc
hướng tới mục t iêu của mình. Do kinh tế thị trường có hai mặt, bên
cạnh những ưu việt của nó còn có những khuyết tật không thể tránh
khỏi do đó Nhà nước phải can thiệp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất
những khuyết tật có thể xảy ra. Do đó Nhà nước chính là chủ thể
quản lý, là những người có tác động rất lớn tới sự phát tr iển của nền
kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói r iêng. Thực tế cho thấy trong
kinh tế thị trường không thể có giới hạn chung về sự can thiệp của
nhà nước theo mọi giai đoạn. Tùy theo yêu cầu cụ thể mà nhà nước có
thể kiểm soát ngành này, can thiệp điều t iết l ĩnh vực kia hoặc bảo trợ
nâng đỡ ngành kia để đảm bảo mục t iêu kinh tế - xã hội nói chung.
Nhà nước phải có thực lực kinh tế đủ mạnh thì mới can thiệp có hiệu
quả. Phải xây dựng một cơ cấu tổ chức bộ máy đủ mạnh, xây dựng cơ
sở hạ tầng tốt cho sự phát tr iển kinh tế. Nhà nước hướng các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh theo định hướng mà nhà nước đã chọn.
Nhà nước đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp nhưng
trên cơ sở pháp luật cho phép. Vậy ta có thể thấy rằng dù í t hay nhiều
trong công việc kinh doanh nhà nước vẫn có những can thiệp vào. Và
các doanh nghiệp chính là một trong những đối tượng chủ yếu mà nhà
nước quản lý về mặt kinh tế. Ranh giới không thể lẫn lộn, một đơn vị
cơ sở kinh tế dù to đến đâu cũng không phải là một cấp nhà nước và
ngược lại một cấp Nhà nước dù nhỏ đến đâu không thể trở thành một
tổ chức kinh doanh và nó có thể quản lý đơn vị kinh doanh đó, phải
chấp hành ý kiến của Nhà nước.
Một bên là các đơn vị kinh tế với tư cách là đối tượng bị quản lý.
ở tầm vĩ mô hiện nay cả nước có khoảng 6000 DNNN, khoảng 9000
công ty cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, 20.000 doanh nghiệp tư
nhân, hơn 2.100.000 doanh nghiệp hộ gia đình. Tất cả đều hoạt động
sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước. Các doanh nghiệp có thể tự do kinh doanh trên những l ĩnh
vực khác nhau mà pháp luật cho phép. Họ phải t iến hành quá tr ình
kinh doanh từ khâu đầu đến khâu cuối, từ sản xuất sản phẩm đến việc
t iêu thụ sản phẩm và thu t iền. Giám đốc (tổng giám đốc) là người
chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành bộ máy kinh doanh của doanh
nghiệp, là người vạch hướng đi cho doanh nghiệp. Nhưng dù kinh
doanh sản phẩm nào, phát tr iển theo hướng nào đều phải được sự cho
phép của nhà nước. Nhà nước với tư cách chủ thể quản lý đã có
những tác động đến công việc kinh doanh, có thể ngăn cản, hạn chế
nếu việc kinh doanh không theo định hướng hoặc làm tổn hại đến môi
trường, có thể khuyến khích giúp đỡ việc kinh doanh phát tr iển nếu
đem lại lợi ích cho đất nước. Doanh nghiệp phải tuân theo mệnh lệnh
nhà nước ban ra, phải chịu sự quản lý của nhà nước.
