CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay, các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Hàng loạt công ty nước ngoài đã, đang xây dựng hệ thống phân phối theo mô hình kinh doanh theo mạng (MLM) tại Việt Nam với hệ thống phân phối của họ là các công ty có quốc tịch Việt Nam hay những công ty do chính họ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ quản lý, bên cạnh những công ty MLM xuất hiện trong bối cảnh trên còn có những công ty “made in Việt Nam”, và nhìn chung những công ty này, tồn tại như là thế hệ doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực MLM ở nước ta, đang không ngừng lớn mạnh, nhiều công ty trong số đó có cả mạng lưới phân phối quy mô toàn quốc với số lượng người tham gia rất lớn bao gồm đủ mọi thành phần, đủ lứa tuổi và doanh số bán của chúng là những con số khổng lồ. Vì vậy và vì bản chất của MLM mà ta sẽ phân tích kỹ ở phần sau, MLM tuy xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu nhưng nó có những ảnh hưởng rất đáng quan tâm đến nền kinh tế.
MLM là tốt hay xấu? Đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm khi họ có suy nghĩ rằng họ có nên gia nhập vào loại hình kinh doanh này hay không
Hiện nay, các hoạt động kiểu MLM có thể diễn ra bất cứ nơi đâu. Đặc biệt, TP Cần Thơ nay được nhiều người biết như là một thị trường mới nổi nhưng đã gần như sắp bùng nổ trong lĩnh vực kinh doanh theo mạng. Các hoạt động tiếp thị luôn cực kỳ sôi nổi, bên cạnh đó số lượng người tham gia vào lĩnh vực này ngày càng nhiều do sự chiêu mộ rầm rộ của các công ty MLM. Những điều này tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đến lao động và tác động hoàn toàn không nhỏ đến đội ngũ sinh viên. Những vấn đề khá khái quát nêu trên cho thấy rằng MLM là mô hình kinh doanh tuy khá mới mẻ nhưng nó đang tồn tại như là một vấn đề nhạy cảm và nóng bỏng.
Vì vậy, MLM là mô hình kinh doanh cần được quan tâm thích đáng và việc nghiên cứu về nó là cần thiết. Việc làm rõ bản chất và thực trạng của MLM sẽ giúp cho nhiều người có thể nhìn rõ hơn, trước hết là bản chất của nó, và công việc thuộc lĩnh vực MLM mà mình đã chọn hoặc đang tìm hiểu, ngoài ra, từ quá trình nghiên cứu có thể đưa ra những phương hướng phát triển mô hình MLM đúng pháp luật đóng góp vào sự phát triển kinh tế nước nhà và cũng có thể đưa ra các giải pháp khắc phục những mặt tiêu cực để trả MLM về một loại hình kinh doanh lành mạnh thật sự có lợi cho người tham gia vào nó.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phản ảnh tình hình kinh doanh theo mạng ở Việt Nam nói chung, TP Cần Thơ nói riêng. Từ đó đề ra giải pháp góp phần phát huy lợi thế của MLM vào phát triển kinh tế, khắc phục hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình kinh doanh này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phân tích, làm rõ mô hình MLM.
Phản ánh khái quát về tình hình MLM tại Việt Nam và thực trạng MLM tại TP Cần Thơ.
Đề xuất phương hướng, tận dụng và phát huy thế mạnh của MLM, giải pháp khắc phục những hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình này nhằm trả MLM hiện tại về một mô hình kinh doanh lành mạnh như luật định.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Kinh doanh theo mạng hay MLM là gì?
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có cần loại hình kinh doanh như MLM không?
Ở Việt Nam nói chung vàTP Cần Thơ nói riêng, MLM đã, đang và sẽ phát triển như thế nào?
Những ưu điểm, hạn chế và mặt tiêu cực của MLM là gì và người ta nghĩ gì về nó? Biện pháp khai thác ưu điểm, khắc phục mặt hạn chế, tiêu cực của nó?
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Xoay quanh việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Về không gian: Nghiên cứu sẽ trình bài khái quát về thực trạng MLM ở Việt Nam và MLM tại TP Cần Thơ.
Về thời gian: Nghiên cứu tập trung vào các năm 2005-2010, ngoài ra, các năm trước 2005 sẽ được trình bày sơ lược.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp luận và phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu
Vận dụng lý thuyết kinh tế vi mô và vĩ mô cùng với thống kê kinh tế, căn cứ vào các văn bản, quy phạm pháp luật để phân tích, làm rõ vấn đề.
1.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Thu thập từ các cơ quan quản lý kinh tế và các cơ quan có liên quan, từ các công ty MLM, từ tài liệu tham khảo, báo chí và internet.
Số liệu sơ cấp: Thu thập trực tiếp từ các đối tượng đang hoạt động trong lĩnh vực MLM và kể cả những người chưa tham gia.
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4114 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mô hình kinh doanh theo mạng MLM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính NPP và của mạng lưới do NPP này xây dựng.
Ở Việt Nam MLM còn được gọi là bán hàng đa cấp, tiếp thị mạng lưới, hợp tác tiêu thụ…Dù tên gọi là gì thì bản chất của nó cũng không có sự khác biệt so với MLM trên thế giới. Khoản 11 điều 3 Luật Canh Tranh 2005 của Quốc hội nước ta quy định kinh doanh theo mạng như sau:
“Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.”
2.1.1.2. Nguyên lý vận hành
Nguyên lý vận hành của MLM khá đơn giản: Chia sẻ thông tin trực tiếp và phát triển theo cấp số nhân. Mạng lưới phân phối của các công ty MLM sẽ đảm nhận hoàn toàn vai trò chia sẻ thông tin trực tiếp như là một biện pháp hữu hiệu thay thế cho các công cụ tiếp thị, quảng cáo truyền thống: Các NPP sẽ sử dụng sản phẩm của công ty, cảm nhận chất lượng của nó, rồi giới thiệu nó đến mọi người kích thích nhu cầu tiêu thụ.
Nguyên lý phát triển được xây dựng trên nền tảng là chia sẻ thông tin trực tiếp, phát triển theo nghĩa thông thường là phát triển mạng lưới phân phối, nó cũng bao gồm cả việc phát triển thị trường và lượng sản phẩm tiêu thụ. Theo nguyên lý này, mỗi NPP hiện hữu của doanh nghiệp phải xây dựng mạng lưới cho mình bằng cách bảo trợ người mới gia nhập vào mạng lưới phân phối và trở thành người đỡ đầu của người do mình bảo trợ, Người được bảo trợ là tuyến dưới trực tiếp của người đỡ đầu và đương nhiên là NPP của công ty. Mỗi NPP khi đạt chỉ tiêu nhất định do công ty quy định sẽ có quyền bảo trợ nhiều người. Hầu hết NPP đủ tiêu chuẩn không ngừng mở rộng mạng lưới của mình dẫn đến lượng NPP của công ty có thể tăng lên rất nhanh theo một cấp số nhân. Trên lý thuyết, việc NPP thứ nhất bảo trợ một người làm NPP thứ 2, rồi NPP thứ 2 bảo trợ một người làm NPP thứ 3, rồi NPP thứ 3 bảo trợ một người khác nữa, cứ như thế, quá trình này có thể kéo dài vô tận. Chính việc đội ngũ phân phối tăng không ngừng theo cấp số nhân khiến cho thị trường của công ty tăng lên nhanh chóng.
