Là biện pháp phổ biến được NHTƯ các nước áp dụng. Tuy nhiên, lãi
suất được lựa chọn là lãi suất tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Lãi suất này do
NHTƯ chủ động công bố và xem xét tín toán tương đối thường xuyên nên thực
sự đóng vai trò quyết định đôí với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung
cầu vốn của các TCTD.
49 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2856 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động cao, phổ biến là từ 0,7%-1%/tháng, cho nên, hầu hết các
NHTM đều có mức lợi nhuận cao, trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn
về tài chính. Từ thực trạng này , Quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/95 đã
thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh htu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay. Đồng
thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
0,35%/tháng. Đó là lí do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách
trần lãi suất.
4. Từ 1/1/96 là giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất
Trên cơ sở Nghị quyết của quốc hội về bỏ thuế doanh thu hoạt động tín
dụng , yêu cầu ngân hàng giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay và khống chế
chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức
0.35%/tháng, nên NHNN đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần
lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các NHTM chỉ được hưởng
chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc qui định
21
các mức lãi suất cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay theo thoẻ thuận . Chính sách
điều hành lãi suất vừa qui định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch nên có
quan điểm cho rằng thực chất của nó là vừa qui định trần, vừa qui định sàn lãi
suất.
Trần lãi suất cho vay được qui định nhiều mức trần khác nhau, xuất phát
từ đặc điểm có nhiều loại hình thức tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn
khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, qui mô khác nhau và do đó chi phí hoạt
động khác nhau, nên qui định nhiều mức trần cho vay khác nhau. Lúc đầu có 4
loại :
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn ( áp dụng cho khu vực thành thị)
- Trần lãi suất cho vay trung , dài hạn
- Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng cho vay trên địa bàn nông
thôn
- Trần lãi suất cho vay của quĩ tín dụng nhân dân
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với nhau khá xa
nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cách này đã rút ngắn lại và chỉ còn chênh
lệch ít.
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là nơi có chi phí cao , cho
vay món nhỏ chi phí lớn, rủi ro cao, thiếu vốn là khu vực nông thôn có nhu cầu
vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở
đây cao, nên NHNN qui định trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị
nhằm thu hút vốn từ thành thị về nông thôn cho vay bằng công cụ lãi suất và
bảo đảm cho các NHTM ở nông thôn bù đắp được chi phí. Nhưng nhiều quan
diểm cho rằng lãi suất cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị
mới ưu đãi nông nghiệp, mới khuyến khích nông nghiệp phát triển. Cho nên,
với quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ 21/1/98 đã
xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, rút từ 4
mức trần cuống còn 3, khoảng cách giữa chúng cũng không xa nhau như trước
và không qui định chênh lệch 0,35%/tháng. Qui định này có ưu việt là giảm sự
22
chênh lệch lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh ở thành thị với mức lãi suất
cho hộ nông dân vay nhưng ở nông thôn lại thiếu vốn và không bảo đảm an
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng nhất là ở khu vực nông thôn.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng khống chế trần lãi suất
cho vay và khi có sự biến động tỷ giá, đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi
suất và tỷ giá như khống chế trần lãi suất tiền gửi các doanh nghiệp để tăng
cường quản lí ngoại tệ và chống hiện tượng đôla hoá.
5.Nhìn lại diễn biến lãi suất tín dụng năm 1999 vừa qua:
Năm 1999 ,NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách
lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các
TCTD ;trong khôn khổ trần lãi suất cho vay ,TCTD được phép qui định các
mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu
về vốn tín dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan trọng
vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm vừa qua.
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục ,phù hợp với chỉ
số lạm phát ,quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực
hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi
suất tín dụng.Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều
nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn co sxu hướng giảm sau các lần
điều chỉnh ,cụ thể như sau :
Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị 01/1999/Ct-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh đối với
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.2-1.25% /tháng xuống 1.1-
1.15%/tháng;các TCTD khác vẫn thực hiẹntheo mức trần 1.2%/tháng đối với
cho vay ngắn hạn và 1.25%/tháng đối với cho vay trun gvà dài hạn.
Ngày29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát ,tăng trưởng kinh
tế chậm lại ,sức mua giảm sút .,Thống đốc NHNN đã có Quyết định
184/199/QĐ-NHNN1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng
Việt Nam từ 1.2-1.25%/tháng xuống mức 1.15%/tháng áp dụng chung cho các
23
TCTD cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc giảm trần lãi
suất cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn của NH từ 1%/tháng và lãi
suất tái cấp vốn về cho vay chỉ định thu mua tạm trữ xuất khẩu 0.9%/tháng
xuống thống nhất một mức là 0.85%/tháng.Như vậy ,từ tháng 6/1999 từ chỗ
nhiều trần lãi suất ngắn ,trung ,dài hạn ,trần lãi suất cho vay khu vực thành thị
và nông thôn khác nhau đã thống nhất một trân fáp dụng chung cho các TCTD
,không phân biệt quốc doanh hay cổ phần .
Tháng 9/1999,Thống đốc NHNN có chỉ thị 05/1999/CT-NHNN1 điều chỉnh
giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM qốc doanh đối với
khách hàng ở khu vực thành thị từ 1.05%/tháng xuống 0.95%/tháng Đây là
một bước tiến chính trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn cho các
TCTD trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với điêù kiện về
chi phí ,cung cầu với trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng
khoản vay ,tạo tiền đề cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi suất
của NHNN theo lãi suất cơ bản
II. TÌNH HÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
1. Những sai lầm cũ
Trong thời kì quan liêu trì trệ trước năm 1988, lãi suất của Việt Nam
không theo qui luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHNN áp đặt là một trong
những nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phất phi mã. Đến tháng 3.89, qui luật
lãi suất thực mới được công nhận nhưng tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát
lãi suất thị trường đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kì cao 12%/tháng mặc dù tỷ
lệ lậm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/tháng , tháng 5/89 còn 0,87%. Lãi
suất cực kì cao vẫn còn ảnh hưởng tâm lí đến ngày nay, người gửi tiền đòi hỏi
lãi suất cao.
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp Giám
đốc đầu năm. Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lí do tỷ lệ lạm
24
phát bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất, tiền gửi
các ngân hàng chỉ sử dụng hết một nửa.
Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để trả cho những
người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy VND để gửi tiết kiệm với lãi suất
cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới trong hàng loạt sổ tiết kiệm hàng tỷ đồng một
sổ.
