Luận văn Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai – Từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

Giải quyết khiếu nại về đất đai là một trong những vấn đề hết sức cấp bách, nhạy cảm, động chạm đến nhiều vấn đề của xã hội. Nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn tới những hệ quả không hay, là nguy cơ tiềm ẩn của khiếu kiện đông người, là nguyên cớ cho những kẻ muốn lợi dụng để kích động người dân nhằm gây mất trật tự an toàn xã hội, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Việc giải quyết tốt khiếu nại về đất đai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Qua một thời gian công tác liên quan tới lĩnh vực giải quyết khiếu nại tố cáo tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, nhận thấy được ý nghĩa quan trọng của công tác này đặc biệt là công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai- từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” với mong muốn góp một phần nhỏ vào quá trình xây dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu để giải quyết tốt các khiếu kiện về đất đai nói chung và giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng. Thông qua phần cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý để giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai, các quy định của pháp luật về quyền khiếu nại, trình tư, thủ tục, thẩm quyền giả quyết khiếu nại do pháp luật quy định. Phần hai của Luận văn đề cập đến thực trạng khiếu nại về đất đai và thực trạng công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên một địa bàn cụ thể, từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại về đất đai. Dựa vào việc nghiên cứu trên một địa bàn cụ thể để đưa ra cái nhìn khái quát về thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai. Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu qủa công tác giải quyết khiếu nại về đất đai.

pdf94 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai – Từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhìn chung, công tác giải quyết đơn thƣ khiếu nại về đất đai chƣa đảm bảo đƣợc tính kịp thời, một số vụ việc quá hạn hoặc chƣa đƣợc giải quyết dứt điểm. Dù đã tạo dựng đƣợc lòng tin của ngƣời dân vào các cấp chính quyền trong công tác quản lý đất đai nói riêng và công tác quản lý nhà nƣớc nói chung nhƣng vẫn có một số bộ phận ngƣời dân không tin tƣởng, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây mất an ninh trên địa bàn. Công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì bộc lộ một số hạn chế, tồn tại cơ bản sau: Thứ nhất, trên địa bàn huyện tiếp tục triển khai một số dự án đã đƣợc thành phố phê duyệt (dự án đƣờng Ngọc Hồi - Đại Áng- Vĩnh Quỳnh, thu hồi đất ở xã Tân Triều...), các quy định pháp luật, chính sách giải phóng mặt bằng còn có bất cập; ngƣời dân chƣa am hiểu các quy định pháp luật; chƣa nắm rõ quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo nên khiếu kiện dai dẳng, đến nhiều cấp. Thứ hai, việc giải quyết khiếu nại còn nhiều thiếu sót, nhiều quyết định giải quyết chƣa thấu tình đạt lý. Một số vụ việc chƣa tuân thủ đúng quy trình, thể thức văn bản; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại chƣa chủ động, triệt để, còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không đƣợc giải quyết dứt điểm, khiếu nại kéo dài. Điển hình ở các xã Ngũ Hiệp, 59 Hữu Hòa, Tả Thanh Oai, ngƣời dân bức xúc đã viết đơn điểm chỉ bằng máu để tỏ rõ thái độ bức xúc đối với việc chậm chễ giảỉ quyết của các cấp chính quyền. Hình thức văn bản giải quyết một số vụ việc chƣa đảm bảo theo quy định của pháp luật nhƣ việc ban hành công văn, thông báo để thay thế quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai. Thứ ba, một bộ phận cán bộ chƣa nắm vững các quy định pháp luật, chƣa có kỹ năng tuyên truyền, giải thích pháp luật, nội dung kết luận chƣa rõ ràng dẫn đến có vụ việc khiếu kiện dai dẳng, một số công dân lợi dụng quyền dân chủ, yêu sách không chính đáng nên khiếu tố vƣợt cấp. Bên cạnh đó, một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức ở một số xã có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử dụng đất đai, bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi có dự án Nhà nƣớc thu hồi đất, nhũng nhiễu, thiếu công tâm trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại của ngƣời dân. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh khiếu kiện về đất đai, gây bức xúc cho ngƣời dân dẫn làm mất lòng tin của dân vào cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Mỗi năm đều có những cán bộ bị xử lý kỷ luật, chuyển vị trí công tác nhƣ ở xã Tả Thanh Oai, Thanh Liệt, Ngọc Hồi, có một số trƣờng hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự (cán bộ địa chính xã Tân triều, cán bộ tƣ pháp xã Ngọc Hồi năm 2007). Thứ tư, việc bản quản, lƣu trữ hồ sơ liên quan đến công tác quản lý đất đai ở một số xã trên địa bàn huyện còn lỏng lẻo, chƣa đƣợc bảo quản chặt chẽ, khoa học, có xã còn mất hồ sơ địa chính (xã Duyên Hà) gây khó khăn cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu nại của công dân. Thứ năm, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai, giải phóng mặt bằng, khiếu nại tố cáo của các cơ quan có trách nhiệm chƣa tốt, còn mang tính hình thức, do đó chƣa đạt hiệu quả cao. 60 2.3.3.Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những nguyên nhân chung đã đƣợc trình bày tại Chƣơng 1 của Luận văn này, qua nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì, chúng tôi nhận thấy còn một số nguyên nhân đặc thù sau: Về nguyên nhân khách quan Những hạn chế của công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan sau: Thứ nhất, chính sách pháp luật về đất đai thay đổi theo từng thời kỳ trong đó có không ít văn bản gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Một số quy định của pháp luật về đất đai còn bất cập, thiếu nhất quán, ổn định. Các quy định bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ thƣờng xuyên thay đổi theo hƣớng mở, ngày càng tăng mức bồi thƣờng, hỗ trợ cho ngƣời có đất bị thu hồi. Trong khi đó Thanh Trì là một trong những huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh nên đất đai trở nên rất có giá trị. Giá đất tăng cao làm thay đổi cách nhìn nhận của