Đề nghị Chính phủ rà soát lại để có sự điều chỉnh nhằm giảm thiểu những tác
động xấu của việc phân cấp cho UBND các tỉnh, thành phố trong lĩnh vực thu hút đầu tư.
Thực tiễn cho thấy, việc phân cấp quản lý Nhà nước đã trở thành quy luật, nhưng không
nên lạm dụng sự phân cấp mà hiện đang diễn ra cả hai tình trạng. Một là, phân cấp khi
chưa tạo lập được các điều kiện cần và đủ ở địa phương và cơ quan được phân cấp các
chức năng vốn là của các Bộ, nên sinh ra bất cập, giảm thiểu chất lượng và hiệu năng của
quản lý Nhà nước. Hai là, phân cấp dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng ở một số
nơi” vi phạm tính thống nhất của luật pháp, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các địa phương, giảm, miễn thuế, tiền thuê đất vượt quá khuôn khổ pháp luật, phương hại
đến lợi ích quốc gia.
75 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3148 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một hậu quả khá nặng nề về ô
nhiễm môi trường. Nhiều dòng sông hiền hoà đã trở thành “dòng sông chết” bởi hàng
ngày phải tiếp nhận hàng vạn m3 nước thải công nghiệp chưa qua xử lý. Nhiều khu dân cư
“ngạt thở” vì khí bụi của các nhà máy…đấy là chưa nói đến có nhiều dự án “treo” biến
những cánh đồng trù phú thành những bãi đất hoang hoá kéo dài cả chục năm trời, kèm
theo đó là hàng nghìn hộ nông dân không có việc làm vì đất sản xuất đã được quy hoạch
cho dự án. Tỉnh thống nhất quan điểm không chấp nhận thu hút đầu tư bằng mọi giá. Thu
hút đầu tư phải trên cơ sở quy hoạch và đảm bảo tính hiệu quả cả về kinh tế - xã hội. Theo
tính toán của các chuyên gia kinh tế, nếu chúng ta cải thiện tốt về cơ sở hạ tầng, phát triển
tốt chất lượng nguồn nhân lực, cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính và có khả năng
giám sát tài chính theo kịp nhu cầu… thì chúng ta hoàn toàn có quyền lựa chọn các nhà
đầu tư cũng như các lĩnh vực đầu tư.
3.1.2. Định hướng ngành, lĩnh vực, địa bàn trong tỉnh cần thu hút đầu tư
3.1.2.1. Định hướng ngành, lĩnh vực
- Công nghiệp
+ Tập trung đầu tư phát triển 10 nhóm sản phẩm công nghiệp Nghệ An có lợi thế và
khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế: xi măng, điện, đường kính, bột đá
trắng, đồ gỗ, dệt may, vật liệu ốp lát, da giấy, chế biến hải sản, đò uống (bia, rượu, nước
giải khát), thực phẩm (chè, dứa, bột sắn), lâm sản, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu; quan
tâm nhóm sản phẩm tạo nguồn thu ngân sách cao như: xi măng, thuỷ điện, bia, rượu, hàng
điện tử, cơ khí nông nghiệp và vật liệu xây dựng khác…
+ Tập trung thu hút các dự án đã có chủ trương cho phép đầu tư, đẩy nhanh các thủ
tục cần thiết để giúp các nhà đầu tư triển khai đúng tiến độ nhằm góp phần phấn đấu đến
năm 2010 đạt được sản lượng một số sản phẩm chủ yếu như: xi măng 5,9 triệu tấn; đường
kính 180.000 tấn; bia 250 triệu lít; các nhà máy thuỷ điện đạt trên 850 MW; 3 triệu sản
phẩm may mặc và các sản phẩm có lợi thế của tỉnh Nghệ An như chế biến nông, lâm, hải
sản, khoáng sản. Đồng thời, tiếp tục kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn như sô đa 150.000
tấn/năm…
- Nông nghiệp:
+ Hướng đầu tư vào phát triển mạnh các cây con trọng điểm: mía, chè, lạc, cam,
dứa, cà phê, cao su, vừng… trong đó tập trung ưu tiên phát triển: cấy mía, chè, lạc, cam
dứa và cao su; phát triển chăn nuôi đại gia súc. Đầu tư thâm canh để có lượng hàng hoá
lớn: 12 ngàn tấn chè búp khô xuất khẩu; 75 ngàn tấn lạc vỏ; 2 triệu tấn mía cây; 4 ngàn tấn
cà phê nhân; 3 ngàn mủ cao su; 50 ngàn tấn cam; trên 160 ngàn tấn dứa quả…
+ Đầu tư phát triển nhanh chăn nuôi, nhất là đại gia súc để đến năm 2010 đạt 50%
GTSX của ngành nông nghiệp; tổng đàn trâu bò đạt 1 triệu con (trâu 335 ngàn con, bò 665 ngàn
con, trong đó có 10 ngàn con bò sữa); 1,5 triệu con lợn.
+ Trồng mới hằng năm 10.000 – 12.000 ha rừng; nâng độ che phủ của rừng đạt trên
53% vào năm 2010.
+ Tiếp tục đầu tư phát triển nuôi, trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản, nhất là trong
lĩnh vực chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
- Các ngành dịch vụ:
+ Thương mại: Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong cả
nước, phát triển thị trường nước ngoài. Bảo đảm nhu cầu hàng hoá cho sản xuất và đời
sống. khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, ngoài nước đầu tư phát triển các
mặt hàng xuất khẩu truyền thống (chè, lạc, bột đá, xi măng, đường kính, đồ gỗ, hải sản,
hàng thủ công mỹ nghệ…) và đầu tư sản xuất các mặt hàng mới; xây dựng các khu siêu
thị, thương mại, các chợ trung tâm,chợ đầu mối. Hình thành các phố chuyên doanh ở
Thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò, các thị trấn trung tâm huyện.
+ Du lịch: Kêu gọi các nhà đầu tư sản xuất ra nhiều sản phẩm du lịch mới hấp dẫn.
Phát triển du lịch biển, du lịch sinh thái, văn hoá, lịch sử. Chủ động hội nhập và gắn kết du
lịch của Nghệ An với khu vực Bắc miền Trung và du lịch cả nước, tham gia vào các tua,
tuyến, các chương trình du lịch quốc tế nhằm góp phần phần đưa doanh thu ngành du lịch
năm 2010 tăng gấp 3 lần năm 2005.
+ Các dịch vụ khác: Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, khuyến
khích phát triển các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, bưu
chính viến thông, lao động…
3.1.2.2. Định hướng vùng, địa bàn
- Vùng miền núi:
Hướng các nhà đầu tư vào đầu tư phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An, nhằm
thực hiện tốt Quyết định 147/2005/QĐ-TTg ngày 15/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Phát triển kinh tế xã hội miền Tây tỉnh Nghệ An đến năm 2010”:
+ Phát triển cấy công nghiệp như: Chè, cà phê, cao su, mía, cam, dứa, cây đặc sản
như: dược liệu, cánh kiến đỏ…
+ Khoanh nuôi bảo vệ rừng, nhất là bảo vệ các khu rừng đặc dụng, vườn quốc gia Pù
Mát, gắn với trồng rừng, chế biến gỗ.