Vì vậy, khi dồn dập hạ 3 lần lãi suất trong năm 1996, số dư nguồn vốn
tiền gửi đã giảm đột ngột vào quí 4 năm đó, chuyển các NHTM từ vị thế thừa
vốn sang thiếu vốn. Cộng với cái vô lí là bắt các NHTM phải gánh chịu số lỗ
do thực hiện chính sách hạ lãi suất, và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35%, các
NHTM và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận nặng nề. Tài
chính vẫn duy trì mức thuế lợi tức 45% và cho rằng tỷ lệ đó vẫn phù hợp, cộng
với việc tính thuế không cho ghi các khoản chi phí trích trước đã dồn các ngân
hàng vào tình trạng hầu như không tích luỹ được vốn. Việc tăng vốn điều lệ vì
vậy hầu như không thực hiệ được. Các NHTM đã yếu và để nợ quán hạn, nợ
xấu tăng cao lại bị suy yếu thêm vì những chính sách dồn các NHTM vào chỗ
khong duy trì được tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Năm 1997, lãi suất cho vay trần lại được hạ xuống còn 1% để kích thích
kinh tế phát triển, nhưng các ngân hàng cổ phần không tán thành vì các nước
láng giềng phải nâng lãi suất tiền gửi lên để chống làn sóng rút tiền gửi ra khỏi
ngân hàng để mua USD.Để phòng ngừa cơn bão tiền tệ có thể lướt qua, các
ngân hàng trong nước cũng phải giữ lãi suất gần như cũ, đến mức lãi suất tiền
gửi có kì hạn chỉ còn chênh với lãi suất cho vay từ 0,05% đến 0,1% ggây lỗ về
tín dụng.. Cộng thêm vào đó, tin tức các vụ Epco, Minh Phụng làm cho một số
người gửi tiền đổ xô vào rút tiền gửi ở các ngân hàng mà họ nghi là có cho 2
công ty này vay. Các ngân hàng này bị một phen hú vía phải vay cao , vay cấu
bên ngoài để đối phó kịp thời và khi đã giải thích làm dịu cơn sốt rút tiền thì đã
phaỉ tăng chi phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN đã không có loại
tín dụng điều chỉnh như ở Mỹ để ứng phó cho vay tiếp quĩ kịp thời vào nhãng
25
lúc khó khăn như vậy lại thờ ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi nhuận nên các
NHTM đã phản ứng khá mạnh. Vì vậy, đầu năm 1998, NHNN đã phải nâng lãi
suất trần lên 1,2%, làm cho chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay có được cải
thiện hơn nhưng vẫn còn quá thấp không đủ đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ngành
Ngân hàng xấp xỉ lợi nhuận bình quân và không hấp dẫn người mua cổ phiếu
ngân hàng. Một ngân hàng quốc doanh nâng ngầm lãi suất bằng cách trả lãi
trước, lên đến 1,167% và 1,357% sát nút và vượt lãi suất trần cho vay trong
một đợt huy động vốn đột xuất đầu năm 1998 càng làm cho cuộc chạy đua
nâng lãi suất tiền gửi lên đến mức nguy hiểm.
2. Đặc điểm của thị trường tín dụng Việt Nam
Nước ta đổi mới xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu khi
kinh tế thị trường mới thoát ra khỏi mức sản xuất của chế độ phong kiến. Vì
vậy, thị trường tín dụng vẫn bao hàm cả thị trường cho vay nặng lãi ở vùng
nông thôn rộng lớn và ngay cả ở các chợ ở thành phố. Lãi suất cho vay ở các
chợ thành phố là 3%-4%, lãi suất tiền gửi là 1,5-2%. ở nông thôn, lãi suất thị
trường cũng là 3-4%. Vì vậy, nông dân rất mừng khi được vay với lãi suất “sé
rào” tới 3-3,3% năm 1996 của các ngân hàng nông thôn.
Tỷ lệ người gửi tiền ngân hàng ở nước ta , năm 1994, được một tài liệu
nước ngoài ước tính chỉ có 6% dân số. Đặc biệt ở nông thôn miền Nam, người
nông dân có thói quen mua vàng cất trữ. Miền Bắc đã có phongtrào gửi tiết
kiệm khá cao ở nông thôn hồi kháng chiến chống Mỹ với các hợp tác xã tín
dụng xã. Nhưng phong trào này đã tan vỡ vì lãi suất âm trong thời kì lạm phát
phi mã và chưa hồi phục. Tình hình này tạo ra đặc điểm: thị trường tín dụng ở
nước ta không đồng nhất và tự nhiên tồn tại những lãi suất khác biệt khá xa ở
các vùng khác nhau, do cung cầu tín dụng khác nhau. Nó đã dẫn tới tình trạng
có lúc lãi suất tiền gửi của một vài ngân hàng ở thành phố cao hơn cả lãi suất
cho vay của các ngân hàng khác gây ra tình trạng phải đồng loạt nâng lãi suất
để tránh bị hút mất tiền gửi.
26
Nước ta mới có từng mảnh thị trường tài chính và tiền tệ như thị trường
tín phiếu kho bạc hoạt động không thường xuyên và cung cấp không đủ lượng
tín phiếu cho thị trường liên ngân hàng qua những đấu thầu quá ít ỏi. Thị
trường liên ngân hàng đã có từ lâu nhưng hầu như không hoạt động vì các
ngân hàng ít vay mượn lẫn nhau hoặc vay mượn trực tiếp qua bảo đảm bằng tín
phiếu kho bạc . Đến khi lượng tín phiếu kho bạc cạn dần do không phát hành
thêm thì hầu như thị trường liên ngân hàng không còn hoạt động. NHNN sử
dụng vốn phát hành qua tín dụng bằng cách cung ứng nguồn vốn trực tiếp cho
các ngân hàng quốc doanh để thực hiện những loại cho vay ưu đãi như cho vay
mua gạo xuất khẩu. Đó là trở ngại rất lớn của việc hình thnàh lãi suất thị trường
có sự chỉ đạo của lãi suất cơ bản.
Thị trường chứng khoán sắp hình thành thí điểm ở Việt Nam trong bối
cảnh khủng hoảng tiền tệ diễn ra trên các châu lục và những đòi hỏi phải cải
cách thị trường tài chính thế giới khiến ta phải cảnh giác và thận trọng . Nhưng
suy từ hoạt động của thị trường chứng khoán các nước, có thể hình dung ra hai
hướng mua bán chứng khoán sẽ xảy ra khi khai trương 2 trung tâm giao dịch
chứng khoán:
- Hướng thứ nhất là việc cạnh tranh mua những cổ phiếu có cổ tức cao hơn
lãi suất tiết kiệm. Người mua nhiều, người bán ít ( vì muốn giữ lấy để
hưởng cổ tức cao) sẽ đẩy giá cổ phiếu này lên cao hơn mức bình thường.
- Hướng thứ hai là bán tống tháo những cổ phiếu có cổ tức thấp hơn lãi suất
tiết kiệm. Thị giá cổ phiếu hạ thấp quá có thể gây đổ vữ ngân hàng.
Như vậy sẽ lập tức hình thành lãi suất tự phát của thị trường tiền tệ mà
ảnh hưởng của nó tới lãi suất tín dụng sẽ không nhỏ.
3. Những mặt được cơ bản của chính sách lãi suất trần
Điều hành lãi suất theo trần là NHNN chỉ quản lí lãi suất cho vay tối đa,
dần từng bước tự do hoá lãi suất theo định hướng của Nghị quyết Tw 4. Trong
phạm vi trần lãi suất đã qui định, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi
27
suất cho vay và tiền gửi cụ thể một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm hoạt
động, tình hình cung cầu vốn , chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng
TCTD và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng giữa các vùng
khác nhau.