Hình 2. Sơ đồ minh họa nguyên lý phát triển cho một mạng lưới
2.1.2. Sơ đồ kinh doanh và sơ đồ trả thưởng
2.1.2.1 Sơ đồ kinh doanh
Mỗi công ty MLM đều có mục đích hàng đầu là phát triền nhanh chóng mạng lưới. Nhưng do đặc thù quản trị và những mục tiêu cụ thể của mỗi công ty mỗi khác nên mỗi công ty thiết kế cho mình một sơ đồ kinh doanh và các NPP của nó dựa vào đó để xây dựng mạng lưới cho mình. Trên thế giới có hàng chục ngàn công ty kinh doanh theo mạng, thì cũng có một số lượng rất lớn sơ đồ kinh doanh, tuy nhiên, chúng là những kết hợp hoặc là những biến tấu của các sơ đồ: Sơ đồ đơn cấp, sơ đồ bậc thang, sơ đồ bậc thang ly khai, sơ đồ ly khai, sơ đồ nhị phân, sơ đồ ma trận, sơ đồ đều tầng. Dưới đây xin giới thiệu 4 sơ đồ phổ biến:
Sơ đồ bậc thang ly khai hay bậc thang thoát ly: Một NPP có thể vươn lên những vị trí cao hơn người đỡ đầu của mình, và hoàn toàn có thể tách rời khỏi mạng lưới của người đỡ đầu nếu anh ta đã đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định về cấp bậc. Doanh số bán hàng của NPP này không còn được tính vào doanh số người đỡ đầu, lúc bấy giờ NPP đã ly khai. Luôn có điều kiện nếu người đỡ đầu đáp ứng sẽ được nhận hoa hồng trên doanh số của nhóm ly khai, điều kiện này thông thường là yêu cầu về chỉ tiêu bán hàng. Sơ đồ bậc thang ly khai được nhiều người đánh giá là kế hoạch trả thưởng tuyệt vời, một NPP thành công có thể được hưởng hoa hồng trên hàng trăm cấp bậc. Nó thúc đẩy các NPP tích cực hoạt động và thăng tiến, nó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa các NPP và tạo động lực cho NPP vươn cao... Vấn đề ở chỗ nó có thể làm việc quản lý trở nên phức tạp, nó kích thích các NPP mua hàng nhiều chỉ để đạt được chỉ tiêu nhận doanh số từ nhóm thoát ly khỏi hệ thống của mình. Đôi khi người đỡ đầu nhận thấy rằng sơ đồ này đầy những bất công khi họ không còn nhận được lợi ích gì từ những nhóm ly khai có thủ lĩnh do mình bảo trợ. Tuy có nhiều hạn chế nhưng sơ đồ bậc thang ly khai được đánh giá là nó có khả năng “biến giấc mơ thành hiện thực” và nó còn tồn tại lâu dài trong ngành MLM.
Sơ đồ ma trận: Sơ đồ này xuất hiện khi máy tính được sử dụng rộng rãi, nó quy định số lượng người tối đa trong tuyến dưới trực tiếp của NPP đồng thời nó cũng quy định số tầng tối đa mà mỗi NPP có thể được hưởng hoa hồng. Như vậy sơ đồ ma trận quy định kích thước tối đa của một mạng lưới phân phối của một NPP. Cụ thể một sơ đồ ma trận m x n quy định mỗi NPP không được phép có quá m người thuộc tuyến dưới trực tiếp và được hưởng hoa hồng tính trên số lượng tầng không vượt quá n. Khi một NPP đã có m người ở tuyến dưới trực tiếp, anh ta vẫn có thể giới thiệu người khác vào mạng lưới của mình nhưng những người này được phân bổ vào những chỗ còn trống trong mạng lưới của ai đó trong tuyến dưới trực tiếp của NPP trên. Đây được gọi là ‘‘công thức trám’’ tự động. Những nhà sáng lập sơ đồ này khẳng định sơ đồ ma trận tạo điều kiện cho tuyến trên hỗ trợ tuyến dưới và duy trì sự năng động của những người tham gia vì họ không muốn mất đi những tuyến dưới “miễn phí” được cung cấp từ tuyến trên của họ. Những người không ủng hộ có quan điểm ngược lại khi cho rằng sơ đồ ma trận mang đến một cách trả thưởng hấp dẫn cho những NPP yếu kém hoặc không làm việc và không công bằng cho các thủ lĩnh bởi “công thức trám” tự động. Thời gian sẽ trả lời trả lời sơ đồ này có thể tồn tại thêm bao lâu.
Sơ đồ nhị phân: Sơ đồ nhị phân thực chất là một sơ đồ ma trận 2 x i, i tiến đến vô cùng. Như vậy mỗi NPP không thể có quá 2 người ở tuyến dưới trực tiếp nhưng được hưởng hoa hồng trên số tầng không hạn chế. Theo sơ đồ này mỗi NPP sẽ có hai nhánh (2 chân) là 2 mạng lưới phân phối của 2 tuyến dưới trực tiếp, NPP được hưởng hoa hồng càng cao khi hai chân có doanh số càng gần bằng nhau. Tính chất của sơ đồ đòi hỏi tuyến trên phải hỗ trợ tuyến dưới nên tạo ra một mạng lưới khá bền vững. Trong một mạng lưới, sơ đồ làm cho người vào trước luôn có lợi hơn người vào sau và người vào sau không thể vượt qua người vào trước. Khuyết điểm nghiêm trọng của nó là những NPP lười biếng có thể chỉ biết trông chờ vào sự trợ giúp của tuyến trên, và hai chân có tốc độ phát triển có thể rất khác nhau nên việc cân đối hai chân là một thách thức thật sự.
Sơ đồ đều tầng: Cho phép NPP có số lượng tuyến dưới trực tiếp là không giới hạn, và NPP muốn đi lên nhất thiết phải hỗ trợ tuyến dưới của mình phát triển. Một NPP nếu muốn thành công phải phát triển không ngừng mạng lưới của mình theo chiều rộng-có tuyến dưới trực tiếp càng nhiều càng tốt và theo chiều sâu-gia tăng số lượng tầng trong mạng lưới của mình. Nhưng việc đạt hiệu quả đồng thời ở hai mục tiêu trên là không dễ dàng. Tính ổn định của sơ đồ này không cao do không có giới hạn về chiều rộng. Nhiều NPP nhận xét rằng sơ đồ này là đất dụng võ cho những NPP tài năng.
Điều quan trọng khi đánh giá sơ đồ kinh doanh, theo các nhà phân tích, cần phải xem xét: Nó có tích hợp ưu thế quản lý và sức mạnh cộng tác? Năng lực NPP được phát huy? Sơ đồ đó có đòi hỏi người đỡ đầu phải hỗ trợ tuyến dưới của mình để cả hai cùng đi lên? Sơ đồ đó có bảo đảm được tính cân bằng hay không, đều kiện cho một sơ đồ cân bằng là nó vừa giữ được những thủ lĩnh giỏi, vừa thu hút các NPP mới, điều này khó đạt được. Tiếp theo, là một vấn đề đáng quan tâm khi người ta nhìn về tương lai của mình khi dừng sự nghiệp MLM được đề cập đến trong khái niệm nghỉ hưu sớm: “Cho đến nay chưa có công ty nào sản sinh ra những thủ lĩnh có thể nghỉ hưu an toàn trên sự nghiệp của họ”, Eric Worre, một doanh nhân thành đạt trong ngành MLM nhận xét.
2.1.2.2. Sơ đồ trả thưởng
Hình 3. Kế hoạch tiếp thị của một công ty MLM.
Sơ đồ trả thưởng hay kế hoạch trả thưởng, kế hoạch tiếp thị, phụ thuộc vào sơ đồ kinh doanh, nó quy định một cơ chế trả tiền cho NPP, cho biết NPP nhận được hoa hồng là bao nhiêu trên doanh số bán hàng cá nhân (hoa hồng cá nhân) và được nhận những mức hoa hồng là bao nhiêu trên doanh số bán hàng của các tầng dưới trong mạng lưới của NPP (hoa hồng khối lượng). Nó cũng quy định những chỉ tiêu là điều kiện đủ để NPP được thăng cấp bậc và/hoặc để nhận được các phần thưởng giá trị, nó cũng quy định chỉ tiêu mà nếu NPP không đạt thì không được nhận hoa hồng khối lượng.
Thật khó để tìm thấy một công ty nào có kế hoạch trả thưởng mang lại lợi ích xứng đáng cho tất cả NPP vì nó phải đảm bảo rằng công ty thu được lợi nhuận lớn từ việc bán hàng đồng thời phải thể hiện rằng NPP có thể làm giàu trên kế hoạch này. Với những ai đang tìm hiểu về một công ty MLM thì kế hoạch trả thưởng là yếu tố được quan tâm hàng đầu, đối với những NPP thì nó là một kế hoạch mà họ phải căn cứ vào đó để đặt ra mục tiêu phấn đấu. Kế hoạch trả thưởng cũng như sơ đồ kinh doanh luôn là những sơ đồ được công khai.
2.1.3. Đặc điểm chung của các công ty MLM
Thiết kế sơ đồ kinh doanh và áp dụng như một công thức mở xây dựng hệ thống phân phối và sử dụng sơ đồ trả thưởng xác định mức thù lao và thăng hạng cho NPP, thu hút NPP tiềm năng
Quán triệt nguyên lý chia sẻ thông tin và phát triển theo cấp số nhân.