+ Phát triển mạnh chăn nuôi đại gia súc.
+ Phát triển thuỷ điện.
+ Tổ chức khai thác có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, vật liệu xây dựng gắn với
bảo vệ môi trường.
+ Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
+ Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu: Nậm Cắn, Thanh Thuỷ và Thông Thụ.
+ Phát triển du lịch sinh thái.
+ Đầu tư hình thành các khu, các cụm công nghiệp nhỏ ở các huyện làm động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội miền núi.
- Vùng đồng bằng ven biển:
+ Xúc tiến, vận động, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển
mạnh cây công nghiệp ngắn ngày như: lạc, vừng để làm nguyên liệu cho các nhà máy chế
biến nông sản. Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến thức ăn gia súc để phục vụ cho chăn
nuôi.
+ Khai thác có hiệu quả diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ hải sản xuất khẩu, mở
rộng diện tích nuôi tôm ở Diễn Châu, Quỳnh Lưu để đưa sản lượng nuôi trồng các loại
thuỷ sản lên 30.000 – 35.000 tấn, trong đó có 3.000 tấn tôm nuôi.
+ Đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở chế biến thuỷ sản phục vụ xuất khẩu và tiêu
dùng nội địa. Tiếp tục nâng cấp các cảng cá Của Hội, Lạch Quèn, Lạch Cờn, Lạch Vạn để
phục vụ tốt hơn hậu cần cho nghề cá.
+ Phát triển khu công nghiệp Nam Cấm, Hoàng Mai, Khu kinh tế Đông Nam Nghệ
An và các cụm công nghiệp nhỏ tiêu thụ công nghiệp ở các huyện ven biển ( Nghi Lộc,
Diễn Châu, Quỳnh Lưu).
- Vùng đô thị: Gồm Thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò, Thái Hoà và các thị trấn
+ Công nghiệp sạch: công nghiệp điện tử, viễn thông, công nghiệp dệt, may, ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp.
+ Tập trung thu hút các dự án vào Khu công nghiệp Bắc Vinh và cụm công nghiệp
của Thành phố. Khuyến khích các nhà đầu tư vào kinh doanh các lĩnh vực chế biến nông,
lâm, hải sản, hoá chất, vật liệu xây dựng … tại Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An, Khu
Công nghiệp Nam Cấm. khuyến khích các nhà đầu tư vào xây dựng các khu thương mại,
siêu thị.
+ Vận động các nhà đầu tư hướng vào kinh doanh hạ tầng các khu công nghiệp, khu
du lịch, thương mại…
+ Tập trung mọi nguồn lực đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ tạo nguồn thu lớn cho ngân sách ở Thành phố Vinh và Thị xã Của Lò.
+ Vận động, kêu gọi đầu tư vào các dự án công nghệ cao, các dự án đào tạo nguồn
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Thu hút các Nhà đầu tư đầu tư vào khu du lịch biển Của Lò, Nghi Thiết… du lịch
văn hoá, lịch sử, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí…
+ Khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư vào dịch vụ tư vấn, tài chính, ngân
hàng, y tế, giáo dục.
Biểu 3.3: DỰ BÁO CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ NGHỆ AN ĐẾN NĂM 2020
Ngành Kinh tế 2005 (%) 2010 (%) 2015 (%) 2020 (%)
1. Công nghiệp, xây dựng 30,4 39,0 41,4 43,0
2. Nông – lâm – thuỷ sản 34,2 24,0 18,2 14,0
3. Dịch vụ 35,4 37,0 40,4 43,0
Tổng số (%) 100 100 100 100
Nguồn: UBND tỉnh Nghệ An, Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh
Nghệ An đến năm 2020, Tháng 12 /2006.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NGHỆ AN
3.2.1. Giải pháp về công tác quy hoạch và chuẩn bị đầu tư
Triển khai các loại quy hoạch ngành, xây dựng, phát triển đô thị, sử dụng đất… theo
những nội dung của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm
2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 197/2007/QĐ-TTg ngày
28/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ) để từ đó xây dựng danh mục các chương trình, đề
án, dự án nhằm triển khai thực hiện quy hoạch.
Về quy hoạch phát triển Khu Kinh tế Đông Nam Nghệ An và các KCN trong tỉnh
phải gắn với xu thế đô thị hoá tất yếu của các vùng nông thôn ven Thành phố Vinh, Thị xã
Cửa Lò, Thị xã Thái Hoà, Thị trấn Hoàng Mai và nhiều thị trấn khác. Trong tương lai, các
thị trấn Hoàng Mai, Con Cuông, Diễn Châu… sẽ trở thành thị xã. Vì vậy, cần có quy
hoạch ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trước, khu dân cư đô thị mới liền kề
ngoài hàng rào KCN. Tạo điều kiện khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ
đời sống vật chất, tinh thần của người lao động và hoạt động của các doanh nghiệp KCN.
Cụ thể như cơ sở dạy nghề, nhà ở cho công nhân và chuyên gia, cửa hàng thực phẩm, bách
hoá, trạm y tế, nhà trẻ, công trình phúc lợi, vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác.
Trong điều kiện ngân sách hạn chế, KCN nên quy hoạch ở những vùng đất hoang
hoá, rộng lớn, thưa thớt dân cư để vừa ít tốn ngân sách đền bù, giải phóng mặt bằng, vừa
tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Quy hoạch KCN phải gắn chặt với việc bảo
vệ môi trường. Thực tế cho thấy, nếu sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường thì
hiệu quả của sản xuất nhiều khi không bù đắp được tác hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
KCN Nam Cấm nằm trên vùng đất hoang hoá, sản xuất nông nghiệp không có hiệu quả,
dân cư thưa thớt nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng có nhiều thuận lợi, nhưng ở vùng
sâu trũng nên chi phí san lấp mặt bằng rất lớn. KCN Bắc Vinh nằm trong thành phố Vinh
nên việc giải phóng mặt bằng, đền bù, giải toả hết sức khó khăn cả về phía nhà đầu tư và
người dân trong vùng quy hoạch. Hạn chế mở rộng KCN Cửa Lò vì nó có thể ảnh hưởng
xấu đến khu du lịch biển. Vì vậy, cần chọn lọc để phát triển thêm một số KCN trên địa bàn
các huyện miền Tây của tỉnh trên cơ sở phát huy lợi thế về tài nguyên, khoáng sản như:
KCN Sông Dinh (huyện Quỳ Hợp), KCN Tri Lễ (huyện Anh Sơn), KCN Yên Khê (huyện
Con Cuông), KCN Hưng Tây (huyện Hưng Nguyên), KCN tập trung ở Đông Hồi (Quỳnh
Lập, Quỳnh Lưu)…
Về các quy hoạch khác, cần rà soát, đánh giá lại các tài nguyên, khoáng sản, nguồn
lợi rừng, nguồn lợi biển có khả năng hợp tác, liên doanh đầu tư. Tổ chức nghiên cứu các
tài liệu, các số liệu cơ bản mà Nghệ An đã có, bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với thực tế
làm cơ sở cho việc lập dự án tiền khả thi các dự án trọng điểm (đã được phê duyệt) một
cách chính xác, đầy đủ, có cơ sở khoa học để làm tài liệu xúc tiến đầu tư giai đoạn 2008 -
2010 và các năm tiếp theo.