Điều hành chính sách lãi suất theo trần khuyến khích các TCTD trong
việc cạnh tranh lành mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ
, chủ động trong việc điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công
cụ lãi suất một cách linh hoạt, nhạy bén theo cơ chế thị trường.
Việc qui định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất
cho vay trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thoả
thuận vượt xa các mức lãi suất do NHNN qui định.
Các TCTD không cho vay với lãi suất vượt trần, bảo vệ được lợi ích của
người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với
các TCTD và người gửi tiền.
Đảm bảo được vai trò quản lí Nhà nước của NHNN về lãi suất và tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách lãi suất của NHNN.
4. Những hạn chế của chính sách trần lãi suất
Việc qui định cho vay theo trần lãi suất của NHNN, thực chất là các
TCTD được cho vay theo mức trần tối đa. Vì vậy một số TCTD đã có xu
hướng luôn cho vây hết trần lãi suất để đạt mức lợi nhuận tối đa. Không phân
biệt các mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn thuận lợi
và cung cầu về vốn khác nhau.
Việc qui định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn
là 0,35%/tháng trong thời kì đầu đã tạo nên sự gò bó, cứng nhắc và triệt tiêu
tính cạnh tranh, tính chủ động tự chủ trong kinh doanh của các TCTD.
28
III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIẢM LÃI SUẤT TRONG CHÍNH SÁCH
KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Nguyên nhân tại sâo NHNN đã giảm lãi suất trần đến 4 lần mà mục
tiêu kích cầu vẫn chưa thực hiện được?
a. Tình hình kinh tế thế giới
Theo báo cáo mới nhất của IMF ,trong năm 1998, nền kinh tế thế giới
tăng trưởng chậm lại ở tốc độ hơn 2% so với mức 3,5% của năm 1997 và ở
từng khu vực đều có những khó khăn trong tăng trưởng kinh tế.
Châu á đang lún sâu hơn vào tình trạng suy thoái kinh tế khi nền kinh tế
của cả Ma-lai-xia, Hàn quốc bị giảm sút trong 3 quí liên tiếp. Hai nước này đã
gia nhập nhóm các nước và khu vực suy thoái kinh tế.
Sự hỗn loạn về ngoại hối đã dẫn đến sự giảm sút đột ngột về xuất khẩu,
các thị trường cổ phiếu và bất động sản suy sụp, thất nghiệp tràn lan, mức tiêu
dùng giảm mạnh, những vụ phá sản và số công ty bị đóng cửa tăng lên. Theo
các nhà nghiên cứu kinh tế hàng đầu tại Viện nghiên cứu Nhật Bản: “ Cuộc
khủng hoảng kinh tế ở châu á đang ngày càng nghiêm trọng. Trong khi đó, nề
kinh tế Trung Quốc- động lực thúc đẩy đối với nền kinh tế châu á- đang sa sút
vì xuất khẩu và nhu cầu trong nước giảm đáng kể do ảnh hưởng tiêu cực của
nạn lụt và khủng hoảng từ các nước châu á khác”.
Tình hình kinh tế yếu kém ở châu á đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Nhật
Bản trong khi mức tăng trưởng âm của Nhật lại tác động trở lại châu á. Nếu
Nhật không phục hồi nền kinh tế của mình, nước này và châu á có thể gây ra
một cuộc suy thoái trên toàn thế giới. Đây là điều đặc biệt đáng lo ngại nếu nền
kinh tế Mỹ bắt đầu suy yếu trước khi Nhật bắt đầu phục hồi. Theo IMF, tăng
trưởng kinh tế châu á năm 1998 chỉ đạt khoảng 1,8%.
b. Xu hướng giảm lãi suất trên thế giới
29
Giảm lãi suất được xem là một phương thức truyền thêm sinh khí cho
nền kinh tế thế giới đang suy yếu hiện nay qua kích thích nhu cầu tiêu dùng.
IMF cảnh báo tăng trưởng kinh tế thế giới đang ngày càng giảm sút và đưa ra
lời kêu gọi các quốc gia hàng đầu hãy sẵn sàng giảm lãi suất để chống lại nguy
cơ suy thoái.
Chính sách tiền tệ thắt chặt do IMF sắp đặt và sự phá giá cạnh tranh ở
các nước thị trường mới nổi đã làm lãi suất thực ở đây lên quá cao, các ngân
hàng không cho vay, các doanh nghiệp đang đi vào phá sản. Chính sách tiền tệ
thắt chặt sai lầm của IMF đang làm cho tình hình vốn đã tồi tệ càng trở nên tồi
tệ hơn nhiều. Tại các nước phương Tây và Nhật, lậm phát tiêu dùng đã giảm
mạnh nhưng các NHNN vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ngắn hạn, thậm chí còn
tăng lãi suất này. Vì vậy, lãi suất thực trung bình ở Nhật, Anh, Pháp...đã tăng
gấp 2 lần từ tháng đầu của năm 97, từ mức 1,2 lên 2,4%.
Theo các nhà kinh tế cần có sự phối hợp giảm lãi suất trên toàn cầu mà
người đứng đầu phải là Mỹ, điều này sẽ là hành động duy nhất quan trọng để
ổn định sự suy thoái toàn cầu, và bây giờ chính là thời điểm hành động.
Tại Mỹ: trong vòng 2 tháng qua, Mỹ đã 3 lần liên tiếp giảm lãi suất.
Tại châu á: đồng tiền các nước châu á đang dần được phục hồi, là cơ sở
để các nước này giảm lãi suất, khuyến khích tăng trưởng kinh tế.
Tại Thái Lan, theo Bộ trưởng tài chính, lãi suất cơ bản sẽ giảm ít nhất là
1,5% vào cuối năm nay. Lãi suất cơ bản hiện nay ở Thái Lan là 14,25% và thị
trường đang kêu gọi giảm lãi suất. Ông cho biết cuối năm nay lãi suất có thể sẽ
ở mức dưới 13%.
Tại Trung Quốc , ngày7/12/98, NHTƯ quyết địng cắt giảm 0,5% lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay. Đây là lần thứ 3 NHTƯ Trung quốc cắt giảm lãi
suất trong năm 99 nhằm hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu
quả , ngăn chặn nguy cơ giảm phát.
c. Nguyên nhân trong nước
30
Nguyên nhân của các đợt điều chỉnh là tình trạng thiểu phát diễn ra trong
nền kinh tế từ đầu năm nay: loại trừ hai tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng
tháng sau tăng so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên
trong dịp Tết Nguyên đán; từ tháng 3 tới tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục
giảm xuống và so với thời điểm cuối tháng 12/98, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng
0,8%.
Mặt khác, do chỉ số giá tiêu dùng thấp dẫn đến tiền gửi của dân cư vào hệ
thống ngân hàng tăng lên khá mạnh, trong khi đó đầu ra của cácNHTM lại gặp
nhiều khó khăn, vốn ứ đọng trong hệ thống ngân hàng khá lớn do tình hình sản
xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế bị định trệ. Thậm chí trong trường hợp các
TCTD đã buộc phải giảm lãi suất huy động thì khối lượng tiền gửi tiết kiệm
cũng tăng khá mạnh, bởi vì trong khi lạm phát 6 tháng đầu năm chỉ là
2,3%/năm thì trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn là 0,85%/tháng ( !0,2%/năm),như
vậy người gửi tiết kiệm vẫn thu được lãi thực lên đến 7,9%/năm. Đâylà một tỷ
lệ lợi nhuận hấp dẫn và an toàn trong điều kiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh
hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận thấp và rủi ro kinh doanh lớn.