2-/ Về đối tượng quản lý:
Đối tượng quản lý của nhà nước về kinh tế là các quan hệ giữa
một cơ quan có quyền lực chính tr ị với những tập thể đại diện cho
quyền sử dụng những tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao phó
(đất đai , biển rừng, hầm mỏ, nhà máy. . . ) . Nhà nước là người quản lý
tài sản mang t ính sở hữu toàn dân và đem giao cho các doanh nghiệp
sử dụng. Cơ quan quản lý về kinh tế của nhà nước t iến hành các hoạt
động tổ chức trong phạm vi toàn bộ bộ máy quản lý và với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Thiết lập hệ thống các cơ quan nhà nước các
cấp và hệ thống các tổ chức kinh tế, điều hòa bằng các biện pháp kinh
tế - hành chính. Nhà nước phải thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm
soát đối với tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế quốc dân trên cơ
sở đảm bảo cho các đơn vị kinh doanh thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ được pháp luật quy định. Tránh t ình trạng tham ô tham
nhũng bòn rút tài sản của nhà nước, tư nhân hóa các tài sản của nhà
nước. Vai trò quản lý của nhà nước là hướng dẫn, trọng tài kích thích
phục vụ kiểm tra uốn nắn ngăn chặn cho phép. . .
Đối tượng quản lý của các doanh nghiệp là các quan hệ được
thiết lập trong quá tr ình kết hợp lao động sống và lao động vật hóa
dưới hình thức hiện vật , giá tr ị . Doanh nghiệp sử dụng tài sản, vốn,
kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp để kinh doanh nâng cao uy
t ín, phát tr iển doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền sử dụng lợi
nhuận thu được. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì tài sản trong
doanh nghiệp là của chủ doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp chịu trách
nhiệm với toàn bộ quá tr ình kinh doanh. Doanh nghiệp có quyền tự do
lựa chọn nhân công, lựa chọn công nghệ cho quá tr ình sản xuất kinh
doanh của mình. Còn các doanh nghiệp nhà nước thì tài sản trong
doanh nghiệp là thuộc quyền sở hữu của nhà nước và chủ doanh
nghiệp chỉ có quyền sử dụng tài sản đó. Các mối quan hệ của các
doanh nghiệp chủ yếu là với bạn hàng của mình trong công việc kinh
doanh. Mối quan hệ này dẫn ra bình đẳng theo phương thức đôi bên
cùng có lợi . Hình thức của các mối quan hệ này thông qua các loại
hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động. Chủ doanh nghiệp phải là người
năng động, sáng tạo biết chớp thời cơ thì mới phát tr iển được doanh
nghiệp của mình. Đồng thời phải nắm được thông t in, chính sách mới
mà nhà nước ban hành để vận dụng hướng cho doanh nghiệp một
hướng đi đúng phù hợp với pháp luật .
3-/ Về công cụ quản lý
Công cụ quản lý của nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật . Nhà
nước chi phối tất cả các đơn vị kinh tế ràng buộc và tạo môi trường
cho tất cả hoạt động trong trật tự kỷ cương, tạo cơ sở pháp lý cho các
đơn vị quản lý nội bộ và quan hệ với nhau. Hình thức chủ yếu là nhà
nước ra các văn bản quản lý nhà nước. Văn bản không chỉ phản ánh
thông t in quản lý đối với các doanh nghiệp mà còn thể hiện ý chí ,
mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước đối với các đối tượng quản lý.