3.2.2. Giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư
- Xây dựng chiến lược và các lĩnh vực đầu tư một cách cụ thể để các nhà đầu tư lựa
chọn lĩnh vực và dự án đầu tư đúng theo định hướng phát triển của tỉnh. Tiếp tục cụ thể
hoá cơ chế chính sách của nhà nước, đưa ra những chính sách ưu đãi đối với từng ngành,
từng lĩnh vực, nhằm tạo ra sức hấp dẫn các nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện thực tế của
tỉnh và có tính khả thi cao. Xây dựng cơ chế hỗ trợ cả về nhân lực và vật lực nhằm tạo ra
“cú huých” thúc đẩy nội lực từ bên trong và tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư, cơ chế hỗ trợ cho các doanh nghiệp
để kích thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường về năng lực tài chính cho
doanh nghiệp để trước hết doanh nghiệp có thể tồn tại, đứng vững và thích nghi trong cơ
chế thị trường, sau là tăng sức cạnh tranh. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp về mặt bằng
SXKD, đào tạo nhân lực, hay cung cấp thông tin, xây dựng để đạt chứng chỉ quản lý chất
lượng ISO … phù hợp với cam kết khi chúng ta gia nhập WTO. Ban hành cơ chế khuyến
khích vận động và tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư trong nước nhằm khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tham gia vận động đầu tư và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư . Kịp thời
ban hành chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hoặc
đầu tư theo hình thức BOT (hoạt động xây dựng – kinh doanh – chuyển giao), tôn vinh
khen thưởng cho các nhà đầu tư hoặc các tổ chức, cá nhân có công lao vận động được
nguồn vốn đầu tư vào tỉnh. Quy định chế độ ưu đãi khi nhà đầu tư đang thực hiện dự án
đầu tư tại tỉnh mà vận động về cho tỉnh thêm dự án đầu tư khác.
- Sớm hoàn thiện việc xây dựng hạ tầng các KCN. Trước hết, phải tranh thủ được
nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, với mức hỗ trợ tối đa là 70 tỷ cho việc đầu tư các KCN
các địa phương (theo Quyết định số 24/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 của Thủ tướng
Chính phủ) bằng việc xây dựng Khu Công nghiệp ở tỉnh phải đáp ứng được tiêu chí KCN
theo Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Bên
cạnh đó, cần ban hành chính sách nhằm kêu gọi các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng các
KCN: Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hạ tầng vay vốn, ưu đãi của nhà nước; Đối với các
KCN chưa có nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng, khuyến khích các nhà đầu tư có dự án đầu tư
vào các KCN bỏ chi phí để tự san nền trên diện tích mà nhà đầu tư thuê để xây dựng nhà
máy. Với phương thức này, thì phần lớn chi phí san nền sẽ huy động của các nhà đầu tư;
Vận động các đơn vị cung cấp dịch vụ như điện, nước, viễn thông lắp đặt hệ thống cung
cấp đến chân hàng rào doanh nghiệp. Qua đó làm giảm chi phí đầu tư hạ tầng KCN.
- Tập trung đầu tư để hoàn thành mạng giao thông phục vụ nhu cầu phát triển chung
của nền kinh tế (cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không) đồng bộ và
thuận tiện cho việc vận động hàng hoá giữa các vùng với các nước và quốc tế. Trước mắt,
cần nâng cấp các tuyến quốc lộ, xây dựng mới tuyến đường phía Tây Nghệ An, đường
vành đai phía Tây quốc lộ 48, đường nối quốc lộ 48 với quốc lộ 45 Thanh Hoá, đường
Xiêng Thù (Kỳ Sơn) – Yên Tĩnh (Tương Dương), đường Châu Thôn (Quế Phong) – Tân
Xuân (Tân Kỳ) nối với đường Hồ Chí Minh. Xây dựng một số tuyến đường ngang nối với
trục đường Hồ Chí Minh. Tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các tuyến tỉnh lộ quan trọng và
nâng cấp một số tuyến đường huyện lộ lên tỉnh lộ, xây dựng xong đường quốc lộ 7 nối
quốc lộ 48. Nâng cấp và đồng bộ hoá giao thông nội thị, hoàn thành cơ bản giao thông
nông thôn.
- Nâng cấp và mở rộng cảng Cửa Lò để tàu có trọng tải từ 1-1,5 vạn tấn có thể ra vào
thuận lợi và nâng năng lực hàng hoá thông qua cảng khoảng 2 triệu tấn/năm. Gắn việc mở
rộng và nâng cấp các tuyến đường ra vào cảng, xây thêm một số bến mới để nâng công
suất cảng đạt khối lượng luân chuyển hàng hoá ngày càng lớn. Nâng cấp sân bay Vinh,
tăng thêm các tuyến nội địa và mở thêm một số đường bay quốc tế. Mở rộng, nâng cấp
quốc lộ 1A đoạn Vinh- Hoàng Mai, nghiên cứu khôi phục, nâng cấp, mở mới một số tuyến
đường sắt phục vụ vận tải hàng hoá. Hoàn thành các nhà máy nước Vinh, Nam Cấm, Cửa
Lò. Phát triển các ngành dịch vụ, các ngành sản xuất phụ trợ cho các doanh nghiệp như
dịch vụ tư vấn đào tạo, tư vấn pháp luật, bưu chính viễn hệ thông, hệ thống điện, các
doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp và dịch vụ sửa chữa, bảo
hiểm, ngân hàng, phòng cháy chữa cháy.
- Đẩy nhanh việc đền bù GPMB bằng việc thực hiện một số giải pháp như: Quan tâm
công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương chính sách. Trong quá trình quy
hoạch, quá trình thực hiện đền bù giải phóng mặt bừng phải phổ biến đầy đủ cho nhân dân
về luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ, quyết định của UBND tỉnh. Làm tốt công tác
tư tưởng trong nhân dân, nâng cao sự hiểu biết và được sự thống nhất ủng hộ, đồng lòng
của nhân dân; Nâng cao năng lực và trách nhiệm của Hội đồng bồi thường GPMB. Các
Hội đồng GPMB thông thường ở giai đoạn đầu triển khai rất bài bản, tích cực và được chỉ
đạo sát sao từ chính quyền các cấp, càng về sau công việc càng khó khăn, tồn đọng nhiều
việc, thành viên hội đồng GPMB đều làm việc kiêm nhiệm nên rất khó khăn trong việc sắp
xếp nhiệm vụ chuyên môn. Để giải quyết khó khăn nêu trên, cần bổ sung thêm 3-5 biên
chế cho các huyện để thành lập bộ phận chuyên trách công tác bồi thường GPMB, người
được giao nhiệm vụ làm các thủ tục GPMB cần hiểu đầy đủ các chế độ, chính sách, pháp
luật liên quan đến bồi thường GPMB; Mặt khác cần lường hết mọi khó khăn có thể xảy ra
để giải quyết kịp thời nhanh gọn; Chuẩn bị đủ chi phí bồi thường GPMB và vốn tái định
cư (nếu có) theo kế hoạch là điều kiện quyết định việc hoàn thành GPMB. Nếu chi trả không
kịp thời, người dân chờ đợi gây khó khăn; chưa kể nếu giá cả thay đổi phải làm lại thủ tục đền
bù rất tốn kém kinh phí và kéo dài thời gian; Xử lý nghiêm minh các hiện tượng làm sai trái
trong công tác GPMB. Các cấp chính quyền cần ngăn chặn hiện tượng tiêu cực, lợi dụng bồi
thường GPMB để trục lợi như: trồng thêm cây, xây mộ, xây thêm công trình, cố tình lấn
chiếm... Để tránh những khó khăn trên khi có quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết cần
công bố quy hoạch, thông báo của cấp có thẩm quyền để nhân dân trong vùng quy hoạch xây
dựng, giữ nguyên hiện trạng, đồng thời giải quyết đền bù GPMB trong thời gian sớm nhất để
nhân dân không chờ đợi quá lâu. Thực tế công tác GPMB có nhiều điều kiện để nẩy sinh tiêu
cực và làm sai quy định, áp dụng sai định mức: Nâng hạng đất, nâng giá trị nhà cửa, cây cối,
tính toán sai số lượng (mồ mả, vật nuôi...) Do đó các cơ quan chức năng cần thường xuyên
kiểm tra, giám sát giải quyết xử lý sớm các sai sót, thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố tình
làm trái (nếu có) để ngăn chặn những thiệt hại cả vật chất, thời gian và niềm tin của nhân dân.