Bên cạnh nguyên nhân lãi suất thực vẫn còn cao, còn các nguyên nhân
khác như: đối với những người có lượng tiền tiết kiệm nhỏ, không có khả năng
kinh doanh thì dù lãi suất có thấp thì vẫn là có lãi , vốn vẫn được bảo toàn.
Những người có lượng tiền tiết kiệm lớn thì không có cơ hội đầu tư do đầu tư
vào sản xuất kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao, trong khi ngược
lại gửi tiền vào ngân hàng thì rủi ro thấp và lợi nhuận cao, chi dùng cũng không
lớn vì đa số thoả mãn được nhu cầu trung bình tối thiểu hiện nay; cho dù lãi
suất cho vay đã giảm khá mạnh song các doanh nghiệp vẫn không dám vay vì
tỷ suất lợi nhuận của họ vẫn thấp hơn so với tỷ lệ lãi suất cho vay của ngân
hàng, do vậy, nếu tiếp tục vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh thì với
việc lợi nhuận không đủ để trả lãi ngân hàng sẽ làm tình trạng nợ nần của
doanh nghiệp càng nặng thêm ( thêm vào đó là sự giảm giá hàng tiêu dùng liên
tục trong thời gian qua càng làm khả nâưng thua lỗ tăng lên) . Với một phép
31
tính đơn giản chúng ta có thể dễ dàng tính ra được mức trần lãi suất cho vay
hiện nay vào khoảng 10-11%/năm, liệu có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp
trong điều kiện hiện nay kinh doanh đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức lãi suất
cho vay của ngân hàng để dám vay vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh
doanh; đối với khu vực nông thôn, cho dù nhu cầu tiêu dùng , nhất là hàng tiêu
dùng đối với các loại hàng tư liệu sản xuất là rất lớn song cũng không thể vay
được vì thủ tục quá ohức tạp, không có vật cầm cố để thế chấp và cũng gần như
không có khả năng trả nợ do tỷ lệ lãi suất cho vay chưa hợp lí.
Tóm lại, do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính đã
dẫn đến tình trạng tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi suất huy
động liên tục giảm xuống.
2. Mục đích của việc giảm lãi suất
Các quan chức ngân hàng cho răng đây là một quyết định quan trọng
nhằm khắc phục tình trạng ắch tắc đầu ra tín dụng trong tình hình nền kinh tế
đang có nhiều hướng đi xuống như hiện nay; góp phần kích thích phát triển nền
kinh tế tạo sự chủ động hơn cho các tổ chức tín dụng trong việc ấn định lãi suất
huy động tiền gửi và cho vay phù hợp với điều kiện về chi phí , cung cầu vốn
trong từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng khoản vay.
32
PHẦN BA:
XU HƯỚNG – GIẢI PHÁP ĐỂ ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG.
I. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC PHÁP LÍ GIỮA
LÃI SUẤT NGÂN HÀNG VỚI CÁC QUI ĐỊNH VỀ LÃI SUẤT
TRONG CÁCVĂN BẢN PHÁP LUẬT.
1. Các qui định liên quan đến lãi suất cho vay trong Bộ luật dân sự
Mức trần lãi suất cho vay của các TCTD hiện nay được NHNN qui định
tương đối rõ ràng, tương ứng với 2 loại thời hạn: cho vay ngắn hạn và trung-
dài hạn. Nhưng khi lấy nó làm căn cứ để thực hiện các qui định về thời hạn và
lãi suất cho vay theo các văn bản pháp luật khác lại phát sinh không ít vướng
mắc.
Khoản 1 điều 473 Bộ luật dân sự qui định lãi suất cho vay do các bên
thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN
qui định đối với loại cho vay tương ứng.
Theo quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN1 ngày 17/1/98 của Thống đốc
NHNN, qui định về lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thì hiện nay có 2 mức
lãi suất cao nhất : cho vay ngắn hạn là 1,2%/tháng và cho vay trung-dài hạn là
1,25%/tháng . Nhưng theo điều 10 qui chế cho vay củaTCTD đối với khách
hàng ban hành kèm theo quyết định 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/98 của
Thống đốc NHNN, thì cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn đều có thể là
12 tháng. Không hiểu lí do gì mà thời hạn cho vay lại có sự thay đổi, dẫn đến 1
thời điểm trùng lặp khi phải áp dụng lãi suất theo điều 473 Bộ luật dân sự.
Từ trước đến nay, trong các thể lệ và văn bản liên quan về tín dụng của
NHNN đều qui định: cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn không quá
12 táng . Nhưng đối với 1 số ngành , khi vận dụng các văn bản của NHNN lại
33
xác định và hướng dẫn khác về thời hạn cho vay. Tại điểm b, mục 1, phần I
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/97 của Toà án nhân dân tối cao,
Viên Kiểm sát nhân dân tối cao Bộ tư pháp và Bộ tài chính, hướng dẫn việc xét
xử và thi hành án về tài sản.
Theo quyết định số 26/QĐ-NH1, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa là
1,25%/tháng, tức lãi suất quá hạn tối đa là 1,875%/tháng chứ không phải là
2,025%/tháng theo như hướng dẫn của thông tư liên tịch.
2. Các qui định liên quan đến lãi suất tiết kiệm trong Bộ luật lao động
và Bộ luật dân sự
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, kể từ ngày 1/1/96, việc NHNN không
còn qui định cụ thể về các mức lãi suất tiết kiệm là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng
hiện nay vẫn còn nhiều qui định pháp luật căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm
do NHNN qui định: Khoản 1 điều 59 Bộ luật lao động qui định “ người lao
động được trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc. Trong
trường hợp đặc biệt phải trả lương chậm thì không được chậm quá 1 tháng và
người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất
bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm do NHNN công bố tại thời điểm trả lương”.
Điều 6 Nghị định 197CP ngày 31/12/94 của Chính phủ qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành 1 số điều của Bộ luật lao động về tiền lương đã xác định,
lãi suất nói trên là loại lãi suất tiền gửi tiết kiệm không ì hạn.
Khoản 4 , điều 471, Bộ luật dân sự qui định về nghĩa vụ trả nợ của bên
vay trong trường hợp vay không có lãi như sau: “ Trong trường hợp vay không
có lãi mà khi đến hạn, bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi đối với khoản nợ chậm , trả theo lãi suất tiết kiệm có kì hạn của
NHNN tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm chậm trả nếu có thoả
thuận”.