ngƣời dân về đất đai. Từ đó phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện về đất đai tạo nên sự hỗn loạn, phá vỡ các giá trị đạo đức vốn có. Thứ hai, do việc thay đổi bộ máy quản lý nhà nƣớc theo từng nhiệm kỳ nên việc lƣu trữ, quản lý hồ sơ về đất đai tại các xã trên địa bàn huyện có nhiều xáo trộn. Thậm chí có một số xã làm thất lạc hồ sơ địa chính nhƣ xã Duyên Hà đã nêu ở trên hay mất hồ sơ quản lý đất đai ở xã Tân Triều. Bên cạnh đó là việc lƣu giữ hồ sơ chƣa đầy đủ, khoa học gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ, tài liệu về đất đai để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại. Thứ ba, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo mới có ở cấp huyện. Ở các xã, đội ngũ này thƣờng do các cán bộ địa chính, tƣ pháp, văn phòng kiêm nghiệm. Mặc dù hàng năm huyện có tổ chức các lớp tập huấn về Luật khiếu nại tố cáo, Luật đất đai, kỹ năng tiếp 61 công dân, giải quyết đơn thƣ nhƣng chƣa đảm bảo về chuyên môn, trình độ của đội ngũ này. Hàng năm, huyện Thanh Trì đều kiến nghị với UBND thành phố Hà Nội bổ sung biên chế cán bộ tiếp dân, giải quyết đơn thƣ cho các xã, thị trấn nhƣng đến nay vẫn chƣa đƣợc xem xét, giải quyết. Thứ tư, cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính trên lĩnh vực đất đai còn bất cập, thiếu tính thống nhất về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết... tạo ra những rào cản cho hoạt động khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai. Những quy định không thống nhất của Luật Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Đất đai và Luật tố tụng Hành chính đã gây không ít khó khăn trong việc xử lý đơn thƣ khiếu nại, xác định thẩm quyền, thời hiệu khiếu nại...Thực tế đã có một vài vụ việc giải quyết còn bị kéo dài do việc các cơ quan chức năng hiểu không thống nhất các quy định của pháp luật. Về nguyên nhân chủ quan Bên cạnh những nguyên nhân khách quan nêu trên, cần phải kể đến những nguyên nhân chủ quan của những tồn tại, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì. Các nguyên nhân chủ quan đó là: Thứ nhất, mặc dù UBND huyện đã ban hành quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, đã thiết lập một hệ thống sổ sách ghi chép, theo dõi đơn thƣ và kết quả giải quyết đơn thƣ nhằm tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trên toàn huyện nhƣng vẫn chƣa đƣợc các đơn vị triển khai triệt để. Theo kết quả kiểm tra công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của Đoàn kiểm tra huyện đối với 16 xã, thị trấn từ năm 2009 đến nay vẫn còn 04 xã chƣa thực hiện theo quy định. Cán bộ đƣợc giao nhiệm vụ ghi chép sổ sách vẫn theo dõi theo nếp cũ, số lƣợng đơn thƣ tiếp nhận, số vụ việc giải quyết ghi chung vào một sổ, có vụ việc chƣa đƣợc cập nhật, hồ sơ giải quyết sắp xếp chƣa khoa học. Khi kiểm tra không tổng hợp đƣợc có bao nhiêu đơn thƣ đã tiếp nhận, đã 62 giải quyết bao nhiêu đơn, còn lại bao nhiêu đơn, không tìm thấy hồ sơ giải quyếtNguyên nhân là do đội ngũ cán bộ này đã cao tuổi hoặc kiêm nghiệm nhiều công tác nên không có thời gian ghi chép, theo dõi mà vẫn làm theo nếp cũ cho “ dễ làm”. Thứ hai, phần lớn đơn thƣ khiếu nại về đất đai của công dân đều liên quan đến lĩnh vực giải phóng mặt bằng, đền bù, hỗ trợ tái định cƣ. Các dự án đƣợc triển khai trên địa bàn huyện hầu hết đều là dự án cấp thành phố và trung ƣơng, UBND huyện chỉ là đơn vị thực hiện. Mặt khác, các dự án này đã đƣợc phê duyệt từ nhiều năm trƣớc nhƣng đến nay mới triển khai, giá trị bồi thƣờng cho ngƣời dân không còn phù hợp, một số dự án còn bị điều chỉnh giá đền bù dẫn đến việc ngƣời dân bức xúc gửi đơn khiếu nại tới UBND huyện. Sau khi nhận đƣợc quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện, không đồng ý với quyết định giải quyết họ tiếp tục khiếu nại lên Thành phố, thậm chí nhiều ngƣời kéo lên Trung ƣơng để phản ánh gây mất ổn định an ninh chính trị. Thứ ba, ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Do bị một vài cá nhân có động cơ không tốt xúi giục và cùng với yếu tố lợi ích vật chất trực tiếp liên quan đến việc bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi thu hồi đất dẫn đến có một số trƣờng hợp phát sinh khiếu kiện, mặc dù vụ việc đã đƣợc giải quyết đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân nhƣng một bộ phận công dân đã có hành vi lợi dụng quyền khiếu nại để gây rắc rối cho cơ quan hành chính nhà nƣớc. Bộ phận này luôn tìm mọi kẽ hở để lách luật, cố tình dây dƣa, tìm đủ lý do để yêu cầu cơ quan hành chính giải quyết đòi hỏi của họ. Khi những đòi hỏi không đƣợc giải quyết theo ý muốn họ quay ra vận động, lôi kéo, xúi bẩy những ngƣời khác tụ tập khiếu kiện. Một số trƣờng hợp đã gửi đơn liên tục, nhiều lần đến các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan của Thành phố và Trung ƣơng với nội dung bôi nhọ cán 63 bộ địa phƣơng, bóp méo các mối quan hệ, các chứng cứ nhằm đạt đƣợc các mong muốn riêng. Thứ tư, công tác quản lý nhà nƣớc về đất đai ở một số xã và đơn vị chuyên môn trên địa bàn huyện còn một số hạn chế, thiếu sót. Đặc biệt, là công tác quy hoạch sử dụng đất, quản lý hiện trạng sử dụng đất, công tác thống kê, đo đạc, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận nguồn gốc đất và việc thực hiện bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất. Bên cạnh đó việc lƣu trữ hồ sơ địa chính ở một số địa phƣơng chƣa đầy đủ, chƣa hoàn chỉnh nên các thông tin về đất đai còn sai lệch và bất cập. Thứ năm, việc tuyên truyền các chính sách, quy định bồi thƣờng thiệt hại, giải phóng mặt bằng và tái định cƣ cho bộ phận nhân dân trong vùng giải tỏa của các dự án phải thu hồi đất chƣa đƣợc chú trọng. Thực tế trong thời gian qua việc tuyên truyền đều tập trung vào các quy định của Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Luật tố cáo... Trong khi đó, khi thực hiện bồi thƣờng, giải tỏa để thu hồi đất ngƣời dân luôn thắc mắc về điều kiện bồi thƣờng, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất, về đối tƣợng, chính sách tái định cƣ, về hỗ trợ chuyển đổi nghề... Đây là những vấn đề đƣợc ngƣời dân các vùng giải tỏa thu hồi đất đặc biệt quan tâm vì có liên quan thiết thân đến quyền lợi của họ. 64 Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI- TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, đất đai từ vai trò là một nguồn tài nguyên đã trở thành nguồn tài sản, tƣ liệu quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Nếu nhƣ trƣớc đây ngƣời dân không đƣợc quyền chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất thì hiện nay, quyền chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất của cá nhân đƣợc pháp luật cho phép cùng với việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích xây dựng các công trình công cộng, các khu công nghiệp, khu đô thị... Trong khi đó các quy định pháp luật về quản lý đất đai, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai còn nhiều bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn của xã hội. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu nại về đất đai ngày một gia tăng, trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội, ảnh hƣởng không tốt đến an ninh trật tự, an toàn xã hội cũng nhƣ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nhà nƣớc ta luôn cố gắng giải quyết một cách dứt điểm các tranh chấp về đất đai đặc biệt là những đơn thƣ khiếu nại về đất đai của nhân dân nhằm đảm bảo an ninh, trật tự xã hội bằng việc xây dựng những chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, về quản lý, sử dụng đất đaiTuy nhiên, để giải quyết triệt để, dứt điểm khiếu nại về đất đai là một vấn đề hết sức khó khăn và nhạy cảm. Nó không chỉ là nhiệm vụ của riêng của cơ quan hành chính mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Do vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về đất đai là một việc làm hết sức cần thiết. 65 Với những nghiên cứu về thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì, luận văn xin đƣa ra một số một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về đất đai sau đây. 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai 3.1.1. Hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai phải dựa trên sự quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại về đất đai. Quan điểm, đƣờng lối của Đảng luôn là kim chỉ nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Pháp luật chính là sự thể chế hóa quan điểm, đƣờng lối của Đảng. Nghị quyết số 48/NQ-TƢ ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 và Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/04/2016 đã xác định: “Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, đảm bảo mọi quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể khởi kiện trước tòa; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời đảm bảo tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính” Đối với việc hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, quan điểm của Đảng đóng vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa đồng thời bảo vệ quyền, nghĩa vụ hợp pháp của công dân trong lĩnh vực khiếu nại tố cáo nói chung và khiếu nại về đất đai nói riêng. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, để giảm thiểu số lƣợng đơn thƣ khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai, giảm bớt áp lực giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai cho bộ máy hành chính, 66 Đảng ta đã xác định tại Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 7 khóa IX: “Việc giải quyết tranh chấp, trước hết cần tiến hành hòa giải, nếu hòa giải không thành thì đưa ra Tòa án giải quyết. Nhà nước quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại không để kéo dài, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm vi thẩm quyền của các cấp ở địa phương; trường hợp các đương sự không nhất trí với quyết định của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì đưa ra Tòa án giải quyết. Giải quyết tố cáo về đất đai thì theo pháp luật tố cáo”. Nhƣ vậy, theo tinh thần của Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 7 khóa IX, cần chú trọng: Thứ nhất, tăng cƣờng hòa giải các tranh chấp đất đai, coi hòa giải là yếu tố hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp về đất đai. Nếu làm tốt công tác hòa giải này các tranh chấp đất đai sẽ đƣợc giải quyết mà không gây nên bức xúc cho ngƣời dân, nhƣ vậy sẽ hạn chế đƣợc phần lớn đơn thƣ khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai. Trƣờng hợp hòa giải không thành thì đƣa ra toà án giải quyết. Nhà nƣớc quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết khiếu nại về đất đai, không để kéo dài. Trình tự giải quyết khiếu nại về đất đai theo hƣớng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có khiếu nại phải gửi đơn đến cơ quan nhà nƣớc đã ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại, cơ quan này có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Nếu ngƣời khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên của cơ quan đã ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng các khiếu nại về đất đai trong phạm vi, thẩm quyền của các cấp ở địa phƣơng. Trƣờng hợp đƣơng sự không nhất trí với quyết định giải quyết 67 của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thì có quyền khởi kiện đến tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính. Với cơ chế giải quyết trên sẽ đảm bảo giải quyết đƣợc khách quan, ngƣời giải quyết độc lập với ngƣời ra quyết định hành chính, tránh đƣợc tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”, mở rộng dân chủ hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trƣớc pháp luật, ngƣời khiếu nại chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật khi thực thi quyền khiếu nại, đồng thời buộc cơ quan hành chính và cá nhân có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về quyết định của chính mình mà phải nâng cao chất lƣợng khi ban hành các quyết định hành chính. Thứ hai, đổi mới cách giải quyết và thẩm quyền giải quyết khiếu nại của công dân về đất đai theo hƣớng để hệ thống toà án nhân dân nhập cuộc, giảm bớt áp lực cho bộ máy hành chính nhà nƣớc. 3.1.2. Hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai trước hết phải đảm bảo, bảo vệ các quyền, lợi ích của cá nhân Hiến pháp 2013 đã quy định, chủ thể của quyền sở hữu về đất đai là nhân dân, Nhà nƣớc là đại diện chủ sở hữu đất đai. Điều này có nghĩa nhân dân đã ủy quyền cho Nhà nƣớc quản lý đất đai. Nhà nƣớc nhân danh nhân dân để quản lý đất đai cho toàn dân. Công cụ để nhà