Văn bản còn là cơ sở công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các
doanh nghiệp. Kiểm tra là một khâu tất yếu để bảo đảm cho bộ máy
quản lý về kinh tế hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó một công cụ
không kém phần quan trọng đó là sử dụng như các chính sách, các
đòn bẩy kinh tế để tạo điều kiện cho phát tr iển kinh tế. Như đã biết
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đều phải
tuân theo các quy luật kinh tế khách quan. Sự chi phối của các qui
luật đó đều thông qua lợi ích kinh tế. Nhà nước vận dụng các phạm
trù kinh tế, các đòn bảy các chính sách để kích thích. Tác động thông
qua lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy con người t ích
cực hoạt động được xuất phát từ lợi ích riêng của doanh nghiệp và
đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
Các doanh nghiệp có công cụ quản lý chủ yếu là các hợp đồng
kinh tế, các kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính, các quy tr ình
công nghệ, quy phạm pháp luật , các phương pháp hạch toán. . . Do
phải thực hiện từ các khâu sản xuất sản phẩm cho đến t iêu thụ cho
nên doanh nghiệp phải lựa chọn sản phẩm sản xuất ra, lựa chọn công
nghệ cho phù hợp, lựa chọn nguyên vật l iệu. Tất cả những cái trên
muốn có doanh nghiệp phải mua từ các doanh nghiệp (bạn hàng) khác,
thông qua các hợp đồng kinh tế mua bán giữa đôi bên. Doanh nghiệp
phải lên kế hoạch cho việc sản xuất, phải sản xuất bao nhiêu loại sản
phẩm này, bao nhiêu sản phẩm kia, chất lượng kỹ thuật là bao nhiêu
để hợp vớ yêu cầu của thị trường đề ra. Sản phẩm được bán ra với giá
bao nhiêu, sức cạnh tranh của sản phẩm như thế nào, muốn biết điều
đó thì doanh nghiệp phải tự t ìm hiểu về thị trường t iêu thụ sản phẩm.
Doanh nghiệp phải hạch toán chi t iết quá tr ình kinh doanh xem là lỗ
hay lãi để từ đó có những bước điều chỉnh cho phù hợp.
4-/ Về nguyên tắc tổ chức bộ máy:
Hệ thống bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy nhà nước quản
lý về kinh tế nói r iêng đều được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Theo nguyên tắc này thì bộ máy nhà nước quản lý về kinh tế
là cơ qua đại diện cho ý chí , nguyện vọng của nhân dân, nắm giữ tài
sản của nhân dân, do dần bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Còn cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế được phân
thành nhiều cấp từ cấp cao nhất là chính phủ, các bộ đến cơ quan
quản lý nhà nước là quan hệ cấp trên với cấp dưới, cấp trên ra chỉ thị
mệnh lệnh cấp dưới thực hiện và đề đạt ý kiến lên cấp trên xem xét
sửa đổi. Và được thực hiện với nhiều cấp từ cao xuống thấp chỉ đạo
theo văn bản, chỉ thị . . . mà trên đưa xuống. Tóm lại về mặt tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế nhằm đảm bảo cho sự phát tr iển kinh
tế bền vững.
Còn hệ thống bộ máy kinh doanh trong doanh nghiệp thì thông
thường được phân thành một cấp. Đó là ban giám đốc doanh nghiệp
mà đại diện là giám đốc chủ doanh nghiệp với tập thể người làm thuê
đó là công nhân. Chủ doanh nghiệp là người nắm giữ tài sản trong
doanh nghiệp có quyền sở hữu lẫn quyền sử dụng tài sản đó và chịu
trách nhiệm kinh doanh trước pháp luật bằng tài sản của mình. Còn
quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau là quan hệ bình đẳng các bên
cùng có lợi và được tổ chức theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Chủ
doanh nghiệp ra quyết định kinh doanh và hướng doanh nghiệp phát
tr iển theo hướng đó. Để có thể sản xuất kinh doanh họ phải thuê công
nhân, mua máy móc thiết bị , mua nguyên vật l iệu để cho công nhân
sản xuất. Họ phải tự t ìm ra hướng để t iêu thụ sản phẩm của mình
nhằm thu lại t iền. Sau khi kinh doanh việc hạch toán kinh tế là cần
thiết bởi vì nó cho biết cụ thể số lỗ và số lãi . Nếu lãi thì chia nhau
còn lỗ thì họ phải tự chịu.