Có các chương trình đào tạo người tham gia với nội dung chủ yếu là đào tạo cách bán hàng và cách mở rộng mạng lưới.
Triết lý kinh doanh được cho là mục tiêu tối thượng mà công ty theo đuổi, nhưng đối với công ty nó như một phần cốt yếu của thông điệp marketing.
Không áp dụng các biện pháp quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, không trưng bày sản phẩm ở các cửa hàng bán lẻ, những vai trò này được các NPP đảm nhận.
Cho phép thừa kế, một NPP trong một công ty MLM có thể thừa kế lại toàn bộ sự nghiệp của mình, kể cả cấp bậc và mạng lưới.
Một công ty MLM chân chính luôn có những đặc điểm như sau:
- Cung cấp sản phẩm thiết thực, chất lượng với giá cả phải chăng.
- Tuân thủ pháp luật của quốc gia nơi công ty đăng ký kinh doanh.
- Lợi ích tài chính của công ty và NPP chủ yếu là thành quả của công sức đầu tư xây dựng và cung cấp dịch vụ thực tế.
- Công ty và NPP hoạt động nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm.
2.1.4. Tóm lược lịch sử phát triển của MLM
Cho đến nay ngành kinh doanh theo mạng đã tồn tại 70 năm và lịch sử của nó gắn liền với tên tuổi nhà hóa học Karl Renborg (1887-1973), người Mỹ. Năm 1927 ông từ Trung Quốc về Mỹ nghiên cứu và chế biến các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng, vitamin, các chất vi lượng, đa lượng. Năm 1934, K. Renborg sáng lập công ty Vitamins California. Cuối năm 1939 nhà sáng lập đổi tên công ty thành Nutrilite Products. Những NPP được nhận hoa hồng trên lượng hàng họ bán ra và trên những sản phẩm được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Nutrilite Products đã áp dụng mô hình MLM sơ khai.
Năm 1959, hai NPP của K. Renborg là Rich Devos và Jey Van Andel thành lập công ty riêng là American Way Corporation viết tắt là Amway. Hiện nay, Amway đang hoạt động trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam.
Vào những năm 70, MLM chịu sức ép mạnh mẽ từ phía dư luận lẫn chính quyền. Năm 1975 MLM bị quy kết với hình tháp ảo là hình thức kinh doanh bất chính. Ngành MLM bắt đầu cuộc hành trình khẳng định tính đúng đắn của mình để tồn tại mà dẫn đầu là Amway “đứng mũi chịu sào” từ 1975-1979. Cuối năm 1979 Tòa án Thương mại Liên bang Hoa Kì tuyên bố phương thức kinh doanh của Amway không phải là hình tháp ảo. Sau đó không lâu bộ luật đầu tiên về MLM ra đời tại Mỹ công nhận sự tồn tại hợp pháp của mô hình kinh doanh này.
Trong ngành MLM không ai xa lạ với Richard Poe, tác giả quyển “Làn sóng thứ 3”, quyển sách này chia MLM ra các thời kỳ:
Thời kì tiềm ẩn: là giai đoạn 1940-1979, đây là thời kỳ hình thành MLM, đến năm 1979 chỉ có khoảng 30 công ty MLM tại Mỹ.
Thời kỳ bắt đầu: 1979-1990, MLM bùng nổ, mỗi ngày có hàng trăm công ty MLM bố cáo thành lập với đủ loại sản phẩm và sơ đồ kinh doanh.
Thời kỳ đa thị trường hay làn sóng thứ 3: 1990-1999, sự tiến bộ của công nghệ thông tin, truyền thông đã làm cho MLM mang màu sắc mới. Việc quản trị một mạng lưới phân phối khổng lồ trở nên dễ dàng hơn. Máy vi tính, điện thoại, internet…đã giúp các NPP đơn giản hóa công việc của mình và có nhiều hơn thì giờ nhàn rỗi, năng suất tăng lên đáng kể. Làn sóng thứ 3 chứng kiến cảnh các công ty truyền thống lớn như Ford, Colgate, Canon, Coccola và nhiều công ty tên tuổi khác áp dụng MLM đẩy mạnh bán hàng.
Từ năm 2000 trở về sau, ngành công nghiệp MLM bước vào làn sóng thứ 4, MLM phát triển rộng khắp thế giới, hàng chục ngàn công ty MLM đã tồn tại một cách hợp pháp và xây dựng mạng lưới phân phối vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Ngày nay vai trò quan trọng của MLM trong nền kinh tế toàn cầu đã được thừa nhận. Cùng với thương mại điện tử, MLM đang tạo một làn sóng mới trong nền kinh tế hiện nay.
2.1.5. Bản chất của MLM
Từ khi ra đời đến nay MLM nhiều lần va chạm với pháp luật và báo giới. Thực tế đúng như mọi người điều biết nó là một loại hình kinh doanh gây nhiều tranh cãi trong hàng chục năm qua.
MLM không hoạt động theo công thức mà nó là một mô hình kinh doanh được các công ty khác nhau vận hành khác nhau nên nói chung hình thức tồn tại trong nền kinh tế của nó rất phong phú, trong khi những biến tướng của nó hay MLM bất chính phát triển cũng khá nhanh dưới danh nghĩa MLM nên cũng không ngạc nhiên khi MLM và MLM bất chính đôi khi được xem là một. Đây là một lý do chính giải thích nguồn gốc những tranh cãi về bản chất MLM. Những người phản đối MLM tin rằng họ có những bằng chứng không thể chối cãi chứng minh rằng MLM là xấu, gây thiệt hại cho mọi người ngoại trừ những người đứng đầu công ty. Ngược lại, những người bênh vực MLM luôn cố gắng chứng minh MLM không có gì là sai trái và nó là mô hình kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển và mang lại lợi ích cho xã hội.
Đến đây câu hỏi đặt ra là rốt cuộc, MLM tốt hay xấu? Cho dù câu trả lời là nó tốt hay nó xấu vẫn luôn có nhiều ý kiến bác bỏ vì đây đang là tiêu điểm của những vụ tranh cãi không ngừng của những người quan tâm. Thay vào đó chúng ta hãy xem xét những khía cạnh sau thay cho việc lắng nghe một câu trả lời.
- MLM đòi hỏi ở người khao khát thành công tính ham học hỏi và cần cù làm việc, như những ngành kinh doanh khác, những người lười biếng dù có thể đạt được một số thành tựu ban đầu nhưng rồi cũng phải rời khỏi, có thể khác với những ngành kinh doanh khác, công ty không đào thải những ai lười biếng, mà chính sự lười biếng đào thải chủ của chúng.
- Nguyên lý của MLM là đơn giản và dễ thực hiện, nhưng thành đạt trong lĩnh vực này là một bài toán khó. Người bảo trợ có thể hỗ trợ tuyến dưới của mình, nhưng mỗi NPP cần làm lấy mọi việc trên tinh thần trách nhiệm lớn lao với khách hàng.
-Triết lý của MLM là triết lý về một lối sống lành mạnh và đạo đức.
- Dù MLM đã sản sinh ra bao nhiêu triệu phú thì nó vẫn không phải là cách kiếm tiền mới, tuyệt nhiên không phải là một công thức làm giàu. Thành công bền vững phụ thuộc vào chính người tham gia.
Kinh doanh theo mạng khắc phục được các hạn chế trong kinh doanh truyền thống nhưng nó không thể là mô hình kinh doanh hoàn hảo. Những điểm ưu việc của nó dễ dàng thu hút người ngoài cuộc bước vào, còn những nhược điểm và những khó khăn trong quá trình hoạt động cũng có thể làm các NPP nhanh chóng rời bỏ nó. Theo quan điểm của em, MLM không có gì sai trái nếu nó được vận hành không trái pháp luật. Còn về nó tốt hay xấu, thì cũng rõ ràng rằng thật khó để một người bênh vực MLM phủ nhận những những lời cáo buộc loại hình kinh doanh này, và, tùy theo góc độ quan sát ta sẽ nhìn thấy được những mặt khác nhau của nó.
2.2. Khái quát mô hình MLM ở Việt Nam
2.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển
So với ngành công nghiệp MLM thế giới, ngành MLM Việt Nam còn rất non trẻ với tuổi đời trên 10 năm. Từ khi xuất hiện MLM phát triển nhanh chóng và tạo ra những làn sóng tranh luận. Bên cạnh những công ty chân chính cũng có những công ty bất chính. Số người tham gia vào lĩnh vực này tăng nhanh.