- Cải cách thủ tục hành chính: Nhà nước ta coi cải cách hành chính là bước đột phá để
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế –xã hội. Theo đó, ngày 17/9/2001 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành quyết định số 136/QĐ-TTg phê duỵêt chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, tạo cơ sở để thực hiện công tác cải cách
hành chính một cách đồng bộ và nhất quán. Trong đó, có việc đổi mới quy trình xây dựng
và ban hành văn bản quy hoạch pháp luật, tăng cường năng lực các cơ quan hành chính
nhà nước, đảm bảo việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh; cung cấp thông tin đầy đủ
về chính sách, pháp luật của nhà nước cho mọi người, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và
giư gìn kỷ cương xã hội. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, ban hành cơ chế kiểm tra
đánh giá cán bộ công chức, viên chức trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc của dân
và doanh nghiệp; mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa”, quy định cụ thể, rõ ràng trách
nhiệm cá nhân khi thi hành công vụ. Cải cách bộ máy hành chính thông qua điều chỉnh
chức năng, nhiệm vụ trong các cơ quan hành chính cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà
nước trong tình hình mới. Ban hành và áp dụng các quy định mới về phân cấp giữa các cấp
chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa
phương, gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cơ bản. Cải cách bộ
máy chính quyền địa phương, phương thức quản lý và lề lối làm việc của các cơ quan hành
chính các cấp.
Thủ tục hành chính là vấn đề các nhà đầu tư rất quan tâm vì nó liên quan tới chi phí và
cơ hội đầu tư. Vấn đề trọng yếu nhất của thủ tục hành chính ở tỉnh Nghệ An hiện nay tập
trung ở tư tưởng, trình độ và trách nhiệm của đội ngũ những người thực hiện chính sách.
Hiện nay, các khâu giải quyết các thủ tục dăng ký đầu tư và vướng mắc trong quá trình đầu
tư còn quá nhiều cửa, phân tán, chồng chéo và tỏ ra kém hiệu quả. Nguyên nhân cơ bản
vẫn là do có quá nhiều đầu mối. Để thực hiện tốt hơn việc thu hút đầu tư trực tiếp, tỉnh
Nghệ An cần đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo thuận lợi và giảm chi phí cho các
nhà đầu tư. Trước hết và cấp bách, UBND Tỉnh cần điều chỉnh, bổ sung Quyết định 4412
QĐ/UB ngày 19/11/2004 về “phân công trách nhiệm các ngành, các cấp trong việc tham
mưu, đề xuất, xử lý hồ sơ các dự án sử dụng 100% vốn của các nhà đầu tư vào địa bàn tỉnh
Nghệ An”, vì Quyết định này giao chưa hết việc, chưa chi tiết, cụ thể cho các cấp, các ngành
trong việc giải phóng mặt bằng và quy định thời gian để giải quyết các khâu, các phần việc
trong quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư còn quá dài nên vướng mắc trong
quá trình thực hiện, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Trong thời gian tới cần nâng cao hơn nữa
hiệu quả hoạt động của văn phòng một cửa nhằm rút gọn quy trình và thời gian cấp phép,
công khai minh bạch các bước của thủ tục đầu tư. Hoàn thiện quy trình cấp Giấy chứng nhận
đầu tư cho các dự án đầu tư theo quy định của Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006
của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật đầu tư. Thông báo công khai tại nơi tiếp nhận hồ sơ và
chuyển tải nội dung văn bản lên trang Web thu hút đầu tư của tỉnh. Rút gọn quy trình cấp phép
so với quy định, tiếp tục thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” trong thẩm tra, thẩm định dự án
đầu tư. Tiếp tục cải cách nâng cao chất lượng của bộ máy quản lý Khu Kinh tế, Khu Công
nghiệp và cơ quan tham mưu UBND tỉnh về hoạt động đầu tư. Kỷ luật nghiêm khắc những
cán bộ, công chức có hành động nhũng nhiễu doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
3.2.3. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư
Môi trường đầu tư Nghệ An còn thiếu sức cạnh tranh, khả năng thu hút đầu tư nước
ngoài còn yếu, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Một trong những
yêu cầu cần thiết là hoàn thiện các chính sách liên quan đến thu hút đầu tư. Thời gian qua,
tỉnh đã ban hành một số chính sách ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, cần phải xem xét, bổ sung,
sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Trong thời gian tới, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu
tư ở Nghệ An cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Quy định về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải có tính ổn định lâu dài, ít nhất có
thời hạn hiệu lực từ 3 năm trở lên.
- Thủ tục, hồ sơ để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phải đơn giản, rõ ràng, phải
công khai và quy định rõ cơ quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ kèm theo trách nhiệm của cơ quan
đó về việc đảm bảo thời gian giải quyết quyền lợi cho các nhà đầu tư.
- Bổ sung thêm điều khoản cho các dự án có tính chất đặc thù vào Quyết định
57/2005/QĐ-UB ngày 10/5/2005 về việc ban hành một số chính sách ưu đãi đầu tư tại tỉnh
Nghệ An, và các chính sách khác có liên quan với phương châm: chính sách phải thông
thoáng, thuận lợi nhất và ổn định theo hướng đảm bảo cho các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi
cao nhất theo chủ trương của Ban Thường vụ tỉnh uỷ, nhưng không trái với các quy định của
Nhà nước.
- Có kế hoạch vốn ngân sách hàng năm để chi trả cho các đối tượng được hưởng
ưu đãi hỗ trợ. Thành lập một số quỹ hỗ trợ các gia đình bị thu hồi đất, quỹ đào tạo lao
động, quỹ hỗ trợ việc làm... Các quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp như: Quỹ hỗ trợ xây dựng
thương hiệu, quỹ khen thưởng trong sản xuất kinh doanh...