Khoản 2 điều 473, Bộ luật dân sự về lãi suất cũng qui định: “Trong
trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay, nhưng không
34
xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất, thì áp dụng lãi suất tiết kiệm
có kì hạn do NHNN qui định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
Nhưng liên quan đến lãi suất tiết kiệm nói riêng và lãi suất huy động vốn
nói chung, NHNN chỉ qui định ; “Tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng. Từ 1996 đến nay , NHNN đã bãi
bỏ việc công bố lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiết kiệm do mấy chục NHTM tự
quyết định với nhiều mức khác nhau. Cho nên, cả về mặt pháp lí cũng như thực
tế không thể xác định được đâu là lãi suất tiết kiệm do NHNN công bố. Như
vậy, vô hình chung, các qui định về lãi suất nói trên của Bộ luật Lao động và
Bộ luật dân sự đã bị vô hiệu hoá. Để những vấn đề quan trọng và phát sinh rất
phổ biến như trên không bị rơi vào bế tắc, hoặc là NHNN cần quay trở lại việc
ấn định cụ thể từng mức lãi suất tiết kiệm hoặc là phải nhanh chóng thay đổi
qui định của luật lệ liên quan.
Điều đáng nói là điều bất cập đó đã tồn tại mấy năm qua, trong khi các
văn bản hướng dẫn lại không quan tâm giải quyết. Tại điểm d, mục4, phần I
của TTLT số 01/TTLT nói trên vẫn tiếp tục hướng dẫn: “ Trong trường hợp
các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay nhưng không xác định rõ laĩ
suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kì hạn do
NHNN qui định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo
qui định tại khoản 2, điều 413 Bộ luật dân sự”. Hướng dẫn này chỉ thay đổi thời
điểm trả nợ trong diều 473 Bộ luật dân sự thành “ thời điểm xét xử sơ thẩm”.
Như vậy, thông tư đã phần nào “sửa đổi” qui định trong bộ luật, vì 2 thời điểm
này thường khác nhau. Có lẽ, lí do đơn giản dẫn đến việc thay đổi thời điểm là
do , khi xét xử, toà án chỉ có thể xác định được thời điểm xét xử sơ thẩm, chứ
khó có thể xác định được thời điểm trả nợ. Tuy nhiên dù có thay đổi thời điểm
tính lãi suất , thì cũng không thể xác định được đâu là lãi suất tiết kiệm có kì
hạn do NHNN qui định. Còn về lý thuyết thì lãi suất tiết kiệm có kì hạn trong
giai đoạn này có thể nằm trong khoảng từ lớn hơn 0% cho đến nhỏ hơn, bằng
hoặc thậm chí cao hơn trần lãi suất cho vay.
35
3. Kết luận và kiến nghị
a. Về trách nhiệm của NHNN
Điều 43, pháp lệnh NHNN Việt Nam trước đây qui định “ NHNN công
bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tối thiểu về tiền gửi, tối đa về cho vay của các
TCTD” . Còn điều 18, Luật NHNN Việt Nam hiện nay qui định: “NHNN xác
định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”. Và khoản 12 điều 9 của
Luật đã định nghĩa: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do nHNN công bôs làm cơ sở
cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh”. Như vậy, về mạt pháp lí, theo
Pháp lệnh cũ hay theo Luật hiện hành, NHNN không có trách nhiệm trực tiếp
trong việc xác định các mức lãi suất để áp dụng trong các lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài vấn đề huy động vốn , cho vay và dịch vụ
trong các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, Lãi suất do NHNN qui định đương
nhiên còn đang nằm trong các mối quan hệ khá phức tạp của luật pháp đa
ngành. Hay nói cách khác, qui định về lãi suất của NHNN đang và sẽ còn liên
quan chặt chẽ đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội
khác nhau. Cụ thể, lãi suất do NHNN qui định để làm căn cứ xác định các lãi
suất dưới đây:
- Lãi suất cho vay trong các hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự;
- Lãi suất cho vay cầm đồ
- Lãi suất chậm thanh toán trong các hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự và
hợp đồng lao động;
- Lãi chậm thanh toán trong thi hành án về tài sản bao gồm án kinh tế, án
dân sự, án lao động, án hành chính và phần tài sản trong các vụ án hình sự;
- Lãi suất làm căn cứ truy tố, xét xử một loại tội phạm về kinh tế ( tội cho
vay nặng lãi)
b. Yêu cầu hoàn thiện các qui định pháp luật về lãi suất
36
Nếu giữ nguyên các qui định về lãi suất của pháp luật liên quan như đã
trình bày ở trên, thì NHNN sẽ tiếp tục phải qui định và qui định thêm các mức
lãi suất sau:
- Mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung- dài hạn
- Mức trần lãi suất cho vay cầm đồ
- Mức lãi suất tiết kiệm loại không kì hạn, loại có kì hạn ngắn hạn và trung-
dài hạn
- Mức lãi suất quá hạn cụ thể
- Và một số mức lãi suất cụ thể trong một vài trường hợp riêng biệt khác.
Điều này sẽ không đúng với tinh thần của Luật NHNN Việt Nam, không
hợp lí trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài. Đã đến lúc NHNN cần bỏ
việc qui định các mức lãi suất như hiện nay, mà chỉ cần qui định lãi suất cơ bản
để làm căn cứ xác định các mức lãi suất liên quan. Tất nhiên, các qui định về
lãi suất trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác cũng cần phải được
sửa đổi, bổ sung theo hướng tính theo các tỷ lệ ổn định nào đó dựa trên cơ sử
lãi suất cơ bản.
Vấn đề là cần có sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan để xây dựng
được các qui phạm pháp luật về lãi suất một cách đồng bộ, thống nhât, tránh
tình trạng mâu thuẫn, sơ hở như hiện nay. Trước mắt, các cơ quan có trách
nhiệm cần nhanh chóng hướng dẫn các vướng mắc trên để có thể hiểu, thực
hiện và giải quyết các vụ việc liên quan đến lãi suất ngân hàng một cách chính
xác và đúng pháp luật.
II. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
THEO Ý TƯỞNG CỦA LUẬT NHNN.
1. Trong những năm trước mắt: vừa áp dụng lãi suất trực tiếp vừa áp
dụng lãi suất gián tiếp, nhưng tạm thời nghiêng về phía áp dụng lãi suất trựctiếp
37
là chính thông qua việc xác định công bố lãi suất trần ( hoặc lãi suất sàn) làm
lãi suất cơ bản đi dôi với lãi suất tái cấp vốn mặc dầu mơí sơ khai, tác dụng còn
rất yếu, rất hạn chế.
2. Khi có điều kiện sẽ chuyển hẳn sang phương pháp tác động gián tiếp, tự
do hoá dần lãi suất thông qua lãi suất tái cấp vốn mà một trong những biến tấu
của nó là lãi suất cho vay qua đêm. Đi đôi với việc áp dụng lãi suất tái cấp vốn
chính thức của NHNN, cần thông báo lãi suất đã hình thành thựctế trên thị
trường liên ngân hàng nhằm hướng dẫn thị trường.
Trong khi đang sử dụng phương pháp điều hành theo lãi suất cơ bản cũng
dần hoàn htiện tưng bước lãi suất này, chuyển từ lãi suất trần qua lãi suất sàn.