Tóm lại việc phân biệt giữa hai chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp có thể minh họa
bằng một số đặc t ính sau:
Chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế
Chức năng kinh doanh
- Sử dụng quan hệ một chiều ra
những văn bản mang t ính bắt
buộc
- Sử dụng quan hệ hai chiều cam
kết theo hợp đồng đã được đề ra
- Lãnh đạo, quản lý về mặt kinh
tế trên toàn bộ đất nước
- Bị lãnh đạo, bị quản lý, là đối
tượng bị quản lý
- Xử lý t in để quản lý - Xử lý các yếu tố vật chất để
quản lý kinh doanh
- Hiệu năng chung, hiệu quả trên
toàn nền kinh tế quốc dân
- Lỗ lãi cụ thể, hiệu quả chỉ
mang t ính đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp
- Bộ máy làm việc quản lý kinh
tế của nhà nước dựa vào ngân
sách
- Bộ máy làm việc quản lý kinh
doanh tự cấp phát, tự t ích lũy và
phải nộp thuế
- Tìm tòi các giải pháp, phương
án thúc đẩy sản xuất và dịch vụ
- Tự t ìm khả năng kinh doanh
của doanh nghiệp để làm ra của
phát tr iển trên toàn bộ nền kinh
tế quốc dân
cải hoặc làm dịch vụ thỏa mãn
nhu cầu xã hội để thu lợi cho
doanh nghiệp
- Điều chỉnh các quan hệ lãnh
đạo, quản lý bằng luật hành
chính thông qua các văn bản.
- Điều chỉnh các quan hệ trong
kinh doanh bằng luật dân sự,
luật lao động thông qua các hợp
đồng giữa hai bên
Như vậy, qua xem xét việc phân biệt chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế và chức năng kinh doanh vẫn chỉ là tương đối mà thôi.
Nhiều khi hai chức năng này bị chồng chéo lên nhau không hỗ trợ cho
nhau trong sự phát tr iển.
Phần III
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế và tạo môi trường tự do hơn cho
chức năng kinh doanh
I-/ Về phía nhà nước
1-/ Mối quan hệ giữa thực lực kinh tế của nhà nước với việc xác
định sự can thiệp của nhà nước về kinh tế
Không í t các nhà lý luật kinh tế trong và ngoài nước cho rằng:
Hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước được đánh giá bởi mức độ hoàn
thiện của công thức: Nhà nước mạnh + Pháp luật hoàn chỉnh + Thực
lực kinh tế đủ mức. Quan niệm trên là hòan toàn có cơ sở. Trong kinh
doanh thị trường, nhà nước mạnh được thể hiện ở cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của nó, nhưng sức mạnh kinh tế của nhà nước
còn được thể hiện thông qua các công cụ điều t iết vĩ mô trong đó thực
lực kinh tế của nhà nước giữ vai trò quan trọng. Luật pháp càng hoàn
thiện thì cơ sở để nhà nước duy tr ì môi trường kinh doanh ổn định và
lành mạnh càng vững chắc. Tuy vậy chỉ r iêng công cụ luật pháp chưa
đủ mà phải kết hợp nhiều công cụ khác và biện pháp khác để điều t iết
nền kinh tế theo mục t iêu đã định, cùng với nó là thực lực kinh tế của
nhà nước.
Cách hiểu về thực lực (sức mạnh) kinh tế của nhà nước hiện nay
có nhiều điểm khác nhau, đặc biệt trong cơ chế thị trường nhiều
thành phần ở nước ta. Có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một là,
tăng cường và hai là giảm vai trò của kinh tế quốc doanh. Quan điểm
thứ nhất lập luận rằng CNXH dựa trên chế độ công hữu mà nhà nước
là người đại diện. Vì vậy khu vực kinh tế quốc doanh phải chiếm tỷ
t rọng lớn, có như vậy định hướng XHCN mới được bảo đảm. Ngược
lại quan điểm thứ hai cho rằng nhà nước làm kinh tế thường kém hiệu
quả hơn nữa nó là môi trường cho sự tham nhũng. Vì vậy phải giảm
mạnh tỷ trọng kinh tế nhà nước.