- Chính sách đất đai phải hướng tới tạo thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư, nhất là
việc triển khai các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể miễn, giảm tiền thuê đất trong một
thời gian nhất định, tiền thuê đất phải rẻ hơn các khu công nghệ cao, có chính sách cho
thuê đất dài hạn (20-50năm). Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giải
phóng mặt bằng. Các cấp chính quyền có trách nhiệm đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt
bằng, giải quyết dứt điểm việc đền bù để triển khai dự án đúng tiến độ. Cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài thuê đất để xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN để cho nhà đầu tư thứ
cấp thuê lại. Trong quy định hiện hành về chính sách ưu đãi hỗ trợ đầu tư của tỉnh đã có
chính sách hỗ trợ đào tạo lao động cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, chính
sách này rất khó thực hiện do các quy định chưa rõ ràng. trong thời gian tới cần xem xét và
quy định rõ hơn về đối tượng lao động cũng như nguyên tắc hỗ trợ. Ưu tiên tuyển dụng các
lao động kể cả lao động chưa được đào tạo nghề, con em các gia đình có đất bị thu hồi.
- Ngoài ra, những vấn đề vượt thẩm quyền, tỉnh cần tiếp tục đề xuất với Quốc hội,
Chính phủ xem xét một số chính sách ưu đãi đầu tư khác, như: Có chính sách ưu đãi về
thuế theo hướng tạo sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Giảm mức thuế thu nhập cá nhân đối
với người lao động Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc trong các doanh nghiệp
FDI. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp trực tiếp chủ động tuyển chọn, thuê và sử dụng lao động. Để tạo sức hút
các thành phần kinh tế đầu tư, cần có chính sách tạo vốn thông qua tín dụng ngân hàng tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi vay vốn ở các ngân hàng thương mại.
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực
Việc đào tạo và cung cấp lao động, trước hết phải căn cứ vào định hướng phát triển
các ngành tại địa phương để có phương án bố trí hợp lý và đáp ứng được yêu cầu.
Biểu 3.4: DỰ BÁO CƠ CẤU LAO ĐỘNG NGHỆ AN ĐẾN NĂM 2020
Ngành, lĩnh vực 2005 (%) 2010 (%) 2015 (%) 2020 (%)
1. Công nghiệp, xây dựng 8,1 15,0 20,0 23,0
2. Nông – lâm – thuỷ sản 79,6 68,0 58,0 49,0
3. Dịch vụ 12,3 17,0 22,0 28,0
Tổng số (%) 100,0 100,0 100,0 100,0
Nguồn: UBND tỉnh Nghệ An, Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội tỉnh
Nghệ An đến năm 2020, Tháng 12/2006
Để phát triển nguồn nhân lực ở Nghệ An trong thời gian tới, một số nội dung cần
thực hiện là:
- Tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các
tổ chức trong và ngòai nước nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật cao của nhà
đầu tư. Trước hết là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, công nhân
bậc cao. Đây là khâu thiếu và yếu của Nghệ An hiện nay. Tổng số lao động cần đào tạo
trong giai đoạn 2006-2010 là 192.000 người, trong đó, công nhân kỹ thuật và lành nghề là:
51.250 người, thợ bậc cao: 10.000 người, còn lại là đào tạo ngắn hạn. Ngoài ra, cần đào
tạo một đội ngũ cán bộ biết cách quản lý các chương trình, dự án, giỏi ngoại ngữ, tâm
huyết, phục vụ tốt cho công tác xúc tiến đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư.
- Thực hiện Nghị quyết số: 04/NQ-TU ngày 12/202/2008 của Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh về chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đọan 2006-2010. Khuyến khích các
nhà đầu tư đầu tư xây dựng các trường đại học và cao đẳng. Triển khai các giải pháp đồng
bộ để tạo ra những đột phá về nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo theo nhu cầu của xã
hội.
- Tiếp tục triển khai đề án nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, giai đoạn 2006-2010. Xây dựng Nghệ An trở thành trung
tâm giáo dục đào tạo của cả nước với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc gia và khu vực, TP.
Vinh trở thành trung tâm giáo dục – đào tạo của Khu vực Bắc Trung bộ; Đề án “phát triển
giáo dục miền Tây Nghệ An giai đoạn 2006-2010”.
- Phát triển mạnh mẽ hệ thống dạy nghề đa cấp, đa trình độ (sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng nghề) chuyển từ dạy nghề trình độ thấp sang trình độ cao nhằm nâng cao chất lượng
lao động cho thị trường lao động. Sở Lao động – Thương binh và xã hội phối hợp với các
cơ quan liên quan, căn cứ vào cơ cấu ngành nghề để dự báo nhu cầu lao động của các
doanh nghiệp. Qua đó phối hợp với các trường nghề để có định hướng và kế hoạch đào tạo
lao động phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Tiếp tục đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường năng lực, quản lý đầu tư cho hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư các cấp.
- Sửa đổi, bổ sung chính sách thu hút nhân tài; có cơ chế phát hiện, bồi dưỡng, đào
tạo nhân tài; khuyến khích phát huy tài năng, đặc biệt là tài năng của lớp trẻ.
- Tuyên truyền, quảng bá nhu cầu lao động của các doanh nghiệp để từng bước lôi
kéo đội ngũ lao động của tỉnh đi lập nghiệp ở các tỉnh, thành phố phái nam. Đội ngũ lao
động này có ưu điểm là đã được đào tạo và đào tạo lại tại các cơ sở mà họ đang làm việc.
Hơn nữa những lao động này đã có kinh nghiệm cũng như sản xuất công nghiệp. Những
phẩm chất quan trọng mà các lao động địa phương vẫn còn thiếu.
3.2.5. Đẩy mạnh vận động xúc tiến đầu tư
Những năm qua, tỉnh Nghệ An đã thực hiện một số nội dung của công tác xúc tiến
đầu tư, đó là: Tháng 12/2004, UBND tỉnh có quyết định thành lập Trung tâm xúc tiến
đầu tư - thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư để làm đầu mối tổ chức các họat động xúc tiến
đầu tư các dự án địa bàn tỉnh; Ban hành Nghị quyết số 01/NQ ngày 26/12/2005 của Ban
Thường vụ tỉnh ủy về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ XVI; Nghị quyết số 03/NQ- TU ngày 28/6/2006 của BCH Đảng bộ
tỉnh khóa XVI về Chương trình Xúc tiến đầu tư gắn với phát triển nguồn thu ngân sách
thời kỳ 2006-2010; các Quyết định của UBND tỉnh số; 436/QĐ-UBND ngày
30/02/2006 về Kế hoạch triển khai các chương trình, đề án trọng điểm thực hiện Nghị
quyết số 01/NQ-TU; số 4243/QĐ-UBND ngày 08/11/2006 về Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-TU.