Cụ thể như sau:
a.Trong thời gian trước mắt, nên tiếp tục xác định và công bố lãi suất
trần tối đa làm lãi suất cơ bản, nhằm vừa phục vụ yêu cầu điều hành chính sách
tiền tệ , vừa có sự quan tâm đúng mức đến người sản xuất và người gửi tiền.
Hiện nay lãi suất trần không chỉ là giá cả mua bán quyền sử dụng vốn
đơn thuần mà nó còn là áp lực bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và người vay
vốn đối với hệ thống ngân hàng mang tính chính trị, cần phải được xử lí hài
hoà. Trường hợp này thực chất đã tự do hoá lãi suất tiền gửi. NHNN có thể
không khống chế lãi suất đầu vào. Công thức như sau:
Lsuất cho vay = Mức lạm phát + Lsuất tiền gửi + Chi phí + Biên độ
tối đa dự kiến (thực dương) (có lãi) dao động
Biên độ dao động nhằm dành cho các tCTD một dư địa để thích ứng với
điều kiện kinh tế và hoạt động ngân hàng ở các vùng, nhành khác nhau.
38
b.Tuy nhiên, vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta
cần chuyển dần sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ
bản theo thông lệ quốc tế. Cụ thể:
Lsuất tiền gửi tối đa = Mức lạm phát dự kiến+ lãi thực của người gửi
Từ đó các TCTD được tự xác định lãi suất cho vay cụ thể của mình. Tất
nhiên, thực hiện bước chuyển này là phù hợp theo thông lệ quốc tế, nhưng đây
là một thay đổi không nhỏ trong tư duy truyền thống lâu nay của ta, cần hết sức
thận trọng và toàn diện. Tuy thông lệ quốc tế và yêu cầu của ta cũng đòi hỏi
phải quan tâm đến yếu tố cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống ngân hàng,
nhưng không thể xem nhẹ yêu cầu huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư để đáp
ứng vốn cho sản xuất kinh doanh, phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đang đặt ra gay gắt. Cho nên không thể từ bỏ một cách quá dễ dãi
việc dùng lãi suất cho vay tối đa làm lãi suất cơ bản. Do đó, việc chuyển sang
lấy lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản như thông lệ quốc tế phải có đủ
tiền đề và thời gian.
Trong việc xác định lãi suất cơ bản phải được tính đến tổng thể quan hệ
cung cầu vốn thông qua hàng loạt yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ
thông thường. Đó là:
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế
- Chỉ số lạm phát dự báo hàng quí, năm
- Lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho
TCTD;
- Yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kì
- Rủi ro trong hoạt động tín dụng
- Mức độ dự trữ bắt buộc
- Lãi suất đấu giá tín phiếu kho bạc và lãi suất hình thành trên thị trường tiền
tệ nói chung;
- Mức tương quan giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ
- Mức tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái
39
Tuy phải tính đến tất cả cácn yếu tố đó, khi xác định lãi suất cơ bản
nhưng tựu chung là phải đảm bảo yêu cầu huy động vốn, đầu tư mở rộng sản
xuất, tăng trưởng kinh tế, lợi ích và an toàn các tổ chức tín dụng.
Việc chuyển lãi suất cơ bản được khống chế theo lãi suất cho vay tối đa
qua khống chế lãi suất tiền gửi tối đa, tức là đã cho phép tự do hoá lãi suất cho
vay theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường ở từng vùng, miền, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh. Trong trường hợp này, NHNN điều chỉnh lãi suất cho vay
thông qua việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa: Muốn hạ lãi suất cho vay thì
hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược lại. Thực ra, tác động vào lãi suất thị trường
qua cơ chế điều hành lãi suất tiền gửi tối đa vẫn là cách điều hanh cứng, trực
tiếp, mang tính áp đặt hành chíh trong giai đoạn quá độ và cũng có những hạn
chế của nó:
+ Trong điều kiện yếu tố cạnh tranh trên thị trường tiền tệ còn yếu như ở
nước ta, thì việc điều hành lãi suất tiền gửi tối đa sẽ chưa có tác động thật
mạnh đến việc tăng giảm laĩ suất cho vay. Các TCTD sẽ nâng lãi suất cho vay
cao để đạt được lợi nhuận nhiều như kinh nghiệm thời kì NHNN cho phép áp
dụng lãi suất thoả thuận đã cho thấy.
+ Nguồn cung ứng vốn ở nước ta còn nhỏ, các doanh nghiệp lại ít vốn tự
có, dù lãi suất cho vay vốn cao vẫn phải chấp nhân, thiệt thòi và nguy cơ rủi ro
cho họ khá lớn.
+ Vì hạch toán chưa thật tách bạch, việc thực hiện chính sách ưu đãi lãi
suất đối với một số đối tượng sẽ gặp khó khăn.
Để khắc phục những nhược điểm trên, điều quan trọng là tìm các giải
pháp để ngăn ngừa xu hướng muốn hạ quá đáng lãi suất tiền gửi và nâng quá
mức lãi suất cho vay vì lợi ích của bản thân các TCTD, làm phương hại lợi ích
của các doanh nghiệp vay vốn và người gửi tiền. Để ngăn ngừa xu hướng tiêu
cực nói trên, phải tạo điều kiện để phát huy đầy đủ cơ chế cạnh tranh trên thị
trường tiền tệ. cụ thể:
40
+ Khách hàng có thể gửi tiền dễ dàng ở bất kì ngân hàng nào, nhất là mở
tài khoản tiền gửi cá nhân có phát hành séc, thẻ thanh toán và thẻ tín dụng các
loại. Đồng thời, việc vay vốn có thể tiến hành ở đâu cũng được, khách hàng có
diều kiện chọn ngân hàng để giao dịch.
+ Thị trường tiền tệ trong đó có thị trường nội tệ liên ngân hàng, ngày
càng phát triển và hoạt động có hiệu quả, có khả năng nhanh chóng hoà đồng
lãi suất thị trường cả phía tiền vay và phía tiền gửi.
+ Tuyên truyền cho người gửi tiền và người vay vốn hiểu rõ lợi ích của
phương pháp điều hành lãi suất này.
Xu hướng chung không thể né tránh là tự do hoá hoàn toàn lãi suất có sự
diều tiết của NHNN thông qua lãi suất tái cấp vốn đi đôi với việc thông tin lãi
suất Libor, Sibor và lãi suất hình thành trên thị trường liên ngân hàng nước ta.
Tuy nhiên, để thực hiện được cơ chế tự do hoá lãi suất , cần hội đủ các
điều kiện sau đây:
- NHNN thực hiện một cách bình thường nghiệp vụ tái chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo thông lệ quốc tế;
- Thị trường tiền tệ trong đó có thị trường nội tệ liên ngân hàng hoạt động có
hiệu quả. Qua đó, NHNN là người cho vay cuối cùng;
- Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá khác hoạt động
nhạy cảm, NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở trên các thị trường
này.
III. THỰC HIỆN LÃI SUẤT CƠ BẢN ĐỂ TIẾN TỚI
TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT.