nƣớc quản lý đất đai đó là pháp luật. Do vậy, mọi đạo luật do Nhà nƣớc ban hành trƣớc hết phải bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho từng cá nhân ngƣời dân . Để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về đất đai trƣớc hết phải đảm bảo, bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân ngƣời sử dụng đất. 3.1.3. Tăng cường việc tổ chức công tác tiếp công dân ở các cấp chính quyền Công tác tiếp công dân là giai đoạn đầu của quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nó không thuộc phạm trù về nội dung công việc, chỉ 68 là hình thức và một vài thao tác chuẩn bị cho quá trình giải quyết công việc, song khách quan mà nói, đây lại là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết khiếu nại tố cáo. Và, ở khía cạnh nào đó, nó cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công của cả quá trình giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân. Bởi khi ta xử lý, phân loại đối tƣợng khiếu nại chính xác; khi ta biết lắng nghe, ghi chép đầy đủ các nội dung, yêu cầu của công dân; biết tập hợp đầy đủ các văn bản, giấy tờ cũng nhƣ các chứng cứ có liên quan, rõ ràng ngƣời cán bộ tiếp dân đã tạo đƣợc những tiền đề vô cùng quan trọng để những ngƣời có thẩm quyền, các cơ quan chức năng giải quyết đúng và kịp thời nội dung công việc của ngƣời dân đi khiếu nại, tố cáo. Do vậy, để nâng cao hiệu quả việc tiếp công dân nhằm hạn chế bức xúc, khiếu nại tố cáo kéo dài cần tăng cƣờng công tác tiếp công dân, đối thoại với công dân trong quá trình giải quyết khiếu nại để lắng nghe đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của họ khi giải quyết đảm bảo sự chính xác, khách quan, có tình, có lý và có tính thuyết phục cao. Thực hiện tốt công tác tiếp dân giúp các ngành, các cấp nhận đƣợc những thông tin phản hồi kịp thời về hiệu lực các quyết sách của Đảng và Nhà nƣớc, trên cơ sở đó kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đời sống xã hội. Đồng thời, qua công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo các cán bộ, lãnh đạo đã trực tiếp tuyên truyền, giải thích đƣờng lối, chính sách, pháp luật cho nhân dân, xử lý đƣợc những vụ việc phức tạp, hạn chế khiếu kiện vƣợt cấp. Chấn chỉnh, tăng cƣờng cơ sở vật chất cho các trụ sở tiếp công dân, đảm bảo sự nghiêm trang, tạo điều kiện để công dân phản ánh, khiếu kiện một cách dân chủ, đúng quy định của pháp luật. Bố trí cán bộ trực tiếp dân có trình độ, nắm vững các quy định của pháp luật về công tác tiếp dân để tiếp công dân, hƣớng dẫn công dân gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, rà soát, phân loại đƣợc các vụ việc để xử lý, phân loại đơn thƣ chính xác. 69 3.1.4. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan giải quyết khiếu nại Cơ quan giải quyết khiếu nại đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai. Công tác giải quyết khiếu nại về đất đai có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn ở cơ quan giải quyết khiếu nại. Hiện nay ở một số địa phƣơng, công tác giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung chƣa đƣợc chú trọng, quan tâm kịp thời, thậm chí nhiều địa phƣơng còn né tránh, đùn đẩy giữa các cơ quan giải quyết các cấp, dẫn tới tình trạng ngƣời dân bức xúc, mất lòng tin vào bộ máy hành chính ở địa phƣơng, luôn mong muốn có sự phán quyết của Trung ƣơng. Đây cũng là nguyên nhân của tình trạng khiếu kiện đông ngƣời vƣợt cấp. Trƣớc thực trạng nhƣ vậy, mỗi địa phƣơng cần tăng cƣờng hơn nữa công tác dân vận, tiếp công dân, giải thích pháp luật liên quan đến khiếu nại tố cáo, quản lý đất đai, chính sách bồi thƣờng giải phóng mặt bằng để ngƣời dân hiểu, gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh trƣờng hợp khiếu kiện đông ngƣời, đơn thƣ long vòng, vƣợt cấp. Lãnh đạo UBND các cấp trực tiếp công dân đúng lịch, đối với các vụ việc phức tạp cần chú trọng đối thoại với công dắng nghe ý kiến, nguyện vọng của công dân, không né tránh, đùn đẩy, tránh gây bức xúc, khiếu kiện kéo dài, phải nắm chắc tình hình tranh chấp, khiếu kiện trong phạm vi quản lý của ngành, địa phƣơng mình để kịp thời giải quyết, nhất là những vụ khiếu kiện đông ngƣời; việc giải quyết phải đƣợc thực hiện ngay từ cơ sở, hạn chế khiếu nại vƣợt cấp; không để vụ việc diễn biến phức tạp trở thành khiếu kiện đông ngƣời. Thực tế cho thấy các vụ khiếu nại về đất đai thƣờng có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý và luôn có chiều hƣớng kéo dài. Do vậy, khi giải quyết các vụ việc khiếu nại có tính chất phức tạp, cơ quan giải quyết khiếu nại cần chủ động tổ chức các hội nghị tham vấn giữa các ban, 70 ngành liên quan để đƣa ra quyết định giải quyết đúng quy định pháp luật, có tình, có lý, đảm bảo quyền lợi ích chính đáng của công dân. 3.1.5. Nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ làm công tác giải quyết khiếu nại Với tình hình khiếu nại, tố cáo ngày càng gia tăng đặc biệt là các khiếu nại về đất đai trong khi đó đội ngũ làm công tác giải quyết khiếu nại tố cáo còn hạn chế về cả số lƣợng và chất lƣợng. Trong thời gian tới, cần tăng cƣờng, bổ sung thêm đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc biệt ở cấp xã. Hiện nay, từ cơ quan hành chính cấp huyện trở lên mới có cán bộ chuyên trách làm công tác giải quyết nại, tố cáo đó là thanh tra nhà nƣớc. Ở cấp xã hầu nhƣ khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực nào do cán bộ chuyên môn lĩnh vực đó giải quyết, các khiếu nại về đất đai chủ yếu do cán bộ địa chính tham mƣu Chủ tịch UBND xã giải quyết. Do vậy, cần tập trung đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ này không chỉ về nghiệp vụ chuyên môn mà còn về nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo để họ nắm vững đƣợc chính sách pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Từ đó có những đề xuất cách giải quyết đúng quy định pháp luật. 3.1.6. Tăng cường công tác giáo dục, phổ biến pháp luật Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đơn thƣ khiếu nại về đất đai gia tăng nhƣ hiện nay là do một bộ phận ngƣời dân không am hiểu chính sách pháp luật về đất đai cũng nhƣ về thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết khiêú nại. Để hạn chế tình hình khiếu nại về đất đai gia tăng, cần tăng cƣờng