Ở Việt Nam, kinh doanh theo mạng nhanh chóng quen thuộc với mọi người, nhưng hiểu về hình thức kinh doanh này thì còn khiêm tốn. Khi một người thất bại trong lĩnh vực MLM có thể khiến hàng chục người lên án nó, ngược lại một người thành công thu hút không ít người vào lĩnh vực mới mẻ này.
Từ năm 1998 đã xuất hiện một vài công ty đa cấp ở nước ta, đầu tiên là Incomex, tiếp theo là Thế Giới Mới, rồi đến Sinh Lợi, Lô Hội, Vision. Những công ty này phân phối các dòng sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng, hoạt động với quy mô ban đầu nhỏ lẻ thường va chạm với pháp luật và khiến báo chí tốn không ít giấy mực. Không phải công ty nào cũng làm ăn nghiêm túc nên nảy sinh nhiều sự hiểu nhầm về mô hình kinh doanh này.
Đến cuối năm 2004 Việt Nam đã có khoảng 20 công ty bán hàng đa cấp phân phối chủ yếu những dòng sản phẩm tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp được sản xuất bởi các tập đoàn ở nước ngoài. Ngành MLM Việt Nam ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn quốc khi các công ty phát triển mạng lưới phân phối và lập ra nhiều chi nhánh. Để đáp ứng tình hình thực tế trong nước và hòa nhập với xu thế phát triển trên thế giới, năm 2005 hành lang pháp lý MLM tại Việt Nam dần dần hình thành các điều luật và các quy định về bán hàng đa cấp mở ra con đường lớn cho ngành MLM Việt Nam phát triển và tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư. Tính đến đầu tháng 7/2005 nước ta đã có gần 30 công ty MLM và 100000 NPP, những con số này đang tăng lên khi Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp được ban hành ngày 24/08/2005.
2.2.2. Tình hình kinh doanh theo mô hình MLM hiện nay
Hiện nay, tuy ngành MLM đã có luật pháp điều chỉnh nhưng thực trạng kinh doanh vẫn rất phức tạp. Những công ty MLM hoạt động bất chính vẫn tồn tại và không ngừng lôi kéo người tham gia để phát triển mạng lưới. Những công ty này mang lại lợi ích tài chính cho người đứng đầu của nó và mang lại cơ hội làm giàu cho một số người nhưng nó lại gây thiệt hại cho xã hội và tác động xấu đến môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó cũng có những công ty MLM tuân thủ luật pháp, đóng thuế đầy đủ đúng hạn, tạo việc làm cho nhiều người và làm tăng ngân sách nhà nước, dưới đây là danh sách các công ty MLM ở Việt Nam.
Danh sách các công ty bán hàng đa cấp
STT
Tên công ty
Địa phương
đăng ký
Trạng thái
1
Cty CP Kim Đô
TP HCM
Đang hoạt động
2
Cty CP Liên Kết Tri Thức
Hà Nội
Đang hoạt động
3
Cty CP MERRO
Hà Nội
Đang hoạt động
4
Cty CP Quốc Tế Kiệt Vinh Lục Cốc Việt Nam
Hà Nội
Ngưng hoạt động
5
Cty CP Quốc Tế Việt Am
TP HCM
Đang hoạt động
6
Cty CP Tập Đoàn Liên Kết Việt Nam
Hà Nội
Đang hoạt động
7
Cty CP Công Nghệ Mới Và Phát Triển Quốc Tế AMKEY Việt Nam
Hà Nội
Đang hoạt động
8
Cty CP Sinh Lợi
TPHCM
Ngưng hoạt động
9
Cty TNHH MTV XNK Vi Na Linh
TP HCM
Đang hoạt động
10
Cty Agel Việt Nam
Hà Nội
Đang hoạt động
11
Cty TNHH Amway Việt Nam
Đồng Nai
Đang hoạt động
12
Cty TNHH Ánh Sáng T.I.A.N.S.H.I
Hà Nội
Đang hoạt động
13
Cty TNHH Bảo Lan Thiên Sư
TPHCM
Đang hoạt động
14
Cty TNHH Dược Phẩm Điền
Thảo Đường
Hà Nội
Đang hoạt động
15
Cty TNHH FFI Việt Nam
Hà Nội
Đang hoạt động
16
Cty TNHH MTV Toàn Hữu
Đồng Nai
Ngưng hoạt động
17
Cty TNHH MTV Nam Trường Giang
TP HCM
Đang hoạt động
20
Cty TNHH MTV TM Kỳ Diệu
TP HCM
Đang hoạt động
21
Cty TNHH Mỹ Phẩm AVON
Việt Nam
Bình Dương
Đang hoạt động
22
Cty TNHH Mỹ Phẩm Thường Xuân
TP HCM
Đang hoạt động
23
Cty TNHH No Ni Vi Na
TP HCM
Đang hoạt động
24
Cty TNHH Phan Hưng Long
Hà Nội
Đang hoạt động
25
CTy TNHH Quốc Tế Đa Bảo
TP HCM
Đang hoạt động
26
Cty TNHH Quy Xuyên Việt Nam
Hà Nội
Ngưng hoạt động
27
Cty TNHH SX TM Quốc Tế
Thượng Thống
TP HCM
Ngưng hoạt động
28
Cty TNHH SX TM DV Thực Phẩm Công Nghệ Ai On
TP HCM
Đang hoạt động
29
Cty TNHH SX TM Hưng Thời Đại
TP HCM
Đang hoạt động
STT
Tên công ty
Địa phương
đăng ký
Trạng thái
30
Cty TNHH Tầm Nhìn Việt Nam
Hà Nội
Đang hoạt động
31
Cty TNHH Tân Hy Vọng
TP HCM
Đang hoạt động
32
Cty TNHH Thế Giới Toàn Mỹ
TP HCM
Đang hoạt động
33
Cty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy
Hà Nội
Đang hoạt động
34
Cty TNHH TM & DV Du Lịch
Ích Lợi
TP HCM
Ngưng hoạt động
35
Cty TNHH TM & DV Vĩnh
Nhật Quang
TP HCM
Đang hoạt động
36
Cty TNHH TM LÔ Hội
TP HCM
Đang hoạt động
37
Cty TNHH TM MONJOIN
Hà Nội
Đang hoạt động
38
Cty TNHH TM & XNK Huy Hồng
TP HCM
Ngưng hoạt động
39
Cty TNHH TM Yahgo
Hà Nội
Đang hoạt động
40
Cty TNHH TM XNK Tổng Hợp
Thái Bình
Hà Nội
Ngưng hoạt động
41
Cty TNHH TM & DV APOLLO
Hà Nội
Đang hoạt động
42
Cty TNHH Tư Vấn Đầu Tư & Thương Mại Hằng Thuận
Hà Nội
Đang hoạt động
(Nguồn: Thông tin bán hàng đa cấp - Cục quản lý cạnh tranh)
Hầu hết các công ty MLM đều xây dựng cho mình hệ thống gồm các chi nhánh tọa lạc ở nhiều tỉnh thành trong nước với mạng lưới NPP đông đảo, chính những điều này làm MLM phát triển mạnh mẽ và ngày càng hội nhập nền kinh tế Việt Nam.
2.2.3. Một số quy định của Nhà nước đối với lĩnh vực MLM
Các điều luật quy định ngành nghề này đã ra đời như một kết quả tất yếu từ tình hình thực tế đánh dấu một mốc quan trọng trong ngành MLM Việt Nam rằng MLM đã được pháp luật điều chỉnh và thừa nhận, lợi ích NPP, người tiêu dùng được bảo vệ, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để loại dần những mô hình bất chính. Những quy định cụ thể được tập hợp trong:
- Luật canh tranh, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2005, khoản 11 điều 3 của luật này quy định về bán hàng đa cấp (xem trang 4). Luật công nhận bán hàng đa cấp nhưng cấm bán hàng đa cấp bất chính, điều 48 quy định:
“Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp: (i) Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; (ii) Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại; (iii) Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; (iv) Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.”
- Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp ban hành ngày 24/08/2005. Nghị định quy định về doanh nghiệp bán hàng đa cấp, người bán hàng đa cấp, hàng hóa được phép kinh doanh và trách nhiệm cùng các hành vi bị cấm, quy định trách nhiệm quản lý của các sở, nghị định nhấn mạnh, cấm người tham gia “Yêu cầu người được mình bảo trợ tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp trả bất kỳ khoản phí nào dưới danh nghĩa khoá học, khoá đào tạo, hội thảo, hoạt động xã hội hay các hoạt động tương tự khác; Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hoá, về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp”
- Thông tư 19/2005/TT-BTM của Bộ Thương Mại ngày 08/11/2005: Hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
2.2.4. Nhận xét chung
Kinh doanh theo mạng tuy có những biến tướng tiêu cực nhưng sự tồn tại và phát triển của nó trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã chứng tỏ nó là một mô hình kinh doanh hiệu quả và hiện đại, dễ dàng đại chúng hóa, mang lại lợi ích cho công ty, NPP và xã hội, đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước.
Ngày nay nước ta đang từng bước hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh mục tiêu hàng đầu là phát triển kinh tế nước nhà nên không thể chỉ vì MLM bất chính mà không thừa nhận MLM. Những chủ trương, chính sách thích hợp đối với ngành nghề này sẽ thúc đẩy MLM Việt Nam phát triển và tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài đầu tư góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nước ta.
2.3. Thực trạng kinh doanh MLM tại TP Cần Thơ
2.3.1. Sự phát triển của MLM tại TP Cần Thơ
Từ năm 2003-2008, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng tốc độ đô thị hóa và mật độ dân số cao là những con số thu hút các công ty MLM, từ trước năm 2004 các công ty MLM có trụ sở tại TP HCM, tiếp theo là Hà Nội đã quyết định mở rộng thị trường tại TP Cần Thơ.
Từ khi ra đời tại TP Cần Thơ, MLM đã phát triển nhanh chóng về số lượng NPP và doanh số bán hàng. Thị trường Cần Thơ đóng góp hàng năm trung bình 10% vào doanh thu của các công ty phát triển mạng lưới nơi này và trở thành một mảnh “đất lành” cho MLM phát triển. Đến cuối năm 2008 hầu hết các công ty MLM lớn ở Việt Nam đều đã có chi nhánh ở Cần Thơ, chủ yếu tọa lạc ở quận Ninh Kiều, bên cạnh đó, nhiều NPP thành đạt ở TP HCM cũng đang tập trung xây dựng mạng lưới phân phối chuẩn bị thành lập trung tâm phân phối tại tỉnh thành này, một số doanh nghiệp ở Cần Thơ cũng từng bước áp dụng một phần hoặc nguyên lý của MLM vào xúc tiến các hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường.
MLM có mặt tại Cần Thơ chưa lâu nhưng nhanh chóng trở thành mô hình kinh doanh khá quen thuộc với mọi người, bắt đầu từ năm 2008 các công ty MLM đã nhận định rằng TP Cần Thơ là một thị trường dồi dào và đầy tiềm năng phát triển, một số NPP tuyên bố rằng năm 2009 trở về sau họ sẽ biến thị trường này thành nơi ngành công nghiệp MLM bùng nổ.
2.3.2. Giới thiệu một số công ty, trụ sở MLM tại TP Cần Thơ
Các doanh ngiệp bán hàng đa cấp tại TP Cần Thơ hầu hết là cơ sở, trung tâm phân phối của các công ty tại TP HCM và Hà Nội. Dưới đây là một số doanh nghiệp thu hút đông đảo người tham gia.
- Công ty TNHH Huy Phát, khu dân cư 91B, trung tâm phân phối của công ty TNHH TM Lô Hội, phân phối các dòng sản phẩm mỹ phẩm, thực phẩm chức năng của tập đoàn Forever Living Products, Hoa Kỳ.
- Văn phòng tư vấn Oriflame, đường Mậu Thân, chi nhánh của Oriflame Việt Nam, phân phối sản phẩm mỹ phẩm của Tập đoàn Oriflame, Thụy Điển.
- Cơ sở Huy Hoàng, đường Phạm Ngũ Lão, chi nhánh Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Huy, kinh doanh thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, điện gia dụng.
- Văn phòng đại diện Tiens tại Cần Thơ, đường Đề Thám, trung tâm phân phối của Công ty TNHH Bảo Lan Thiên Sư, phân phối các dòng sản phẩm mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, máy cân bằng dòng điện sinh học… của Tập đoàn Tiens, Trung Quốc.
Ngoài ra TP Cần Thơ còn các chi nhánh và mạng lưới phân phối của Amway, Hưng Thời Đại và một số công ty khác.
2.3.3. Tác động đến kinh tế xã hội
Sự mở rộng và phát triển mô hình kinh doanh theo mạng có những ảnh hưởng xấu lẫn tốt đến kinh tế, xã hội. Dưới đây em xin điểm một số tác động đáng lưu ý (ở đây không xét đến hình tháp ảo).
2.3.3.1. Tác động đến thị trường lao động và đội ngũ sinh viên Cần Thơ
Tạo một nghề tay trái giúp làm tăng thu nhập cho lao động chuyên môn cao lẫn lao động phổ thông. Từ kỹ sư, bác sĩ, các nhà quản trị trong các công ty cho đến công nhân viên, người bán hàng, người thất nghiệp…đều có thể gia nhập MLM và làm việc bất cứ khi nào có thời gian rảnh rỗi. Nếu một người lao động muốn tăng thêm thu nhập mà không phải chuyển nghề thì đây là một cơ hội tốt.
MLM huy động sức lao động nhàn rỗi trong xã hội. Nó làm giảm thất nghiệp.
MLM thu hút nhiều khá nhiều sinh viên, từ một cuộc khảo sát về mức độ tham gia của sinh viên Cần Thơ vào lĩnh vực MLM trong tháng 3/2010 cho thấy rằng tỷ lệ sinh viên đã tìm hiểu về ngành nghề này là 70%, trong 4 người tìm hiểu thì có 1 người tham gia (ký hợp đồng) và gần 85% những người tham gia sớm rời khỏi kinh doanh theo mạng. Thực tế cho thấy rằng số lượng sinh viên tham gia vào ngành này chiếm một tỷ lệ khá lớn (khoảng 30%) trong các hệ thống phân phối tại Cần Thơ.
Việc sinh viên tham gia vào đây có mặt tốt của nó, tuy nhiên, cũng như lao động, MLM có thể làm người ta bỏ bê công việc chính của mình và ngày càng bị hút sâu vào “vòng xoáy đa cấp”, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, chất lượng học tập và năng suất lao động của mình.
2.3.3.2. Tác động đến kinh tế, xã hội
Những ưu điểm của MLM cho phép ta đánh giá đóng góp của nó về mặt kinh tế, xã hội là rõ ràng. Xét ở khía cạnh vi mô, mỗi người tham gia không phải mạo hiểm tài chính và việc họ tham gia cũng không có rủi ro, một người thành đạt và giúp nhiều người lên đến đỉnh cao, cùng đạt được mọi thành tựu, giúp cho nhiều người tiếp cận với sản phẩm và dịch vụ chất lượng, huy động sức lao động nhàn rỗi, kích thích tiêu dùng xã hội, tăng lưu thông hàng hóa, như vậy MLM được áp dụng hiệu quả sẽ góp phần nâng cao mức sống người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Sự phát triển mạnh của các công ty MLM phân phối sản phẩm có chất lượng đến tay người tiêu dùng trở thành đối thủ cạnh tranh với những công ty áp dụng các mô hình kinh doanh khác, buộc họ phải cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm theo cách mang lại lợi ích cho người tiêu dùng để bảo vệ vị trí của mình trong môi trường kinh doanh đã trở nên khốc liệt hơn, sự cạnh tranh có thể xuất hiện ngay trên thị trường lao động khi người ta dễ dàng rời bỏ công việc hiện tại để tham gia vào bất cứ công ty MLM nào.
Một mặt xấu của nó, NPP có thể không quán triệt tinh thần đạo đức của MLM, chẳng hạn: Lôi kéo người khác tham gia vào mạng lưới, quảng cáo sản phẩm gian dối, lợi dụng mối quan hệ ép người khác mua hàng... Gây thiệt hại cho xã hội nói chung và người tiêu dùng nói riêng. Năng suất lao động xã hội có thể sụt giảm nếu có nhiều người bị hút vào “vòng xoáy đa cấp”.
CHƯƠNG 3
THẾ MẠNH, ƯU KHUYẾT ĐIỂM CHUNG CỦA MLM
3.1. Thế mạnh của MLM và lý thuyết bão hòa
Phần này sẽ trình bày những lý do cơ bản xuất phát từ nguyên lý vận hành của nó tạo nên tiền đề cho MLM phát triển với tốc độ 20%-30% mỗi năm, nhanh chóng giữ vị trí vững chắc trên thương trường và trở thành đối trọng với các ngành kinh doanh truyền thống. Phần này cũng trình bài khái quát lý thuyết bão hòa, nhấn mạnh về mặt lý thuyết, thị trường MLM bị bão hòa là không có gì đáng ngạc nhiên, đây cũng là một lý do cho MLM mang những màu sắc khác trong dư luận.