Tuy nhiên, công tác xúc tiến đầu tư vào Nghệ An hiện nay còn rất hạn chế và kém
chuyên nghiệp, hầu hết các hoạt động xúc tiến đầu tư hiện đang được tiến hành gồm tài
liệu giới thiệu chung về đầu tư, chính sách ưu đãi chung và ưu đãi đặc thù của tỉnh, danh
mục ngành nghề, dự án kêu gọi đầu tư, trang thông tin điện tử website, tổ chức các cuộc
tiếp xúc, tìm hiểu thị trường đối tác đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức các cuộc giao ban
định kỳ với sự có mặt của các sở, ban, ngành và các nhà đầu tư; các phương tiện xúc tiến
đầu tư khác như CD Rom, video… Song những hoạt động này mới chỉ làm được ở mức
cho có lệ, mang tính hình thức. Công tác xúc tiến đầu tư chưa được xây dựng có hệ thống,
chủ yếu mang tính thời vụ và đặc biệt chưa có nguồn kinh phí ổn định, lâu dài để duy trì
các hoạt động. Trong khi đó, hoạt động theo dõi, hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các đối
tượng tiềm năng còn nhiều hạn chế. Kinh phí xúc tiến đầu tư vào hiện nay phụ thuộc rất
nhiều vào nhận thức của UBND tỉnh về tầm quan trọng của công tác này. Hơn nữa đội ngũ
cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa đủ trình độ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, sự phối hợp trong công tác vận động thu hút đầu tư giữa
các cơ quan ban ngành trong tỉnh vẫn chưa được thực hiện đồng bộ. Thời gian tới, Nghệ
An muốn nâng cao vai trò hoạt động xúc tiến đầu tư vào KCN cần thực hiện rất nhiều công
việc.
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về đầu tư. Xây dựng ngân hàng dữ liệu về điều kiện
tự nhiên, xã hội; các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, xuất nhập khẩu, lao động, đất đai;
các thủ tục về đăng ký kinh doanh và đầu tư; danh mục các dự án đầu tư… của tỉnh làm tài
liệu xúc tiến đầu tư.
Xác định đối tượng vận động đầu tư, gồm: Các doanh nghiệp lớn trong nước (các
Tổng công ty 90, 91, các tập đoàn kinh tế có tiềm năng); Các Vụ Hợp tác quốc tế của các
Bộ, Ban, Ngành Trung ương; Các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, con em Nghệ Tĩnh,
Việt kiều ở nước ngoài, ngoại tỉnh; Các doanh nghiệp Nghệ An có năng lực về tài chính và
năng lực quản lý; Các Đại sứ quán, các văn phòng tham tán thương mại, các hiệp hội
doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam (chủ yếu Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông); Các tổ chức tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia nước ngoài.
Đa dạng hoá các hình thức xúc tiến đầu tư: Thông qua trang WEB và liên kết với các
báo, đài Trung ương, các tạp chí có uy tín để quảng bá đầy đủ, kịp thời hình ảnh quê
hương, con người Nghệ An, những cơ chế, chính sách, những cơ hội và những dự án tỉnh
cần kêu gọi đầu tư ra ngoài tỉnh, ngoài nước; Tổ chức hội thảo, hội nghị khi thấy thực sự
cần thiết hoặc phối hợp với các Bộ để tổ chức các cuộc hội thảo trong nước cũng như nước
ngoài nhằm giảm thiểu chi phí cho công tác tổ chức; Liên kết với các trung tâm xúc tiến
đầu tư ở các Bộ, của các Sở Kế hoạch và Đầu tư ở các thành phố lớn, các tỉnh có nhiều dự
án đầu tư (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng,
Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh…) để nắm thông tin về các nhà đầu tư; Gặp mặt các hiệp
hội doanh nghiệp, đại diện hội đồng hương Nghệ Tĩnh ở nước ngoài nhân các ngày lễ lớn;
Tạo môi trường thuận lợi và các điều kiện tốt nhất cho các dự án nước ngoài, ngoại tỉnh đã
đầu tư trên địa bàn sản xuất kinh doanh có hiệu quả để các doanh nghiệp này góp phần
quảng bá đầu tư. UBND tỉnh cần lập một trang WEB chung của tỉnh trong đó có các
chuyên mục riêng cho các Sở, Ngành để thay thế cho các trang WEB riêng hiện nay nhằm
để tập trung nguồn ngân sách đầu tư cho việc cập nhật thông tin, dữ liệu phong phú, đầy
đủ về tỉnh Nghệ An cho các đối tượng truy cập. Chuyển mạnh sang hình thức vận động
đầu tư theo dự án và đối tượng trọng điểm. Tích cực tiếp cận và vận động các Tổng công
ty, tập đòan lớn, các doanh nghiệp nước ngòai có thực lực tài chính và công nghệ đầu tư,
văn phòng xúc tiến đầu tư – thương mại nước ngòai tại Việt Nam. Thông qua các Bộ,
ngành trung ương, các tổ chức xúc tiến đầu tư, thương mại, đại sứ quán để giới thiệu các
đối tác đến tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Nghệ An. Tiếp tục đổi mới công tác vận động, xúc
tiến đầu tư trên cơ sở đa dạng hóa các phương thức xúc tiến đầu tư, các ấn phẩm (sách
báo, internet, đĩa VCD, cataloge, brochure…).
Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư: Thực hiện Quyết định 436/QĐ-UBND
ngày 03/2/2006 của UBND tỉnh giao cho các ngành chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và
Đầu tư và các đơn vị liên quan lập các chương trình, đề án cần kêu gọi đầu tư của ngành
mình. Trên cơ sở chương trình, đề án được duyệt, các ngành chủ động việc xúc tiến, vận
động đầu tư. Giám đốc các Sở (chủ trì dự án) và chủ tịch UBND các huyện, xã địa bàn có
dự án là người chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của UBND tỉnh
trong quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng và kiểm tra đôn đốc thực hiện dự án;
Lập quỹ xúc tiến đầu tư và hàng năm UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí cho các ngành, các cấp
và kịp thời tháo gỡ các vướng mắc cho công tác xúc tiến, vận động đầu tư.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ trực tiếp làm công tác xúc tiến đầu tư: Củng cố,
nâng cấp trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư theo hướng tập trung đầu
mối, nâng cao năng lực cán bộ và tăng thêm tính chủ động cho tổ chức họat động xúc tiến
đầu tư, thực hiện tốt nhiệm vu của UBND tỉnh giao làm đầu mối xúc tiến đầu tư vào địa
bàn.
Trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiện vụ của các Trung tâm Xúc tiến đầu tư thuộc
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Thương mại và Du lịch, UBND tỉnh cần chỉ đạo việc kiện toàn
lại cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xúc tiến đầu tư trong tình hình mới; Ưu tiên tuyển
chọn cán bộ am hiểu về nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, có kinh nghiệm công tác, tâm huyết
và trách nhiệm cao với công việc được giao về công tác tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư và
các Sở, Ngành liên quan trực tiếp đến quản lý hoạt động đầu tư như: Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Sở Xây dựng, Công Thương, Du lịch, Tài chính, Tài nguyên – môi trường, Ban Quản
lý Khu Kinh tế…; Đồng thời, kịp thời thay thế những cán bộ yếu về chuyên môn, thiếu
tinh thần trách nhiệm ở những cơ quan này.