công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho công dân để họ thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định pháp luật, hạn chế tình trạng gửi đơn thƣ khiếu kiện không đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đơn thƣ vƣợt cấp trái quy định pháp luật. 71 Chú trọng công tác đối thoại giữa chính quyền với ngƣời dân. Thông qua đó giải thích, tuyên truyền cho ngƣời dân hiểu chính sách pháp luật của nhà nƣớc đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân qua việc lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân. 3.1.7. Nâng cao nhận thức của ngƣời đứng đầu các cơ quan, tổ chức về vai trò tầm quan trọng của việc giải quyết khiếu nại về đất đai Trong những năm qua, các cấp chính quyền đã có nhiều cố gắng trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai. Nhiều vụ việc khiếu nại về đất đai liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, kéo dài, phức tạp đã đƣợc giải quyết dứt điểm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại về đất đai của một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền còn chƣa tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, còn hiện tƣợng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong giải quyết khiếu nại. Nâng cao nhận thức của ngƣời đứng đầu các cơ quan, tổ chức về vai trò, tầm quan trọng của việc giải quyết khiếu nại về đất đai, đòi hỏi ngƣời đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong đó có các cơ quan hành chính cấp huyện, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại; phải xác định giải quyết khiếu nại về đất đai thuộc thẩm quyền là nhiệm vụ chính trị quan trọng thƣờng xuyên; là trách nhiệm của ngƣời lãnh đạo, ngƣời quản lý các cơ quan tổ chức nhà nƣớc; là góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nƣớc. Đối với các cơ quan, tổ chức, chính quyền cấp huyện, ngƣời đứng đầu các cơ quan, tổ chức, chính quyền phải xác định công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò quan trọng đối với đơn vị, địa phƣơng, nhất là việc ổn định tình hình an ninh chính trị để phát triển kinh tế. Đặc biệt là những nơi đang triển khai các dự án nhƣng phát sinh nhiều khiếu nại. Phải có cái tâm khi 72 giải quyết khiếu nại, phải giải quyết dứt điểm vụ việc chứ không phải tìm cách giải quyết hết thẩm quyền rồi đùn đẩy cho cấp trên giải quyết. 3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai 3.2.1. Tổng rà soát hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai Qua thực tế nghiên cứu thực trạng giải khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai cho thấy một trong số những nguyên nhân chính của việc khiếu kiện về đất đai đó là sự thiếu đồng bộ, nhất quán của hệ thống chính sách pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai. Để có thể hoàn thiện đƣợc hệ thống, chính sách pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai, bƣớc đầu tiên cần tiến hành đó là tổng rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật đất đai, luật khiếu nại và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để phát hiện kịp thời những quy định mâu thuẫn, không phù hợp nhằm kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai và khiếu nại liên quan đến đất đai. 3.2.2. Hoàn thiện nội dung pháp luật về đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai 3.2.2.1. Thường xuyên rà soát, sửa đổi quy định của pháp luật về thời hiệu Trƣớc đây, tại Điều 9 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính.” trong khi đó, Khoản 2 Điều 138 Luật đất đai 2003 lại quy định: “Thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính đó.” 73 Việc quy định thời hiệu khiếu nại khác nhau của Luật khiếu nại 2011 và Luật đất đai nêu trên gây khó khăn cho cả ngƣời khiếu nại và ngƣời giải quyết khiếu nại liên quan đến lĩnh vực đất đai. Trên thực tế nghiên cứu về giải quyết khiếu nại đất đai cho thấy, thời hiệu khiếu nại quy định trong Luật khiếu nại rất ít khi đƣợc áp dụng mà chủ yếu áp dụng thời hiệu khiếu nại đƣợc quy định trong luật đất đai. Trong khi đó thời hiệu khiếu nại trong Luật đất đai quy định quá ngắn (30 ngày) nên thƣờng gây bức xúc cho ngƣời khiếu nại. Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật đất đai với nhiều điểm tiến bộ hơn, trong đó tại Khoản 2 Điều 204 có quy định: “2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.”. Đây là một trong những ví dụ điển hình về việc rà soát, sửa đổi những quy định không còn phù hợp của pháp luật. Điều 33 Luật Khiếu nại 2011 quy định thời hạn khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính là 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 mà khiếu nại không đƣợc giải quyết hoặc kể từ ngày nhận đƣợc quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà ngƣời khiếu nại không đồng ý, đối với vùng sâu, vùng xa thì thời hạn không quá 45 ngày. Trong khi đó, trƣớc đây, điểm c khoản 2 Điều 138 của Luật đất đai năm 2003 lại quy định thời hạn khiếu nại lần 2 là 45 ngày kể từ ngày nhận đƣợc quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà ngƣời khiếu nại không đồng ý. Nhƣ vậy, giữa Luật khiếu nại 2011 và Luật đất đai năm 2003 không chỉ quy định chồng chéo về thời hạn khiếu nại lần 2 mà còn quy định cách tính mốc thời hạn cũng khác nhau. 74 Nhận thấy yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cần phải khắc phục sự khác nhau về thời hiệu, thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai và cách tính mốc thời gian khiếu nại lần hai để tạo nên sự đồng bộ giữa các văn bản luật khi quy định về cùng một vấn đề. Luật Đất đai năm 2013 đã quy định thống nhất theo pháp luật về giải quyết khiếu nại mà không quy định thời gian cụ thể. Theo chúng tôi, đó là điểm tiến bộ đáng lƣu ý của Luật Đất đai năm 2013. 