Cả hai quan điểm trên đều có điểm đúng và mặt hạn chế, cơ sở lý
giải nó là ở chỗ nắm vững mối quan hệ giữa thực lực kinh tế của nhà
nước với việc xác định đúng đắn giới hạn thích hợp sự can thiệp của
nhà nước về kinh tế. Việc làm rõ quan hệ này không chỉ giúp nhà
nước điều t iết có hiệu quả sự vận hành nền kinh tế theo yêu cầu phát
tr iển mà còn là cơ sở quan trọng để hạn chế khuyết tật của thị trường.
Song điều quan trọng hiện nay ở nước ta hình thành nội dung mối
quan hệ này chính là sự định hướng để đổi mới cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước. Thực lực kinh tế nhà
nước có thể được thực hiện thông qua các công cụ điều t iết vĩ mô như
các chính sách tài chính t iền tệ, xuất nhập khẩu, thuế, tỷ giá. . . Trong
các mục t iêu mà nhà nước cần tập trung ngoài một số l ĩnh vực cần
phải hỗ trợ để tạo t iền để cho nền kinh tế phát tr iển thì yêu cầu của
việc hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường cũng cần phải quan tâm
một cách thích đáng. Chỉ có bằng thực lực kinh tế đủ mạnh nhà nước
mới có thể can thiệp vào xử lý các vấn đề lạm phát, thất nghiệp, phát
tr iển giáo dục y tế. . . cũng như can thiệp vào quá tr ình kinh doanh của
các doanh nghiệp. Nhà nước phải đủ mạnh thì mới tạo được môi
trường kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp và nhà nước mới sử dụng
đúng chức năng quản lý của mình
2-/ Những giải pháp cơ bản:
Thể chế hóa đường lối , chính sách chủ trương phát tr iển kinh tế
của Đảng thành pháp luật nhà nước.
Xây dựng chiến lược phát tr iển kinh tế - xã hội t iến hành quy
hoạch tổng thể các ngành kinh tế - kỹ thuật và các vùng, định ra các
chương tr ình mục t iêu xây dựng kế hoạch kinh tế xã hội.
Đặt ra hệ thống thu đối với tất cả các tổ chức, các doanh nghiệp
một cách hợp lý. Tận thu các loại thuế nhằm tăng thu nhập ngân sách,
xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật tạo môi trường kinh doanh
tốt cho các doanh nghiệp.
Định ra cơ chế quản lý chung và cơ chế quản lý mới, điều hành
các hoạt động kinh tế xã hội trong toàn xã hội theo cơ chế ấy và thực
hiện các cơ chế điều chỉnh lên các quan hệ kinh tế xã hội trên cơ sở
pháp luật , đảm bảo cho sự vận động phát tr iển của nền kinh tế đi
đúng quỹ đạo đã vạch ra. Tránh sự trùng, chéo trong công tác quản lý
gây ách tắc trong kinh doanh.
Tiến hành các hoạt động tổ chức trong phạm vi toàn bộ bộ máy
quản lý Nhà nước và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo
nguyên tắc tập trung dân chủ thiết lập hệ thống các cơ quan Nhà
nước các cấp và hệ thống các tổ chức kinh tế; điều hòa bằng các biện
pháp kinh tế, hành chính, giáo dục. . . Kết hợp các mối quan hệ quản
lý kinh tế xã hội sao cho bộ máy quản lý Nhà nước hoạt động một
cách có hiệu quả nhất.
Quy định các hình thức kinh doanh, đưa ra các hình thức chế
định về tổ chức kinh doanh, các t iêu chuẩn một pháp nhân, các chế
định về hợp đồng, xây dựng hệ thống t iêu chuẩn hàng hóa chuẩn mực.
Có những chính sách khuyến khích kinh doanh làm cho các thành
phần kinh tế an tâm bỏ vốn, biết rõ những ngành nghề làm được và
những ngành nghề không được làm, giải quyết thủ tục kinh doanh gọn
nhẹ thuận t iện. . .