MLM đòi hỏi mỗi người tham gia phải phát triển mạng lưới của mình, như vậy mỗi NPP điều cố gắng xây dựng cho mình mạng lưới càng nhiều NPP càng tốt song song việc phân phối sản phẩm, điều này minh họa cho nguyên lý “phát triển theo cấp số nhân” đối với việc phát triển số lượng NPP và doanh số bán hàng cho công ty và NPP hiện hữu, nói lên rằng doanh số, cũng như thu nhập của NPP có thể tăng lên rất nhanh, xét về mặt lý thuyết.
Ví dụ, một công ty áp dụng sơ đồ nhị phân, giả định rằng mỗi NPP đều có được 2 tuyến dưới trực tiếp trong tháng đầu tham gia. Bắt đầu từ NPP A, tháng đầu tiên A có 2 người trong mạng lưới của mình, tháng thứ hai, mạng lưới có 2+22=6 người do mỗi người trong 2 người này đều có thêm 2 người tuyến dưới. Sau 1 năm, mạng lưới có
x (NPP)
Con số 8190 là quá lớn và người ta có quyền hy vọng một NPP tài năng đạt được đều này, nó cũng mang lại thu nhập khổng lồ sau vài tháng cật lực làm việc cho thủ lĩnh của đội nhóm này.
Giả định mỗi NPP có 2 tuyến dưới trực tiếp trong tháng đầu tham gia có vẻ thuyết phục, tiếp tục bài toán trên với yêu cầu tính số lượng NPP trong mạng lưới của A sau năm thứ 2, do mỗi NPP sau một năm điều xây dựng cho mình mạng lưới gồm 8190 người nên mạng lưới của A đã lên đến 8.1902+8.190=67.084.290 người, dĩ nhiên những con số này là không thực tế mặc dù những giả định như trên có thể khiến chúng ta tạm thời chấp nhận. Cũng có lý do cho nhiều người dự đoán rằng toàn bộ dân số trên thế giới gia nhập vào MLM trong một thời gian ngắn khi họ thấy rằng 67.084.290+67.084.290x8.190 (số NPP trong mạng lưới của A ở cuối năm 3, theo giả định như trên) cho kết quả là con số vượt quá dân số hành tinh. Dự đoán đó không bao giờ xảy ra nhưng rất đáng suy ngẫm, những minh họa tương tự đã cho phép lý thuyết bão hòa ra đời.
Ở tầm vĩ mô lý thuyết bão hòa đề cập khả năng bất cứ ai muốn tham gia vào MLM đều đã tham gia và thị trường của ngành này bị kiệt quệ. Cuối cùng ngành kinh doanh theo mạng cáo chung khi mỗi NPP không thể bán được hàng và cũng không thể tìm ra NPP mới.
Nhìn từ góc độ vi mô, một công ty MLM lâm vào tình trạng bão hòa khi nó đã phát triển đến đỉnh cao và số lượng NPP của nó sau thời gian gia tăng liên tục nay không thể phát triển được nữa, lượng hàng hóa tiêu thụ được vẫn rất lớn nhưng những NPP ở tầng đáy trong hệ thống phân phối của công ty không còn cơ hội trở thành thủ lĩnh và phải rất khó khăn để bán được hàng, và họ sẽ lựa chọn: hoặc bỏ cuộc hoặc tìm công ty chưa bị bão hòa.
3.2. Ưu điểm
3.2.1. Đối với công ty áp dụng MLM
Chi phí quảng cáo, khuyến mãi, chi phí quản lý, chi phí vận chuyển lưu thông hàng hóa…được tiết kiệm tối đa. Do đó có thể xây dựng một nguồn lực tài chính dồi dào và bền vững đầu tư vào nghiên cứu và phát triển tạo ra sản phẩm tốt, chất lượng, độc đáo mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Khắc phục được tình trạng hàng giả. Tạo ra mạng lưới khách hàng trung thành, khá dễ dàng phát triển mạng lưới phân phối rộng khắp trong và ngoài nước.
Ít chịu tác động bởi khủng hoảng kinh tế.
3.2.2. Đối với người tham gia MLM
Được học nghề mới nhanh chóng qua các chương trình đào tạo của công ty.
Tự do, tự chủ trong công việc: Tự do về thời gian làm việc, địa điểm và phương thức làm việc. Có thể làm thêm trong lĩnh vực MLM mà ít ảnh hưởng tới công việc chính.
Thăng tiến hoàn toàn không phụ thuộc vào quan hệ cá nhân với các “sếp” mà chủ yếu được quyết định bởi năng lực và sự nỗ lực của bản thân.
Có thể đạt những mức thu nhập cao, có cơ hội tốt mở rộng mối quan hệ, cần ít vốn đầu tư ban đầu, không mạo hiểm tài chính, và, có điều kiện phát triển các kĩ năng và phẩm chất cá nhân.
3.2.3. Đối với xã hội
Tạo việc làm cho người lao động. Huy động được sức lao động nhàn rỗi, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống người dân.
Kích thích tiêu dùng. Tăng khoản thu cho ngân sách nhà nước, tăng phúc lợi xã hội.
3.2.4. Đối với người tiêu dùng
Có nhiều cơ hội tiếp cận hàng chất lượng cao và có nhiều lựa chọn hơn trong tiêu dùng mà không lo lắng hàng giả. Có quyền phát triển kinh doanh bằng cách gia nhập vào mạng lưới phân phối bất cứ lúc nào.
Có nhiều điều kiện hơn để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe (phần lớn các sản phẩm được tiêu thụ qua MLM là các dòng sản phẩm bảo vệ sức khỏe và phòng bệnh).
3.3. Nhược điểm
3.3.1. Nhược điểm chung
Nhìn vào sơ đồ kinh doanh của một công ty cho phép ta đánh giá những mặt hạn chế của nó cũng như những nhược điểm. Như đã trình bày, không có sơ đồ nào là hoàn hảo. Việc công ty bán hàng đa cấp dày công thiết kế một sơ đồ bằng cách phối hợp các sơ đồ cơ bản và khi áp dụng nó về lâu dài cũng sẽ có lúc người ta nhận ra những khiếm khuyết của nó.
Tính phức tạp của hệ thống phân phối cũng gia tăng theo sự phát triển của nó. Những quy định đạo đức của công ty khó được NPP áp dụng triệt để và gây thiệt hại người tiêu dùng, xã hội là điều vẫn xảy ra, ngay cả những công ty MLM tốt nhất thì tiêu cực trên cũng khó tránh khỏi.
Về mặt giá cả, những sản phẩm phân phối bởi những công ty MLM thường có giá khá cao, khiến nhiều người thật sự có nhu cầu không thể với tới.
Về mặt tài chính, MLM mang lại cho nhiều người tham gia sự tự do về tài chính, nhưng để tham gia vào lĩnh vực này người ta cũng phải đầu tư. Nhưng theo các số liệu thống kê trong ngành thì số người có thu nhập xứng đáng từ MLM chỉ 10% số người tham gia, chi phí kinh tế đã bỏ ra của những người sớm rời bỏ MLM có thể rất lớn. Thực tế nhiều người đã nhanh chóng bỏ cuộc khi cảm thấy mình thất bại. Trong một tỷ lệ nhỏ người tham gia trụ lại công ty chỉ có một số ít đi tới thành công.
Nhược điểm của MLM suy cho cùng đều bắt nguồn từ cách mà các công ty vận hành bộ máy bán hàng đa cấp của mình. Nên ngoài nhược điểm chung, mỗi công ty có thể có những nhược điểm khác nhau.
3.3.2. Hình tháp ảo: Mặt tiêu cực phát sinh từ MLM
Hình tháp ảo (hay kim tự tháp, trò tháp ảo) là biến tướng của MLM và hai mô hình kinh doanh này là hoàn toàn phân biệt bởi những “nhà” MLM nhưng nó lại nhập nhằng với khá nhiều người rằng không có sự phân biệt nào giữa hai hình thức và công ty MLM bất chính là hình tháp ảo đương nhiên được gọi là công ty MLM. Nhưng từ khi MLM được pháp luật điều chỉnh thì hình tháp ảo chính thức đi vào nền kinh tế như một mô hình kinh doanh phi pháp.