Xây dựng quan hệ thân thiện với các nhà đầu tư hiện có: Đảm bảo môi trường an
ninh tốt và tạo lòng tin đối với cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư bằng cách định
kỳ tổ chức gặp mặt giữa lãnh đạo tỉnh và các nhà đầu tư để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng
và tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nếu có. Thiết lập đường dây nóng và đặt
hòm thư góp ý kiến tại trụ sở các cơ quan công quyền. Kiên quyết bảo vệ lợi ích chính
đáng và hợp pháp của các doanh nghiệp khi đầu tư vào địa bàn. Kịp thời biểu dương
những doanh nghiệp sớm triển khai dự án và đảm bảo thực hiện đúng tiến độ cam kết. Có
thể có hình thức khen thưởng đối với những doanh nghiệp có tiến độ thực hiện dự án
nhanh hơn so với cam kết. Nâng cao hình thức thi đua khen thưởng một số doanh nghiệp
có thành tích xuất sắc bỏ nhiều vốn đầu tư, đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội, đóng góp
nhiều cho ngân sách tỉnh. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành. Thường xuyên kiểm
tra, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư.
3.2.6. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
Đối với các nhà đầu tư, những ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, về thời hạn của dự án
vẫn rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là hiệu năng của bộ máy Nhà nước. Từ khi các
công chức Nhà nước tiếp cận ban đầu với nhà đầu tư, đến việc thẩm định dự án đầu tư và
quản lý sau khi cấp phép đều cần phải có nhận thức đúng “nhà đầu tư là chủ thể, là người
có quyền nhất và quan tâm nhất đến hiệu quả đầu tư”. Từ đó, quản lý Nhà nước trong thu
hút đầu tư phải trên quan điểm: Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và thực hiện các thủ tục hành
chính tối thiểu nhất, với thời gian ngắn nhất để nhà đầu tư có thể triển khai được dự án
sớm nhất. Quản lý nhà nước bao gồm cả việc xử lý vi phạm pháp luật, nhưng cần coi đó là
việc làm bắt buộc chứ không phải để đối phó với các nhà đầu tư, cản trở hoạt động SXKD
của các doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, ở Nghệ An cần thực hiện việc kiện toàn tổ chức và nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tính thạo việc, chuyên nghiệp của cán bộ làm công tác
xúc tiến đầu tư tại các Trung tâm: Xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch; Văn phòng UBND
tỉnh và các sở, ban, ngành, địa phương có liên quan. Đây là một giải pháp rất quan trọng
nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư để tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tỉnh cần quán
triệt quan điểm, cách làm thu hút đầu tư nhằm tạo được sự đồng thuận cho các ngành, các
cấp, các doanh nghiệp và nhân dân; Thực hiện phân công, phân cấp cho các ngành, các cấp
để xử lý trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư, tăng cường sự phối hợp giữa các sở,
ban, ngành để kiểm tra, giám sát việc đầu tư các dự án trên địa bàn tỉnh.
Xác định đầu mối giúp UBND tỉnh xử lý hồ sơ cho các nhà đầu tư, cụ thể: Các dự án
đầu tư vào Khu Kinh tế Đông Nam và các KCN tập trung giao cho Ban Quản lý Khu Kinh
tế Đông Nam; Các dự án còn lại giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư. Kiện toàn các Ban Chỉ
đạo bồi thường giải phóng mặt bằng các huyện, thành phố, thị xã nhằm đảm bảo năng lực
giải quyết công việc; Hằng năm UBND tỉnh phải có chương trình công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các dự án đầu tư của các nhà đầu tư, kiểm tra tiến độ thực hiện dự án,
việc tuân thủ quy hoạch, kiến trúc và bảo vệ môi trường…
Giải quyết dứt điểm việc thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của một số dự án không
khai hoặc triển khai chậm để thu hồi đất, bàn giao cho các nhà đầu tư mới.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp là một phương thức đầu tư cơ bản, phổ biến của các nhà đầu tư hiện
nay. Sự vận động của nó có tác dụng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và
tính bền vững của kinh tế toàn cầu. Đối với từng quốc gia hay địa phương, thu hút vốn đầu
tư trực tiếp vào địa bàn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ tạo ra nguồn vốn cho
phát triển kinh tế xã hội của địa bàn mà còn định hướng khai thác, phát huy hiệu quả hơn
nguồn lực tại chỗ; nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của sản phẩm, năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp của địa phương để hội nhập, phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp, thời gian qua,
nhiều địa phương đã quan tâm, tăng cường các hoạt động thu hút mọi nguồn vốn đầu tư của
các nhà đầu tư trong tỉnh, ngoài tỉnh, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Nhờ thu hút được các nguồn
vốn này, đồng thời với việc quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả, đã tạo được sự bứt phá vươn lên
trong phát triển Kinh tế - Xã hội trên địa bàn. Điển hình là các địa phương: Hà Tây, Vĩnh
Phúc, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu…Những công việc trong hoạt động thu hút
đầu tư mà các địa phương này thực hiện đã thực sự trở thành những kinh nghiệm quý báu cho
các địa phương đang có khó khăn trong thu hút vốn đầu tư.
Trong điều kiện không có lợi thế so sánh, bằng sự nỗ lực của chính mình và tích cực trao
đổi, học hỏi kinh nghiệm từ các địa phương khác, Nghệ An đã có được kết quả bước đầu trong
thu hút vốn đầu tư cho phát triển KT – XH địa phương. Tuy nhiên, việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp ở Nghệ An còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Những khó khăn này
bao gồm cả ở tầm vĩ mô, cả yếu tố khách quan và cả về phía tỉnh, yếu tố chủ quan.
Trong thời gian tới, để làm cho Nghệ An trở thành một điểm đến hấp dẫn của các nhà
đầu tư, đồng thời với việc đề nghị với Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương kịp
thời giải quyết các vấn đề bất cập đang đặt ra đối với thu hút vốn đầu tư và hoạt động đầu tư
nói chung, tỉnh Nghệ An cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về quy hoạch chuẩn bị đầu tư, cải
thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh
hoạt động xúc tiến đầu tư và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trên địa bàn.
Thực hiện được những nội dung đó, chắc chắn rằng Nghệ An sẽ đạt được kết quả
tốt đẹp, hiệu quả trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển KT - XH, cũng
có nghĩa là thực hiện được mục tiêu xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh khá của cả nước như
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Khoá XVI đã đề ra.
2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1- Quốc hội, Chính phủ cần ban hành Luật hoặc chí ít là phải ban hành Nghị định
hướng dẫn chung nhằm khắc phục những bất cập hiện nay, giải quyết những điểm vênh
nhau, không tương thích giữa các luật trong lĩnh vực đầu tư. Các Bộ, Ngành, UBND các
cấp chủ động phối hợp với Tổ công tác thi hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp rà
soát, đánh giá các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản
lý.
2.2- Đề nghị Chính phủ rà soát lại để có sự điều chỉnh nhằm giảm thiểu những tác
động xấu của việc phân cấp cho UBND các tỉnh, thành phố trong lĩnh vực thu hút đầu tư.
Thực tiễn cho thấy, việc phân cấp quản lý Nhà nước đã trở thành quy luật, nhưng không
nên lạm dụng sự phân cấp mà hiện đang diễn ra cả hai tình trạng. Một là, phân cấp khi
chưa tạo lập được các điều kiện cần và đủ ở địa phương và cơ quan được phân cấp các
chức năng vốn là của các Bộ, nên sinh ra bất cập, giảm thiểu chất lượng và hiệu năng của
quản lý Nhà nước. Hai là, phân cấp dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng ở một số
nơi” vi phạm tính thống nhất của luật pháp, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các địa phương, giảm, miễn thuế, tiền thuê đất vượt quá khuôn khổ pháp luật, phương hại
đến lợi ích quốc gia.