1. Những điều kiện cần và đủ để chuyển sang điều hành
theo lãi suất cơ bản ở Việt Nam
41
Luật NHNN và Luật các TCTD có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/98;đã
quy ddinhj việc ngân hàng nhà nước chuyển sang điều hành lãi suất bằng lãi
suất cơ bản .Trong đó, điều 18 Luật NHNN qui định: “ NHNN xác định và
công bố lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn”,khoản 12 điều 9 luật ngân hàng
nhà nước quy định : “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố là cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh “
Qui định trần lãi suất cho vay của NHNN đối với các TCTD đã có những
dấu hiệu chỉ mang tính chất định hướng. Một số NHTM do điều kiện cụ thể
của mình , đã thực hiện 1 số mức lãi suất cho vay dưới trần qui định của
NHNN, trong khi đó, 1 số NHTM cổ phần, đặc biệt là TCTD nông thôn, do
nhu cầu của khách hàng của thị trường vốn ở địa phương và được sự chấp
thuận của UBND tỉnh, đã có những vận dụng thu thêm phí ngoài mức trần lãi
suất qui định.
Yêu cầu phải tiếp tục hoà nhập với hoạt động ngân hàng các nước trong
khu vực và cộng đồng ngân hàng quốc tế, yêu cầu tự do hoá hơn nữa thị trường
tiền tệ và thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.
Phải có hệ thống thanh toán tốt đặc biệt là thanh toán tổng tức thời mới
hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản lý ,tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành
thông suốt thị trường tiền tệ và lãi suất cơ bản .
Để có thể điều hành chính sách tiền tệ bằng lãi suất cơ bản ,phải có một
hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động năng động và cạnh tranh.Các tổ
chức tín dụng có quyền định đoạt lãi suất huy động ,lãi suất cho vay của mình
.Vì thế trên thị trường có rất nhiều mức lãi suất khác nhau .Tuy nhiên trong một
môi trường cạnh tranh tốt thì lãi suất của các tổ chức tín dụng sẽ dao động gần
sát với lãi suất chỉ đạo của ngân hàng trung ương.Hơn nữa trong môi trường
cạnh tranh ,hệ thống gân hàng sẽ cung cấp cho nền kinh tế và dân cư các sản
phẩm dịch vụ ngày càng tốt hơn ,thuận tiện hơn và kinh tế hơn
2. Căn cứ xác định và các phương án điều hành lãi suất cơ bản
a. Căn cứ xác định
42
NHNN có thể căn cứ vào những yếu tố sau đây để xác định và công bố
lãi suất cơ bản:
- Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế dự kiến hàng năm;
- Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm;
- Lãi thực của người gửi tiền được hưởng từ 3-4%/năm nhằm bảo đảm lãi
suất tiền gửi là số dương để khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng;
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ từng thời kì thắt chặt hay nới lỏng tiền
tệ;
- Tình hình cung cầu vốn tín dụng trên thị trường;
- Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ;
- Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước
- Lãi suất bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hnàg thời gian gần
nhất...
b. Phương án điều hành lãi suất cơ bản
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định và điều hành
lãi suất cơ bản của NHNN. Em xin trình bày 1 số cách hiểu:
Các phương án đối với lãi suất bằng VND
Phương án 1: Lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN làm lãi suất cơ bản
- Ưu điểm:
+ Là biện pháp phổ biến được NHTƯ các nước áp dụng. Tuy nhiên , lãi
suất được lựa chọn là lãi suất tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Lãi suất này do
NHTƯ chủ động công bố và xem xét tín toán tương đối thường xuyên nên thực
sự đóngvai trò quyết định đôí với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung
cầu vốn của các TCTD.
+ Đối với Việt Nam, do các nghiệp vụ chiết khấu của NHTƯ chưa phát
triển, việc tái cấp vốn thực hiện tương đối trực tiếp, vì vậy , lấy lãi suất tái cấp
vốn của NHNN để điều hành lãi suất sẽ thích hợp hơn là lãi suất tái chiết khấu.
NHNN chỉ cần xác định và công bố 1 mức lãi suất chỉ đạo đối với các TCTD,
43
do vậy, thuận tiện cho việc điều hành, quản lí chính sách lãi suất của NHNN và
tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh của các TCTD.
- Nhược điểm:
+ Điều 18 Luật NHNN qui định : “ NHNN xác định và công bố lãi suất cơ
bản và lãi suất tái cấp vốn”. Vì vậy, có quan điểm cho rằng, không thể lấy lãi
suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản mà phải công bố 1 mức lãi suất khác với tên
gọi là lãi suất cơ bản.
+ Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, trực tiếp để
điều tiếtlượng tiền cung ứng và khối lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân
hàng đối với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và huy động
vốn.
Tuy nhiên, do cơ chế tái cấp vốn vận hành chưa thông suốt theo cơ chế thị
trường, các TCTD chưa được tự do tiếp cận nguồn vốn của NHNN nên mức độ
tác động của lãi suất tái cấp vốn đến mặt bằng lãi suất chung còn rất hanj chế.
Do vậy, nếu lấy lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản thì có thể NHNN sẽ
không đạt được mục tiêu tác động vào lãi suất của các NHTM, kể cả khi qui
định 1 biên độ so với lãi suất này.
Phương án 2: NHNN công bố trần lãi suất cho vay như hiện nay làm lãi suất
cơ bản, các TCTD căn cứ vào trần lãi suất để ấn định ra các mức lãi suất của
mình tuỳ từng thời kì và từng vùng khác nhau.
Qui định như phương án này về nguyên tắc là phù hợp với Luật NHNN, vì
ở đây lựa chọn trần lãi suất cho vay là lãi suất cơ bản để làm cơ sở cho các
TCTD ấn định các mức lãi suất cụ thể. NHNN công bố 1 mứclãi suất trần
nhưng có thể qui định 1 số mức biên độ so với trần lãi suất phù hợp voứi đặc
thù các loại hình TCTD, các vùng khác nhau và các loại cho vay ngắn, trung,
dài hạn như hiện nay.
- Ưu điểm:
44
+ Tạo chủ động, linh hoạt cho các TCTD trong kinh doanh và điều tiết quan
hệ cung cầu về vốn.
+ Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ
trần lãi suất.
+ Các TCTD không cho vay với lãi suất vượt trần, nhằm bảo vệ lợi ích của
người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhận giữa các thành phần kinh tế với
các TCTD và người gửi tiền.
+Tạo ra mặt bằng chungvề lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về lãi suất của NHNN.
+ Việc xác định, công bố , điều hành chính sách lãi suất dễ dàng, linh hoạt,
thuận tiện.
- Nhược điểm
+ Không phù hợp thông lệ quốc tế và mang nặng tính hànhchính trong điều
hành chính sách tiền tệ. Do đó, có thể sẽ cản trở quá trìng tự do hoá lãi suất
cũng như định hướng chuyển dần từ công cụ điều hanhf trực tiếp sang gián
tiếp của NHNN.
+ Tiếp tục có tình trạng nhiều trần lãi suất như hiện nay do tính chất kinh
doanh, địa bàn hoạt động của các TCTD khác nhau.
Phương án 3: NHNN công bố một mức lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất đầu
vào đồng thời công bố giới hạn biên độ tối đa để các TCTD được phép ấn định
lãi suất cho vay.