Giữ vững kỷ cương và kỷ luật nhà nước, thiết lập trật tự mới
trong đời sống kinh tế xã hội đất nước, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa sử dụng hệ thống thanh tra kiểm tra kiểm soát ,
hệ thống các cơ quan xử lý nhằm đảm bảo việc thi hành pháp luật ,
tăng cường trật tự quản lý, thực hiện kỷ cương kỷ luật kinh doanh.
Tiến hành hoạt động kiểm tra kiểm soát trên toàn bộ nền kinh tế quốc
dân làm trong sạch bộ máy Nhà nước, lành mạnh hóa các mối quan hệ
xã hội.
II-/ Về phía các doanh nghiệp:
Thực hiện nghiêm túc quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong công việc kinh doanh. Chỉ kinh doanh những ngành nghề nhà
nước cho phép kinh doanh mà doanh nghiệp đã đăng ký. Giao nộp đầy
đủ thuế kinh doanh cho Nhà nước.
Thực hiện nghiêm túc việc hạch toán kinh doanh, đưa ra những
con số thực tế về lỗ lãi trong kinh doanh để có phương hướng tổ chức
kinh doanh trong giai đoạn tới .
Xây dựng bộ máy kinh doanh hợp lý gọn nhẹ, các mối quan hệ
giữa chủ doanh nghiệp với người lao động làm thuê phải ngày càng
khăng khít hơn có như thế người lao động mới gắn bó tận tụy cho
doanh nghiệp.
Trong quan hệ kinh doanh thì doanh nghiệp có mối quan hệ với
nhiều doanh nghiệp khác trên cơ sở là bạn hàng do đó cần duy tr ì tốt
các mối quan hệ đó, thực hiện đôi bên cùng có lợi , bình đẳng như
nhau.
Cần phải thực hiện tốt các công tác nghiên cứu thị trường về nhu
cầu của người t iêu dùng từ đó đề ra hướng kinh doanh cụ thể. Sử
dụng có hiệu quả vốn mà mình đã bỏ ra kinh doanh, tránh t ình trạng
lãng phí.
Kết luận
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, muốn phát tr iển kinh
tế, muốn dân giàu nước mạnh thì sự quản lý về kinh tế của nhà nước
phải hết sức chặt chẽ, rõ ràng. Nhà nước phải quản lý đi sâu đi sát
vào mọi l ĩnh vực đặc biệt là l ĩnh vực kinh tế nhưng phải trên cơ sở
bảo đảm cho việc tạo ra môi trường tốt cho công việc kinh doanh của
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp tạo ra của cải vật chất , cung cấp
dịch vụ cho xã hội nên cần phải phát tr iển các doanh nghiệp, đảm bảo
sự tự do kinh doanh của họ trong khuôn khổ luật định.
Muốn làm được như vậy, chúng ta phải hiểu rõ chức năng quản lý
của nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh. Cần phải phân biệt
hai chức năng này để xác định đâu là giới hạn của việc kinh doanh,
đâu là giới hạn của việc quản lý của nhà nước. Có thế mới đem lại
hiệu quả trong việc quản lý của nhà nước, tránh được sự chồng chéo,
can thiệp quá sâu của nhà nước gây nên ách tắc trong kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Tài l iệu tham khảo
I / Tạp chí:
- Tạp chí: Nghiên cứu - Trao đổi
Kinh tế phát tr iển
Thông t in lý luận
Quản lý Nhà nước
Cộng sản
Nhà nước và pháp luật
II / Sách:
- Giáo tr ình:Quản lý Nhà nước về kinh tế
Quản tr ị kinh doanh
Quản lý kinh tế
III / Báo:
Báo: Thời báo kinh tế
Doanh nghiệp
Đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- phân định chức năng quản lý về kinh tế của Nhà nước và chức năng kinh doanh.pdf