Việc những NPP hình tháp ảo phải làm để có thu nhập là lôi kéo người vào mạng lưới của mình, thù lao và vị trí trong hệ thống phụ thuộc vào mạng lưới đã phát triển thế nào về số lượng. Cụ thể, thu nhập của họ do đâu mà có? Mua sản phẩm của công ty với số lượng tối thiểu do công ty quy định, sau đó ký hợp đồng là điều kiện cần và đủ để người muốn tham gia gia nhập mạng lưới phân phối, chính số tiền người tham gia bỏ ra mua sản phẩm sẽ được dùng để chi trả cho các NPP và phần còn lại thuộc về công ty.
Tuy người tham gia vào mạng lưới này được xem là NPP, và các công ty hình tháp ảo có thể gọi họ theo những danh từ khác nhau như “chuyên viên kinh doanh”, “đại lý bán hàng”, nhưng ngoại trừ lần mua hàng đầu tiên nhằm thỏa mãn điều kiện tham gia, họ không phải lấy hàng một lần nào để phân phối ra ngoài vì đây hoàn toàn không phải là cách tốt mang lại thu nhập cho họ và vì người đỡ đầu không khuyến khích họ làm như thế, nó cũng không giúp họ thăng tiến. Những sản phẩm của các công ty hình tháp ảo luôn được bán với giá cao gấp nhiều lần giá trị thật của nó.
Các NPP hình tháp ảo không cần quan tâm đến giá cả, chất lượng sản phẩm như thế nào, thị trường có nhu cầu không. Nói cách khác, sản phẩm như một vỏ bọc ngụy trang cho công ty và cách làm ăn của các NPP trong một mô hình kinh doanh mà thu nhập của người đi trước phụ thuộc vào số tiền người đi sau đã bỏ ra để tham gia vào mạng lưới.
Hình tháp ảo cũng sử dụng sức mạnh của cấp số nhân: Mạng lưới càng về sau càng rộng. Cũng như MLM, trong hệ thống phân phối giá trị đi lên là tiền, nhưng khác với MLM, trong khi giá trị đi xuống của MLM là sản phẩm dịch vụ có chất lượng được thị trường đón nhận thì trong hình tháp ảo, giá trị đi xuống của nó là giá trị ảo: chỉ có giá trị tạm thời trong nội bộ hình tháp và sản phẩm của nó chỉ quanh quẩn nơi các NPP. Trong một mô hình kinh doanh vận dụng nguyên lý MLM nhưng mạng lưới của nó toàn những người mua hàng không nhằm mục đích sử dụng cũng không nhằm mục đích bán hàng mà chỉ để có quyền lôi kéo người khác vào mạng lưới và lĩnh hoa hồng thì đó chính là hình tháp ảo. Đây là một hình thức lừa đảo đang bị cấm ở các nước trên thế giới, do bản chất của nó, các công ty này sớm muộn cũng tan vỡ.
CHƯƠNG 4
BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG HIỆU QUẢ MÔ HÌNH MLM VÀ
DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
4.1. Biện pháp ứng dụng hiệu quả mô hình MLM
4.1.1. Khai thác điểm mạnh của MLM vào phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân
Cần có các biện pháp cụ thể khuyến khích bán hàng đa cấp và tạo điều kiện cho ngành nghề này phát triển như những ngành nghề khác.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các NPP, người tiêu dùng không chỉ về mặt pháp lý mà còn bằng những chương trình hành động, cụ thể hóa các quy định, nghị định về bán hàng đa cấp cho sát với thực tế sao cho nó thật sự đi vào cuộc sống và áp dụng một cách có hiệu quả.
Nghiên cứu về mô hình này và học hỏi kinh nghiệm ở các nước phát triển, lập ra mô hình MLM chuẩn mực tham khảo dành cho các công ty.
Mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý kinh tế về MLM, thiết nghĩ nước ta cũng cần sớm có chương trình đào tạo ngành này ở các bậc học như một số nước phát triển trên thế giới.
4.1.2. Khắc phục hạn chế, tiêu cực từ MLM
Hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước đối với bán hàng đa cấp, thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát các công ty MLM một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Ngăn chặn triệt để và sớm xử lý nghiêm các công ty bán hàng đa cấp bất chính, các đối tượng lợi dụng mô hình để trục lợi cá nhân gây thiệt hại, dần xóa bỏ hình tháp ảo ra khỏi nền kinh tế. Tạo một môi trường kinh doanh đa cấp lành mạnh.
Quy định những khuôn khổ cho các công ty MLM và NPP, hạn chế các trường hợp gây thiệt hại.
Khuyến khích mọi người đứng ra tố cáo các hành vi bán hàng bất chính, phổ thông hóa các quy định, nghị định về bán hàng đa cấp đến người dân. Giúp người dân phân biệt bán hàng đa cấp và bán hàng đa cấp bất chính
Có các quy định và chính sách tạo điều kiện cho NPP của các công ty bán hàng bất chính hợp tác với cơ quan có thẩm quyền điều tra làm rõ các sai phạm.
4.2. Dự báo chung xu hướng phát triển của mô hình MLM
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đã thông qua hành lang pháp lý công nhận sự tồn tại hợp pháp của MLM tạo nền tảng vững vàng cho MLM chân chính phát triển, cùng với xu hướng toàn cầu hóa, các công ty MLM ở các nước phát triển nhanh chóng đổ bộ vào nước bạn tạo nên khả năng cho kinh doanh theo mạng trở thành ngành công nghiệp toàn cầu, trong nhiều năm qua tốc độ phát triển của ngành này luôn đạt 20%-30% mỗi năm, cùng với tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế, trong tương lai, tốc độ phát triển của MLM đã đạt được chắc chắn vẫn được duy trì.
MLM không bùng nổ trên toàn cầu như một số dự báo nhưng hiện nay nó đã có một thị trường không nhỏ và cũng đã trở nên phổ biến ở các quốc gia đang phát triển, 70% hàng hóa và dịch vụ được phân phối và tiêu thụ qua phương thức kinh doanh này là con số được kỳ vọng trong thế kỷ XXI.
Tại Việt Nam, TP HCM và Hà Nội là 2 thành phố lớn mà các công ty MLM trên thế giới đã, đang xây dựng những mạng lưới phân phối đầu tiên của nó trước khi mở rộng ra các tỉnh thành khác. Hải Phòng, Cần Thơ, Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Vinh, Thái Nguyên, Pleiku. . . và một số thị xã khác nay đã có các mạng lưới phân phối của các công ty MLM và những nơi này cũng đang là các mục tiêu mà các công ty MLM tại TP HCM và Hà Nội nhắm đến, khả năng các công ty MLM sẽ mở rộng mạng lưới phân phối của mình ra các thành phố, thị xã còn lại là điều đang được dự báo.
4.3. Dự báo xu hướng phát triển MLM tại TP Cần Thơ
Nếu Quận Ninh Kiều là trung tâm của TP Cần Thơ thì nó cũng là địa phương tập trung nhiều trung tâm phân phối với phần đông là trí thức, sinh viên. Ngày 24/6/2009, TP Cần Thơ được công nhận là đô thị loại I với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua đạt 15,5%, thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 1.444 USD đã tạo đà cho MLM phát triển và các công ty MLM đã nhận thấy tiềm năng to lớn nơi này.
Nhiều NPP khi chiêu mộ người vào mạng lưới đã tuyên bố rằng sẽ làm cho thị trường Cần Thơ bùng nổ từ năm 2009, mang lại sự tự do tài chính cho mọi sinh viên và không còn nhiều người thất nghiệp, bên cạnh đó họ cũng khẳng định rằng sự lớn mạnh nhanh chóng của MLM tại thị trường này sẽ tạo ra sự thay đổi lớn lao trong chất lượng cuộc sống của người dân. Đây chỉ là những thông điệp thu hút người khác tham gia nhưng cũng đang được các NPP kỳ vọng, bên cạnh đó những hiện tượng tiêu cực cùng những biến tướng của MLM vẫn còn tồn tại và phát triển, nó tiếp tục gây thiệt hại và còn lâu mới bị tiêu vong.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Từ lâu người ta dùng khái niệm “thương trường như chiến trường” chỉ cuộc chiến giành khách hàng đã trở nên khốc liệt đến mức các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng bị loại khỏi cuộc chiến ngay những năm đầu tiên. Công nghệ hiện đại giúp nhà sản xuất có thể sản xuất hàng loạt sản phẩm hiện đại, chất lượng nhưng đời sống sản phẩm bị rút ngắn trong khi họ luôn phải đối mặt với vấn đề hàng đầu là tiêu thụ. Sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông cho phép các doanh nghiệp quảng bá, tiếp thị sản phẩm của mình rộng khắp, nhưng chi phí quá cao và có thể họ không còn kiểm soát được hiệu quả của các công cụ hiện đại này trong tình trạng tràn ngập thông tin và người dân bị quá tải khi là đối tượng mục tiêu của hàng chục thông điệp marketing và quảng cáo mỗi ngày.