- Ưu điểm:
+ NHNN quản lí theo lãi suất cho vay cao nhất và chủ động điều chỉnh lãi
suất cơ bản cũng như biên độ dao động so với lãi suất cơ bản.
+ TCTD chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho
vay phù hợp với đặc điểm biến động của thị trường tiền tệ và từng loại hình và
giữa các vùng khác nhau.
45
+ Việc điều hành chính sách mang tính chất qui định về nguyên tắc chung,
không can thiệp trực tiếp vào lãi suất kinh doanh của TCTD.
- Nhược điểm:
+ Biến động sẽ phải tương đối rộng vì vậy giảm hiệu lực điều hành của
NHTƯ.
+ Nếu qui định nhiều biên độ cũng có phức tạp khi xác định biên độ dao
động và các TCTD nào và trong điều kiện nào sẽ được cộng thêm biên độ.
+ Các TCTD sẽ đồng loạt cộng biên độ vào lãi suất cơ bản, tạo ra một trần
lãi suất chung trong cả nước, không phù hợp với tính chất đặc điểm của các
TCTD, triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh, không điều hoà được vốn tín dụng
từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Phương án 4: NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sơ lãi suất cho vay
tối thiểu đủ bù đắp chi phí và có lợi nhuận của các TCTD và biên độ dao
độngđể các TCTD được phép ấn định các lãi suất chovay cụ thể.
- Ưu điểm:
+ Về nguyên tắc, NHNN kiểm soát cả lãi suất cho vay tối thiểu và tối đa,
tự do hoá lãi suất tiền gửi. Việc điều hành mang tính chất chỉ đạo, không can
thiệp trực tiếp.
+ Các TCTD chủ động, linh hoạt trong việc ấn định lãi suất
- Nhược điểm:
+ Vì có nhiều loại cho vay, đối tương vay, địa bàn hoạt động khác nhau,
nên nếu NHNN qui định một mức biên độ thì mức này sẽ phải tương đối rộng
dẫn đến phức tạp khi áp dụng.
+ Triệt tiêu tính cạnh tranh, không điều hoà được vốn.
Lãi suất cơ bản bằng ngoại tệ
- Lãi suất cơ bản: lấy lãi suất Sibor của USD kì hạn 6 tháng hoặc 1 năm làm
lãi suất cơ bản, TCTD được cộng biên độ dao động do NHNN qui định.
46
- Cơ sơ xác định lãi suất cơ bản và biên dộ dao động:
+ Căn cứ vào lãi suất Sibor của USD để công bố lãi suất cơ bản và điều
chỉnh khi cần thiết.
+ Căn cứ xác định biên độ dao động của lãi suất ngoại tệ:
$ Lãi suất thị trường quốc tế
$ Mức phí của thị trường quốc tế về cho vay ngoại tệ
$ Quan hệ tỷ giá ngoại tệ trong nước
$ Quan hệ cung cầu vốn ngoại tệ và nội tệ trong nước
$ Chủ trương thu hút vốn trong nước và ngoái nước của Nhà nước
- Tiếp tục qui định các mức lãi suất tiền gửi bằng USD, theo chính sách quản
lí ngoại hối và tỷ giá trong từng thời kì.
3. Các bước cải cách lãi suất
a. Đối với đồng Việt Nam
- Dự kiến mức lạm phát
- Xác định mức lợi nhuận bình quân của nền kinh tế
- Dự kiến mức lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
- Xác định mức chi phí cho một đồng vốn huy động
- Xác định mức chi phí tối thiểu đảm bảo cho số lớn các tổ chức tín dụng
thực hiện được nguyên tắc của hạch toán kinh doanh.
- Xác định mức lãi suất cơ bản
- Xác định biên độ dao động cho phép.
b. Đối với ngoại tệ
- Xác định mức lãi suất cơ bản can cứ vào mức lãi suất mà các doanh nghiệp
trong nước đã vay vốn nước ngoài.
- Xác định biên độ dao động dựa trên cơ sở chính sách thu hút vốn đầu tư
nước ngoài của Đảng, Chính phủ và phân tích tình hình tài chính của các tổ
chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối.
47
48
KẾT LUẬN
Lãi suất là một vấn đề kinh tế hết sức nhạy cảm và phức tạp. Nó tác
động trực tiếp đến quá trình tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế và thu hút
nguồn vốn từ bên ngoài, đến việc phân bổ các luồng vốn cho đầu tư phát triển
và sử dụng cá hiệu quả vốn đầu tư. Yêu cầu mới của thực tiễn đòi hỏi NHNN
không thể giữ nguyên cách điều hành lãi suất như hiện nay nhưng cũng không
thể nôn nóng thực hiện ngay cơ chế điều hành lãi suất như các nền kinh tế
phát triển. Vì vậy, cần có sự trao đổi rộng rãi và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi
thực hiện một chính sách kinh tế quan trọng, tạo điều kiện cho mọi người dân,
TCT , các doanh nghiệp và nhà kinh doanh tham gia đầy đủ và bình đẳng vào
thị trường tiền tệ.
Như vậy, tự do hoá lãi suất là cái mốc cần đạt được. Nhưng với bước đi
phù hợp, trên tinh thần nhanh chóng khắc phục yếu kém, tích cực chuẩn bị để
có thể tự do hoá trong thời gian ngắn, để tận dụng những lợi thế cơ bản do tự
do hoá lãi suất mang lại.Tất nhiên, mỗi cuộc cải cách đều có những khó khăn
riêng của nó. Và thông thường một cuộc cải cách thực hiện nhanh và triệt để
nếu cải cách là do khủng hoảng thúc đẩy. Nhưng nếu chúng ta trì hoãn đến khi
khủng hoảng xảy ra và gây sức ép mới tiến hành cải cách, thì những chi phí sẽ
rất tốn kém. Do đó, năng lực nhận biết một cuộc khủng hoảng tiềm năng và
tạo ra những cải cách thích hợp là rất cơ bản để giảm thiểu những chi phí sẽ
phải gánh chịu.
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính của Frederic S.Mishkin
2. Thanh toán và tín dụng quốc tế của Phan Quang Tuệ- Trung tâm đào tạo
và nghiên cứu khoa học ngân hàng-Hà Nội 1995.
3. Lãi suất trong nền kinh tế thị trường- Nguyễn Bá Nha, Nguyễn Duy
Thông, Nguyễn Ngọc Anh dịch, NXB Thống kê1997.
4. Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng- Lê Văn Tư, LêTùng Vân, Lê Nam Hải.
5. Tín dụng ngân hàng dành cho các doanh nghiệp- Nguyễn Lâm, Đặng Văn
Tạo dịch và biên soạn-NXB Thống kê 1996.
6. Kinh tế học- Tập I- Paul Samuelson and William D. Nordhaus.
7. Kinh tế học – Tập II- David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch-
NXB Giáo dục , HN,1992.
8. Tạp chí thị trường tài chính các số trong 2 năm 1998,1999.
9. Tạp chí ngân hàng các số trong năm1999,2000
10. Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 1999,2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Thực trạng của việc thực hiện chính sách lãi suất tín dụng ở Việt Nam.pdf