2.3- Đề nghị Chính phủ cho phép Nghệ An nói riêng, các tỉnh có điều kiện khó khăn nói
chung được hưởng một số ưu đãi thông thoáng hơn, như: bổ sung thêm một số điều khoản có
tính chất đặc thù vào Quyết định 57/2005/QĐ/UBND về chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn
tỉnh Nghệ An. Cụ thể, cho phép các dự án có tổng mức đầu tư trên 500 tỷ đồng, nộp ngân sách
trên 50 tỷ đồng/năm có thể được ngân sách tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí bồi thường giải phóng
mặt bằng, 50% - 100% kinh phí san lấp mặt bằng theo quyết toán đã được UBND tỉnh phê
duyệt. Giảm mức thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam và người nước ngoài
đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Có các quy định cụ thể về thuê và tuyển dụng lao
động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trực tiếp chủ động tuyển chọn, thuê và sử
dụng lao động.
2.4- Đề nghị ngân sách Trung ương hỗ trợ và tìm nguồn vốn ODA hoặc nguồn vốn
vay ưu đãi của nước ngoài để xây dựng nâng cấp các khu kinh tế cửa khẩu (Thanh Thuỷ,
Nậm Cắn) mở rộng sân bay Vinh, cảng Cửa Lò và các tuyến đường giao thông do Trung
ương quản lý trên địa bàn, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu Khu Kinh tế
Đông Nam, các KCN, trước mắt hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu của Khu Kinh tế
Đông Nam ngay sau khi phê duyệt quy hoạch chung của Khu Kinh tế.
2.5- Để khuyến khích phát triển đô thị theo hướng hiện đại, đề nghị Trung ương cho
phép Nghệ An thực hiện chính sách ưu đãi riêng trong việc miễn giảm tiền thuê đất cho
các dự án đầu tư xây dựng chung cư cao tầng (từ 10 tầng trở lên), vì tính sôi động của thị
trường bất động sản ở Nghệ An (mặc dù TP Vinh đã được công nhận là đô thị loại I) còn
kém xa so với Hà Nội, TP HCM và các thành phố khác.
2.6- Kiến nghị với Trung ương nên có quy định chung về cách tính cũng như việc tổ
chức thu tiền các nhà đầu tư thuê đất, mặt nước nhằm tạo thống nhất chung, thuận lợi cho
các nhà đầu tư. Cần nghiên cứu để sớm ban hành chính sách về bồi thường giải phóng mặt
bằng để giải quyết một cách đồng bộ hơn, triệt để hơn các vấn đề bức xúc thực tiễn đang
đặt ra hiện nay. Cụ thể là, cần phải thay đổi phương pháp tính giá trị đất nông nghiệp khi
bồi thường, thu hồi đất và chính sách tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông
dân bị thu hồi đất sản xuất [Mục 2.3.3].
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào An (2007), “Vĩnh Phúc thực hiện liên thông “một cửa” trong thu hút đầu tư”,
Đầu tư, (4).
2. Việt Anh (2007),”Hà Tây đột phá trong thu hút đầu tư”, Đầu tư, (107).
3. Vũ Thành Tự Anh (2006), “Cạnh tranh xé rào hay cuộc chạy đua xuống đáy”, Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, (3).
4. Đỗ Bách (2007),“Xúc tiến thu hút FDI vào Việt Nam: Thêm những “Điểm nhấn” ”,
Tài chính, (7), tr.18-22.
5. Ban Quản lý các Khu Công nghiệp Nghệ An (2007), Báo cáo tình hình phát triển
KCN Nghệ An năm 2007.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Kinh tế Trung ương, Tạp chí Cộng sản, UBND tỉnh
Đồng Nai (2004), Phát triển Khu Công nghiệp, Khu chế xuất ở Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học.
7. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP, ngày 22 tháng 9 năm 2006 về Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Tống Quốc Đạt (2004), Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư trực
tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Luận án
Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý và KHH nền KTQD, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11. Nguyễn Đẩu (2005), Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà Nẵng,
Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
12. Trung Đức (2007) “Nâng cao khả năng hấp thụ vốn FDI”, Đầu tư, (107).
13. Lê Khoa (2007), “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (5).
14. Châu Lan (2007), "Nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng và bộ máy thân thiện”, Báo Nghệ
An, (9).
15. Vũ Lê (2008), “Dự báo xu hướng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”, Thời báo Ngân
hàng, (52,53,55).
16. Nguyễn Liên (2008), “Xung đột giữa các văn bản luật trong lĩnh vực đầu tư”, Người
Đại biểu nhân dân, (1).
17. Nguyễn Hoài Long (2008), “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa
phương trong việc thu hút đầu tư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (9).
18. Đỗ Hoàng Long (2007), “Quan hệ giữa xúc tiến đầu tư và nguồn nhân lực trong việc
thu hút FDI”, Lý luận Chính trị, (3)
19. Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (2006), Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
20. Nam Nguyên (2007), “Khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn”,
Người đại biểu nhân dân, (325).
21. Nguyễn Văn Oánh, “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, (1).
22. K.Ohno, Nguyễn Văn Thường (2005), Hoàn thiện chiến lược phát triển Công nghiệp
Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
23. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2006), “Ưu đãi đầu tư ở Việt Nam: Thời
điểm cho những thay đổi”, Môi trường Kinh doanh, (9).
24. Đinh Văn Phượng (2000), Thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Kinh tế Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Minh Quang (2007), “Đầu tư nước ngoài “vướng” cam kết hội nhập”, Thời báo Kinh
tế Việt Nam, (9).
26. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nghệ An (2005), Danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào
tỉnh Nghệ An giai đoạn 2005 – 2010.
27. Nguyễn Văn Thành (2006), Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An hiện
nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
28. Đinh Trọng Thịnh (2006), Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đàu tư trực tiếp ra nước
ngoài, Nxb Tài chính, Hà Nội.
29. Tìm hiểu luật Đầu tư (2006), Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
30. Tỉnh uỷ Nghệ An (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần
thứ XVI.
31. Tỉnh uỷ Nghệ An (2006), Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh Nghệ An Khoá XVI về
chương trình xúc tiến đầu tư gắn với phát triển nguồn thu ngân sách giai đoạn
2006 – 2010.
32. Tỉnh uỷ Nghệ An (2008), Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội
X của Đảng và Nghị quyết XVI của Đảng bộ tỉnh.
33. Trần Nguyễn Tuyên (2004), “Hoàn thiện môi trường và chính sách đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (14), tr.41.
34. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Phương án phát triển Kinh tế - Xã hội 2006 –
2010 tỉnh Nghệ An.
35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2007), Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.
36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Nghệ An với hội nhập Kinh tế Quốc tế, Ban
chỉ đạo chương trình hội nhập kinh tế quốc tế.
37. Nguyễn Thế Vinh (2008), “Phát huy lợi thế so sánh tạo bước đột phá phát triển Kinh
tế - Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (9).
38. WWW.Cafef.vn, “ “Cân, đo, đong, đếm” dự án sân golf”, Kinh tế Đầu tư, 09/9/2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An.pdf