3.2.2.2. Cần thống nhất về ủy quyền trong khiếu nại được quy định tại Khoản 1 Điều 12 và Khoản 2 Điều 11 Luật Khiếu nại 2011 Theo điểm a, khoản 1, Điều 12 quy định: “Trƣờng hợp ngƣời khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhƣợc điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì đƣợc ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị em ruột, con đã thành niên hoặc ngƣời khác để khiếu nại”. Nghị định số 75/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại không hƣớng dẫn rõ ràng về “lý do khách quan khác” theo nhƣ quy định của điều luật trên nên việc áp dụng vào thực tế cũng khó có thể thống nhất. Bên cạnh đó, ngƣời đƣợc ủy quyền bao gồm “cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị em ruột, con đã thành niên hoặc người khác” trong đó cụm từ “người khác” cũng không đƣợc Nghị định 75/2012/NĐ-CP hƣớng dẫn cụ thể nên có thể dẫn tới việc hiểu “người khác” có thể là bất cứ ngƣời nào. Nhƣng theo khoản 2 Điều 11 Luật khiếu nại 2011 quy định về những trƣờng hợp không đƣợc thụ lý để giải quyết đó là “Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại”. Xét về chủ thể của khiếu nại bao gồm cá nhân, cơ quan tổ chức và cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Theo quy định thì chủ thể của khiếu nại là ngƣời chịu ảnh hƣởng trực tiếp bởi đối tƣợng 75 khiếu nại có nghĩa là ngƣời khiếu nại chịu ảnh hƣởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, những ngƣời không liên quan và không chịu ảnh hƣởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính thì không thuộc trƣờng hợp phải thụ lý giải quyết. Nhƣ vậy, khoản 2 Điều 11 Luật khiếu nại 2011 loại trừ thành phần “ngƣời khác” khi thực hiện việc ủy quyền để đi khiếu nại. Việc quy định ủy quyền cho “ngƣời khác” tại Khoản 1 Điều 12 và Khoản 2 Điều 11 Luật Khiếu nại 2011 chƣa có sự thống nhất. 3.2.2.3. Về nghĩa vụ của người khiếu nại Ngƣời khiếu nại là ngƣời trực tiếp đƣa ra đề nghị, yêu cầu cá nhân, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm. Cá nhân, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền căn cứ yêu cầu của ngƣời khiếu nại, những tài liệu, chứng cứ ngƣời khiếu nại cung cấp và cơ quan giải quyết khiếu nại thu thập đƣợc trong quá trình xem xét, xác minh để đƣa ra quyết định giải quyết. Tại khoản 2, Điều 13 Luật Khiếu nại 2011 quy định ngƣời khiếu nại có nghĩa vụ “cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại”. Quy định này của Luật chỉ mang tính yêu cầu, chƣa mang tính bắt buộc ngƣời khiếu nại phải cung cấp các bằng chứng chứng minh các quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ khiếu nại xâm hại đến quyền , lợi ích hợp pháp của họ. Khi nghiên cứu tình hình thực tế giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì, chúng tôi nhận thấy đã có những vụ khiếu nại, ngƣời khiếu nại từ chối cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan khi cơ quan giải quyết khiếu nại yêu cầu. Họ cho rằng việc thu thập chứng cứ, tài liệu là việc của cá nhân, cơ quan giải quyết khiếu nại chứ không phải của ngƣời khiếu nại. Có nhiều trƣờng hợp cơ quan thụ lý mời ngƣời khiếu nại đến phối hợp làm việc nhƣng mời nhiều lần không tới thậm chí có trƣờng hợp trả lại giấy mời làm việc hoặc đến làm việc nhƣng không ký vào biên bản làm việc. Có trƣờng hợp 76 công dân không cung cấp tài liệu, chứng cứ vì sợ bị trả thù, lộ bí mật... Đối với các trƣờng hợp ngƣời khiếu nại không phối hợp làm việc, cơ quan giải quyết khiếu nại thƣờng tham mƣu đề nghị xếp hồ sơ không giải quyết nữa. Tuy nhiên Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hƣớng dẫn thi hành không đề cập cách xử lý tình huống này, nếu vẫn giải quyết thì không có cơ sở, không đảm bảo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Do vậy, thiết nghĩ cần sửa đổi quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu của ngƣời khiếu nại cho ngƣời giải quyết khiếu nại . Có thể có những chế tài áp dụng đối với việc ngƣời khiếu nại không trình bày trung thực, không cung cấp thông tin, tài liệu cho ngƣời giải quyết khiếu nại. 3.2.2.4. Về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai Mặc dù Luật Khiếu nại đã quy định rất rõ nguyên tắc giải quyết khiếu nại phải đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật, đảm bảo khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời nhƣng trên thực tế việc giải quyết khiếu nại đặc biệt là giải quyết khiếu nại về đất đai của cơ quan hành chính nhà nƣớc chƣa đảm bảo khách quan, dân chủ, chƣa tạo ra một cơ chế tranh luận bình đẳng trong quá trình giải quyết. Hạn chế này thể hiện rất rõ trong trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Phần lớn các vụ việc khiếu nại về đất đai cơ quan hành chính thụ lý, thẩm tra, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết đơn phƣơng; mặc dù trong quá trình giải quyết có tổ chức đối thoại nhƣng hầu nhƣ các ý kiến của công dân tại buổi đối thoại chỉ mang tính chất tham khảo. Bên cạnh đó ngƣời khiếu nại không đƣợc tiếp cận với những thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc mà chỉ nhận đƣợc quyết định giải quyết khiếu nại của mình. Do vậy, thiết nghĩ cần đƣa ra các quy định thống nhất về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính theo hƣớng công khai, dân chủ, nhanh chóng, kịp thời. 77 3.2.2.5. Hoàn thiện một số quy định của hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai liên quan đến nguyên nhân phát sinh khiếu nại về đất đai Khiếu nại về đất đai ngày một gia tăng không chỉ do các quy định pháp luật về giải quyết đất đai còn nhiều chồng chéo mà còn do các quy định của luật nội dung và các chính sách liên quan đến đất đai còn rất nhiều bất cập. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai, cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai. Cụ thể là: Thứ nhất, cần quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Luật Đất đai cho phù hợp, đồng nhất với Luật Khiếu nại. Quy định chi tiết đặc biệt là các chế định liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt; thời hạn giao đất, hạn mức sử dụng đất và giá đất để nâng cao tính khả thi và phù hợp với yêu cầu thực tế của cơ chế quản lý kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu, ban hành cơ chế giá đất mới, ổn định, phù hợp với điều kiện thực tế theo hƣớng giá đất ổn định trong khoảng 5 năm hoặc theo niên độ ổn định ngân sách; thống nhất cơ chế thu hồi đất do Nhà nƣớc thống nhất thực hiện và thực hiện đấu giá đất sạch cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng hiệu quả. Thứ hai, phƣơng pháp xác định giá đất và khung giá đất quy định tại Khoản 5, Điều 1 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP (trƣớc đây là Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007) của Chính phủ về giá đất và khung giá đất chƣa phù hợp với thực tế xã hội, cần đƣợc sửa đổi để đảm bảo quyền, lợi ích của ngƣời dân. 78 3.2.3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai 3.2.3.1. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại về đất đai tồn đọng, không để phát sinh thành điểm nóng, khiếu kiên đông người gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội Qua nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn một huyện ngoại thành cho thấy, hầu hết các khiếu nại về đất đai liên quan đến công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đòi lại đất cũ...Các dạng khiếu nài này thƣờng có tính chất phức tạp, kéo dài, tụ tập đông ngƣời khiếu nại làm cho việc giải quyết khiếu nại gặp nhiều khó khăn, nhiều vụ việc kéo dài, quá hạn giải quyết. Do đó vấn đề đặt ra là phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, tránh tồn đọng kéo dài dễ phát sinh điểm nóng gây mất ổn định chính trị. Điều này đòi hỏi các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải chú trọng đến công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, phối hợp rà soát các vụ việc tồn đọng, kéo dài để tập trung xử lý dứt điểm dựa trên nguyên tắc đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền phải thƣờng xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai có hiệu lực pháp luật. Chỉ đạo khắc phục có hiệu quả tình trạng cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết nhƣng không giải quyết dẫn đến tình trạng đơn thƣ vƣợt cấp. Cần xử lý trách nhiệm ngƣời đứng đầu các cơ quan, đơn vị có nhiều đơn thƣ tồn đọng, kéo dài. 3.2.3.2 Dự báo được tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai tại địa phương mình quản lý Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc ở địa phƣơng và cả Trung ƣơng cần tăng cƣờng hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại tố cáo nói chung và công tác giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng. Thƣờng xuyên 79 kiểm tra, chấn chỉnh những yếu kém, xử lý kịp thời, đúng pháp luật những sai phạm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai. Cán bộ quản lý ở từng địa phƣơng phải nắm rõ tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai ở địa phƣơng mình, thƣờng xuyên tiếp xúc với dân, với cơ sở thôn, xóm..., lắng nghe ý kiến, phản ánh của ngƣời dân về tình hình quản lý, sử dụng đất đai tại địa phƣơng, từ đó dự báo tốt tình hình khiếu nại, tố cáo có thể phát sinh để có hƣớng xử lý kịp thời. 3.2.3.3. Hạn chế phát sinh những đơn thư khiếu nại về đất đai mới Hạn chế phát sinh những đơn thƣ khiếu nại về đất đai mới phải đƣợc đặt thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong cả hai lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai và quản lý đất đai. Chúng tôi xin đƣa ra một số biện pháp cụ thể sau: Thứ nhất, tăng cƣờng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thƣờng xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện xử lý kịp thời những sai phạm trong việc thực hiện các quy định về thu hồi đất, bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất để thực hiện dự án; việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức có thẩm quyền về quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại tố cáo. Thứ hai, tăng cƣờng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đất đai, pháp luật khiếu nại, tố cáo cho toàn thể nhân dân thông qua nhiều hình thức nhƣ tố chức các buổi tọa đàm ở từng địa phƣơng, tuyên truyền qua hệ thống thông tin đại chúng (qua báo, đài, mạng internet...) Thứ ba, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai và công tác quản lý đất đai, từ đó có hƣớng xử lý nghiêm minh, đúng quy định pháp luật để tạo lòng tin cho ngƣời dân vào cơ quan quản lý nhà nƣớc đồng thời tạo cho ngƣời dân ý thức chấp hành pháp luật. 80 Thứ tư, cán bộ đƣợc giao giải quyết đơn thƣ khiếu nại về đất đai cần nắm vững các quy định pháp luật về đất đai và giải quyết khiếu nại tố cáo để có thể tham mƣu hƣớng giải quyết chính xác, kịp thời, đúng quy định pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng công dân tiếp khiếu lên cơ quan câp trên. Thứ năm, phải xây dựng một hệ thống quản lý khoa học, đồng bộ, thống nhất từ trung ƣơng tới địa phƣơng , đảm bảo đầy đủ từ cơ sở pháp luật đến dữ liệu pháp lý giúp cho quá trình quản lý về đất đai đạt hiệu quả nhất. 3.2.3.4. Thống nhất nhận thức về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai của các cấp ủy, chính quyền các cấp. Cần thống nhất nhận thức về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của cấp ủy, chính quyền các cấp; giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và phải đƣợc thực hiện đồng bộ, phát huy tốt vai trò của các đoàn thể quần chúng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; Đề cao trách nhiệm của thủ trƣởng cơ quan hành chính nhà nƣớc, cơ quan chuyên môn ở các cấp trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát trong lĩnh vực quản lý đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai Tăng cƣờng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thƣờng xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện xử lý kịp thời những sai phạm trong việc thực hiện các quy định về thu hồi đất, bồi thƣờng, hỗ trợ tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất để thực hiện dự án; việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức có thẩm quyền về quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại tố cáo. Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân liên quan đến đất đai đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm 81 tra, giám sát trách nhiệm giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của các cơ quan có thẩm quyền. 