Trước những vấn đề hóc búa của những mô hình kinh doanh có từ lâu đời, MLM đã ra đời như một giải pháp phân phối mới, được các doanh ngiệp vận hành như những công cụ thay thế marketing truyền thống, quá trình tiêu thụ đã diễn ra theo một quy trình hiệu quả: Từ nhà sản xuất đến trung tâm phân phối và NPP nối liền trung tâm phân phối với người tiêu dùng. Một công ty MLM dễ dàng thực hiện được mục tiêu tiết kiệm, mục tiêu nghiên cứu phát triển sản phẩm và mục tiêu tiêu thụ.
Trái với những lời dự đoán rằng MLM sẽ thay thế ngành kinh doanh truyền thống và toàn bộ dân số sẽ gia nhập MLM trong một thời gian ngắn, MLM dù đã phát triển mạnh thế nào cũng là một mô hình tồn tại song song các mô hình kinh doanh khác. Cũng như những mô hình kinh doanh khác MLM có ưu điểm và nhược điểm, đặc biệt những biến tướng tiêu cực của nó gây nhiều thiệt hại cho kinh tế, xã hội và luôn bị dư luận lên án... nhưng đó chỉ là một số hiện tượng của một mô hình kinh doanh hiện đại, và quan niệm rằng MLM là một ngành nghề lừa đảo cần phải “xóa sổ” khỏi Việt Nam chắc chắn là một quan điểm không phù hợp với chủ trương phát triển và hội nhập của ta.
70 năm tồn tại và phát triển không ngừng của ngành MLM đã có những đóng góp to lớn cho kinh tế, xã hội. Nó sản sinh ra nhiều tập đoàn kinh doanh khổng lồ Amway, Agel, FLP,... và nhiều doanh nhân lớn, tốc độ phát triển hàng năm đạt 20%-30%. Hiện nay ngành MLM Việt Nam đã có hơn 10 năm tuổi, đến nay đã có hơn 40 công ty hoạt động có giấy phép với hàng trăm ngàn NPP, thị trường TP Cần Thơ đã trở thành miền đất hứa cho MLM phát triển, hứa hẹn khả năng “bùng nổ” như nhiều NPP nhận định, cùng với sự phát triển của kinh doanh truyền thống, MLM vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ vốn có của nó.
5.2. Kiến nghị
5.2.1. Đối với các cơ quan ban ngành
Kiểm soát giá cả sản phẩm và quy định mức trần đối với hoa hồng của NPP.
Cụ thể các quy định về bán hàng đa cấp trên các văn bản hướng dẫn thi hành tạo điều kiện cho mọi người nắm được mô hình kinh doanh theo mạng, đồng thời cũng có biện pháp tuyên truyền giúp người dân tránh những hình thức kinh doanh phi pháp. Sở Thương Mại cần chủ trì phối hợp các cơ quan như Công an, Cục thuế, Sở Y Tế, Ủy Ban Nhân Dân quận huyện trong việc quản lý các hoạt động bán hàng đa cấp trên địa bàn, phối hợp với các cơ quan thông tin tuyên truyền giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp và người dân, cùng các cơ quan chức năng kiểm tra giám sát các hoạt động bán hàng đa cấp theo giấy đăng ký, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm luật. Phản hồi Bộ Công Thương và các cấp có thẩm quyền những quy định chưa sát với thực tế và kiến nghị bổ sung, sửa đổi. Như vậy Ủy ban nhân dân tỉnh cần có quy chế quy định phối hợp và xử lý sai phạm. Các sở, ban, ngành cùng Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện cần thực hiện thông tin thường xuyên đến Sở Thương Mại về tình hình bán hàng đa cấp. Thiết nghĩ cần Thành lập tổ chức quản lý bán hàng đa cấp trực thuộc các sở và Ủy Ban Nhân Dân, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động bán hàng nhằm sớm phát hiện, xử lý những sai phạm.
5.2.2. Đối với các công ty kinh doanh theo mạng
Kiến nghị đối với các công ty theo mạng dưới đây xoay quanh việc bảo đảm quyền lợi của khách hàng và NPP, xin được trình bày như sau:
Mỗi công ty cần đặt ra các chuẩn mực, đặc biệt là chuẩn mực đạo đức yêu cầu NPP phải trung thực trong giới thiệu sản phẩm, không lôi kéo người khác, không lợi dụng mô hình để hoạt động bất chính… Thường xuyên giám sát các hoạt động của NPP, bảo đảm rằng các NPP không làm trái những giao kết với công ty trước khi ký vào hợp đồng và các chuẩn mực do công ty quy định. Không cho phép NPP của mình tham gia vào các hình thức kinh doanh trái pháp luật khác, đồng thời, phổ biến các quy định về bán hàng đa cấp đến NPP.
Xây dựng chương trình đào tạo chuyên nghiệp cho NPP từ thấp đến cao. Xây dựng môi trường nội bộ gồm những NPP hoạt động một cách nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao.
Không tuyển mộ đại trà, cần đặt ra những tiêu chuẩn nhất định cho người muốn tham gia.
5.2.3. Đối với người hoạt động trong lĩnh vực MLM hoặc những người đang có ý định tham gia
Trước khi tham gia cần tìm hiểu rõ công ty hoạt động có hợp pháp hay không bằng cách dựa vào các quy định của pháp luật đối với bán hàng đa cấp và thông tin từ người quen, báo chí, internet và những thông tin do chính công ty cung cấp.
Cân nhắc khi lựa chọn công ty qua việc đánh giá kế hoạch trả thưởng của nó để xem xét mình có thích hợp với phương thức hoạt động của công ty không, Các NPP cũng như những người đang tìm hiểu cần cẩn trọng đối với các công ty có: yêu cầu đóng góp lệ phí gia nhập cao, giá trị hàng hóa thấp so với số tiền bỏ ra để mua nó, không có cam kết mua lại sản phẩm từ các NPP, khuyến khích NPP mua trữ hàng, trả hoa hồng nếu lôi kéo được người khác vào mạng lưới, không cung cấp đầy đủ tài liệu và không đảm bảo các chương trình huấn luyện.
Cũng cần chú ý rằng MLM cho phép người tham gia tự chủ về thời gian làm việc nên có thể xem nó như một nghề tay trái, nhưng trong một chừng mực nào đó, nó làm năng suất công việc chính bị giảm sút nếu người ta đầu tư nhiều vào nó. Nên thiết nghĩ cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng rằng có cần thiết phải tham gia vào mô hình này hay không.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
2. Luật Cạnh Tranh 2005.
3. Thông tư 19/2005/TT-BTM.
4. Tài liệu nội bộ Công ty TNHH TM Lô Hội.
5. Richard Poe, dịch giả Cù Hoàng Đức (2003), Làn sóng thứ 3, Nhà xuất bản Thế Giới.
6. qlct. gov. vn/Web/Content. aspx?distid=2082&lang=vi-VN
7. àng-da-cap-the- nao/20356272/87/
8.
9.
A%A5p
10. àng-da-cap-Sinh-Loi-moc-dau-moi/30141286/87/
11.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Làn sóng thứ 3, Richard Poe, dịch giả Cù Hoàng Đức, Nhà xuất bản Thế Giới, 2003.
2. Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
3. Luật Cạnh Tranh 2005.
4.Thông tư 19/2005/TT-BTM.
5. Tài liệu nội bộ Công ty TNHH TM Lô Hội.
6. qlct. gov. vn/Web/Content. aspx?distid=2082&lang=vi-VN
7. Việt Nam/Kinh-te/Se-Luat-hoa-hoat-dong-ban-hàng-da-cap-the-nao/20356272/87/
8.
9.
A%A5p
10. àng-da-cap-Sinh-Loi-moc-dau-moi/30141286/87/
11.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mô hình kinh doanh theo mạng MLM.doc