3.2.5. Giáo dục pháp luật, đạo đức, nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai cho cán bộ, công chức Hiện nay, hiện tƣợng cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình có hành vi sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ diễn ra không ít, đặc biệt trong lĩnh vực nhạy cảm đó là quản lý nhà nƣớc về đất đai. Bên cạnh đó, ở các địa phƣơng ( tập trung ở các xã ngoại thành) vẫn còn một bộ phận cán bộ chƣa đủ trình độ, chuyên môn nghiệp vụ vẫn đƣợc đảm nhận công tác liên quan đến quản lý đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Để đảm bảo chất lƣợng cho công tác quản lý nhà nƣớc về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và liên quan đến đất đai nói riêng cần tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố lại công tác quản lý và sử dụng đất đai từ trung ƣơng đến địa phƣơng; tập trung đào tạo, bồi dƣỡng chuyên sâu về kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đồng thời chú trọng hơn đến công tác rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai. 82 KẾT LUẬN Giải quyết khiếu nại về đất đai là một trong những vấn đề hết sức cấp bách, nhạy cảm, động chạm đến nhiều vấn đề của xã hội. Nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn tới những hệ quả không hay, là nguy cơ tiềm ẩn của khiếu kiện đông ngƣời, là nguyên cớ cho những kẻ muốn lợi dụng để kích động ngƣời dân nhằm gây mất trật tự an toàn xã hội, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc. Việc giải quyết tốt khiếu nại về đất đai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Qua một thời gian công tác liên quan tới lĩnh vực giải quyết khiếu nại tố cáo tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, nhận thấy đƣợc ý nghĩa quan trọng của công tác này đặc biệt là công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai- từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” với mong muốn góp một phần nhỏ vào quá trình xây dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu để giải quyết tốt các khiếu kiện về đất đai nói chung và giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng. Thông qua phần cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý để giúp ngƣời đọc có cái nhìn tổng quan về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai, các quy định của pháp luật về quyền khiếu nại, trình tƣ, thủ tục, thẩm quyền giả quyết khiếu nại do pháp luật quy định. Phần hai của Luận văn đề cập đến thực trạng khiếu nại về đất đai và thực trạng công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên một địa bàn cụ thể, từ đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại về đất đai. Dựa vào việc nghiên cứu trên một địa bàn cụ thể để đƣa ra cái nhìn khái quát về thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai. Luận văn đƣa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu qủa công tác giải quyết khiếu nại về đất đai. 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020, Hà Nội. 2. Chính phủ (2004), Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai 3. Chính phủ (2006), Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và sửa đổi một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo. 4. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/2/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội. 5. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai 6. Chính phủ (2012), Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 10. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001-2004, (Sách phục vụ thảo luận các Dự thảo Văn kiện Đại hội X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 11. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 84 13. Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo số 164/BC- ĐĐBQH ngày 18/9 báo cáo kết quả giám sát việc quản lý và sử dụng đất tại các nông trường, trạm trại; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân với các quyết định hành chính về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến năm 2011, Hà Nội 14. Lê Văn Đức (2012), “Công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai”, 15. TS. Nguyễn Minh Hằng (chủ biên, 2013), Pháp luật đất đai trong hoạt động nghề luật sư, NXB Thông tin-Truyền thông. 16. Phạm Thị Huệ (2012), Cơ sở của việc xác định đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của Luật khiếu nại, tố cáo, 17. “Khiếu kiện về đất đai, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” (2010), 18. Nguyễn Đình Đăng Lục (2012), “Một số vấn đề về khiếu nại, tố cáo của công dân với vấn đề tài phán hành chính ở nƣớc ta”, 19. TS. Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội (chủ biên, 2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, NXB Chính trị QG. 20. Quốc hội (2013), Hiến pháp 21. Quốc Hội (2003), Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 22. Quốc Hội (2013), Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 23. Quốc Hội (1998, 2004, 2005), Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật khiếu nại, tố cáo sửa đổi năm 2004, 2005 24. Quốc Hội (2011), Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/01/2011 25. Thanh tra Chính phủ (2010), Thông tư số 04/2010/TT-TTCP ngày 26/8 Quy định Quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 26. Thanh tra Chính phủ (2012), Những nội dung cơ bản của Luật Khiếu nại năm 2011, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội 85 27. Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2011 của ngành Thanh tra. 28. Thanh tra Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2012 của ngành Thanh tra. 29. Thanh tra Chính phủ (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2013 của ngành Thanh tra. 30. Thanh tra Chính phủ (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm 2013 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2014 của ngành Thanh tra. 31. Thanh tra Chính phủ (2014), Báo cáo tổng kết năm 2014 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ năm 2015 của ngành Thanh tra. 32. Thanh tra Chính Phủ, Lịch sử thanh tra Việt Nam 1945 - 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005 33. Trần Hồng Thanh (2012), “Bàn về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo”, 34. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 35. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 36. UBND thành phố Hà Nội (2008), Quyết định số 19/2008/QĐ-UBND ngày 29/9 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ban hành quy định tiếp công dân, giải quyết KNTC trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội 37. UBND Thành phố Hà Nội (2010), Quyết định số 13/2010/QĐ-UBND ngày 01/4 quyết định ban hành Quy định tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc Thành phố Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_giai_quyet_khieu_nai_ve_dat_dai_tu_thuc_t.pdf
Luận văn liên quan